You are on page 1of 7

PHÁP 

LUẬT TRONG HỆ THỐNG CÔNG CỤ
ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ XàHỘI
                                                  
1. Khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội
Điều chỉnh là một thuật ngữ  Hán Việt, trong đó, “điều” chỉ  sự  cân 
nhắc, thêm, bớt làm cho phù hợp; “chỉnh” là sửa đổi, uốn nắn, làm cho ngay 
ngắn1, Từ điển Tiếng Việt giải thích, điều chỉnh là “sửa đổi, sắp xếp lại ít  
nhiều cho đúng hơn, cân đối hơn”2. 
Trong sự phát triển tự nhiên của đời sống xã hội, bên cạnh những mối  
quan hệ cần thiết, có ích cho xã hội thì cũng luôn tồn tại cả những mối quan 
hệ không có ích, thậm chí có hại cho trật tự chung. Để duy trì ổn định, trật tự 
xã hội đòi hỏi các mối quan hệ  trong xã hội phải được điều chỉnh, nhằm 
khuyến khích, tạo điều kiện cho những quan hệ  xã hội có lợi cho đời sống  
cộng đồng được tồn tại và phát triển, ngăn chặn và đi tới loại bỏ những mối  
quan hệ mà cộng đồng không mong muốn. Điều chỉnh quan hệ xã hội là việc  
sử  dụng các công cụ để tác động lên các quan hệ xã hội, làm cho chúng trở  
nên thay đổi và phát triển theo những mục đích, định hướng nhất định, nhằm  
duy trì và bảo vệ trật tự xã hội. 
Điều chỉnh quan hệ xã hội thực chất là điều chỉnh hành vi của các chủ 
thể  tham gia quan hệ  xã hội đó, làm thay đổi hành vi của họ. Trong cuộc  
sống, mọi người đều không thể  tồn tại một cách biệt lập mà phải tham gia 
vào các mối quan hệ  với người khác, tạo nên hệ  thống các mối quan hệ  xã  
hội vô cùng phức tạp, đan xen chằng chịt với nhau. Khi tham gia vào các mối 
quan hệ xã hội thì mỗi hành vi của người này đều có thể ảnh hưởng đến lợi  
ích của người khác cũng như của cả cộng đồng. Trong điều kiện đó, để đảm 
bảo lợi ích của mỗi thành viên cũng như  sự   ổn định, trật tự  của xã hội, đòi 
hỏi xử sự của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội phải dựa trên những  
chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất định. Nói cách khác, chỉ 
khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội thì hành vi của các chủ  thể mới có 
thể  bị đặt trước nhu cầu cần phải được điều chỉnh. Khi cá nhân sống trong 
điều kiện riêng rẽ, không tham gia vào mối quan hệ với người khác thì hành 
vi của họ  cũng không có khả  năng  ảnh hưởng đến lợi ích của ai. Trong 
trường hợp này, không xuất hiện nhu cầu điều chỉnh hành vi của họ.
Công cụ  điều chỉnh các mối quan hệ  xã hội là các loại qui phạm xã 
hội. Chúng được coi là khuôn mẫu, mô hình, chuẩn mực cho hành vi ứng xử 
của các chủ  thể  khi họ  tham gia vào những mối quan hệ  xã hội nhất định.  
1
 Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb Thanh niên, H. 2000, tr.161.
2
 Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà nẵng, 1997, tr. 310.

1
Nói cách khác, các mối quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng cách xác định  
cách thức xử sự cho các chủ thể quan hệ xã hội đó, qui định quyền, nghĩa vụ 
cho họ, qui định cho họ  những việc được làm, nên làm, cần phải làm hay 
không được làm… 
2. Hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
Các quan hệ  xã hội rất phong phú, đa dạng và phức tạp, bởi vậy, để 
điều chỉnh chúng một cách có hiệu quả, cần phải có nhiều công cụ  khác  
nhau, bao gồm pháp luật (thể  chế  quan phương), đạo đức, phong tục tập 
quán, tín điều tôn giáo, lệ làng, hương ước, luật tục, qui định của các tổ chức  
xã hội…(thể chế phi quan phương). Các công cụ này vừa có sự độc lập, vừa 
có sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, hợp thành hệ thống công cụ điều chỉnh  
các mối quan hệ xã hội. 
Ngày nay, nhìn chung các nhà khoa học đều tiếp cận khái niệm pháp 
luật theo nhiều cấp độ. Theo nghĩa hẹp, pháp luật là hệ  thống qui tắc xử sự 
mang tính bắt buộc chung cùng “các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp 
luật”1, do nhà nước ban hành để  điều chỉnh các quan hệ  xã hội. Theo nghĩa 
rộng, pháp luật được xem xét cả  từ“đầu vào, đầu ra, cả  pháp luật  ở  trạng  
thái tĩnh và trạng thái động”2, theo đó, pháp luật tồn tại và phát triển trên cả 
ba lĩnh vực: “hệ thống qui phạm pháp luật, tư tưởng pháp luật, ý thức pháp  
luật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật (trong các hình thức thực hiện  
pháp luật, các quan hệ pháp luật)”3. Theo cách tiếp cận này, pháp luật được 
hiểu rất rộng, đó không chỉ  là hệ  thống pháp luật thực định, nó còn được  
nhận thức cả trên bình diện ý thức pháp luật, cả trên bình diện thực tiễn thực 
hiện pháp luật. 
Đạo đức là một khái niệm hết sức phức tạp, khái niệm này vừa hết  
sức phổ biến trong dân gian, vừa đậm đặc chất học thuật, bởi vậy nó được 
hiểu theo nhiều cách khác nhau trong những thời gian, không gian, đối tượng  
khác nhau. Trong đời sống hàng ngày, đạo đức4 thường được đồng nhất với ý 
thức đạo đức cá nhân, đó là đức hạnh, phẩm hạnh của con người, những nét 
đẹp, nết tốt, những  “phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo  
những tiêu chuẩn đạo đức xã hội mà có”5. Trong khoa học, trước hết, đạo 
đức được hiểu là tổng thể những quan niệm, quan điểm về chân, thiện, mỹ, 

1
 Lê Minh Tâm, Xây dựng và hoàn thiện hệ  thống pháp luật Việt Nam những vấn đề  lý luận và thực tiễn , 
Nxb Công an nhân dân, H. 2003, tr.11.
2
 Hoàng Thị Kim Quế, Quan niệm về pháp luật, một vài suy nghĩ,  Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 6/2006, 
tr.11.
3
 Hoàng Thị Kim Quế, sđd, tr.11.
4
 Nhiều khi còn nói tắt là đức để phân biệt với tài là năng lực, trình độ, tài năng.
5
 Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà nẵng, 1997, tr. 280.

2
nghĩa vụ, danh dự… (trong đó cốt lõi là điều thiện) cùng những qui tắc xử sự 
được hình thành trên cơ sở những quan niệm, quan điểm đó nhằm điều chỉnh  
hành vi,  ứng xử  của con người, chúng được thực hiện bởi lương tâm, tình 
cảm cá nhân và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức không chỉ  là những 
qui tắc đối nhân, xử  thế, nó còn là các chuẩn mực để  mỗi người tự tu thân, 
dưỡng tâm, rèn luyện tính cách theo những định hướng giá trị  nhất định1. 
Chính vì vậy, đạo đức là công cụ điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các  
quan hệ  xã hội. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức mang một dung lượng  
rất rộng, nó được nhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức đạo đức xã hội và ý 
thức đạo đức cá nhân), cả từ góc độ thể chế (nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực 
đạo đức), cả từ góc độ thực tiễn (hành vi đạo đức). 
Phong tục, tập quán là loại qui phạm xã hội rất gần gũi với con người.  
“Phong tục” là một thuật ngữ  Hán­Việt, trong đó “phong” nghĩa gốc là gió, 
“tục” là quen dùng, quen thuộc, “phong tục”  là thói quen đã ăn sâu vào đời 
sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”2. Tác giả Thiều Chửu 
giải thích: bề trên giáo hóa kẻ dưới gọi là phong, kẻ dưới bắt chước bề trên  
gọi là tục; ý nói cái gì người này nêu ra, người kia nối theo một cách tự  
nhiên, dần dần thành quen như  vật theo gió, vẫn cảm theo đó mà không tự  
biết3. Vì gió lan khắp mọi nơi nên phong tục là thói quen phổ  biến4. “Tập 
quán” cũng là một thuật ngữ Hán­Việt, trong đó “tập” nghĩa là quen, “quán” 
cũng có nghĩa là quen, “tập quán” là tất cả những gì đã quen thuộc, khó đổi đi 
được5. Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản 
xuất và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo 6. Như 
vậy, mặc dù được biểu đạt bằng hai khái niệm khác nhau nhưng thực chất  
phong tục hay tập quán đều chỉ  chung thói quen xử  sự, chính vì vậy, trong  
đời sống hàng ngày thường không có sự  phân biệt phong tục với tập quán, 
chúng thường được gọi chung là phong tục tập quán7. Phong tục, tập quán 
1
 Vũ Trọng Dung (chủ biên), Giáo trình Đạo đức học Mác Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2005, tr. 9.
2
 Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 1997, tr. 869.
3
 Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Nxb Tp HCM, năm 2000, trang 25, 760.
4
 Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb Thanh niên, H. 2000, tr. 254.
5
 Thiều Chửu, sđd, trang 211, 503.
6
 Hoàng Phê (chủ biên), sđd,  tr. 870.
7
 Tuy nhiên, cũng có một số tác giả có sự phân biệt hai khái niệm này. Theo đó, phong tục và tập quán mặc  
dù có những điểm chung, song tính bắt buộc của tập quán không cao, thường chỉ là những việc rất đáng làm 
theo nếu không chủ yếu bị dư luận phê phán, dị nghị hoặc tẩy chay, ngược lại “phong tục có tính bắt buộc 
nghiêm ngặt, những người vi phạm có thể phải chịu những hình phạt nghiêm khắc” ( Vai trò của pháp luật  
trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2008, tr. 182, 183). Tác giả  Bùi Xuân Đính cho rằng, tập 
quán dễ thay đổi khi điều kiện sống thay đổi, ngược lại phong tục mang tính bảo thủ  cao, ít thay đổi hoặc 
chậm thay đổi khi điều kiện sống đã thay đổi (Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc sử dụng phong  
tục tập quán và hương  ước của người Việt trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật  ở  Việt Nam , 
chuyên đề  nghiên cứu trong đề  tài khoa học cấp Bộ  Tư  Pháp:  “Cơ  sở  dữ  liệu của việc soạn thảo luật  ở  

3
mang tính cộng đồng, dân tộc, địa phương, vùng miền rất rõ nét.  Ở  Việt 
Nam, các phong tục, tập quán được biểu hiện cụ thể   ở từng làng, trở  thành 
lệ làng1. Bên cạnh khái niệm phong tục, tập quán, trong ngôn ngữ hàng ngày 
còn có các thuật ngữ  tập tục, tục lệ, lệ tục…, chúng đều chỉ  thói quen của 
con người, nhưng không phải là riêng của một cá nhân hay gia đình nào, mà là 
của một dân tộc hoặc một địa phương, một cộng đồng xã hội.
Một công cụ quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính 
tự quản tại các cộng đồng làng xã là hương ước. Hương ước tồn tại ở nhiều  
nước trên thế giới như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, một số 
nước Đông nam Á…2. “Hương  ước” là một thuật ngữ  Hán Việt, trong đó 
“hương” là làng, quê; “ước” là giao kèo, thỏa thuận, qui ước, “hương ước” là  
những  những giao kèo, thỏa thuận, qui  ước của cộng đồng thôn,  làng, nói 
cách khác, hương  ước là tổng thể  các qui tắc xử sự  điều chỉnh các quan hệ 
xã hội trong phạm vi một thôn, làng. Hương ước có nguồn gốc từ phong tục  
tập quán, được hình thành trên cơ  sở  phong tục tập quán của mỗi làng, là 
hình thức thành văn của phong tuc tập quán nhưng không hoàn toàn đồng 
nhất với phong tục tập quán. Bên cạnh những qui định được chép lại từ 
phong tục tập quán, trong bản hương  ước của mỗi làng còn có những qui  
định do dân làng đặt ra trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thôn, làng. 
Để  nắm lấy các thôn, làng, can thiệp vào công việc của thôn, làng, hạn chế 
vai trò tự  quản, tự  trị  của nó, nhà nước qui định thủ  tục phê chuẩn hương  
ước và đưa vào đó những qui định liên quan đến nhà nước . Khác với phong 
tục tập quán, hương ước có qui định các biện pháp xử phạt người vi phạm,  
tuy nhiên nhà nước chỉ  cho phép thôn, làng xử  phạt một số  vi phạm nhỏ 
thuộc nếp sống cộng đồng, vượt quá giới hạn đó, thôn, làng phải trình quan 
trên để  nhà nước giải quyết. Như  vậy, có thể  coi hương  ước như  một bộ 
luật của thôn, làng3, đồng thời cũng được xem  như  “cánh tay nối dài” của 
pháp luật, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các thôn, làng, nơi mà chính  
quyền trung  ương chưa vươn tới được. Hương ước như là một sự dung hoà 
giữa pháp luật của nhà nước với phong tục tập quán của thôn, làng. Ở Việt 

Việt Nam”, H. 2006, tr. Tác giả Bùi Xuân Phái cho rằng, phong tục là một loại chuẩn mực được hình thành 
một cách có ý thức được thế  hệ  trước truyền dạy lại một cách có ý thức, đúng cách, được đảm bảo thực  
hiện một cách khá nghiêm ngặt, còn  tập quán thì đơn thuần chỉ là những thói quen, lan truyền tự phát trong 
cộng đồng (Những nguyên tắc của việc áp dụng tập quán vào giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình, 
tham luận trong hội thảo do Bộ Tư pháp tổ  chức tháng 8/2014 góp ý cho dự  thảo Nghị  định hướng dẫn thi  
hành Luật hôn nhân và gia đình, tr. 2).
1
 Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 2. 
2
 Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 5­6.
3
 Vũ Duy Mền, Hoàng Minh Lợi, Hương ước làng xã Bắc bộ Việt Nam với Luật làng Kan tô Nhật Bản (thế 
kỷ XVII­XIX), Viện Sử học, H. 2001, tr. 253.

4
Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, hương  ước xuất hiện muộn nhất vào cuối 
thế kỷ XV1. Dưới chế độ phong kiến, các bản hương ước đều qui định cách 
thức  ứng xử  trong các mối quan hệ  thân tộc, xóm giềng, tuổi tác, ngôi thứ, 
cách thức tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng, hiếu, hỷ, khao vọng, cách thức tổ 
chức cũng như vai trò của các thiết chế phường, hội, giáp... như việc bầu cử 
các chức dịch trong thôn, làng, việc thu thuế, bắt lính... Hiện nay, nhà nước 
khuyến khích các cộng đồng dân cư xây dựng hương ước mới  trên cơ sở kế 
thừa những mặt tích cực của hương  ước cũ cũng như đảm bảo phù hợp với  
quy định của pháp luật hiện hành2. 
Luật tục là một loại công cụ quan trọng để điều chỉnh quan hệ xã hội. 
Hiện nay, nhiều xã hội, nhiều tộc người trên thế  giới vẫn tồn tại và thực 
hành luật tục dưới những hình thức rất đa dạng3. Theo nghĩa rộng, “luật tục” 
là tất cả  những qui tắc xử  sự  mang tính chất dân gian, đó là luật của dân 
gian4. Theo cách hiểu này, “luật” là qui tắc, “tục” chỉ  những qui tắc xử  sự 
mang tính dân gian, nguyên thủy, bản địa, không thành văn, hoàn toàn mang 
tính chất khu biệt với luật nhà nước, đối lập với những gì mang tính chất  
hàn lâm, sách vở5. Như  vậy, luật tục bao gồm cả  phong tục tập quán, lệ 
làng… Theo nghĩa hẹp6, “luật tục” là hình thức sơ  khai, tiền thân của luật 
pháp và chỉ có ở các tộc người thiểu số trong xã hội tiền giai cấp 7. Theo cách 
hiểu này, luật tục là những phong tục tập quán có dáng dấp của pháp luật, là 
bước quá độ, là sự chuyển tiếp giữa phong tục tập quán và pháp luật, là hình 
thức phát triển cao của phong tục tập quán và là hình thức sơ  khai của pháp 
luật. Chính vì thế, luật tục còn được gọi là tập quán pháp 8. Hiện nay, ở một 
số quốc gia trên thế  giới, bên cạnh hệ  thống pháp luật chung của cả  nước,  
trong các cộng đồng dân tộc thiểu số  chậm phát triển, luật tục vẫn tồn tại. 
Luật tục có nội dung tương đối tổng hợp, điều chỉnh một cách rộng rãi các 
mặt của đời sống cộng đồng, từ các quan hệ về hôn nhân, gia đình, đến các  

1
 Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 17.
2
 Chỉ thị số 24/1998 ngày 19.6.1998 của Thủ tướng chính phủ; thông tư  liên tịch số  03/2000 ngày 31.3.2000  
của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa thông tin và Ban thường trực ủy ban trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 
3
 Phan Đăng Nhật, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vận dụng luật tục trong thực tế ở Việt Nam,  
tr.28, chuyên đề  nghiên cứu trong đề  tài cấp bộ  của Bộ  tư  pháp: “Những vẫn đề  lý luận và thực tiễn về  
nguồn của pháp luật Việt Nam”, H. 2007.
4
 Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2008, tr. 183.
5
 Phan Đăng Nhật, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vận dụng luật tục trong thực tế  ở Việt Nam,  
chuyên đề nghiên cứu trong đề tài cấp Bộ Tư pháp: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn của pháp  
luật Việt Nam, H. 2006, tr. 1.
6
 Trong phạm vi chương này của giáo trình, khái niệm luật tục được đề cập theo nghĩa hẹp.
7
 Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3.
8
 Cần phân biệt với tập quán pháp là một hình thức, một loại nguồn của pháp luật (xem chương 12 giáo  
trình này).

5
quan   hệ   về   sở   hữu   đất   đai,   về   mua  bán,   trao   đổi  tài   sản ,   quản  lý   hành 
chính...1. Luật tục qui định khá da dạng các biện pháp xử lý người vi phạm, 
bao gồm các biện pháp để tạ lỗi với thần linh, tạ lỗi đối với dân làng, đền bù 
cho người bị  hại…, thậm chí kể  cả  biện pháp tử  hình2. Luật tục còn bao 
gồm cả  các qui định về  trình tự, thủ  tục xử  lý người vi phạm, theo đó mỗi  
khi xét xử  xong, bao giờ cũng kèm một nghi lễ  nhằm hòa giải, xóa bỏ  tranh  
chấp, thù oán giữa các bên với sự chứng giám của thần linh và dân làng. 
Tín điều tôn giáo là một khái niệm chung dùng để chỉ giáo lý, giáo luật 
của các tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư. Giáo lý là lý luận,  
học thuyết của tôn giáo, đó là những quan niệm, quan điểm về thần linh, về 
đức tin…,  được thể  hiện trong hệ  thống kinh sách của mỗi tôn giáo. Giáo 
luật (luật giáo hội) là hệ  thống qui tắc xử  sự  của một tổ  chức tôn giáo để 
điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng tôn giáo đó. Trong các tôn giáo 
trên thế giới, Đạo Phật, Đạo Thiên chúa, Đạo Hồi là những tôn giáo lớn, có 
tổ chức chặt chẽ, có hệ thống giáo lý, giáo luật đầy đủ nhất. Hệ thống giáo 
lý của Đạo Thiên chúa được thể  hiện trong kinh Cựu  ước, kinh Tân  ước… 
Hệ  thống giáo luật của tôn giáo này được thể hiện tập trung trong Bộ Giáo 
Luật (The Code of Canon Law), được sửa đổi toàn diện nhất gần đây vào  
năm 1983 với 1752 điều luật cụ  thể. Hệ  thống tín điều của đạo Hồi gọi là 
Luật Hồi giáo (Shariah) được chứa đựng ở bốn nguồn là kinh Coran, Sunna, 
Idjmá, Qias, trong đó là kinh Coran và Sunna là hai nguồn chính. Luật Hồi  
giáo cũng như luật giáo hội của nhà thờ Thiên chúa giáo được coi như “pháp  
luật” của những người theo đạo. Tín ngưỡng dân gian là những quan niệm, 
quan điểm về thần linh, về đức tin của một cộng đồng nhất định, được lưu  
truyền tự  nhiên trong dân gian thông qua  huyền thoại,  truyền thuyết,  thần 
tích, được thể hiện dưới dạng tập quán của cộng đồng. Điểm khác biệt giữa 
tín ngưỡng với giáo lý, giáo luật là ở chỗ, tín ngưỡng thường mang tính dân 
gian, ngược lại giáo lý, giáo luật thường mang tính hệ  thống, do các vị  giáo 
chủ  hoặc tổ  chức giáo hội xây dựng nên, được được ghi chép thành kinh 
sách, được truyền giảng ở các tu viện, thánh đường... Trong xã hội hiện đại, 
nhìn chung tín ngưỡng dân gian vẫn tiếp tục tồn tại, tham gia mạnh mẽ trong  
việc điều chỉnh hành vi con người. 
Kỷ luật của một tổ chức là tổng thể nói chung những điều qui định có  
tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ  chức,  

1
 Lê Hồng Sơn, Khái niệm, vị trí, vai trò và một số nội dung chính của luật tục từ góc độ nghiên cứu pháp  
luật, tham luận tại hội thảo Vai trò của luật tục trong mối quan hệ với pháp luật dân sự,  Hà Nội tháng 2 
năm 2001.
2
 Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3.

6
để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức đó1. Kỷ luật của một tổ chức thường  
được thể  hiện tập trung trong hiến chương, điều lệ, nội qui… của tổ  chức  
đó, trong đó bao gồm các qui định về mục tiêu, tôn chỉ; cơ cấu tổ chức, cách  
thức thiết lập, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của nó; tiêu chuẩn đối 
với thành viên, trình tự  thủ  tục kết nạp thành viên, quyền và nghĩa vụ  của 
thành viên; vấn đề khen thưởng, kỷ luật đối với thành viên…
Giữa pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo… vừa 
có những điểm tương đồng, vừa có những điểm khác biệt. Với tính chất là 
những công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật, đạo đức, phong 
tục tập quán, tín điều tôn giáo...  đều là những khuôn mẫu, mực thước, mô 
hình, chuẩn mực cho hành vi con người . Bên cạnh đó, giữa pháp luật và đạo 
đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... có sự  khác biệt  ở  nhiều khía  
cạnh, rõ nét nhất là con đường hình thành, hình thức thể hiện, biện pháp bảo  
đảm thực hiện... 
3. Vị  trí, vai trò của pháp luật trong hệ thống công cụ  điều chỉnh quan  
hệ xã hội
Trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mỗi công cụ có vị 
trí, vai trò khác nhau, tùy thuộc điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,  
địa lý, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng… của quốc gia. Trong lịch sử,  ở một số 
quốc gia trên thế giới, có thời kỳ, các chuẩn mực đạo đức xã hội hay các qui  
định trong luật lệ  nhà thờ… nổi lên giữ  vị  trí hàng đầu trong toàn bộ  hệ 
thống công cụ  điều chỉnh quan hệ  xã hội.  Ở  Trung Quốc trong suốt hàng 
nghìn năm, đạo đức được coi trọng hơn so với pháp luật. Các triều đại phong 
kiến Trung quốc, từ nhà Hán đến nhà Thanh, nhân trị luôn thắng pháp trị, đạo 
đức luôn là công cụ chủ đạo để xác lập và giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội 2. 
Chủ trương Đức trị  trở  thành đường lối chính trị  chủ  yếu của các nhà nước  
phong kiến Trung Quốc trong hơn hai thiên niên kỷ 3. Ở các nước Tây Âu thời 
kỳ  phong kiến, lợi dụng tình hình chưa  ổn định của các quốc gia “man tộc” 
vừa mới được thành lập, nhà thờ  Thiên chúa giáo đã giành lấy chức năng  
chính trị  và hành chính, thao túng nhà nước, lấn át nhà nước 4. Trong thời kỳ 
này, thần học là nội dung học tập chủ yếu trong các trường học, giáo lý, giáo 
luật của nhà thờ có vai trò chi phối hết sức mạnh mẽ hành vi của con người, 
từ  các quan hệ  trong gia đình đến các quan hệ  kinh tế, chính trị, văn hóa… 
1
 Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, sđd, tr. 500.
2
 Đỗ Đức Minh, Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại, giá trị tham khảo trong quản lý xã hội ở Việt Nam 
hiện nay, Nxb Chính trị ­ Hành chính, H. 2013, tr. 142. 
3
 Vũ Thị Nga, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, năm  2000, tr.21.
4
 Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La, Lịch sử thế giới trung đại, Nxb giáo dục, 
H. 2003, tr. 45.

You might also like