You are on page 1of 11

nghiªn cøu - trao ®æi

TS. NguyÔn V¨n N¨m *

1. Điều chỉnh quan hệ xã hội là quá trình chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh
tác động lên các quan hệ xã hội, đảm bảo sự các quan hệ xã hội”.(1) Mở rộng hơn, pháp
phát triển của chúng theo những mục đích, luật được hiểu là “tổng thể các quy tắc xử sự
định hướng nhất định, nhằm duy trì và bảo và các nguyên tắc, định hướng, mục đích
vệ trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm
phú, đa dạng và phức tạp, bởi vậy, để điều quyền ban hành và đảm bảo thực hiện, thể
chỉnh chúng một cách có hiệu quả, cần phải hiện ý chí của nhà nước và phản ánh những
có nhiều công cụ khác nhau, bao gồm pháp nhu cầu xã hội khách quan, điển hình, phổ
luật (thể chế quan phương), đạo đức, phong biến để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên
tục tập quán, tín điều tôn giáo, lệ làng, hương tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.(2)
ước, luật tục, quy định của các tổ chức xã hội… Theo nghĩa rộng, pháp luật được xem xét cả
(thể chế phi quan phương). Các công cụ này từ “đầu vào, đầu ra, cả pháp luật ở trạng
vừa có sự độc lập, vừa có sự ràng buộc, phụ thái tĩnh và trạng thái động”,(3) theo đó,
thuộc lẫn nhau, hợp thành hệ thống công cụ pháp luật tồn tại và phát triển trên cả ba lĩnh
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. vực “hệ thống quy phạm pháp luật, tư tưởng
Do xuất phát từ các góc độ, phạm vi pháp luật, ý thức pháp luật và văn hoá pháp
nghiên cứu khác nhau, các khái niệm lại chủ luật, thực tiễn pháp luật (trong các hình thức
yếu được thể hiện bằng các thuật ngữ Hán thực hiện pháp luật, các quan hệ pháp
Việt, vì vậy, cho đến nay, trong khoa học luật)”.(4) Theo cách tiếp cận này, pháp luật
pháp lí nói riêng cũng như trong khoa học xã được hiểu rất rộng, đó không chỉ là hệ thống
hội nói chung, các khái niệm pháp luật, đạo pháp luật thực định mà nó còn được nhận
đức, phong tục tập quán, hương ước, luật thức cả trên bình diện ý thức pháp luật, tiễn
tục, quy định của các tổ chức xã hội… chưa thực hiện pháp luật.
được nhận thức một cách đầy đủ, thống nhất. Đạo đức là khái niệm hết sức phức tạp,
Với sự phát triển của khoa học pháp lí, khái niệm này vừa phổ biến trong dân gian,
khái niệm pháp luật ngày càng được nhận vừa “đậm đặc” chất học thuật, bởi vậy nó
thức đầy đủ và sâu sắc hơn. Ngày nay, nhìn được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong
chung các nhà khoa học đều tiếp cận khái những thời gian, không gian, đối tượng khác
niệm này theo nhiều cấp độ khác nhau. Theo nhau. Trong một bài viết khác, chúng tôi đã
nghĩa hẹp, pháp luật thường được đồng nhất đi sâu phân tích khái niệm này.(5) Điều cần
với hệ thống pháp luật thực định của nhà
nước, theo đó, pháp luật được hiểu là “hệ * Giảng viên Khoa hành chính-nhà nước
thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc Trường Đại học Luật Hà Nội

38 TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014


nghiªn cøu - trao ®æi

nhấn mạnh là khái niệm đạo đức cũng luôn tập quán, chúng thường được gọi chung là
được tiếp cận theo hướng mở, từ hẹp đến phong tục tập quán.(12) Phong tục, tập quán
rộng. Dù tiếp cận theo hướng nào, đạo đức mang tính cộng đồng, dân tộc, địa phương,
luôn được xác định là một trong những công vùng miền rất rõ nét. Ở Việt Nam, các phong
cụ điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với tục, tập quán được biểu hiện cụ thể ở từng
các mối quan hệ xã hội. làng, trở thành lệ làng.(13) Bên cạnh khái
Phong tục, tập quán là loại quy phạm xã niệm phong tục, tập quán, trong ngôn ngữ
hội rất gần gũi với con người, tuy nhiên, ở hàng ngày còn có các thuật ngữ tập tục, tục
nước ta hiện nay khái niệm này vẫn chưa lệ, lệ tục…, chúng đều chỉ thói quen của con
được nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn. người nhưng không phải là của riêng cá nhân
“Phong tục” là thuật ngữ Hán-Việt, trong đó hay gia đình nào, mà là của một dân tộc hoặc
“phong” nghĩa gốc là gió, “tục” là quen một tầng lớp, một cộng đồng xã hội.
dùng, quen thuộc. Tác giả Thiều Chửu giải Một công cụ quan trọng điều chỉnh các
thích: “Bề trên giáo hoá kẻ dưới gọi là mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại các
phong, kẻ dưới bắt chước bề trên gọi là tục; cộng đồng làng xã là hương ước. Hương ước
ý nói cái gì người này nêu ra, người kia nối tồn tại ở nhiều nước trên thế giới như Việt
theo một cách tự nhiên, dần dần thành quen Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, một
như vật theo gió, vẫn cảm theo đó mà không số nước Đông Nam Á…(14) “Hương ước” là
tự biết.(6) Vì gió lan khắp mọi nơi nên phong thuật ngữ Hán Việt, trong đó “hương” là
tục là thói quen phổ biến.(7) Từ điển tiếng làng, “ước” là giao kèo, thoả thuận, quy ước;
Việt định nghĩa: “Phong tục là thói quen đã “hương ước” là những những giao kèo, thoả
ăn sâu vào đời sống xã hội được mọi người thuận, quy ước của cộng đồng làng xã, đó là
công nhận và làm theo”.(8) “Tập quán” cũng tổng thể các quy tắc xử sự điều chỉnh các
là thuật ngữ Hán - Việt, trong đó “tập” nghĩa quan hệ xã hội trong phạm vi một làng. Hiện
là quen, “quán” cũng có nghĩa là quen, “tập nay, ở Việt Nam, hương ước được hiểu là
quán” là tất cả những gì đã quen thuộc, văn bản quy phạm xã hội trong đó quy định
không đổi đi được.(9) Từ điển tiếng Việt giải các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân
thích: “Tập quán là thói quen đã thành nếp cư cùng thoả thuận đặt ra để điều chỉnh các
trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân
hoạt thường ngày, được mọi người công dân trên địa bàn làng, bản, thôn, ấp, cụm dân
nhận và làm theo”.(10) Như vậy, mặc dù cư.(15) Hương ước có nguồn gốc từ phong tục
được biểu đạt bằng hai khái niệm khác nhau tập quán, được hình thành trên cơ sở phong
nhưng thực chất phong tục hay tập quán đều tục tập quán của mỗi làng, là hình thức thành
chỉ chung thói quen xử sự của cộng đồng, văn của lệ làng nhưng không hoàn toàn đồng
“được mọi người công nhận và làm theo như nhất với phong tục tập quán. Bên cạnh
một quy ước chung của cộng đồng”,(11) những quy định được chép lại từ phong tục
chính vì vậy, trong đời sống hàng ngày tập quán, trong bản hương ước của mỗi làng
thường không có sự phân biệt phong tục với còn có những quy định do dân làng thoả

TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014 39


nghiªn cøu - trao ®æi

thuận đặt ra trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh phần bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn, bảo
cụ thể của làng xã về lịch sử, địa lí, dân cư, vệ các công trình công cộng; chống ô nhiễm
nghề nghiệp, tín ngưỡng... môi trường; xây dựng đường làng, ngõ xóm,
Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, trồng cây xanh; tiêu chuẩn gia đình văn hoá,
hương ước xuất hiện muộn nhất vào cuối thế các quy tắc đạo đức mới; các biện pháp xử lí
kỉ XV.(16) Dưới chế độ phong kiến, hương tốt mối quan hệ trong gia đình; xoá đói giảm
ước quy định cách thức ứng xử trong các nghèo, phát triển sản xuất, nâng cao mức
mối quan hệ thân tộc, xóm giềng, tuổi tác, sống, khuyến học, khuyến nghề… (17)
ngôi thứ, cách thức tiến hành các nghi lễ tín Luật tục là công cụ quan trọng để điều
ngưỡng, hiếu, hỉ, khao vọng, cách thức tổ chỉnh quan hệ xã hội. Trong lịch sử, không
chức cũng như vai trò của các thiết chế chỉ Việt Nam mà nhiều nước khác trên thế
phường, hội, giáp... nhằm ràng buộc mỗi tổ giới như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
chức, cá nhân vào đời sống chung của làng một số nước Đông Nam Á… đều sử dụng
xã. Để nắm lấy các làng xã, can thiệp vào luật tục để điều chỉnh các mối quan hệ xã
công việc của làng xã, hạn chế vai trò tự hội, quản lí xã hội.(18) Ở Việt Nam, thời Pháp
quản, tự trị của nó, Nhà nước quy định thủ thuộc đã có nhiều công trình hệ thống hoá
tục phê chuẩn hương ước và đưa vào đó luật tục. Cho đến nay, luật tục vẫn tồn tại
những quy định liên quan đến Nhà nước như trong cộng đồng người Chăm ở Tây nguyên.
việc bầu cử các chức dịch trong làng, việc Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, phải tới
thu thuế, bắt lính... Vì vậy, có thể nói, hương những năm 90 của thế kỉ trước, vấn đề này
ước như là “cánh tay nối dài” của pháp luật, mới được các nhà nghiên cứu quan tâm.
nó điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm này được
làng xã, nơi mà chính quyền trung ương tiếp cận trên nhiều bình diện. Trên bình diện
chưa “vươn” tới được. Hương ước có chế tài luật học, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
xử phạt, tuy nhiên Nhà nước chỉ cho phép “luật tục” là khái niệm chỉ tất cả những quy
làng xã xử phạt một số vi phạm nhỏ thuộc tắc xử sự mang tính chất dân gian, đó là luật
nếp sống cộng đồng, vượt quá giới hạn đó, của dân gian.(19) Theo cách hiểu này, “luật”
làng xã phải trình quan trên để Nhà nước là quy tắc, “tục” chỉ những gì mang tính dân
giải quyết. Ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước gian, đối lập với những gì mang tính chất
khuyến khích các cộng đồng thôn, làng, bản, hàn lâm, sách vở. Như vậy, luật tục bao gồm
ấp, khu dân cư xây dựng hương ước mới. cả phong tục tập quán, lệ làng, hương ước,
Nội dung của hương ước mới quy định các quy ước… Trên bình diện dân tộc học, các
biện pháp bảo vệ thuần phong mĩ tục, bài trừ nhà nghiên cứu cũng cho rằng, “luật tục” là
hủ tục, phát triển các hình thức hoạt động những quy tắc xử sự mang tính dân gian,
văn hoá lành mạnh, thực hiện các hành vi nguyên thuỷ, bản địa, không thành văn, hoàn
ứng xử văn minh trong giao tiếp, sinh hoạt; toàn mang tính chất khu biệt với luật nhà
phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương nước.(20) Tuy nhiên, theo các tác giả này, luật
thân, tương ái; các biện pháp thích hợp góp tục là loại quy tắc xử sự thường chỉ có ở các

40 TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014


nghiªn cøu - trao ®æi

tộc người thiểu số trong xã hội tiền giai cấp. dạng, bao gồm các chế tài để tạ lỗi với thần
Có tác giả cho rằng “có thể coi luật tục là linh, tạ lỗi đối với dân làng, đền bù cho
những phong tục có dáng dấp của pháp người bị hại… thậm chí kể cả hình phạt tử
luật”, là bước quá độ, là sự chuyển tiếp giữa hình.(23) Để thi hành luật tục có thiết chế toà
phong tục và pháp luật, nói cách khác, luật án của cộng đồng, bao gồm những người
tục là hình thức phát triển cao của phong tục thông thuộc luật tục, có uy tín trong cộng
tập quán và là hình thức sơ khai, tiền thân đồng. Mỗi khi xét xử xong, bao giờ cũng
của pháp luật.(21) Thiết nghĩ, không nên tuyệt kèm theo nghi lễ nhằm hoà giải, xoá bỏ tranh
đối hoá bất cứ bình diện tiếp cận nào đối với chấp, thù oán giữa các bên với sự chứng
các khái niệm khoa học. Trên tinh thần đó, giám của thần linh và dân làng.
chúng tôi cho rằng khái niệm luật tục có nhiều Tín điều tôn giáo là khái niệm chung
nghĩa, theo nghĩa rộng, “luật tục” là tất cả dùng để chỉ giáo lí, giáo luật của các tôn giáo,
những quy tắc xử sự mang tính chất dân gian, tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư. Giáo lí
bao gồm cả phong tục tập quán, lệ làng, hương của một tôn giáo là lí luận, học thuyết của tôn
ước, quy ước…; theo nghĩa hẹp, “luật tục” là giáo, đó là những quan niệm, quan điểm về
hình thức sơ khai của pháp luật và chỉ có ở thượng đế, về đức tin… Giáo luật (luật giáo
các tộc người thiểu số trong xã hội tiền giai hội) là hệ thống quy tắc xử sự của một tổ
cấp như đã phân tích ở trên. Trong bài viết chức tôn giáo để điều chỉnh các mối quan hệ
này, khái niệm luật tục được đề cập theo trong cộng đồng tôn giáo đó. Trong các tôn
nghĩa hẹp. Cũng cần lưu ý rằng, dưới góc độ giáo trên thế giới, đạo Phật, đạo Thiên chúa,
dân tộc học, khái niệm luật tục được đồng đạo Hồi là những tôn giáo lớn, có tổ chức
nhất với khái niệm tập quán pháp, tuy nhiên chặt chẽ, có hệ thống giáo lí, giáo luật đầy đủ
cần hiểu rằng tập quán pháp được đề cập ở nhất. Hệ thống tín điều đạo Thiên Chúa được
đây chính là những tập quán có dáng dấp thể hiện tập trung trong một văn bản đồ sộ
pháp luật chứ không phải là một loại nguồn, mang tên Bộ giáo luật (The Code of Canon
một hình thức bên ngoài của pháp luật. Law), được sửa đổi toàn diện nhất gần đây
Luật tục có nội dung tương đối tổng hợp, vào năm 1983 với 1752 điều luật cụ thể. Hệ
bao quát tương đối toàn diện, điều chỉnh một thống tín điều của đạo Hồi gọi là Luật Hồi
cách rộng rãi các mặt của đời sống, cả về giáo (Sharia) được chứa đựng ở bốn nguồn là
lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, đất đai, kinh Coran, Sunna, Idjmá, Qias, trong đó
hôn nhân, gia đình... Luật tục cũng bao gồm kinh Coran và Sunna là hai nguồn chính,
tương đối đầy đủ các quy định về thủ tục xét chúng được thiêng liêng hoá, trở nên bất di
xử, giải quyết tranh chấp.(22) Luật tục được bất dịch và bất khả xâm phạm, không một
biểu hiện chủ yếu dưới dạng lời nói, văn vần quyền lực nào trên thế giới có thể thay đổi
nhưng đã thể hiện đầy đủ các bộ phận cấu được.(24) Luật Hồi giáo cũng như luật giáo hội
thành của một quy tắc xử sự như giả định, của nhà thờ Thiên chúa giáo được coi như
quy định, chế tài dù còn ở dạng sơ khai, đơn “pháp luật” của những người theo đạo. Bên
giản. Biện pháp chế tài của luật tục khá da cạnh hệ thống giáo lí, giáo luật của các tổ

TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014 41


nghiªn cøu - trao ®æi

chức giáo hội, tham gia điều chỉnh hành vi quán, tín điều tôn giáo… vừa có những điểm
con người còn có tín ngưỡng dân gian, đó là tương đồng, vừa có những điểm khác biệt.
toàn bộ các niềm tin mà con người tin vào để Với tính chất là những công cụ điều chỉnh
giải thích các hiện tượng thần bí trong đời các mối quan hệ xã hội, pháp luật, đạo đức,
sống, qua đó định hướng suy nghĩ cũng như phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... đều là
hành vi ứng xử của con người. Điểm khác những khuôn mẫu, mực thước, mô hình,
biệt giữa tín ngưỡng với giáo lí, giáo luật là ở chuẩn mực cho hành vi con người. Bên cạnh
chỗ, tín ngưỡng thường mang tính dân gian, đó, giữa pháp luật và đạo đức, phong tục tập
tồn tại thông qua các huyền thoại, thần tích, quán, tín điều tôn giáo... có sự khác biệt ở
truyền thuyết, được thể hiện dưới dạng tập nhiều khía cạnh, rõ nét nhất là con đường
quán xã hội, ngược lại giáo lí, giáo luật hình thành, hình thức thể hiện, biện pháp bảo
thường mang tính hệ thống, do các vị giáo đảm thực hiện...(26)
chủ hoặc tổ chức giáo hội xây dựng nên, được 2. Trong hệ thống công cụ điều chỉnh
được ghi chép thành kinh sách, được truyền quan hệ xã hội, mỗi công cụ có vị trí, vai trò
giảng ở các tu viện, thánh đường... Trong xã khác nhau, tuỳ thuộc điều kiện kinh tế, chính
hội hiện đại, nhìn chung tín ngưỡng dân gian trị, văn hoá, xã hội, yếu tố địa lí, lịch sử, tôn
vẫn tiếp tục tồn tại, tham gia mạnh mẽ trong giáo, tín ngưỡng… của quốc gia. Trong lịch
việc điều chỉnh hành vi con người. sử, ở một số quốc gia trên thế giới, có thời
Nhìn chung, trong các tổ chức xã hội đều kì, phong tục tập quán, các chuẩn mực đạo
có các quy định để điều chỉnh các mối quan đức xã hội hay các quy định trong luật lệ nhà
hệ xã hội trong nội bộ tổ chức. Quy tắc xử sự thờ… nổi lên giữ vị trí hàng đầu trong toàn
do các tổ chức xã hội đề ra, điều chỉnh các bộ hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã
quan hệ trong nội bộ tổ chức được gọi là kỉ hội. Ở Trung Quốc trong suốt hàng nghìn
luật của tổ chức đó. Từ điển tiếng Việt giải năm, đạo đức được coi trọng hơn so với
thích “kỉ luật” là “tổng thể nói chung những pháp luật. Theo đó, “phép trị nước của các
điều quy định có tính chất bắt buộc đối với đời Hạ, Thương, Chu ở Trung Quốc chủ yếu
hoạt động của các thành viên trong một tổ thiên về đức”;(27) các triều đại phong kiến
chức, để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ Trung quốc, từ nhà Hán đến nhà Thanh,
chức”.(25) ỉ luật của một tổ chức thường nhân trị luôn thắng pháp trị,(28) đạo đức luôn
được thể hiện tập trung trong điều lệ của tổ là công cụ chủ đạo để xác lập và giữ gìn trật
chức đó, bao gồm các quy định về mục tiêu, tự, kỉ cương xã hội; “chủ trương Đức trị của
tôn chỉ, cơ cấu của tổ chức, cách thức thiết Nho giáo trở thành đường lối chính trị chủ
lập ra các cơ quan của nó, nhiệm vụ, quyền yếu của nhà Tây Hán và của nhà nước
hạn của các cơ quan đó; tiêu chuẩn đối với phong kiến Trung Quốc trong hơn hai thiên
thành viên, trình tự thủ tục kết nạp thành niên kỉ”.(29) Ở các nước Tây Âu thời kì
viên, quyền và nghĩa vụ của thành viên, vấn phong kiến, lợi dụng tình hình chưa ổn định
đề khen thưởng, kỉ luật đối với thành viên… của các quốc gia “man tộc” vừa mới được
Giữa pháp luật, đạo đức, phong tục tập thành lập, nhà thờ Thiên Chúa giáo đã giành

42 TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014


nghiªn cøu - trao ®æi

lấy chức năng chính trị và hành chính,(30) thống trị quan điểm về xã hội thần quyền,
thao túng nhà nước, lấn át nhà nước. Trong “trong đó nhà nước có ý nghĩa chỉ phục vụ
thời kì này, thần học là nội dung học tập chủ cho tôn giáo đang thống trị”,(35) chính vì vậy,
yếu trong các trường học, giáo lí, giáo luật “nhà nước, pháp luật chỉ là thứ cấp bên cạnh
của nhà thờ có vai trò chi phối hết sức mạnh tôn giáo và đơn giản chỉ là công cụ để thực
mẽ hành vi của con người, từ các quan hệ hiện các quy định của tôn giáo”.(36) Các luật
trong gia đình đến các quan hệ kinh tế, chính do các nhà nước ban hành không thể làm thay
trị, văn hoá… trong xã hội. hi đó, “trong đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh
tay bọn giáo sĩ, chính trị và luật học cũng những chi tiết mà Sharia chưa cụ thể hoá hoặc
như tất cả các khoa học khác vẫn chỉ là còn bỏ trống(37) hoặc để điều chỉnh cuộc sống
những ngành của thần học, và những nguyên bên ngoài cộng đồng Hồi giáo. Một số quốc
lí thống trị trong thần học cũng được áp gia như Afghanistan, Pakistan, Arabiasaudi,
dụng cho chính trị và luật học. Những giáo lí Yemen, Oman, Bahrein, oweit, Qatar…
của giáo hội đồng thời cũng là những định lí thừa nhận tính tối cao của luật Hồi giáo, mọi
chính trị và những đoạn kinh thánh cũng có quy định pháp luật đều phải phù hợp với kinh
hiệu lực trước mọi to án như l luật pháp”.(31) Coran. Một số quốc gia như Marocco, Tunice,
Thậm chí, có nhà bác học còn bị đưa ra xét Angiery, Iran, Pakistan… còn ghi nhận sự
xử và bị tử hình bởi toà án giáo hội vì không tuân thủ các nguyên tắc của luật Hồi giáo
chịu tuân thủ tư tưởng của nhà thờ. Ở các trong hiến pháp.(38) Ở Việt Nam, trong điều
quốc gia Hồi giáo, hệ thống tín điều của đạo kiện kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự túc manh
Hồi (luật Hồi giáo) có vai trò đặc biệt quan mún thời kì phong kiến, các quan hệ xã hội
trọng trong đời sống xã hội. inh Coran được chủ yếu chỉ diễn ra trong phạm vi làng xã, với
thiêng liêng hoá, được coi là chân lí, được lấy sự chi phối mạnh mẽ của yếu tố huyết thống,
làm chuẩn mực cho mọi xử sự của con người, yếu tố láng giềng theo phương châm “chín bỏ
“các quy định này hoàn toàn độc lập, không làm mười” thì phong tục tập quán, lệ làng,
chịu sự chi phối của bất kì nhà nước nào”.(32) hương ước có vai trò rất quan trọng, thậm chí
Thậm chí, vai trò của luật Hồi giáo quan đứng trên pháp luật của nhà nước, “phép vua
trọng đến mức có ý kiến cho rằng, ở đâu thua lệ làng”. Ngay trong cơ chế kinh tế kế
người ta không dùng đến luật Hồi giáo, ở đó hoạch hoá, tập trung, bao cấp trước đây, các
đạo Hồi không tồn tại.(33) Luật Hồi giáo điều mối quan hệ xã hội cũng được điều chỉnh chủ
chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội trong đời yếu bằng mệnh lệnh hành chính(39) và các
sống kinh tế, chính trị của quốc gia, từ những chuẩn mực đạo lí.(40)
mối quan trong gia đình đến những mối quan Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời
hệ với láng giềng, với cộng đồng. Đặc biệt sống, vai trò của pháp luật trong hệ thống
ảnh hưởng của luật Hồi giáo trong các lĩnh công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội ngày càng
vực hôn nhân, gia đình, thừa kế, hình sự khá được coi trọng, nó ngày càng trở nên thắng
mạnh mẽ.(34) Như vậy, luật Hồi giáo điều thế vai trò của các thể chế phi quan phương.
chỉnh cả việc đạo và việc đời. Trong đạo Hồi Như trên đã đề cập, luật tục chỉ giữ vai trò

TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014 43


nghiªn cøu - trao ®æi

quan trọng trong xã hội tiền giai cấp. hi xã có những biến động mạnh mẽ. Ở nhiều quốc
hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp, gia Hồi giáo, một mặt tiếp tục khẳng định sự
luật tục trở nên yếu thế, một bộ phận của nó gắn bó với các nguyên tắc của đạo Hồi nhưng
được chuyển hoá thành pháp luật, một bộ mặt khác vẫn tìm cách thích nghi với pháp
phận bị pháp luật loại trừ, bộ phận còn lại luật trong thế giới hiện đại. Ở các nước Trung
tồn tại chỉ như sự hỗ trợ, bổ sung cho pháp Á thuộc Liên Xô trước đây, các nước từng là
luật. Có thể nói, phong tục tập quán, lệ làng, thuộc địa của phương Tây, chịu ảnh hưởng
hương ước chỉ phát huy vai trò của nó trong của pháp luật phương Tây như Malaysia,
xã hội tiểu nông, tự cấp, tự túc bởi chúng Bengale, Bắc Nigeria, Iran, Indonesia, các
phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của nước châu Phi nói tiếng Pháp, các nước nói
làng xã, phù hợp với suy nghĩ và tầm nhìn tiếng Ả rập…, luật Hồi giáo vẫn tồn tại, tuy
của người nông dân tiểu nông. hi nền kinh nhiên, vai trò của nó trong hệ thống công cụ
tế hàng hoá ra đời, ngành thương nghiệp điều chỉnh quan hệ xã hội đã bị hạn chế đáng
xuất hiện, các quan hệ xã hội vượt ra khỏi kể so với trước.(41)
phạm vi làng xã thì phong tục tập quán, lệ Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá,
làng, hương ước bị thu hẹp phạm vi ảnh các quy luật của thị trường là nhân tố điều tiết
hưởng, vai trò của nó trong hệ thống công cụ chủ đạo đối với nền kinh tế, lợi nhuận vừa là
điều chỉnh quan hệ xã hội bị suy giảm đáng mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy hành động
kể. Đặc biệt, khi đời sống xã hội có sự biến của mỗi người thì pháp luật trở thành công cụ
đổi nhanh chóng, giao lưu xã hội diễn ra trên hàng đầu, công cụ chủ đạo trong việc điều
phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế thì vai chỉnh các quan hệ xã hội. Nhất là trong điều
trò của phong tục tập quán, lệ làng, hương kiện hiện nay, khi nền kinh tế được công
ước chỉ còn hết sức hạn chế. Ở các nước Á nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá trình đô thị hoá
Đông chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho diễn ra rộng khắp, hợp tác và hội nhập quốc
giáo, trong hàng thiên niên kỉ, mặc dù đức trị tế ngày càng sâu rộng, vai trò của pháp luật
luôn là tư tưởng chủ đạo, tuy nhiên trên thực càng trở nên quan trọng. Pháp luật trở thành
tế, bề ngoài, công cụ cai trị chủ đạo vẫn là công cụ có hiệu quả nhất, công cụ không thể
pháp luật. Đó chính là đường lối cai trị “nội thay thế để điều chỉnh các mối quan hệ xã
Nho ngoại pháp”, có sự kết hợp chặt chẽ đạo hội, “pháp luật nổi lên như là một công cụ
đức với pháp luật, dùng pháp luật để thể chế “thép”, có hiệu lực mang tính uy quyền của
hoá những tư tưởng của Nho giáo. Nhìn nhà nước; pháp luật là hạt nhân, giữ vị trí
chung trên thế giới, một khi tôn giáo có sự trung tâm trong hệ thống các quy tắc xã
tách bạch với chính trị, thế quyền hoàn toàn hội”.(42) Pháp luật không đơn thuần là công
thoát li khỏi thần quyền thì ảnh hưởng của cụ quản lí nhà nước, nó còn được xác định là
tín điều tôn giáo trong đời sống xã hội bị thu công cụ để mỗi người tự bảo vệ lợi ích của
hẹp rất đáng kể. Trong điều kiện hợp tác, hội mình; công cụ của xã hội để điều chỉnh các
nhập quốc tế và toàn cầu hoá, vai trò của luật mối quan hệ giữa người với người trong
Hồi giáo ở các nước theo đạo Hồi cũng đang cuộc sống nhằm thiết lập, duy trì, bảo vệ trật

44 TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014


nghiªn cøu - trao ®æi

tự của đời sống chung. Nói cách khác, trong xã hội bởi vì so với các công cụ điều chỉnh
điều kiện ngày nay, pháp luật không còn khác, pháp luật thể hiện những ưu thế vượt
được quan niệm là của riêng nhà nước, pháp trội sau đây:
luật phải được quan niệm là loại quy tắc sinh Một là pháp luật có phạm vi tác động
hoạt công cộng, công cụ để điều chỉnh các rộng lớn nhất. Pháp luật do nhà nước ban
mối quan hệ xã hội, pháp luật là của chung hành đồng thời nó được truyền bá, phổ biến
toàn xã hội. Pháp luật luôn “ngự trị trong bằng con đường chính thức thông qua hệ
các mối quan hệ xã hội”.(43) Bất kì thể chế thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhờ
xã hội phi quan phương nào cũng không thể đó, pháp luật có khả năng tác động đến mọi
hoán đổi vị trí của pháp luật, càng không thể cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến
thay thế cho pháp luật. Pháp luật ngày càng mọi vùng miền, lãnh thổ của đất nước. Ở đâu
có sự hiện diện thường xuyên trong cuộc có sự hiện diện của chính quyền, ở đó có sự
sống của từng nhà, từng người. Thượng tôn tác động của pháp luật. Bởi vậy, pháp luật có
pháp luật trở thành nguyên tắc ứng xử của thể điều chỉnh các quan hệ xã hội trên bình
toàn xã hội. Pháp luật có thể dung hợp trong diện rộng lớn trên các lĩnh vực của đời sống.
nó những quy tắc xử nhất định trong các thể Hai là pháp luật được đảm bảo bằng biện
chế phi quan phương, nói cách khác, các thể pháp cưỡng chế nhà nước, nhờ đó nó tính bắt
chế phi quan phương có thể được pháp luật buộc thực hiện đối với mọi người. Nói đến
hoá. Một khi đã được ghi nhận thành pháp pháp luật phải nói đến cưỡng chế nhà nước.
luật, chúng trở nên mang tính bắt buộc chung Trong điều kiện xã hội có giai cấp, lợi ích
và được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước, của thành viên trong xã hội có sự khác nhau,
nhờ đó, việc thực hiện chúng trở nên nghiêm thậm chí đối lập nhau, mọi người đều muốn
chỉnh, triệt để hơn. Mặt khác, sự ghi nhận cái lợi cho riêng mình thì những lời khuyên,
thành pháp luật còn có tác dụng tạo điều kiện điều răn hay những cách xử sự theo thói
cho sự tồn tại, giữ gìn và phát huy vai trò của quen... không thể phát huy tác dụng. Trong
chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã điều kiện đó, phải dùng các biện pháp cưỡng
hội. Ở khía cạnh khác, pháp luật có thể loại chế nghiêm khắc của pháp luật mới có thể
trừ khỏi đời sống những quy định trong các thiết lập được trật tự, duy trì được sự ổn định
thể chế phi quan phương có nội dung trái của đời sống. Tất nhiên, sức mạnh của pháp
pháp luật, không phù hợp với pháp luật. luật có được chính là nhờ sức mạnh của
Chính vì vậy, nhìn chung các nhà nước trên quyền lực nhà nước, sức mạnh của bộ máy
thế giới đều sử dụng pháp luật làm công cụ chuyên nghiệp, chuyên môn làm nhiệm vụ
chủ yếu để quản lí xã hội. Hiến pháp Việt cưỡng chế. Thông qua bộ máy nhà nước,
Nam năm 1992 cũng như Hiến pháp năm quyền lực nhà nước tác động đến mọi cá
2013 đều quy định: Nhà nước quản lí xã hội nhân, tổ chức trong xã hội, bắt buộc các chủ
bằng pháp luật. thể phải phục tùng ý chí của nhà nước, vì
Sở dĩ, pháp luật có vai trò đặc biệt quan vậy, pháp luật mang tính bắt buộc đối với
trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ mọi người. Nói cách khác, thực hiện pháp

TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014 45


nghiªn cøu - trao ®æi

luật nghiêm chỉnh là sự bắt buộc đối với các trong xã hội nắm bắt được một cách đầy đủ,
chủ thể, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chính xác và rõ ràng nhất các hành vi được
muốn chủ quan của họ. Trước pháp luật, ai phép, hành vi bắt buộc, hành vi bị cấm cũng
ai cũng nhất thiết phải thực hiện theo. như cách thức, trình tự, thủ tục thực hiện
Trong khi đó, nhiều thể chế phi quan chúng… Nói cách khác, trong pháp luật, sự
phương không có thiết chế “chuyên nghiệp” cho phép, bắt buộc hay cấm đoán luôn được
để đảm bảo thực hiện hoặc nếu có thì một xác định rõ ràng. Thông qua pháp luật, các
mặt, bản thân các thiết chế đó không thể có chủ thể biết được trong điều kiện, hoàn cảnh
sức mạnh như nhà nước, mặt khác, các biện nào, họ được làm gì, phải làm gì hay không
pháp cưỡng chế của nó cũng không nghiêm được làm gì, hậu quả sẽ phải gánh chịu như
khắc như cưỡng chế nhà nước, vì vậy việc thế nào nếu làm trái điều đó, từ đó có đầy đủ
thực hiện các thể chế phi quan phương cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi.
thường không mang tính bắt buộc đối với Ngược lại, các thể chế phi quan phương
các chủ thể. thường không có sự xác định về hình thức.
Ba là pháp luật có hình thức xác định chặt Phong tục tập quán thể hiện dưới dạng hành
chẽ nhất. Trong lịch sử, pháp luật có nhiều vi mẫu, đạo đức, tín ngưỡng dân gian chủ
hình thức thể hiện, tuy nhiên trong xã hội yếu được truyền miệng dưới dạng tục ngữ,
hiện đại, pháp luật ngày càng có xu hướng thể ca dao... Mặc dù tín điều của các tôn giáo
hiện thành văn. Dưới hình thức này, pháp luật thường được ghi chép thành kinh sách, được
có sự xác định một cách hết sức chặt chẽ. truyền giảng trong tu viện, nhà thờ, tuy
Tính xác định chặt chẽ về hình thức là một nhiên nhìn chung những quy định trong đó
trong những ưu thế vượt trội của pháp luật so thường rất khái quát và trừu tượng. Chẳng
với các công cụ điều chỉnh khác bởi “trong hạn, những quy định trong kinh Coran được
mỗi xã hội (mỗi nước), luật pháp là sự tổng thể hiện dưới dạng những đoạn thơ, khá dài
hợp duy nhất những chuẩn mực, không có dòng và tương đối trừu tượng. Chính vì vậy,
“bản sao”, không có phương án hai”.(44) việc nhận thức và thực hiện những quy tắc
Pháp luật, bản thân nó là một hệ thống, đó là đó một cách chính xác, thống nhất là điều
một thể thống nhất bao gồm các quy phạm khó khăn rất lớn đối với mọi người.
pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau Bốn là pháp luật dễ thích ứng với điều
được sắp xếp một cách logic, khách quan và kiện thực tế của đời sống xã hội. Là hình
khoa học. Mỗi quy phạm pháp luật được thức pháp lí của các quan hệ kinh tế-xã hội,
xem “như dây mực, cái thuỷ chuẩn, cái quy, vì vậy, về cơ bản pháp luật quy định về vấn
cái củ (thước tròn, thước vuông) của người đề gì, quy định như thế nào, điều đó trước
thợ, là cái nhờ nó mà việc làm đạt được sự tiên phụ thuộc vào thực trạng của điều kiện
ngay thẳng, chính xác”.(45) Ngôn ngữ pháp kinh tế-xã hội. hi điều kiện kinh tế xã hội
luật thường một nghĩa, rõ nghĩa, chính xác, thay đổi, pháp luật có sự thay đổi theo.
không trừu tượng, chung chung. Chính vì Chính vì vậy, pháp luật có thể đáp ứng kịp
vậy, thông qua pháp luật, các cá nhân, tổ chức thời yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống. Ngược

46 TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014


nghiªn cøu - trao ®æi

lại, đạo đức, phong tục tập quán... thường có rằng, cho dù điều kiện kinh tế, chính trị, văn
quá trình hình thành và biến đổi khá chậm hoá, xã hội khác nhau thì để quản lí xã hội
chạp, nhiều tín điều tôn giáo đã hình thành một cách có hiệu quả, các chính quyền nhà
cách ngày nay hàng nghìn năm nhưng không nước đều phải sử dụng pháp luật trong sự kết
hề có sự thay đổi, thậm chí là bất di bất dịch. hợp hài hoà với các công cụ khác./.
Nói cách khác, các thể chế phi quan phương
thường không phản ánh kịp thời sự phát triển (1).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí
luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà
của cuộc sống. Do đó, chúng không thể điều
Nội, 2007, tr. 66; Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
chỉnh một cách kịp thời sự biến động của các Nội, Giáo trình lí luận chung về nhà nước và pháp
quan hệ xã hội. luật, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 288.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm (2).Xem: Lê Minh Tâm, Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam - những vấn đề lí luận và
vượt trội, pháp luật cũng có những hạn chế
thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 11.
nhất định. Pháp luật không thể điều chỉnh (3).Xem: Hoàng Thị im Quế, “Quan niệm về pháp
được tất cả các quan hệ xã hội, nhất là những luật, một vài suy nghĩ”, Tạp chí nhà nước và pháp
quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở tình luật, số 6/2006, tr. 11.
cảm của con người. Mặt khác, biện pháp (4). Hoàng Thị im Quế, tlđd, tr. 11.
(5).Xem thêm: Nguyễn Văn Năm, “Vai trò của đạo
cưỡng chế nhà nước không phải khi nào
đức trong đời sống xã hội”, Tạp chí luật học, số 9/2011.
cũng đem lại hiệu quả như mong muốn. Đối (6).Xem: Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Nxb. TP. Hồ
với một số chủ thể, trong những điều kiện, Chí Minh, 2000, tr. 25, 760.
hoàn cảnh nhất định thì cưỡng chế chưa hẳn (7).Xem: Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và
chữa lỗi chính tả, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2000, tr. 254.
đã có ý nghĩa đối với họ, kể cả biện pháp
(8).Xem: Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt,
cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Ngược lại, sự Nxb. Đà Nẵng, 1997, tr. 869.
tác động của dư luận xã hội (biện pháp đảm (9).Xem: Thiều Chửu, sđd, tr. 211, 503.
bảo thực hiện của các thể chế phi quan (10).Xem: Hoàng Phê (chủ biên), sđd, tr. 870.
phương) nhiều khi rất có tác dụng, thậm chí, (11).Xem: Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao số 04/2005/NQ-HĐTP ngày
có trường hợp dư luận còn khiến người ta xử 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của
sự một cách cực đoan. Niềm tin, đặc biệt là Bộ luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ.
niềm tin tôn giáo là nhân tố có sức mạnh to (12). Tuy nhiên, cũng có một số tác giả có sự phân biệt
lớn, thúc đẩy người ta thực hiện hành vi một hai khái niệm này. Theo đó, có tác giả cho rằng phong
tục và tập quán mặc dù có những điểm chung song tính
cách triệt để, tận tâm, đến cùng.
bắt buộc của tập quán không cao, thường chỉ là những
Qua sự phân tích trên đây, có đủ cơ sở để việc rất đáng làm theo nếu không chủ yếu bị dư luận
khẳng định rằng, trong điều kiện ngày nay, phê phán, dị nghị hoặc tẩy chay; ngược lại phong tục
pháp luật là công cụ hàng đầu, quan trọng có tính bắt buộc nghiêm ngặt, những người vi phạm có
nhất, có hiệu quả nhất và không thể thay thế thể phải chịu những hình phạt nghiêm khắc (Xem:
Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời
trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã sống xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.
hội. Để quản lí xã hội, điều chỉnh các mối 182, 183). Tác giả khác cho rằng, tập quán dễ thay đổi
quan hệ xã hội, pháp luật không bao giờ là khi điều kiện sống thay đổi, ngược lại phong tục mang
công cụ duy nhất. Điều này cũng hàm ý tính bảo thủ cao, ít thay đổi hoặc chậm thay đổi khi

TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014 47


nghiªn cøu - trao ®æi

điều kiện sống đã thay đổi (Xem thêm: Bùi Xuân Đính, đạo đức, xem thêm: Nguyễn Văn Năm, “Nhận thức
“Những vấn đề lí luận và thực tiễn trong việc sử dụng về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức”, Tạp chí
phong tục tập quán và hương ước của người Việt trong luật học, số 4/2006.
thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam”, (27).Xem: Vũ Thị Nga, “Tư tưởng đức trị, pháp trị và
Chuyên đề nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp Bộ tư sự kết hợp đức trị và pháp trị trong đường lối cai trị
pháp: Cơ sở dữ liệu của việc soạn thảo luật ở Việt của nhà nước phong kiến Hậu Lê”, Luận văn thạc sĩ
Nam, Hà Nội, 2006). luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000, tr. 32.
(13).Xem: Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 2. (28).Xem: Đỗ Đức Minh, Học thuyết pháp trị Trung
(14).Xem: Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 5, 6. Hoa cổ đại, giá trị tham khảo trong quản lí xã hội ở
(15).Xem: Thông tư liên tịch của Bộ tư pháp, Bộ văn Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị-hành chính, Hà
hoá thông tin, Ban thường trực Uỷ ban trung ương Nội, 2013, tr. 142.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 02/2000/TTLT-BTP- (29).Xem: Vũ Thị Nga, tlđd, tr. 21.
BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000 hướng (30).Xem: Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ
dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước Đình Hãng, Trần Văn La, Lịch sử thế giới trung đại,
của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003, tr. 45.
(16).Xem: Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 17. (31).Xem: Mác-Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb. Sự
(17).Xem: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số thật, Hà Nội, 1986, tr. 45.
24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 về việc xây dựng và (32).Xem: Michael Bogdan, Luật so sánh, Nxb.
thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, KLUWER, NORSTEDTS JURIDIK, TANO (Lê Hồng
cụm dân cư; Thông tư liên tịch của Bộ tư pháp, Bộ Hạnh và Dương Thị Hiền dịch), Sách được dịch và xuất
văn hoá thông tin, Ban thường trực Uỷ ban trung bản theo sự tài trợ của SIDA, Hà Nội, 2002, tr. 174.
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 03/2000/TTLT- (33).Xem: Réne David, sđd, tr. 339.
BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000 (34).Xem: Michael Bogdan, sđd, tr. 174.
về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước (35).Xem: Réne David, sđd, tr. 339, 340.
của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. (36).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật
(18).Xem: Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 5. so sánh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 353.
(19).Xem: Nguyễn Minh Đoan, sđd, tr. 183. (37).Xem: Michael Bogdan, sđd, tr. 177.
(20).Xem: Phan Đăng Nhật, “Những vấn đề lí luận và (38).Xem: Réne David, sđd, tr. 349.
thực tiễn của việc vận dụng luật tục trong thực tế ở Việt (39). Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Xã hội
Nam”, Chuyên đề nghiên cứu trong Đề tài khoa học và pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994,
cấp bộ (Bộ tư pháp): Những vấn đề lí luận và thực tiễn tr. 255.
về nguồn của pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 2006, tr. 1. (40). Đến Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, tư
(21).Xem: Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3. duy của Đảng có sự đổi mới, văn kiện Đại hội này
(22).Xem: Lê Hồng Sơn, “ hái niệm, vị trí, vai trò và viết: “Quản lí xã hội bằng pháp luật chứ không thể
một số nội dung chính của luật tục từ góc độ nghiên chỉ bằng đạo lí”.
cứu pháp luật”, bài tham luận tại Hội thảo: Vai trò (41).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
của luật tục trong mối quan hệ với pháp luật dân sự, luật so sánh, sđd, tr. 353.
Hà Nội, tháng 2/2001. (42).Xem: Hoàng Thị im Quế, Pháp luật và đạo
(23).Xem: Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3. đức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 50.
(24).Xem: Réne David, Tìm hiểu pháp luật quốc tế: (43).Xem: Hoàng Thị im Quế, “Một số đặc điểm cơ
Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương bản của pháp luật trong nhà nước pháp quyền”, Tạp
đại, (TS. Nguyễn Sỹ Dũng và ThS. Nguyễn Đức Lam chí dân chủ và pháp luật, số 4/2002, tr. 5.
dịch), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tr. 340, 347. (44).Xem: Đức Uy (dịch), Sai lệch chuẩn mực xã hội,
(25).Xem: Hoàng Phê (chủ biên), sđd, tr. 500. tập 1, Nxb. Thông tin lí luận, Hà Nội, 1986, tr. 111.
(26). Về sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và (45).Xem: Đỗ Đức Minh, sđd, tr. 88.

48 TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 7/2014

You might also like