Professional Documents
Culture Documents
Pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
Pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
LUẬT TRONG HỆ THỐNG CÔNG CỤ
ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ XÃ HỘI
1. Khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội
Điều chỉnh là một thuật ngữ Hán Việt, trong đó, “điều” chỉ sự cân
nhắc, thêm, bớt làm cho phù hợp; “chỉnh” là sửa đổi, uốn nắn, làm cho ngay
ngắn1, Từ điển Tiếng Việt giải thích, điều chỉnh là “sửa đổi, sắp xếp lại ít
nhiều cho đúng hơn, cân đối hơn”2.
Trong sự phát triển tự nhiên của đời sống xã hội, bên cạnh những mối
quan hệ cần thiết, có ích cho xã hội thì cũng luôn tồn tại cả những mối quan
hệ không có ích, thậm chí có hại cho trật tự chung. Để duy trì ổn định, trật tự
xã hội đòi hỏi các mối quan hệ trong xã hội phải được điều chỉnh, nhằm
khuyến khích, tạo điều kiện cho những quan hệ xã hội có lợi cho đời sống
cộng đồng được tồn tại và phát triển, ngăn chặn và đi tới loại bỏ những mối
quan hệ mà cộng đồng không mong muốn. Điều chỉnh quan hệ xã hội là việc
sử dụng các công cụ để tác động lên các quan hệ xã hội, làm cho chúng trở
nên thay đổi và phát triển theo những mục đích, định hướng nhất định, nhằm
duy trì và bảo vệ trật tự xã hội.
Điều chỉnh quan hệ xã hội thực chất là điều chỉnh hành vi của các chủ
thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm thay đổi hành vi của họ. Trong cuộc
sống, mọi người đều không thể tồn tại một cách biệt lập mà phải tham gia
vào các mối quan hệ với người khác, tạo nên hệ thống các mối quan hệ xã
hội vô cùng phức tạp, đan xen chằng chịt với nhau. Khi tham gia vào các mối
quan hệ xã hội thì mỗi hành vi của người này đều có thể ảnh hưởng đến lợi
ích của người khác cũng như của cả cộng đồng. Trong điều kiện đó, để đảm
bảo lợi ích của mỗi thành viên cũng như sự ổn định, trật tự của xã hội, đòi
hỏi xử sự của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội phải dựa trên những
chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất định. Nói cách khác, chỉ
khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội thì hành vi của các chủ thể mới có
thể bị đặt trước nhu cầu cần phải được điều chỉnh. Khi cá nhân sống trong
điều kiện riêng rẽ, không tham gia vào mối quan hệ với người khác thì hành
vi của họ cũng không có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích của ai. Trong
trường hợp này, không xuất hiện nhu cầu điều chỉnh hành vi của họ.
Công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội là các loại qui phạm xã
hội. Chúng được coi là khuôn mẫu, mô hình, chuẩn mực cho hành vi ứng xử
của các chủ thể khi họ tham gia vào những mối quan hệ xã hội nhất định.
1
Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb Thanh niên, H. 2000, tr.161.
2
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà nẵng, 1997, tr. 310.
1
Nói cách khác, các mối quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng cách xác định
cách thức xử sự cho các chủ thể quan hệ xã hội đó, qui định quyền, nghĩa vụ
cho họ, qui định cho họ những việc được làm, nên làm, cần phải làm hay
không được làm…
2. Hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng và phức tạp, bởi vậy, để
điều chỉnh chúng một cách có hiệu quả, cần phải có nhiều công cụ khác
nhau, bao gồm pháp luật (thể chế quan phương), đạo đức, phong tục tập
quán, tín điều tôn giáo, lệ làng, hương ước, luật tục, qui định của các tổ chức
xã hội…(thể chế phi quan phương). Các công cụ này vừa có sự độc lập, vừa
có sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, hợp thành hệ thống công cụ điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội.
Ngày nay, nhìn chung các nhà khoa học đều tiếp cận khái niệm pháp
luật theo nhiều cấp độ. Theo nghĩa hẹp, pháp luật là hệ thống qui tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung cùng “các nguyên tắc, định hướng, mục đích pháp
luật”1, do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo nghĩa
rộng, pháp luật được xem xét cả từ“đầu vào, đầu ra, cả pháp luật ở trạng
thái tĩnh và trạng thái động”2, theo đó, pháp luật tồn tại và phát triển trên cả
ba lĩnh vực: “hệ thống qui phạm pháp luật, tư tưởng pháp luật, ý thức pháp
luật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật (trong các hình thức thực hiện
pháp luật, các quan hệ pháp luật)”3. Theo cách tiếp cận này, pháp luật được
hiểu rất rộng, đó không chỉ là hệ thống pháp luật thực định, nó còn được
nhận thức cả trên bình diện ý thức pháp luật, cả trên bình diện thực tiễn thực
hiện pháp luật.
Đạo đức là một khái niệm hết sức phức tạp, khái niệm này vừa hết
sức phổ biến trong dân gian, vừa đậm đặc chất học thuật, bởi vậy nó được
hiểu theo nhiều cách khác nhau trong những thời gian, không gian, đối tượng
khác nhau. Trong đời sống hàng ngày, đạo đức4 thường được đồng nhất với ý
thức đạo đức cá nhân, đó là đức hạnh, phẩm hạnh của con người, những nét
đẹp, nết tốt, những “phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo
những tiêu chuẩn đạo đức xã hội mà có”5. Trong khoa học, trước hết, đạo
đức được hiểu là tổng thể những quan niệm, quan điểm về chân, thiện, mỹ,
1
Lê Minh Tâm, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn ,
Nxb Công an nhân dân, H. 2003, tr.11.
2
Hoàng Thị Kim Quế, Quan niệm về pháp luật, một vài suy nghĩ, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 6/2006,
tr.11.
3
Hoàng Thị Kim Quế, sđd, tr.11.
4
Nhiều khi còn nói tắt là đức để phân biệt với tài là năng lực, trình độ, tài năng.
5
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà nẵng, 1997, tr. 280.
2
nghĩa vụ, danh dự… (trong đó cốt lõi là điều thiện) cùng những qui tắc xử sự
được hình thành trên cơ sở những quan niệm, quan điểm đó nhằm điều chỉnh
hành vi, ứng xử của con người, chúng được thực hiện bởi lương tâm, tình
cảm cá nhân và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức không chỉ là những
qui tắc đối nhân, xử thế, nó còn là các chuẩn mực để mỗi người tự tu thân,
dưỡng tâm, rèn luyện tính cách theo những định hướng giá trị nhất định1.
Chính vì vậy, đạo đức là công cụ điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các
quan hệ xã hội. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức mang một dung lượng
rất rộng, nó được nhận thức cả từ góc độ ý thức (ý thức đạo đức xã hội và ý
thức đạo đức cá nhân), cả từ góc độ thể chế (nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực
đạo đức), cả từ góc độ thực tiễn (hành vi đạo đức).
Phong tục, tập quán là loại qui phạm xã hội rất gần gũi với con người.
“Phong tục” là một thuật ngữ HánViệt, trong đó “phong” nghĩa gốc là gió,
“tục” là quen dùng, quen thuộc, “phong tục” là thói quen đã ăn sâu vào đời
sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”2. Tác giả Thiều Chửu
giải thích: bề trên giáo hóa kẻ dưới gọi là phong, kẻ dưới bắt chước bề trên
gọi là tục; ý nói cái gì người này nêu ra, người kia nối theo một cách tự
nhiên, dần dần thành quen như vật theo gió, vẫn cảm theo đó mà không tự
biết3. Vì gió lan khắp mọi nơi nên phong tục là thói quen phổ biến4. “Tập
quán” cũng là một thuật ngữ HánViệt, trong đó “tập” nghĩa là quen, “quán”
cũng có nghĩa là quen, “tập quán” là tất cả những gì đã quen thuộc, khó đổi đi
được5. Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản
xuất và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo 6. Như
vậy, mặc dù được biểu đạt bằng hai khái niệm khác nhau nhưng thực chất
phong tục hay tập quán đều chỉ chung thói quen xử sự, chính vì vậy, trong
đời sống hàng ngày thường không có sự phân biệt phong tục với tập quán,
chúng thường được gọi chung là phong tục tập quán7. Phong tục, tập quán
1
Vũ Trọng Dung (chủ biên), Giáo trình Đạo đức học Mác Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2005, tr. 9.
2
Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 1997, tr. 869.
3
Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Nxb Tp HCM, năm 2000, trang 25, 760.
4
Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb Thanh niên, H. 2000, tr. 254.
5
Thiều Chửu, sđd, trang 211, 503.
6
Hoàng Phê (chủ biên), sđd, tr. 870.
7
Tuy nhiên, cũng có một số tác giả có sự phân biệt hai khái niệm này. Theo đó, phong tục và tập quán mặc
dù có những điểm chung, song tính bắt buộc của tập quán không cao, thường chỉ là những việc rất đáng làm
theo nếu không chủ yếu bị dư luận phê phán, dị nghị hoặc tẩy chay, ngược lại “phong tục có tính bắt buộc
nghiêm ngặt, những người vi phạm có thể phải chịu những hình phạt nghiêm khắc” ( Vai trò của pháp luật
trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2008, tr. 182, 183). Tác giả Bùi Xuân Đính cho rằng, tập
quán dễ thay đổi khi điều kiện sống thay đổi, ngược lại phong tục mang tính bảo thủ cao, ít thay đổi hoặc
chậm thay đổi khi điều kiện sống đã thay đổi (Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc sử dụng phong
tục tập quán và hương ước của người Việt trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam ,
chuyên đề nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp Bộ Tư Pháp: “Cơ sở dữ liệu của việc soạn thảo luật ở
3
mang tính cộng đồng, dân tộc, địa phương, vùng miền rất rõ nét. Ở Việt
Nam, các phong tục, tập quán được biểu hiện cụ thể ở từng làng, trở thành
lệ làng1. Bên cạnh khái niệm phong tục, tập quán, trong ngôn ngữ hàng ngày
còn có các thuật ngữ tập tục, tục lệ, lệ tục…, chúng đều chỉ thói quen của
con người, nhưng không phải là riêng của một cá nhân hay gia đình nào, mà là
của một dân tộc hoặc một địa phương, một cộng đồng xã hội.
Một công cụ quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính
tự quản tại các cộng đồng làng xã là hương ước. Hương ước tồn tại ở nhiều
nước trên thế giới như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, một số
nước Đông nam Á…2. “Hương ước” là một thuật ngữ Hán Việt, trong đó
“hương” là làng, quê; “ước” là giao kèo, thỏa thuận, qui ước, “hương ước” là
những những giao kèo, thỏa thuận, qui ước của cộng đồng thôn, làng, nói
cách khác, hương ước là tổng thể các qui tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong phạm vi một thôn, làng. Hương ước có nguồn gốc từ phong tục
tập quán, được hình thành trên cơ sở phong tục tập quán của mỗi làng, là
hình thức thành văn của phong tuc tập quán nhưng không hoàn toàn đồng
nhất với phong tục tập quán. Bên cạnh những qui định được chép lại từ
phong tục tập quán, trong bản hương ước của mỗi làng còn có những qui
định do dân làng đặt ra trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thôn, làng.
Để nắm lấy các thôn, làng, can thiệp vào công việc của thôn, làng, hạn chế
vai trò tự quản, tự trị của nó, nhà nước qui định thủ tục phê chuẩn hương
ước và đưa vào đó những qui định liên quan đến nhà nước . Khác với phong
tục tập quán, hương ước có qui định các biện pháp xử phạt người vi phạm,
tuy nhiên nhà nước chỉ cho phép thôn, làng xử phạt một số vi phạm nhỏ
thuộc nếp sống cộng đồng, vượt quá giới hạn đó, thôn, làng phải trình quan
trên để nhà nước giải quyết. Như vậy, có thể coi hương ước như một bộ
luật của thôn, làng3, đồng thời cũng được xem như “cánh tay nối dài” của
pháp luật, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các thôn, làng, nơi mà chính
quyền trung ương chưa vươn tới được. Hương ước như là một sự dung hoà
giữa pháp luật của nhà nước với phong tục tập quán của thôn, làng. Ở Việt
Việt Nam”, H. 2006, tr. Tác giả Bùi Xuân Phái cho rằng, phong tục là một loại chuẩn mực được hình thành
một cách có ý thức được thế hệ trước truyền dạy lại một cách có ý thức, đúng cách, được đảm bảo thực
hiện một cách khá nghiêm ngặt, còn tập quán thì đơn thuần chỉ là những thói quen, lan truyền tự phát trong
cộng đồng (Những nguyên tắc của việc áp dụng tập quán vào giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình,
tham luận trong hội thảo do Bộ Tư pháp tổ chức tháng 8/2014 góp ý cho dự thảo Nghị định hướng dẫn thi
hành Luật hôn nhân và gia đình, tr. 2).
1
Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 2.
2
Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 56.
3
Vũ Duy Mền, Hoàng Minh Lợi, Hương ước làng xã Bắc bộ Việt Nam với Luật làng Kan tô Nhật Bản (thế
kỷ XVIIXIX), Viện Sử học, H. 2001, tr. 253.
4
Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, hương ước xuất hiện muộn nhất vào cuối
thế kỷ XV1. Dưới chế độ phong kiến, các bản hương ước đều qui định cách
thức ứng xử trong các mối quan hệ thân tộc, xóm giềng, tuổi tác, ngôi thứ,
cách thức tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng, hiếu, hỷ, khao vọng, cách thức tổ
chức cũng như vai trò của các thiết chế phường, hội, giáp... như việc bầu cử
các chức dịch trong thôn, làng, việc thu thuế, bắt lính... Hiện nay, nhà nước
khuyến khích các cộng đồng dân cư xây dựng hương ước mới trên cơ sở kế
thừa những mặt tích cực của hương ước cũ cũng như đảm bảo phù hợp với
quy định của pháp luật hiện hành2.
Luật tục là một loại công cụ quan trọng để điều chỉnh quan hệ xã hội.
Hiện nay, nhiều xã hội, nhiều tộc người trên thế giới vẫn tồn tại và thực
hành luật tục dưới những hình thức rất đa dạng3. Theo nghĩa rộng, “luật tục”
là tất cả những qui tắc xử sự mang tính chất dân gian, đó là luật của dân
gian4. Theo cách hiểu này, “luật” là qui tắc, “tục” chỉ những qui tắc xử sự
mang tính dân gian, nguyên thủy, bản địa, không thành văn, hoàn toàn mang
tính chất khu biệt với luật nhà nước, đối lập với những gì mang tính chất
hàn lâm, sách vở5. Như vậy, luật tục bao gồm cả phong tục tập quán, lệ
làng… Theo nghĩa hẹp6, “luật tục” là hình thức sơ khai, tiền thân của luật
pháp và chỉ có ở các tộc người thiểu số trong xã hội tiền giai cấp 7. Theo cách
hiểu này, luật tục là những phong tục tập quán có dáng dấp của pháp luật, là
bước quá độ, là sự chuyển tiếp giữa phong tục tập quán và pháp luật, là hình
thức phát triển cao của phong tục tập quán và là hình thức sơ khai của pháp
luật. Chính vì thế, luật tục còn được gọi là tập quán pháp 8. Hiện nay, ở một
số quốc gia trên thế giới, bên cạnh hệ thống pháp luật chung của cả nước,
trong các cộng đồng dân tộc thiểu số chậm phát triển, luật tục vẫn tồn tại.
Luật tục có nội dung tương đối tổng hợp, điều chỉnh một cách rộng rãi các
mặt của đời sống cộng đồng, từ các quan hệ về hôn nhân, gia đình, đến các
1
Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 17.
2
Chỉ thị số 24/1998 ngày 19.6.1998 của Thủ tướng chính phủ; thông tư liên tịch số 03/2000 ngày 31.3.2000
của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa thông tin và Ban thường trực ủy ban trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3
Phan Đăng Nhật, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vận dụng luật tục trong thực tế ở Việt Nam,
tr.28, chuyên đề nghiên cứu trong đề tài cấp bộ của Bộ tư pháp: “Những vẫn đề lý luận và thực tiễn về
nguồn của pháp luật Việt Nam”, H. 2007.
4
Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2008, tr. 183.
5
Phan Đăng Nhật, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vận dụng luật tục trong thực tế ở Việt Nam,
chuyên đề nghiên cứu trong đề tài cấp Bộ Tư pháp: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn của pháp
luật Việt Nam, H. 2006, tr. 1.
6
Trong phạm vi chương này của giáo trình, khái niệm luật tục được đề cập theo nghĩa hẹp.
7
Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3.
8
Cần phân biệt với tập quán pháp là một hình thức, một loại nguồn của pháp luật (xem chương 12 giáo
trình này).
5
quan hệ về sở hữu đất đai, về mua bán, trao đổi tài sản , quản lý hành
chính...1. Luật tục qui định khá da dạng các biện pháp xử lý người vi phạm,
bao gồm các biện pháp để tạ lỗi với thần linh, tạ lỗi đối với dân làng, đền bù
cho người bị hại…, thậm chí kể cả biện pháp tử hình2. Luật tục còn bao
gồm cả các qui định về trình tự, thủ tục xử lý người vi phạm, theo đó mỗi
khi xét xử xong, bao giờ cũng kèm một nghi lễ nhằm hòa giải, xóa bỏ tranh
chấp, thù oán giữa các bên với sự chứng giám của thần linh và dân làng.
Tín điều tôn giáo là một khái niệm chung dùng để chỉ giáo lý, giáo luật
của các tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư. Giáo lý là lý luận,
học thuyết của tôn giáo, đó là những quan niệm, quan điểm về thần linh, về
đức tin…, được thể hiện trong hệ thống kinh sách của mỗi tôn giáo. Giáo
luật (luật giáo hội) là hệ thống qui tắc xử sự của một tổ chức tôn giáo để
điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng tôn giáo đó. Trong các tôn giáo
trên thế giới, Đạo Phật, Đạo Thiên chúa, Đạo Hồi là những tôn giáo lớn, có
tổ chức chặt chẽ, có hệ thống giáo lý, giáo luật đầy đủ nhất. Hệ thống giáo
lý của Đạo Thiên chúa được thể hiện trong kinh Cựu ước, kinh Tân ước…
Hệ thống giáo luật của tôn giáo này được thể hiện tập trung trong Bộ Giáo
Luật (The Code of Canon Law), được sửa đổi toàn diện nhất gần đây vào
năm 1983 với 1752 điều luật cụ thể. Hệ thống tín điều của đạo Hồi gọi là
Luật Hồi giáo (Shariah) được chứa đựng ở bốn nguồn là kinh Coran, Sunna,
Idjmá, Qias, trong đó là kinh Coran và Sunna là hai nguồn chính. Luật Hồi
giáo cũng như luật giáo hội của nhà thờ Thiên chúa giáo được coi như “pháp
luật” của những người theo đạo. Tín ngưỡng dân gian là những quan niệm,
quan điểm về thần linh, về đức tin của một cộng đồng nhất định, được lưu
truyền tự nhiên trong dân gian thông qua huyền thoại, truyền thuyết, thần
tích, được thể hiện dưới dạng tập quán của cộng đồng. Điểm khác biệt giữa
tín ngưỡng với giáo lý, giáo luật là ở chỗ, tín ngưỡng thường mang tính dân
gian, ngược lại giáo lý, giáo luật thường mang tính hệ thống, do các vị giáo
chủ hoặc tổ chức giáo hội xây dựng nên, được được ghi chép thành kinh
sách, được truyền giảng ở các tu viện, thánh đường... Trong xã hội hiện đại,
nhìn chung tín ngưỡng dân gian vẫn tiếp tục tồn tại, tham gia mạnh mẽ trong
việc điều chỉnh hành vi con người.
Kỷ luật của một tổ chức là tổng thể nói chung những điều qui định có
tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức,
1
Lê Hồng Sơn, Khái niệm, vị trí, vai trò và một số nội dung chính của luật tục từ góc độ nghiên cứu pháp
luật, tham luận tại hội thảo Vai trò của luật tục trong mối quan hệ với pháp luật dân sự, Hà Nội tháng 2
năm 2001.
2
Bùi Xuân Đính, sđd, tr. 3.
6
để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức đó1. Kỷ luật của một tổ chức thường
được thể hiện tập trung trong hiến chương, điều lệ, nội qui… của tổ chức
đó, trong đó bao gồm các qui định về mục tiêu, tôn chỉ; cơ cấu tổ chức, cách
thức thiết lập, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của nó; tiêu chuẩn đối
với thành viên, trình tự thủ tục kết nạp thành viên, quyền và nghĩa vụ của
thành viên; vấn đề khen thưởng, kỷ luật đối với thành viên…
Giữa pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo… vừa
có những điểm tương đồng, vừa có những điểm khác biệt. Với tính chất là
những công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật, đạo đức, phong
tục tập quán, tín điều tôn giáo... đều là những khuôn mẫu, mực thước, mô
hình, chuẩn mực cho hành vi con người . Bên cạnh đó, giữa pháp luật và đạo
đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... có sự khác biệt ở nhiều khía
cạnh, rõ nét nhất là con đường hình thành, hình thức thể hiện, biện pháp bảo
đảm thực hiện...
3. Vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan
hệ xã hội
Trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mỗi công cụ có vị
trí, vai trò khác nhau, tùy thuộc điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
địa lý, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng… của quốc gia. Trong lịch sử, ở một số
quốc gia trên thế giới, có thời kỳ, các chuẩn mực đạo đức xã hội hay các qui
định trong luật lệ nhà thờ… nổi lên giữ vị trí hàng đầu trong toàn bộ hệ
thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. Ở Trung Quốc trong suốt hàng
nghìn năm, đạo đức được coi trọng hơn so với pháp luật. Các triều đại phong
kiến Trung quốc, từ nhà Hán đến nhà Thanh, nhân trị luôn thắng pháp trị, đạo
đức luôn là công cụ chủ đạo để xác lập và giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội 2.
Chủ trương Đức trị trở thành đường lối chính trị chủ yếu của các nhà nước
phong kiến Trung Quốc trong hơn hai thiên niên kỷ 3. Ở các nước Tây Âu thời
kỳ phong kiến, lợi dụng tình hình chưa ổn định của các quốc gia “man tộc”
vừa mới được thành lập, nhà thờ Thiên chúa giáo đã giành lấy chức năng
chính trị và hành chính, thao túng nhà nước, lấn át nhà nước 4. Trong thời kỳ
này, thần học là nội dung học tập chủ yếu trong các trường học, giáo lý, giáo
luật của nhà thờ có vai trò chi phối hết sức mạnh mẽ hành vi của con người,
từ các quan hệ trong gia đình đến các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa…
1
Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, sđd, tr. 500.
2
Đỗ Đức Minh, Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại, giá trị tham khảo trong quản lý xã hội ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị Hành chính, H. 2013, tr. 142.
3
Vũ Thị Nga, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2000, tr.21.
4
Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La, Lịch sử thế giới trung đại, Nxb giáo dục,
H. 2003, tr. 45.