You are on page 1of 20

Đ ề c ư ơ n g g iá o t r ìn h

Đ ạ o đ ứ c n g h ề n g h iệ p n h à b á o

*****

Soạn từ giáo trình Đạo đức nghề nghiệp nhà báo của Khoa
Báo chí, năm 2008. GVTG Bùi Huy Lan, GVTG Phan Lê
Lưu và GV Dương Thị Thanh Thủy sử dụng chung

Chương I: ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI


1
I. KHÁI NIỆM

1. Xã hội

Xã hội theo nghĩa thông thường là cộng đồng người sinh sống và phát triển. Theo
triết học duy vật lịch sử thì xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất,
lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng.

Khác với giới tự nhiên vô thức, mù quáng, sống theo bản năng, xã hội loài người
hoạt động có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Như
vậy xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên, là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
những con người.

Mác và Angghen đã chỉ rõ lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích sự chuyển
biến bộ não của loài vật thành bộ não con người, tâm lý động vật thành ý thức. Vì vậy mà
con người mới có ý thức và mục đích sống phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên
và xã hội để tái sản xuất chính mình và tự nhiên.

Trong xã hội, sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người, bao gồm sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại xã hội,
từ đó hình thành và phát triển ý thức xã hội.

Triết học duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý
thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã
hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những hình thái ý thức xã hội như chính trị,
tư tưởng, triết học, pháp luật, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật v.v…cũng sẽ biến đổi theo.

2. Đạo đức:

Theo văn hóa Phương Đông, các học thuyết của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều
lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con người làm
điều thiện, tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề ra những quy tắc, chuẩn mực để định
hướng cách đánh giá ứng xử của con người trong quan hệ xã hội và tu thân, dưỡng tâm,
rèn khí tiết.

Khái niệm đạo đức theo tiếng Anh là moral, chỉ các quan hệ, hành vi, phẩm giá về
sự quan tâm của người này đối với người khác theo các chuẩn mực về cái tốt trong cộng
đồng xã hội.

Từ những quan niệm trên đây, có thể định nghĩa:

* Những vấn đề chung về đạo đức


+ Đạo đức theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên
tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều
chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã hội.
Với định nghĩa trên đây, đạo đức gồm các thành tố:
- Một hình thái ý thức xã hội (phản ánh tồn tại xã hội).
- Một chế định xã hội (chuẩn mực, nguyên tắc ứng xử cho cá nhân và cộng
đồng).
2
- Có giá trị điều chỉnh các mối quan hệ xã hội (bên cạnh pháp luật và các quy
phạm xã hội khác).
- Được dư luận xã hội thừa nhận.
+ Đạo đức là mối quan hệ xã hội có quy tắc, chuẩn mực, có giá trị, được thực hiện
bằng niềm tin cá nhân, truyền thống và chịu tác động của dư luận xã hội. Việc đánh
giá đạo đức không chỉ dựa vào hành vi ứng xử của mỗi người, mà quan trọng là phải
xem xét động cơ để thực hiện hành vi đó.
+ Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính tự giác, chủ yếu xuất phát
từ nhu cầu bên trong, đồng thời chịu tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những
người xung quanh.
+ Đạo đức xã hội bao gồm: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
 Ý thức đạo đức: là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những qui tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi, ứng xử của cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân.
 Hành vi đạo đức: là sự biểu hiện trong ứng xử thực tiễn của ý thức đạo đức
mà con người đã nhận thức được và lựa chọn. Đó là sự ứng xử trong mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, với tự nhiên, đồ vật, với xã hội và với
chính mình
 Quan hệ đạo đức: là hệ thống những mối quan hệ giữa người với người
trong xã hội; xét về mặt đạo đức, quan hệ đạo đức thể hiện ở bổn phận, lương
tâm, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi… giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân
với tập thể, cộng đồng và toàn xã hội.
Nhiều chuẩn mực của giá trị đạo đức như nhân đạo, dũng cảm, vị tha… có ý nghĩa toàn
nhân loại và tồn tại phổ biến trong các xã hội khác nhau.
+ Do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nên trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang
tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống
trị chiếm vị trí chi phối đạo đức xã hội.
+ Do hành vi đạo đức bắt nguồn từ ý thức đạo đức nên đạo đức thường tỷ lệ thuận với
trình độ học vấn, nhận thức của mỗi cá nhân. Nhưng không phải cứ có trình độ học vấn
cao là trình độ văn hóa, đạo đức cao và ngược lại, bởi có sự khác biệt và có khoảng cách
giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức, giữa nhận thức và hành động của mỗi người.

II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA ĐẠO ĐỨC

1. Nguồn gốc của đạo đức:

Trước khi học thuyết Mac ra đời, các nhà triết học và đạo đức học có nhiều cách
tiếp cận và giải thích khác nhau về nguồn gốc, bản chất của đạo đức. Những nhà duy tâm
chủ quan cho rằng đạo đức là những năng lực bẩm sinh của con người phù hợp với
“mệnh lệnh tuyệt đối” hướng tới cộng đồng, sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình
và người khác. Ngược lại các nhà triết học duy tâm khách quan và thần học lại cho rằng
đạo đức của con người là do các đấng siêu nhiên đem lại, hoặc là sự biểu hiện của ý niệm
tuyệt đối. Các nhà duy vật trước Mac thì giải thích nguồn gốc bản chất của đạo đức từ
mối quan hệ giữa người với người, nhưng lại cho rằng con người là một thực thể bất biến
phi lịch sử, phi giai cấp nên đạo đức cũng chỉ như là một thứ năng lực bẩm sinh không
thay đổi. Những người theo học thuyết Đác Uyn thì quan niệm đạo đức như là sự mở
rộng những bản năng bầy đàn của động vật; sự thực hiện chức năng thích nghi với môi
trường, là sự tiến hóa của giới hữu sinh, mà đỉnh cao là con người.

3
Quan điểm của chủ nghĩa Mac cho rằng đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối
hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong quá trình con người tương tác với
tự nhiên và xã hội, trong phân phối sản phẩm làm ra. Cùng với sự phát triển của sản xuất,
của các quan hệ xã hội, ý thức và hành vi đạo đức cũng theo đó mà hình thành và phát
triển. Như vậy đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của con
người; là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội, tổng hợp các yếu tố khách quan trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người.

2. Bản chất của đạo đức:

Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức trước hết mang bản chất xã
hội. Bản chất xã hội của đạo đức thể hiện ở nội dung do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã
hội quyết định, đồng thời phụ thuộc vào trình độ phát triển và hoàn thiện của kinh tế - xã
hội. Mac và Angghen đã luận chứng bản chất xã hội của đạo đức bằng cách chỉ ra tính
thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức.

Các nguyên tắc, chuẩn mực; các quan điểm đạo đức là sản phẩm của các chế độ
kinh tế. Vì vậy, tương ứng với mỗi chế độ kinh tế, mỗi phương thức sản xuất, mỗi hình
thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Đó là tính thời đại của đạo đức.

Tính dân tộc cũng là một trong những biểu hiện bản chất xã hội của đạo đức. Ngoài
những chuẩn mực đạo đức chung, mỗi dân tộc do điều kiện sinh sống, sự khác biệt về
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng có các quan niệm,
chuẩn mực, cách ứng xử khác nhau tạo thành bản sắc dân tộc.

Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, đạo đức cũng phản ánh và khẳng
định lợi ích của mỗi giai cấp. Mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức như một công cụ để bảo
vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức chi phối toàn xã hội bao giờ cũng là hệ
thống đạo đức của giai cấp thống trị.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội gắn với
các phương thức sản xuất xã hội. Khi phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì đạo đức
cũng thay đổi theo. Tuy nhiên đạo đức có tính độc lập tương đối, vừa phản ánh tồn tại
xã hội, vừa tác động trở lại thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển và ảnh hưởng sâu rộng
đến các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, khoa học, nghệ thuật, pháp luật….

Điều cần chú ý là, tình thời đại của đạo đức luôn có sự kế thừa đối với cơ sở sinh ra
nó và tuy đạo đức mang tính giai cấp nhưng không vì vậy mà phủ nhận tính nhân loại
chung của nó (chân, thiện, mỹ) (1). Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp là
biểu hiện những quy tắc đơn giản, thông thường, cần thiết để đảm bảo cuộc sống trật tự
hàng ngày của con người. Biểu hiện cao hơn là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong
từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.

3. Cấu trúc của đạo đức:

Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội độc lập, có cấu trúc riêng. Tùy
theo cách tiếp cận mà xem xét cấu trúc của đạo đức dưới những góc độ khác nhau:

3.1. Nếu xem xét từ góc độ mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì cấu trúc của
đạo đức gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Ý thức đạo đức bao gồm nhận thức,
4
tình cảm và lý trí tạo nên mục đích và động cơ của hành vi đạo đức. Thực tiễn đạo đức là
toàn bộ hoạt động của con người được điều chỉnh bởi ý thức đạo đức, là sự thể hiện ý
thức thành hành động phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội.

3.2. Nếu xem xét từ góc độ quan hệ thì đạo đức gồm một hệ thống quan hệ đặc
thù giữa người và người, giữa người với cộng đồng xã hội và tự nhiên, được đặc trưng
bởi tính tự giác, tự nguyện và tính động cơ. Mỗi người sinh ra đã bắt gặp hệ thống các
quan hệ đạo đức xã hội tồn tại bên ngoài ý muốn của mình và trong quá trình sống, tất
yếu phải tham gia vào hệ thống các quan hệ đạo đức đó.

3.3. Nếu xét theo góc độ quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì đạo đức được
cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội hình thành trên cơ sở
cộng đồng về lợi ích, trở thành một hệ thống giá trị chung được mọi thành viên tin tưởng
và noi theo. Đạo đức cá nhân là biểu hiện của đạo đức xã hội trong từng người cụ thể với
các cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào việc người đó quán triệt đến mức nào những yêu
cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội cả trong ý thức lẫn thực tiễn đạo đức. Đạo đức xã
hội và đạo đức cá nhân có mối quan hệ hữu cơ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau.

4. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội


Đạo đức có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội
- Đạo đức với chuẩn mực giá trị đúng đắn là một bộ phận quan trọng của nền tảng tinh
thần của xã hội
- Đạo đức góp phần ổn định chính trị xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Trong xã hội sự khủng hoảng của đạo đức, sự lệch chuẩn, loạn chuẩn… là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội…
Vai trò của đạo đức thể hiện rõ rệt trong các chức năng của đạo đức
5. Chức năng của đạo đức trong đời sống xã hội
a. Chức năng giáo dục:
- Những chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận tác động vào ý thức
và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân tự giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện
nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội.
- Khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận xét cũng tự điều
chỉnh mình, tức tự giáo dục và qua đó làm cho chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội
ngày càng hoàn chỉnh.

Đó chính là sự giáo dục lẫn nhau giữa các cá nhân và cá nhân với cộng đồng.
b. Chức năng điều chỉnh:
- Các nguyên tắc, chuẩn mực và định hướng giá trị đạo đức, cùng với sự kiểm tra, đánh
giá của toàn xã hội có tác dụng điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, để họ tự điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu chung của cộng đồng.
- Những chuẩn mực đạo đức được cộng đồng và toàn xã hội thừa nhận cùng với pháp
luật và những qui định khác, là công cụ quan trọng để điều chỉnh quan hệ đạo đức của
cộng đồng.
- Trong quan hệ giữa người với người, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có
tác động đến quan niệm và hành vi của người khác và ngược lại.

c. Chức năng phản ánh


5
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nên sự tồn tại những mâu thuẫn xã hội cũng
thể hiện trong đạo đức xã hội
- Hành vi đạo đức của mỗi cá nhân trong xã hội ngoài thể hiện ý thức đạo đức của họ,
còn phản ánh quan hệ lợi ích giữa họ với các cá nhân khác và toàn xã hội.Sự phê phán
của xã hội về những hành vi đạo đức của mỗi cá nhân thể hiện mối quan hệ xã hội hiện
thực. Ngoài trình độ nhận thức, còn do những quan hệ lợi ích của họ chi phối.

III. TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TỐT ĐẸP CỦA DÂN
TỘC TA

- Trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước đã hình thành nên các
chuẩn mực, các giá trị đạo đức tốt đẹp trong quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội, phù
hợp với yêu cầu tồn tại, phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ông cha ta luôn luôn
coi trọng đạo đức, giữ gìn và phát huy các giá trị, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp. Đó là
truyền thống yêu quê hương, đất nước, gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng, đoàn kết,
thủy chung, nhân ái, quí trọng nghĩa tình; cần cù yêu lao động, dũng cảm, kiên cường,
hiếu học, sáng tạo…
- Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội mới,
Đảng ta và Bác Hồ kính yêu luôn luôn chăm lo giữ gìn và phát huy truyền thống đạo đức
tốt đẹp của dân tộc, xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đó là lòng yêu nước,
thương nòi, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, xả thân vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì CNXH, sống có tình, có nghĩa, có đạo đức, có lý tưởng, vì nước vì dân; có ý thức tự
lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, nhân ái… Đạo đức cách mạng đã trở thành một bộ phận
quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để Đảng và
nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và
xây dựng xã hội mới.
- Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, truyền thống đạo đức của dân tộc đã được phát triển
và bổ sung thêm những giá trị mới. Đó là những phẩm chất đạo đức mới, tiến bộ được xã
hội thừa nhận như: sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
quyết tâm vượt khó, quyết chí làm giàu, đoàn kết giúp nhau cùng phát triển, xây dựng đời
sống văn hóa…Truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những giá trị đạo đức mới
hình thành trong giai đoạn mới là xu thế chủ đạo, quyết định chiều hướng phát triển của
đạo đức xã hội trong giai đoạn hiện nay.

IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT:

Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ biện chứng với nhau và đều là những quy phạm
xã hội có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Giữa hai hình thái ý thức xã hội này có sự thống nhất. Bản thân pháp luật, một mặt
phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng mặt khác nó vẫn kế
thừa các giá trị truyền thống. Còn đạo đức cũng kế thừa các giá trị truyền thống và phản
ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nó cũng phải đảm bảo phù
hợp với những yêu cầu của pháp luật và khuyến khích thực hiện tốt pháp luật.

Trong thực tế, thường có sự chuyển hóa, thống nhất hai loại quy phạm này để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Trong một chừng mực nào đó, cần thiết nhà nước phải thể chế
hóa những quy phạm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thành những quy phạm pháp luật.

6
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật không xóa nhòa ranh giới giữa chúng. Bởi
vì giữa hai hình thái ý thức xã hội này có những điểm khác biệt:

Đạo đức là hình thái ý thức xã hội thường được thể hiện bằng niềm tin, lý tưởng,
các nguyên tắc chung có ý nghĩa định hướng tinh thần để mỗi người tự điều chỉnh hành
vi của mình trong quan hệ với xã hội, dưới sự kiểm soát của lương tâm và dư luận xã hội.
Trong khi đó, pháp luật lại chú trọng đến việc quy định các hành vi một cách cụ thể, với
những tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc mọi người tuân theo và được đảm bảo thực hiện bằng
nhà nước.

Luật pháp chỉ có thể điều chỉnh trên một số lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội
và sẽ mất đi khi không còn nhà nước. Trong khi đó, đạo đức có vai trò điều chỉnh trong
tất cả các quan hệ xã hội và sẽ tồn tại mãi mãi với loài người. Mặt khác, luật pháp thường
chỉ tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội khi đã đến độ gây nên những ảnh hưởng xấu
và cơ bản chỉ áp dụng đối với những người đã đến tuổi công dân. Còn đạo đức, do tính
mềm dẻo và linh động, nó tham gia điều chỉnh các hiện tượng lệch chuẩn xã hội ngay từ
khi mới xuất hiện, với mọi loại đối tượng. Cho nên có thể nói, pháp luật là đạo đức tối
thiểu, còn đạo đức là pháp luật tối đa.

V. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ XÂY
DỰNG CON NGƯỜI:

Văn hóa theo nghĩa chung nhất là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo,
lưu giữ, tôn vinh và phát triển. Như vậy giữa văn hóa và con người có mối quan hệ
thống nhất biện chứng.

Con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của văn hóa không ngừng làm
tăng lên chất lượng và trình độ người trong phát triển. Để sáng tạo các giá trị văn hóa,
trước hết con người phải là chủ thể của đạo đức, nhân cách, phù hợp với những chuẩn
mực đạo đức và nhân cách của xã hội. Đó là giá trị hàng đầu, lớn nhất trong bảng giá trị
văn hóa.

Nghị quyết hội nghị trung ương Đảng lần thứ V, khóa VIII đã khẳng định văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội. Trong đó, đạo đức lối sống của từng cá nhân và cả xã hội là yếu tố quan
trọng, cốt lõi làm nên diện mạo của văn hóa dân tộc.

Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ biểu hiện ở hệ tư tưởng, khoa
học, kỹ thuật… mà còn bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và thực tiễn ở đạo đức, lối sống. Con
người, có nhân cách sẽ biết cảm thụ và sáng tạo văn hóa để phát triển và hoàn thiện chính
mình, đồng thời vượt qua những lệch chuẩn, biến dạng phản văn hóa. Nội dung cốt lõi
của tiên tiến là lòng yêu nước và tiến bộ; là lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội theo chủ
nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh
phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa
cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc văn hóa dân tộc bao gồm những
giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng
xử, tính giản dị trong lối sống…. Đồng thời bản sắc dân tộc luôn gắn kết, mở rộng tiếp
7
thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại để không ngừng làm phong phú,
nâng cao các giá trị văn hóa dân tộc, phù hợp với thời đại.

Xây dựng được một môi trường văn hóa lành mạnh, từ trong gia đình đến cộng
đồng dân cư và toàn xã hội, thấm đậm những giá trị đạo đức sẽ tạo nền tảng cho người
Việt Nam phấn đấu vươn lên, phát triển toàn diện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội trên đất nước ta.

VI. MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC:

Phạm trù đạo đức là những khái niệm phản ánh những đặc tính căn bản, những quan
hệ phổ biến trong đời sống hiện thực. Toàn bộ những chuẩn mực đạo đức được luận giải
một cách khái quát gọi là phạm trù đạo đức. Ngoài đặc tính chung như các phạm trù khoa
học xã hội khác, phạm trù đạo đức còn có một số đặc điểm riêng như mang tính phổ biến
và khái quát cao, chứa đựng nội dung thông báo và nội dung đánh giá, đồng thời có tính
phân cực rõ ràng. Những giai đoạn lịch sử khác nhau, phạm trù đạo đức cũng mang
những nội dung khác nhau.

1. Lẽ sống: (ý nghĩa của cuộc sống)

Lẽ sống là phạm trù chỉ mặt ý thức của lối sống, có vai trò dẫn dắt, định hướng cho
lối sống ổn định, một trong những vấn đề trọng tâm của đời sống con người, theo ý nghĩa
xã hội và ý nghĩa cá nhân. Có thể xem lẽ sống là quan niệm sống, là ý nghĩa cuộc sống
mà con người tự nhận thức được và tự giác hành động vì một lý tưởng đạo đức cao cả,
tiến bộ; loại bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, hướng con người tới chân, thiện, mỹ.
Vì vậy lẽ sống là nền tảng tinh thần nói chung và đạo đức của con người nói riêng. Nó
chi phối và liên quan mật thiết đến những định hướng cuộc sống hết sức cơ bản của con
người, như lý tưởng, niềm tin, thái độ, quan điểm sống v.v…. Lẽ sống là biểu hiện của sự
tự ý thức cao nhất của con người về cuộc sống của mình, là hội tụ của sự trưởng thành về
nhân cách, phát triển trí tuệ, tri thức và kinh nghiệm.

Người có lẽ sống tốt đẹp sẽ có khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để vươn
lên trong cuộc sống. Ngược lại, sự khủng hoảng về lẽ sống sẽ có thể làm cho con người
đổ vỡ niềm tin, chao đảo tinh thần, chệch hướng trong cuộc sống, rối loạn trong hành
động, dẫn tới những hậu quả khó lường.

Lẽ sống là phạm trù trung tâm của đạo đức, bao trùm, tác động và liên hệ đến các
phạm trù khác của đạo đức. Lẽ sống giúp con người sáng tạo ra những hạnh phúc, giúp
con người giữ gìn phẩm giá, danh dự, sống cao cả, gắn bó với cộng đồng, hoàn thành tốt
nghĩa vụ đạo đức với gia đình và xã hội.

Lẽ sống đem lại cho con người sự lạc quan yêu đời, luôn tích cực, tự giác, kiên trì
khắc phục khó khăn và khao khát vươn tới trong cuộc sống.

Lẽ sống còn là một phạm trù mang tính phổ biến, là nhu cầu tự nhiên tất yếu của
mỗi người. Không có lẽ sống hoặc lẽ sống không đúng, con người sẽ trở thành kẻ ăn
bám, đục khoét, xâm phạm, phá hoại lợi ích của xã hội và của người khác.

Đạo đức học macxit coi lẽ sống là quá trình thống nhất giữa nghĩa vụ và hạnh phúc.
Nghĩa là, con người chỉ thật sự hạnh phúc khi tự giác làm tròn nghĩa vụ với người khác
8
và với xã hội, “mình vị mọi người, mọi người vì mình”. Tuyệt đối hóa một mặt nào đó
giữa nghĩa vụ và hạnh phúc thì lẽ sống của con người sẽ chỉ thiên lệch một chiều; chỉ biết
nhận và hưởng thụ, không bao giờ nghĩ đến cho và cống hiến; hoặc rơi vào trạng thái thụ
động, chỉ biết vâng lời chấp nhận mà không độc lập, đấu tranh, ước mơ, sáng tạo.

Lao động là cơ sở, cội nguồn của lẽ sống, là một trong những điều kiện, hành vi đầu
tiên sáng tạo ra con người và xã hội loài người. Lao động không chỉ tạo ra các giá trị vật
chất bảo đảm cho sự tồn tại của con người mà còn làm nảy sinh nhu cầu, khát vọng, yếu
tố cơ bản làm nên lẽ sống. Đó là động lực để con người vươn lên và có hoài bão. Lao
động làm cho sản xuất và xã hội phát triển, đồng thời cũng làm nhu cầu và khát vọng của
con người ngày càng tăng lên, từ đó lẽ sống cũng không ngừng nâng cao và mở rộng.

Theo Mac, quá trình lao động là quá trình con người hoàn thiện bản thân mình. Lao
động làm tăng tính tích cực cho xã hội và những đức tính quý báu của con người như
lòng nhân ái, tính vị tha, sự cao cả, tính tự giác, kỷ luật…. Đồng thời nó cũng loại bỏ
những thói xấu như tính lười biếng, tham lam, ích kỷ, ti tiện….

Trong cuộc sống, mỗi người cần phải có lẽ sống đúng đắn. Đó là biết sống vì xã hội,
luôn phấn đấu cống hiến nhiều những thành quả lao động có giá trị góp phần vào quá
trình phát triển xã hội, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Đấu tranh cho
hạnh phúc cá nhân hay hạnh phúc của cả xã hội là ranh giới, tiêu chuẩn để phân biệt
người có lẽ sống cao cả với kẻ có lẽ sống tầm thường, ích kỷ, thấp hèn. Người có quan
niệm đạo đức chân chính bao giờ cũng hướng lẽ sống của mình phù hợp với yêu cầu phát
triển và tiến bộ của xã hội, biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.

Như vậy, lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống của con người không hoàn toàn phụ
thuộc chỉ vào thời gian sống mà quan trọng nhất chính là chất lượng cuộc sống, trong
đó con người được lao động tự giác, sáng tạo, tự do cống hiến cho xã hội và thụ
hưởng từ xã hội.

2. Hạnh phúc:

Hạnh phúc là ước mơ lớn nhất, là mối quan tâm sâu sắc của con người ngay từ khi
con người tách khỏi động vật và bắt đầu ý thức được về mình. Quan niệm về hạnh phúc
có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần nói chung và đạo đức nói
riêng. Nó trở thành một trong những nền tảng tinh thần giúp con người xây dựng lý
tưởng, mục tiêu, thái độ sống. Đồng thời, quan niệm về hạnh phúc còn giữ vai trò là hạt
nhân, là thước đo và định hướng để con người thiết lập các khái niệm thiện, ác, phẩm giá
và hàng loạt các khái niệm nhân bản khác. Hạnh phúc chân chính tạo ra những động lực
thúc đẩy con người và xã hội tiến tới sự hoàn thiện, thông qua việc phấn đấu thực hiện
những lý tưởng cao quý.

Qua các thời đại lịch sử, có nhiều quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Phần lớn các
quan niệm trước Mac đều cho rằng hạnh phúc là sự thỏa mãn các nhu cầu, là trạng thái
khi con người đạt được sự sung sướng, không còn những đau khổ, dằn vặt và được yên
tĩnh, thanh thản trong tâm hồn. Các tôn giáo lại quan niệm hạnh phúc là cái không có ở
trần gian, mà nó chỉ có ở thế giới bên kia.

9
Những quan niệm trên đây đều có khuynh hướng coi hạnh phúc là sự thỏa mãn
những nhu cầu cá nhân, tuyệt đối hóa, tầm thường hóa các nhu cầu cá nhân hoặc mang
nặng yếu tố siêu hình dẫn đến những lệch lạc, bế tắc trong quá trình đi tìm hạnh phúc.

Đạo đức học macxit quan niệm hạnh phúc gắn liền với quá trình lao động sản xuất
và hoạt động xã hội của con người. Lao động sản xuất và hoạt động xã hội mang lại cho
con người niềm vui, niềm tự hào sung sướng, nâng cao ý thức phẩm giá làm người, tin
tưởng vào xã hội, gắn bó mỗi cá nhân với cộng đồng trong tình thương yêu, quý trọng lẫn
nhau. Như vậy, hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy trong lao động, học tập, trong đấu tranh và
chỉ đến với con người như một tặng thưởng kèm theo những giá trị vật chất và tinh thần
mà họ đã tạo ra vì xã hội, được xã hội đánh giá và thừa nhận. Do đó, hạnh phúc không
phải là cái gì đó có sẵn để con người nhận lấy một cách thụ động mà phải do chính bản
thân họ tạo ra. Chỉ những hoạt động nào có ích cho con người, làm lợi cho xã hội mới
đem lại hạnh phúc. Những hoạt động gây nên đau khổ cho con người sẽ bị xã hội lên án
và ngăn chặn. Đó là lẽ vì sao lười biếng, thói ỷ lại, trì trệ, ích kỷ, hưởng thụ một chiều
trong thực tế là trái đạo đức và là kẻ thù của hạnh phúc. Mặt khác hạnh phúc của mỗi
người chỉ có thể đạt được khi nó gắn với hạnh phúc của cộng đồng và xã hội. Đấu tranh
chống lại cái ác, cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ kìm hãm xã hội phát triển; đồng thời đấu
tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp, dân tộc, xây dựng một xã hội ngày càng
tốt đẹp, văn minh chính là đem lại hạnh phúc cho con người. Xã hội càng văn minh tốt
đẹp càng tạo điều kiện cho con người sống hạnh phúc và đạt được những giá trị cao đẹp.

Những hoạt động thỏa mãn nhu cầu đạo đức xã hội, làm cho con người đạt đến hạnh
phúc cao nhất, đích thực nhất; hướng con người phấn đấu vươn tới cái chân, thiện, mỹ.

Hạnh phúc còn là phạm trù có tính tương đối, tính lịch sử cụ thể, luôn vận động,
biến đổi theo sự vận động và biến đổi của tồn tại xã hội. Mỗi thời đại lịch sử, mỗi con
người cụ thể trong những hoàn cảnh, lứa tuổi khác nhau, có những quan niệm khác nhau
về hạnh phúc. Mặt khác hạnh phúc không loại trừ hoàn toàn mọi nỗi khổ đau. Những nỗi
khổ có tính tích cực như sự trăn trở trong sáng tạo, đau khổ khi vượt qua lỗi lầm, hy sinh
vì nghĩa lớn; đau khổ vì nỗi đau của người khác; những gian truân, khổ ải trước khó khăn
trong lao động và cuộc sống v.v… một khi con người đã vượt qua thì niềm vui, hạnh
phúc mà họ nhận được sẽ càng lớn.

Hạnh phúc trọn vẹn là sự thỏa mãn những nhu cầu cả về vật chất lẫn tinh thần, đồng
thời phải không ngừng sáng tạo ra những giá trị đó. Nhưng nhu cầu vật chất thì có hạn,
còn nhu cầu tinh thần thì không có giới hạn nên bao giờ cũng là tiêu chuẩn cao hơn, đòi
hỏi con người phải kiên trì phấn đấu mới có thể đạt được những đỉnh cao của khát vọng
tinh thần.

3. Nghĩa vụ:

Nghĩa vụ chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống đạo đức xã hội. Việc
thực hiện nghĩa vụ tốt hay xấu là thước đo đặc thù nói lên tình trạng tiến bộ hay thoái hóa
của đời sống đạo đức trong xã hội.

Nghĩa vụ đạo đức là ý thức trách nhiệm, là tình cảm tự giác của con người đối với
người khác và đối với xã hội. Một hành vi được xem là nghĩa vụ đạo đức phải đặt trên cơ
sở tự nguyện, tự giác, cái thiện và tự do; là sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm, ý thức
và hành vi của cá nhân với lý trí của toàn xã hội.
10
Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga G. Bandzeladze đã viết: “Đạo đức
của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã
hội…. Nơi nào không có những hành động tự nguyện, tự giác của con người thì ở nơi ấy
không có nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống xã hội” (G. Bandzeladze – đạo đức
học – NXB Giáo dục - Hà Nội – 1985 – t1, tr.102).

Sự trưởng thành về ý thức nghĩa vụ đạo đức phản ánh xu hướng tiến bộ của một xã
hội lành mạnh, hài hòa. Ý thức nghĩa vụ đạo đức không chỉ là sự đòi hỏi, yêu cầu của xã
hội đối với cá nhân mà còn là nhu cầu của sự tiến bộ, hoàn thiện đối với bản thân mình.
Vì vậy, nghĩa vụ đạo đức không thể là sự ép buộc từ bên ngoài, mà gắn bó chặt chẽ với ý
thức của con người về lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc…. Những quan niệm đúng đắn giúp
con người nhận thức được sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, thống nhất
giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội. Đó là lý do làm cho ý thức nghĩa vụ đạo
đức được nuôi dưỡng, củng cố phát triển trong môi trường của một nền giáo dục gia đình
đầm ấm, xã hội lành mạnh mà ở đó tình thương yêu, đoàn kết, sự quan tâm chăm sóc lẫn
nhau với những tình cảm chân thành được duy trì và phát triển. Trong những điều kiện
đó, con người được hưởng thụ một bầu không khí đạo đức trong sáng, cao quý và chan
chứa tình người, mà bản thân họ cũng trưởng thành về đạo đức, yêu lao động, có lý
tưởng, hoài bão, giàu cảm xúc, tin tưởng vào xã hội. Mất đi ý thức nghĩa vụ đạo đức cũng
chính là đánh mất ý thức về chính bản thân mình, mất đi ý nghĩa làm người của mình.

Trong quan hệ xã hội, bao trùm lên tất cả và thấm sâu vào mọi quan hệ xã hội là
quan hệ đạo đức, mà đặc trưng là nghĩa vụ của con người. Vì thế, ý thức nghĩa vụ đạo
đức được tất cả các thế hệ người trong xã hội vun đắp, gìn giữ, phát triển để trở thành
niềm tin, tình cảm thiêng liêng mà mỗi thế hệ người đều gìn giữ, kế thừa, bổ sung và
hoàn thiện. Ý thức nghĩa vụ đạo đức mang tính chất một tình cảm thiêng liêng cao cả cấu
thành nội dung cơ bản của bổn phận, của đạo làm người. Chính ý thức nghĩa vụ đạo đức
đã hun đúc lòng yêu nước, trung thành với tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân; yêu
thương, kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ và lối sống thủy chung son sắt trong đạo vợ
chồng, tình nghĩa anh em, bầu bạn.

Ý thức nghĩa vụ đạo đức là quá trình phát triển không ngừng cùng với sự trưởng
thành của xã hội và con người. Vì thế, việc hình thành ý thức nghĩa vụ phải là một quá
trình tu dưỡng bền bỉ, rèn luyện không ngừng trong suốt cuộc đời của mỗi người.

4. Lương tâm:

Lương tâm là tình cảm hoặc ý thức trách nhiệm đạo đức của mỗi người về hành vi
của mình trong quan hệ xã hội; ý thức trách nhiệm đối với số phận của người khác và xã
hội. Lương tâm đồng thời là sự tự phán xét về các hoạt động, hành vi của mình. Vì vậy,
lương tâm không đơn thuần chỉ là tình cảm mà còn chứa đựng cả yếu tố ý thức của con
người.

Nguồn gốc của lương tâm gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người qua quá
trình từ thấp lên cao. Nếu chỉ vì sợ hoặc xấu hổ trước người khác mà hành động thì chưa
phải là hành vi có lương tâm. Chỉ khi con người biết xấu hổ với chính mình thì tình cảm
lương tâm mới xuất hiện và khi đó con người hành động hoàn toàn theo sự tự giác, tự do
của tình cảm, lý trí bản thân mà không phụ thuộc vào những tác động bên ngoài. Vì vậy,
lương tâm là biểu hiện tập trung nhất của ý thức đạo đức trong thực tiễn, nó là dấu hiệu
và thước đo sự trưởng thành của đời sống đạo đức cá nhân. Dưới hình thức tình cảm nội
11
tâm, lương tâm luôn tồn tại như một minh chứng cho sự hiện diện của đời sống đạo đức
cá nhân. Mỗi người, với tư cách là một chủ thể đạo đức trưởng thành bao giờ cũng là
người có lương tâm. Vì thế khái niệm “lương tâm”, “vô lương tâm” thường được dùng
như sự khẳng định hay phủ định tình trạng có đạo đức hay vô đạo đức. Người có lương
tâm sẽ có đủ nghị lực vượt qua khó khăn để đạt tới những giá trị đích thực của cuộc sống;
dù sống ở đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn giữ được nhân cách và rất giàu tình người.

Lương tâm không phải là một cảm xúc hời hợt, nhất thời hoặc một phản ứng tự
nhiên mang tính bản năng, mà đó là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc đối với
những nhu cầu đạo đức xã hội. Sự hình thành cảm xúc lương tâm gắn liền nhận thức về lẽ
sống, lý tưởng, hạnh phúc của con người với ý thức nghĩa vụ đạo đức.

Nghĩa vụ đạo đức và lương tâm luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nghĩa vụ
đạo đức là ý thức trách nhiệm trước xã hội và người khác, còn lương tâm là ý thức trách
nhiệm trước bản thân mình. Có thể xem ý thức nghĩa vụ đạo đức là nền tảng, là cơ sở
hình thành lương tâm con người.

Lương tâm được biểu hiện ở hai trạng thái khẳng định và phủ định. Trạng thái
khẳng định là sự thư thái, là cảm giác trong sạch của lương tâm. Nó giúp nâng cao tính
tích cực của con người, giúp con người tin tưởng vào bản thân, vào cuộc sống, thôi thúc
con người vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp. Trạng thái phủ định là sự cắn rứt, sự không
trong sạch của lương tâm. Nó gây cho con người cảm giác đau khổ, làm suy giảm hoạt
động tích cực của con người. Nhưng mặt khác sự cắn rứt lương tâm cũng giúp con người
thức tỉnh, hối cải; giúp con người suy nghĩ lại và uốn nắn những hành vi sai trái của mình
để trở về con người đúng đắn, tiến bộ.

Người có đạo đức bao giờ cũng đặt cho mình một “tòa án lương tâm” để tự giám sát
mọi hành vi ứng xử của bản thân. Ân hận là sự trừng phạt của lương tâm; khi có lỗi lầm
mà lương tâm thức tỉnh thì sự ân hận giúp con người có thêm nghị lực để sửa chữa sai
lầm, khuyết điểm.

5. Thiện và ác:

Thiện là lợi ích của con người phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội. Thiện
cũng là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người, làm cho con người ngày càng
sung sướng hơn, tư do, hạnh phúc, tiến bộ hơn. Nó là biểu hiện tập trung nhất, cụ thể và
cao cả nhất của đời sống đạo đức xã hội, gắn bó chặt chẽ với cái chân lý và cái tốt đẹp.

Đối lập với cái thiện là cái ác. Cái ác chống lại cái thiện, gây nên nỗi đau khổ cho
con người, cản trở sự phát triển và tiến bộ của xã hội.

Đạo đức học macxit quan niệm thiện và ác của con người là một sản phẩm lịch sử.
Vì thế, nội dung của nó không phải là một cái gì vĩnh viễn không thay đổi. Ngược lại, ở
mỗi thời đại, từ những quan hệ kinh tế, xã hội và giai cấp, con người lại hình thành nên
những quan niệm thiện – ác khác nhau, tương ứng với xã hội trong thời kỳ đó. Trong một
xã hội có giai cấp đối kháng thì những quan niệm về thiện – ác cũng khác nhau thậm chí
còn đối lập nhau. Mặt khác, nhiều khi trong đời sống thực tiễn, cái ác còn được thể hiện
ra như một tất yếu phải vượt qua trên con đường con người đi tới cái thiện.

12
Sống thiện là nét đặc trưng trong đời sống đạo đức của con người và xã hội. Đề cao
việc thiện, phê phán và chống lại cái ác sẽ làm cho con người mang tính người hơn, làm
nảy nở những tình cảm như lòng vị tha, nhân ái, quý trọng nhau; loại bỏ thói ích kỷ và
những hành vi vô nhân đạo. Xã hội nào đề cao tính thiện thì những bất công xã hội cũng
giảm đi, con người được sống tự do, hạnh phúc hơn.

Sống thiện là phải luôn suy nghĩ, hành động tích cực vì lợi ích và tiến bộ xã hội,
đem lại hạnh phúc và làm giảm đi những đau khổ cho người khác và cho xã hội. Vì vậy,
để có cái thiện thật sự thì phải giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công; xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ, bình đẳng. Nếu lòng tốt, tình
thương người chỉ dừng lại ở ý thức tư tưởng thì chưa thể là thiện, điều quan trọng là nó
phải được thể hiện bằng hành động trong cuộc sống hiện thực.

Cái thiện còn là sự thống nhất giữa động cơ và kết quả, mục đích và phương tiện.
Thông thường, một hành vi có động cơ tốt sẽ dẫn đến kết quả tốt, đó là thiện; động cơ
xấu, kết quả xấu, đó là ác; động cơ tốt, kết quả xấu, không coi là ác; động cơ xấu, kết quả
tốt thì vẫn coi là ác. Mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện cũng vậy. Đã là mục đích
thiện thì không thể sử dụng những phương tiện ác, tàn bạo. Nhưng trong thực tế, để đi tới
cái thiện con người vẫn phải trải qua những hy sinh, mất mát, phải trả giá bằng xương
máu của hàng triệu người, vượt qua cái ác để giải phóng con người, hướng tới cái thiện
cao cả, vĩ đại và đáng trân trọng nhất.

13
Chương II: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO

I. KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP

Đạo đức nghề nghiệp là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong lao động nghề nghiệp và quan hệ
nghề nghiệp với xã hội, được biểu hiện trong ba mối quan hệ: Với mình, với người (xã
hội), với công việc mà phẩm chất cao nhất là lòng yêu nghề và yêu người.

Những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp góp phần duy trì một trình độ
chuyên môn cao nhằm hình thành nên chế độ làm việc của người lao động và tổ chức
nghề nghiệp. Mặt khác, đạo đức nghề nghiệp giúp người lao động nhận thức rõ được các
phẩm chất tốt của cá nhân đối với các chương trình và chính sách của tổ chức. Từ đó xác
định thái độ, hành động phù hợp giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích của tổ chức và xã
hội.

Ở nước ta từ khi Cách mạng Tháng tám thành công, ra đời Nhà nước của dân, do
dân, vì dân thì triết lý và những giá trị đạo đức nghề nghiệp cao nhất là phục vụ nhân dân.

Do tính chất và tác động xã hội của báo chí rất lớn; liên quan đến nhiều nghề, ảnh
hưởng đến nhiều người, nhiều lĩnh vực, lại luôn gắn với quyền lực, danh tiếng, chịu nhiều
áp lực nên đạo đức nghề nghiệp nhà báo cũng có những nét đặc thù và yêu cầu mang tính
xã hội cao.

II. NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN MÓNG XÂY DỰNG QUY CHUẨN ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO VIỆT NAM

1. Nguyên tắc về phẩm chất chính trị:

Đây là nguyên tắc hàng đầu, vì làm báo là làm chính trị. Nhà báo trong chế độ ta là
những chiến sỹ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng, có vai trò định hướng tư
tưởng cho công chúng để tạo ra sự thống nhất và ổn định chính trị - xã hội, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy trước hết nhà báo phải nắm vững các quan điểm, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; có lập trường vững vàng, trung thành
với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội; đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và
nhân dân.

2. Nguyên tắc về trình độ và năng lực chuyên môn:

Đây là nguyên tắc nhằm đảm bảo cho nhà báo hoàn thành tốt nhiệm vụ trong hoạt
động nghề nghiệp. Không ngừng phấn đấu học tập rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết,
tích lũy kinh nghiệm, phát huy năng lực sở trường và sáng tạo trong hoạt động nghề
nghiệp là tiêu chuẩn đạo đức của nhà báo

3. Nguyên tắc về đạo đức cá nhân:

Đạo đức cá nhân là cơ sở để nhà báo xây dựng và phát huy đạo đức nghề nghiệp.
Nhà báo không thể có đạo đức nghề nghiệp nếu chưa có những phẩm chất tối thiểu của
đạo đức làm người. Đó là biết sống có ích (cho bản thân, gia đình và xã hội), có lòng
thương người; biết kiềm chế bản năng thú tính, biết chống lại cái xấu, cái ác và không
14
ngừng tu dưỡng, rèn luyện để bổ sung những phẩm chất cá nhân khác như lòng nhân ái,
yêu nước, hiếu thảo, trung thực, chân thành, chung thủy, cần, kiệm, liêm chính, chí công
vô tư v.v…. Những phẩm chất đó chính là nền tảng để xây dựng và nâng cao đạo đức
nghề nghiệp của mỗi nhà báo.

4. Nguyên tắc về hiệu quả công việc:

Kết quả công tác là thước đo phẩm chất đạo đức của nhà báo. Đặc biệt phải quan
tâm đến hiệu quả xã hội của hoạt động nghề nghiệp và hiệu quả từ các tác phẩm báo chí
do nhà báo sáng tạo ra. Không thể nói nhà báo có đạo đức, khi nhà báo không hoàn thành
nhiệm vụ hoặc viết nhiều, làm nhiều mà các tác phẩm do nhà báo sáng tạo ra không đem
lại lợi ích gì cho xã hội, thậm chí cỏn gây hậu quả xấu cho xã hội.

III. TỪ QUY ƯỚC ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI
LÀM BÁO VIỆT NAM

Dựa trên những nguyên tắc nền móng trên đây, ngay từ đại hội lần thứ VI (3/1995)
Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua 10 Quy ước Đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt
Nam:

1. Mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà báo hoạt động trong bất kỳ
lĩnh vực và hoàn cảnh nào cũng hướng về mục tiêu cao cả đó.

2. Báo chí thực hiện quyền thông tin của nhân dân. Nhà báo phải khách quan,
trung thực, tôn trọng sự thật. Mọi thông tin đưa ra công luận phải phản ánh
đúng bản chất sự thật khách quan trong bối cảnh xã hội của nó, tuyệt đối không
được xuyên tạc hoặc cường điệu sự việc, sự kiện. Nhà báo có trách nhiệm cung
cấp cho công chúng hình ảnh chân thật, đúng bản chất về quá trình của sự kiện
và tình huống được thông tin, thông qua đó hướng dẫn dư luận.

3. Báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu với đời sống xã hội, là công cụ
văn hóa. Nhà báo tôn trọng và thực hiện tự do báo chí, chịu trách nhiệm trước
xã hội; trước nhân dân và tự do hành nghề trong khuôn khổ luật pháp. Nhà báo
thực hiện đúng tôn chỉ của cơ quan báo chí; không vì bất kỳ sức ép nào mà làm
trái với mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam, đi ngược lợi ích đất nước.

4. Cùng với quyền tự do thông tin, thực hiện quyền trả lời và cải chính trên
báo chí là một nguyên tắc cấu thành tự do dân chủ báo chí. Nhà báo có quyền
kiên trì quan điểm và thông tin đúng đắn của mình, nhưng tôn trọng quyền trả
lời và quyền cải chính của công dân theo đúng luật pháp.

5. Nhà báo có nghĩa vụ bảo vệ nguồn tin và giữ bí mật do người khác cung
cấp, phù hợp với luật pháp.

6. Báo chí Việt Nam phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tôn trọng các nền
văn hóa khác và những giá trị tinh thần phổ biến của loài người; phấn đấu vì
đại đoàn kết dân tộc, vì hòa bình, hữu nghị, hiểu biết giữa các dân tộc và quốc
gia trên thế giới.

15
7. Nhà báo góp phần phát triển lợi ích công đồng, tôn trọng quyền con người,
không lợi dụng thông tin để xúc phạm nhân phẩm và làm thiệt hại đến lợi ích
của người khác.

8. Nhà báo luôn luôn giữ phẩm chất trong sáng, không vụ lợi. tuyệt đối không
vì lợi ích cá nhân mà cố tình công bố hoặc bỏ qua không công bố một thông
tin. Nhà báo không được dùng uy tín nghề nghiệp của mình để trục lợi.

9. Nhà báo tôn trọng chính kiến và quan điểm xã hội, nghề nghiệp của đồng
nghiệp; đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động và đời sống; đấu
tranh không khoan nhượng chống mọi hành vi làm tổn hại đến đất nước, lợi ích
nhân dân và trái với đạo đức báo chí.

10. Nhà báo sống lành mạnh, văn minh, khát khao học hỏi, khiêm tốn cầu tiến
bộ. Nâng cao bản lĩnh, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của mình là ước vọng
và sự phấn đấu suốt đời của người làm báo.

Sau 10 năm thực hiện Quy ước Đạo đức nghề nghiệp Báo chí (1995 -2005), Đại hội
Hội Nhà Báo Việt Nam lần thứ VIII (8/2005) đã chuyển Quy ước thành “Quy định về
Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam.” Quy định này nhằm cụ thể hóa một
nội dung tiêu chuẩn hội viện trong Điều lệ Hội Nhà Báo Việt Nam – bộ luật cao nhất của
tổ chức Hội, được viết ngắn gọn thành 9 điều sau đây (Nhà báo và SV báo chí phải
thuộc):

1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.

3. Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.

4. Sống lành mạnh, trong sáng, không được lợi dụng nghề nghiệp để vụ
lợi và làm trái pháp luật.

5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt
trách nhiệm xã hội.

6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp
thông tin.

7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động
nghề nghiệp.

8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp
vụ, khiêm tốn cầu tiến bộ.

9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các
nền văn hóa khác.

16
Như vậy, từ “Quy ước” đến “Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo
Việt Nam” đã có những điểm mới.

Về hình thức, được viết ngắn gọn, súc tích hơn nhằm giúp các nhà báo dễ nhớ để
thực hiện.

Nội dung được nhấn mạnh vào sự gắn bó hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, tính
trung thực, không vụ lợi trong đạo đức lối sống và hoạt động nghề nghiệp; đề cao trách
nhiệm xã hội, gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân… nhằm xây
dựng Hội Nhà báo các cấp trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao chất lượng nhà
báo.

Tính pháp lý của Quy ước chỉ là sự “thỏa thuận với nhau”, còn Quy định là “những
điều khoản định ra để phải tuân theo, phải thực hiện” (từ điển Tiếng Việt). Nếu vi phạm
“Quy định” thì Hội có hình thức chế tài với những mức độ khác nhau, kể cả khai trừ ra
khỏi Hội.

IV. LUẬT BÁO CHÍ VÀ QUY ĐỊNH ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO:

Nhằm đảm bảo những yêu cầu tối thiểu mang tính bắt buộc nhà báo phải tuân theo,
một số nội dung đạo đức nghề nghiệp nhà báo đã được luật hóa thành các nghĩa vụ pháp
lý của báo chí và nhà báo trong Luật Báo chí hiện hành. Đó là những trách niệm của nhà
báo và cơ quan báo chí trong việc đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo
chí của công dân (điều 2). Đó là nghĩa vụ của nhà báo và cơ quan báo chí trong việc
thông tin trung thực, phù hợp với lợi ích của đất nước, của nhân dân; phản ánh ý kiến,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự
do ngôn luận trên báo chí của công dân; bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước; phát hiện, bảo vệ nhân tố tích cực, đấu tranh phòng chống
các tư tưởng, hành vi sai phạm; bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt; thường xuyên học
tập nâng cao trình độ mọi mặt và không được lợi dụng danh nghĩa nhà báo để sách nhiễu
nhân dân, vi phạm pháp luật; phải cải chính xin lỗi trong trường hợp thông tin sai sự thật,
xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức và công dân (điều 6 và điều 15).

Đặc biệt, Luật Báo chí cũng quy định những điều cấm nhà báo không được làm khi
hoạt động nghề nghiệp (điều 10):

- Không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân.

- Không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận
thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác.

- Không được tiết lộ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối
ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định.

- Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc vu khống nhằm xúc phạm danh
dự của tổ chức, danh dự nhân phẩm của công dân.

Nghị định số 51 ngày 26/4/2002 của Chính phủ, hướng dẫn thi hành Luật Báo chí
còn cụ thể thành 6 điều không được thông tin trên báo chí. Trong đó nhấn mạnh đến các
17
yêu cầu, khi thông tin nhà báo không được miêu tả tỉ mỉ những hành động tội ác, dâm ô,
chém giết rùng rợn; không được đăng, phát tin, bài, tranh ảnh khỏa thân, kích dâm, thiếu
thẩm mỹ, trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam; không được đăng, phát tin, bài, ảnh làm
ảnh hưởng xấu đến việc bảo vệ bí mật đời tư và quyền về hình ảnh của cá nhân; không
được đăng, phát tin, bài truyền bá hủ tục, mê tín dị đoan v.v…

Nhà báo có đạo đức trước hết phải đề cao ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện tốt
các quy định của Luật Báo chí và các văn bản dưới luật khác. Đồng thời phải tự giác thực
hiện tốt các Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam.

V. NHỮNG TIÊU CHUẨN ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA NHÀ BÁO NƯỚC TA:

Từ những quy định về đạo đức nghề nghiệp của Hội Nhà Báo Việt Nam và Luật
Báo chí hiện hành, có thể rút ra những tiêu chuẩn cơ bản về đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo nước ta hiện nay như sau:

1. Trọng dân, vì dân – Tiêu chuẩn hàng đầu đạo đức nghề nghiệp nhà
báo:

Trọng dân là nói về thái độ ứng xử của nhà báo khi hành nghề và sáng tạo phải luôn
kính trọng nhân dân, tôn trọng lễ phép, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, yêu thương tin
tưởng ở nhân dân; luôn lắng nghe và chịu sự giám sát của nhân dân. Vì dân là nói về mục
đích hoạt động nghề nghiệp của nhà báo, phải hết lòng hết sức tận tụy phục vụ nhân dân;
mọi hoạt động sáng tạo của nhà báo phải luôn hướng tới lợi ích và sự tiến bộ của nhân
dân.
Tải bản FULL (40 trang): https://bit.ly/3r3AHgT
Tư tưởng trọngDự
dân,phòng:
vì dân fb.com/TaiHo123doc.net
trước hết xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; nhân dân là chủ, cán bộ công chức là công bộc của dân. Vì
vậy giá trị đạo đức nghề nghiệp cao nhất của báo chí và nhà báo là phục vụ nhân dân.
Trọng dân, vì dân còn xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của báo chí là đảm bảo quyền
được thông tin, một trong những quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp và Luật
Báo chí nước ta minh định. Nhân dân có quyền tiếp nhận thông tin và cung cấp thông tin
cho báo chí. Báo chí và nhà báo phải tôn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản đó của
người dân.

Trong xu hướng phát triển báo chí hiện nay, vai trò của nhân dân tham gia vào quá
trình làm báo ngày càng tăng. Nhân dân là nguồn sống, lực lượng quan trọng góp phần
quyết định nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí, nên trọng dân, vì dân còn là yêu cầu
mới nhằm đảm bảo cho báo chí phát triển và thực hiện tốt mục đích của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nêu tấm gương sáng về đạo đức “trọng dân, vì
dân” trong hoạt động nghề nghiệp báo chí. Đối với Bác Hồ , trọng dân, vì dân vừa là mục
đích vừa là điều kiện, vừa là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động báo chí. Đó là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng yêu nước, thương dân, truyền
thống nhân đạo của người Việt Nam.

Trong nhiều bài viết của mình Bác luôn nhắc các nhà báo trước khi viết phải trả lời
rõ: “Viết cho ai xem? Viết để làm gì?” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, trang 415), “Vì ai
mà viết? Mục đích viết để làm gì?” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, trang 443 - 444) v.v….
Đặt ra những câu hỏi đó chính là Bác đã đòi hỏi các nhà báo phải xác định rõ đối tượng
18
tiếp nhận thông tin trước khi sáng tạo một tác phẩm báo chí để lựa chọn mục đích và
phương pháp phù hợp. Theo Bác, “Đối tượng của tờ báo là đại đa số nhân dân” và mục
đích của việc viết báo không có gì khác ngoài lợi ích và sự tiến bộ của nhân dân. Vì vậy,
Người luôn dạy các nhà báo phải gần gũi nhân dân, lấy dân làm đối tượng, làm mục đích
phục vụ. Viết báo phải làm cho dân dễ hiểu, dễ nhớ; phải giúp dân tiến bộ và viết cái gì
có lợi cho nước, cho dân. Nhà báo phải đồng hành cùng nhân dân và dân tộc, sống trong
lòng nhân dân, tôn trọng, lắng nghe, học tập nhân dân, làm cho dân tin, dân yêu, đồng
thời phải hiểu dân và tin yêu dân. Nhân dân là hòn đá thử vàng đối với quá trình học tập,
tu dưỡng và hoạt động của mỗi nhà báo. Vì vậy, nhà báo phải lấy dân làm thước đo, kiểm
tra đánh giá mình; phải coi dân là người thầy, người bảo trợ giúp đỡ mình hoạt động.

Trọng dân, vì dân theo yêu cầu đổi mới, báo chí không chỉ phục vụ, đáp ứng yêu
cầu nguyện vọng chính đáng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân mà còn phải thực
sự trở thành diễn đàn, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm
chủ vận mệnh của mình. Với vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, báo chí
có trách nhiệm tạo ra sự đồng thuận xã hội, phát huy mọi tiềm lực của nhân dân trong
việc tham gia quản lý, giám sát và phản biện xã hội để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội trên đất nước ta, làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.”

Thể hiện tư tưởng trọng dân, vì dân trong Quy định Đạo đức nghề nghiệp Nhà báo
là: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (điều 1); Luôn gắn bó với nhân
dân, hết lòng phục vụ nhân dân (điều 2); Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự
thật (điều 3); Không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái phát luật (điều 4); Làm tốt
trách nhiệm xã hội (điều 5); Giữ bí mật cho người cung cấp thông tin (điều 6); Giữ gìn
phát huy văn hóa dân tộc (điều 9).

Nhà báo biết trọng dân, vì dân sẽ luôn sống trong lòng nhân dân, bám sát thực tiễn
cuộc sống, gắn bó chặt chẽ với nhân dân nên nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, tôn
tọng dân quyền. Vì vậy họ luôn được nhân dân tin tưởng, yêu mến, giúp đỡ, bảo bọc;
luôn sáng tạo được những tác phẩm báo chí có chất lượng, hiệu quả xã hội cao.

Không trọng dân, vì dân nhà báo sẽ quan liêu biến thành những nhà báo “salon”, chỉ
ngồi một chỗ mà không đi thực tế để tìm hiểu, quan sát, lắng nghe ý dân, tìm hiểu lòng
dân, sẽ chỉ tạo ra những tác phẩm thiếu khách quan trung thực, phiến diện. Những nhà
báo như vậy thường mắc bệnh tự cao, tự mãn, thiếu khiêm tốn, có thái độ hống hách xem
thường nhân dân. Họ luôn coi mình ở thế đứng trên dân để chỉ bảo, răn dạy, ban ơn nên
thường thông tin một chiều áp đặt. Hoặc tự đặt mình đứng ngoài cuộc sống của dân để
Tải thái
săm soi, phê phán với bản độ
FULL
lạnh (40
lùng,trang): https://bit.ly/3r3AHgT
vô cảm, thiếu khách quan, trung thực, thiếu tính
nhân văn. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

2. Tính trung thực – đặc trưng nhân cách đạo đức nghề nghiệp nhà báo.

Trung thực là ngay thẳng, thật thà, tôn trọng sự thật, lẽ phải và chân lý trong các
quan hệ xã hội. Đây là nguyên tắc đạo đức quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp, là
sức mạnh của báo chí. Yêu cầu này trước hết xuất phát từ mục đích của hoạt động báo chí
là vì dân, từ tính chân thật của báo chí, đồng thời cũng nhằm bảo vệ danh dự và uy tín
của nhà báo. Trung thực là đức tính cần có của mọi người, mọi nghề nhưng nghề báo có
tính đặc thù. Sản phẩm của nghề báo là thông tin, tạo nên hiệu ứng xã hội mạnh mẽ trên
19
diện rộng. Sức mạnh và uy tín của báo chí phụ thuộc vào tính khách quan, chân thật của
những thông tin mà nhà báo đem đến hoặc phản ánh ý chí nguyện vọng của công chúng.
Vì vậy, nhà báo phải khách quan trung thực trong hoạt động nghề nghiệp, trong giao tiếp
và lao động sáng tạo mới được dân tin, dân nghe, dân làm theo.

Đảm bảo tính chân thật theo yêu cầu mới, đòi hỏi nhà báo phải nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật và phản ánh rõ sự thật. Nhìn thẳng vào sự thật, đòi hỏi mỗi
nhà báo phải nhìn rõ cả mặt tốt và mặt chưa tốt, mặt xấu của xã hội để xác định thái độ
đúng đắn trong thông tin. Nhà báo phải tôn trọng, phát huy mặt tốt, mặt tích cực và kiên
quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi cái ác, cái xấu để xây dựng xã hội lành mạnh, tiến bộ.
Đánh giá đúng sự thật là yêu cầu có tính quyết định của nhìn thẳng vào sự thật. Vì bản
chất của sự thật thường bị che lấp bởi những biểu hiện hình thức bên ngoài. Mặt khác,
những yếu tố chủ quan của nhà báo, như thế giới quan, trình độ năng lực, kinh nghiệm,
tâm lỳ, lợi ích, phương thức tiếp cận nguồn tin và thái độ khi thông tin cũng là những yếu
tố ảnh hưởng đến việc đánh giá đúng sự thật. Vì vậy, nhà báo phải khách quan, trung
thực; có sự hiểu biết, thái độ nghiêm túc, chân thành và công tâm. Phản ánh rõ sự thật là
thực hiện sự công khai sau khi đánh giá đúng sự thật. Việc này liên quan đến vai trò định
hướng và chức năng bảo vệ lợi ích xã hội của báo chí. Nhà báo phải cân nhắc, chọn lọc
để mọi sự thật được phản ánh phải phù hợp với đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước, lợi ích của đất nước và của nhân dân.

Để thể hiện tính trung thực, nhà báo trước hết phải trung thực với chính mình, có
thái độ yêu, ghét rõ ràng, sự công tâm trong ứng xử, trong hoạt động nghề nghiệp và phản
ánh hiện thực; phải giữ phẩm chất trong sáng, không vụ lợi, thiên vị để bảo vệ lẽ phải và
chân lý. Đồng thời khi thông tin sai phải chân thành, thẳng thắn nhận khuyết điểm và kịp
thời cải chính, xin lỗi công chúng. Trong quá trình hoạt động, lòng trung thực của nhà
báo luôn phải đối mặt với nhiều áp lực và sự cám dỗ, đòi hỏi phải có dũng khí, bản lĩnh,
sự chân thành và nhân ái để vượt qua.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tính trung thực, khách quan
trong hoạt động báo chí và căn dặn các nhà báo: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ
viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn; chưa điều tra,
chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”. Bác yêu cầu các nhà báo: “Không nên
chỉ viết cái tốt mà giấu đi cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay, cái tốt thì
phải có chừng mực, chớ phóng đại…. Phê bình phải phê bình một cách thật thà, chân
thành, đúng đắn…” để “phần thiện trong con người nảy nở, chứ không có nghĩa là vùi
dập” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 444,526,530).

Tiếp nối tinh thần đó, nhân kỷ niệm 70 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam
(21/6/1995), Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tặng các nhà báo bức trướng ghi dòng
chữ “Trung thực – Đoàn kết – Trí tuệ - Đổi mới vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”. Luật Báo chí quy định quyền và nghĩa vụ của báo chí và nhà báo:
“Thông tin trung thực về tình hình trong và ngoài nước phù hợp với lợi ích của đất
nước và nhân dân.” Điều 3 trong Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo
Việt Nam cũng ghi rõ : “Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.”

Tóm lại, trung thực là đặc trưng nhân cách của nhà báo và cũng là phẩm chất hàng
đầu mà Đảng, Nhà nước, nhân dân đòi hỏi các cơ quan báo chí, các nhà báo phải tôn
trọng và thực hiện.
4935009
20

You might also like