You are on page 1of 10

Đề tài: Ý THỨC XÃ HỘI

I. Khái quát:
1. Ý thức xã hội:
-Là phạm trù của chủ nghĩa duy vật được sử dụng để giải quyết các vấn đề của cơ sở triết học trong
lĩnh vực xã hội.

-Là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại của xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình.

-Là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội.
2. Hình thái ý thức xã hội:
-Thể hiện các phương thức nắm bắt khác nhau về mặt tinh thần đối với hiện thực xã hội
-Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau bao gồm:
+Ý thức chính trị
+Ý thức pháp quyền
+Ý thức đạo đức
+Ý thức thẩm mỹ (hay ý thức nghệ thuật)
+Ý thức tôn giáo
+Ý thức lý luận (hay ý thức khoa học)
+Ý thức triết học
II. Ý thức đạo đức:
1. Khái niệm:
-Quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, v.v.
-Quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau
và giữa các cá nhân với xã hội.
2. Kết cấu:
Bao gồm các hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị của đạo đức; những tình cảm và lý tưởng
đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì, nếu không có tình cảm đạo đức
thì tất cả các khái niệm, quan những phạm trù và tri thức đạo đức thu được bằng tính toán con đường
không thể chuyển đổi thành hành vi của đạo đức.
Ý thức đạo đức: “Là ý thức về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực hành vi phù hợp với những quan
hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó còn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức
của con người”[4]. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận
thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những
quy tắc đạo đức xã hội đặt ra; qua đó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách
tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Về mặt cấu trúc, ý thức đạo đức gồm tình cảm đạo đức, tri
thức đạo đức, lý tưởng đạo đức, ý chí đạo đức. Trong đó, tình cảm thể hiện cảm xúc của con người
trước hiện tượng đạo đức, tri thức đạo đức giúp con người lựa chọn cái gì nên làm và cái gì không nên
làm; lý tưởng đạo đức quyết định phương hướng, mục đích hoạt động của con người và ý thức đạo đức
là sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua khó khăn, trở ngại để thực hiện hành vi đạo đức.

Hành vi đạo đức: “Là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo
đức”[5]. Cụ thể hơn, hành vi đạo đức là những cử chỉ, những việc làm của con người trong các mối
quan hệ xã hội phù hợp với ý thức đạo đức, với các chuẩn mực và các giá trị đạo đức.

Để phân biệt một hành vi đạo đức hay phi đạo đức, không chỉ căn cứ vào kết quả của hành vi mà còn
phải căn cứ vào động cơ của hành vi. Hành vi đạo đức phải có nguyên nhân vì lợi ích của người khác,
của xã hội và mục đích cũng là mang lại lợi ích cho người khác, cho xã hội.

Quan hệ đạo đức: Là hệ thống những quan hệ xã hội, tác động qua lại giữa người với người, giữa cá
nhân và xã hội xét về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức vận động, biến đổi theo quá trình phát triển của xã
hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội hay hệ giá trị đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận
động, phát triển. Quan hệ đạo đức có các đặc tính là tính tự giác và tính tự nguyện. Tính tự giác thể hiện
ở sự nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân mỗi nguời trong những tình huống cụ thể khi tham
gia vào quan hệ đạo đức. Tính tự nguyện thể hiện ở nhu cầu và ham muốn của bản thân mỗi người trong
quan tâm, tương trợ, giúp đỡ nguòi khác...

Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố cấu tạo nên cấu trúc đạo đức,
không tồn tại độc lập, mà có quan hệ biện chứng với nhau.

- Thứ nhất, ý thức đạo đức không thể hình thành ngoài quan hệ đạo đức và ngược lại, quan hệ đạo đức
không thể không được định hướng, điều chỉnh bởi ý thức đạo đức.

Trong quá trình phát triển của lịch sử, ý thức đạo đức hình thành trên cơ sở phản ánh các mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Ý thức đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã
hội mà trước hết là nhu cầu phối hợp hoạt động trong lao động sản xuất vật chất. Sự phát triển của sản
xuất dẫn đến sự phát triển của các quan hệ xã hội và kéo theo sự phát triển của quan hệ đạo đức, làm
cho chúng ngày càng đa dạng, phức tạp hơn. Các chuẩn mực của đạo đức được hình thành trong quá
trình con người giao tiếp với nhau, chúng được củng cố do sự công nhận giá trị theo quan điểm lợi ích
phổ biến đối với giai cấp nhất định. Quan hệ đạo đức càng đa dạng, phức tạp càng là môi trường tốt cho
con người hình thành ý thức đạo đức sâu sắc và toàn diện. Ngược lại, quan hệ đạo đức hạn chế thì ý
thức đạo đức cũng mắc phải những những khuyết điểm nhất định và vì vậy con người không thể phát
triển toàn diện nhân cách của mình.
Ý thức đạo đức hình thành, phát triển, hoàn thiện thông qua việc phản ánh quan hệ đạo đức và khi đã
hình thành, ý thức đạo đức quay trở lại chi phối, điều chỉnh quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức có bền
vững hay không tùy thuộc trình độ của ý thức đạo đức, vào sự lựa chọn lời nói, cử chỉ, hành vi trong
mối quan hệ ở từng hoàn cảnh nhất định có phù hợp hay không. Ý thức đạo đức càng cao thì quan hệ
đạo đức càng được củng cố, bền chặt hơn và ngược lại.

- Thứ hai, ý thức đạo đức là điều kiện để thực hiện hành vi đạo đức, còn hành vi đạo đức là quá trình
hiện thực hóa ý thức đạo đức trong cuộc sống.

Ý thức đạo đức là điều kiện để thực hiện hành vi đạo đức vì không có ý thức đạo đức thì không thể có
hành vi đạo đức. Trong đó, tri thức đạo đức xác định giới hạn cho hành vi đạo đức, tình cảm đạo đức là
động cơ chủ yếu của hành vi, lý tưởng đạo đức định hướng cho hành vi, ý chí đạo đức là sức mạnh bên
trong thúc đẩy con người thực hiện hành vi đạo đức. Thiếu một trong những thành tố của ý thức đạo
đức con người không thể thực hiện hành vi đạo đức.

Ngược lại, ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành động mới đem lại lợi ích xã hội. Con người có
đạo đức hay không phải căn cứ vào những hành vi cụ thể. Thông qua quá trình thực hiện những hành
vi đạo đức thường xuyên, liên tục, ý thức đạo đức của mỗi người ngày càng được bồi dưỡng, củng cố
trở nên hoàn thiện hơn.

-Thứ ba, hành vi đạo đức thể hiện thông qua quan hệ đạo đức, bởi hành vi đạo đức là những cử chỉ,
những việc làm của con nguời trong các quan hệ phù hợp với ý thức đạo đức, với các chuẩn mực và các
giá trị của đạo đức. Hành vi đạo đức không thể tách rời các quan hệ xã hội, quan hệ đạo đức. Ngược
lại, quan hệ đạo đức là cơ sở cho hành vi đạo đức, tùy từng mối quan hệ, con nguời xác định và thực
hiện những hành vi phù hợp.
3. Nguồn gốc:
- Quan niệm mácxít về nguồn gốc của đạo đức: Quan niệm khoa học về nguồn gốc của đạo đức là quan
niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Mác, Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống
xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Ph. Ăngghen viết: “Con người dù tự giác hay không tự giác,
rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho
vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”.
Bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội loài người, Mác,
Ăngghen cho rằng “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người”. Xuất phát
từ con người thực tiễn, hai ông đi đến quan niệm về phương thức sản xuất quyết định đối với toàn bộ
các hoạt động của con người, xã hội loài người. Trong “Lời tựa” của tác phẩm “Góp phần phê phán
chính trị - kinh tế học”, Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh
hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của
họ; trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” (Mác, Ăngghen toàn tập, T13,
NXBCTQG H1993, tr 15). Luận điểm này chính là chìa khóa để khám phá tất cả các hiện tượng xã hội
trong đó có đạo đức.
Như vậy, với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. “Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay
đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” (Mác, Ăngghen toàn tập, T20, NXBCTQG,
H1994, tr 137).
4. Đặc điểm:
Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang bản chất xã hội: - Nội dung của đạo đức là
do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội quyết định. - Nhận thức xã hội đem lại các hình thức cụ thể của
phản ánh đạo đức, làm cho đạo đức, tồn tại như một lĩnh vực độc lập về sản xuất tinh thần của xã hội.
Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được qui định bởi trình độ phát
triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người. Nói cách khác, nội dung khách
quan của các quan niệm, quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của
trạng thái, một trình độ phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ
sở kinh tế.
Sự phát triển của hình thái ý thức đạo đức không tách rời sự phát triển của xã hội, phản ánh tồn tại xã
hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người.
Sự tự ý thức của con người về lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, danh dự, V.V. nói lên sức mạnh của
đạo đức, đồng thời cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của ý
thức đạo đức là nhân tố biểu hiện sự tiến bộ của xã hội.
a. Tính qui định:
Tính qui định của thời đại đối với đạo đức cho ta quan niệm khoa học về loại hình đạo đức. Mặc dù
đạo đức có qui luật vận động nội tại, có sự kế thừa, có sự lệch pha nào đó đối với cơ sở sản sinh ra nó
nhưng về căn bản, tương ứng với một chế độ kinh tế, mỗi phương thức sản xuất và do đó mỗi hình thái
kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Đạo đức nguyên thủy, đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo
đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau đó, đạo đức Cộng sản chủ nghĩa là những thời đại tiến triển dần
dần của đạo đức nhân loại.
b. Tính dân tộc:
Coi đạo đức như là một hình thái ý thức xã hội, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác đã đặt cơ sở
khoa học cho việc luận chứng tính dân tộc của đạo đức. Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức
vừa bị quy định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác (chính trị,
triết học, nghệ thuật, tôn giáo ...). Tổng thể những nhân tố ấy trong mỗi dân tộc là sự khác biệt nhau,
làm thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là bản sắc dân tộc. Bản sắc ấy được phản ánh vào đạo đức nên
tính độc đáo của các quan niệm, các chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc đáo
trong đời sống đạo đức của mỗi dân tộc. Nhìn nhận tính độc đáo và sự khác biệt ấy về mặt dân tộc trong
cặp khái niệm cơ bản của đạo đức, cặp khái niệm thiện-ác, Ph. Ăngghen chỉ ra sự biến đổi của chúng
qua các thời đại và dân tộc. Ông viết: “Từ dân tộc này sang dân tộc khách, từ thời đại này sang thời đại
khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”.
c. Tính giai cấp:
Khi xã hội xuất hiện giai cấp thì ý thức đạo đức hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xã
hội riêng. Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có vai trò, địa vị khác nhau trong
hệ thống kinh tế, xã hội và do đó mà họ có các lợi ích khác và đối nghịch nhau. Đạo đức với tư cách là
hình thái ý thức xã hội đã phản ảnh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Ý thức đạo đức giúp mỗi
giai cấp hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những cách thức, biện pháp bảo vệ và khẳng định lợi ích
giai cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức của mình như là công cụ bảo vệ lợi ích của mình.
Như vậy, tính giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và sự thể hiện lợi ích của các giai cấp. Tính giai cấp
của đạo đức là biểu hiện đặc trưng của bản chất xã hội của đạo đức trong xã hội có giai cấp.
Mỗi giai cấp có những lợi ích riêng đó nó cũng có những quan niệm đạo đức, hệ thống đạo đức
riêng. Những hệ thống đạo đức này có sự tác động khác nhau, triệt tiêu nhau (nêu đối kháng), do đó mà
tác động hoặc tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Tuy nhiên, hệ thống đạo đức được áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là hệ thống đạo đức của giai cấp
thống trị, mặc dù, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo những lợi ích trực tiếp của
mình. Giai cấp nào trong xã hội đang đi lên thì giai cấp đó sẽ đại diện cho xu hướng đạo đức tiến bộ
trong xã hội. Ngược lại, giai cấp đang đi xuống, lụi tàn hoặc phản động đại diện cho xu hướng đạo đức
suy thoái.
d. Tính nhân loại:
Tuy nhiên, từ xưa đến nay, trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, ở các hệ thống đạo đức
khác nhau, vẫn có những yếu tố chung mang tính toàn nhân loại. Đó là những quy tắc ứng xử nhằm
điều chỉnh hành vi của con người, nhằm duy trì trật tự xã hội hiện hành và các sinh hoạt thường ngày
của con người trong cộng đồng xã hội. Những quy tắc chung mang tính toàn nhân loại này đã từng tồn
tại từ rất lâu, và chắc chắn sẽ còn tồn tại lâu dài cùng với sự tồn tại của con người suốt trong lịch sử
nhân loại.
5. Vai trò, chức năng của đạo đức:
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân.
+ Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao
gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích.
+ Mục đích điều chỉnh: bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo nên quan hệ lợi ích
cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu
tiên lợi ích cộng đồng).
+ Đối tượng điều chỉnh: Hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với
cộng đồng (gián tiếp).
+ Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: Lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của
hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi chuẩn mực đạo đức; tạo nên
động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi
bởi dư luận xã hội.
- Chức năng giáo dục: Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động
đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau
khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động. Ở
đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là
hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống
xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền
thống, tập quán đạo đức.
- Chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức
thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
+ Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức.
+ Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại và hướng nội (tự nhận thức).
- Vai trò của đạo đức và ý thức đạo đức trong sự phát triển xã hội:
+ Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của con người, đạo đức là
vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn
tại phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để
tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và
cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng.
+ Trong sự vận động phát triển của xã hội loài người suy cho cùng nhân tố kinh tế là cái chủ
yếu quyết định. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa cái “chủ yếu” này thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn
tư duy và hành động đến những lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển của xã
hội không thể thiếu vai trò của đạo đức. Và khi xã hội loài người có giai cấp, có áp bức, có bất
công, chiến đấu cho cái thiện đẩy lùi cái ác đã trở thành ước mơ, khát vọng, đã trở thành chất
men, thành động lực kích thích, cổ vũ nhân loại vượt lên, xốc lên. Đạo đức đã trở thành mục
tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển xã hội.
6. Hiện trạng và giải pháp:
Hiện nay, chúng ta đang sống trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
và toàn cầu hóa, cho nên con người chịu sự tác động và ảnh hưởng không nhỏ của nhiều loại đạo đức
khác nhau. Bên cạnh việc kế thừa và duy trì các giá trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống của dân tộc,
chúng ta cũng đang phải đối mặt với không ít những yếu tố tiêu cực, đối lập với các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, đó là thói ích kỷ, tính thực dụng, lòng tham lam, tất cả vì đồng tiền, không
trung thực, thiếu lý tưởng, sống gấp,... Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ giáo dục các giá trị
đạo đức lành mạnh, tiến bộ là nhiệm vụ hết sức quan trọng, nhất là đối với thế hệ trẻ.
7. Ví dụ:
- Ý thức đạo đức trong kinh doanh: Kinh doanh là ngành nghề đặc thù, cũng có những hệ thống chuẩn
mực riêng, tính thực dụng, ưu tiên hiệu quả kinh tế được coi là tính chất cần có, có lợi trong kinh doanh.
Tuy nhiên, khi áp dụng những phẩm chất này trong y tế hay giáo dục у hay những quan hệ xã hội khác
như mối quan hệ bố mẹ con cái thì sẽ trở thành những điều xấu bị xã hội chỉ trích. Không phải vì thế
mà nghề kinh doanh được phép dung túng cho những ngoại lệ nào mà ngành còn đặc biệt có những quy
chuẩn đạo đức riêng. Bởi vì quyền lợi của ngành kinh doanh không chỉ nằm ở những thương nhân,
người làm kinh tế mà còn liên quan trực tiếp đến người dân vì thế, kinh doanh vì thế chịu sự chi phối
rất lớn bởi hệ giá trị và những chuẩn mực đạo đức xã hội chung.
+ Tính trung thực: Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín
trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm, trung thực trong chấp hành luật pháp của nhà nước,
không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc
cấm.
+ Tôn trọng con người: Đối với cộng sự, nhân viên, phải tôn trọng, bình đẳng; đối với khách hàng,
cần tôn trọng yêu cầu, sở thích; đối với đối thủ cạnh tranh, cần + Gắn lợi ích của doanh nghiệp với
lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội.
+ Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt. Trên thị trường hiện nay, mặc dù vấn đề thực
phẩm bẩn đã có những chế tài xử phạt mạnh tay, tuy nhiên thực phẩm bẩn vẫn trôi nổi trên thị
trường, thậm chí xâm nhập vào trong trường học, xí nghiệp, gây ra những vụ ngộ độc, làm người
dân hoang mang cho chính sức khỏe của con em, người thân trong gia đình mình. Chỉ vì những lợi
ích nhỏ trước mắt mà hàng loạt những vụ việc như “hô biến thịt heo thành thịt bờ”, “măng tắm hóa
chất”, “chuối xanh chín ngay trong 3 ngày”, “rau muống tưới nhớt thải”,... Chính những bất cập
của thực phẩm bẩn đã làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh, giảm sức lao động, học tập, kiềm hãm sức tăng
trưởng kinh tế, văn hóa xã hội, làm gia tăng nỗi bất an của người dân, sâu xa hơn còn ảnh hưởng
đến chất lượng duy trì và phát triển nòi giống.
- Ý thức đạo đức nghề nhà giáo: Giáo dục tức là giải phóng. Mỗi quốc gia đều cần hoàn thiện nền giáo
dục của mình để đào tạo ra những lớp măng mới để kiến thiết và phát triển đất nước. Vì thế, những
người làm nghề nhà giáo có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo, dẫn dắt những mầm non tương lai
của đất nước. Riêng về ý thức đạo đức của nghề nhà giáo, Nhà nước đã có những quy định rất rõ ràng
về đạo đức nghề nhà giáo.
Thông tư 30/2009 BGDDT quy định 5 tiêu chí và 25 tiêu chuẩn về nghề nghiệp giáo viên trung học.
Trong đó Tiêu chuẩn 1 quy định:
+ Tiêu chí 2 quy định về đạo đức nghề nghiệp: Yêu nghề, gắn bó với nghề dạy học; chấp hành Luật
Giáo dục, điều lệ, quy chế, quy định của ngành; có ý thức tổ chức kỉ luật và tinh thần trách nhiệm; giữ
gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; sống trung thực, lành mạnh, là tấm gương cho học sinh.
+ Tiêu chí 3 quy định về cách ứng xử với học sinh: Thương yêu, tôn trọng, đối xử công bằng với học
sinh, giúp học sinh khắc phục khó khăn để học tập và rèn luyện tốt.
+ Tiêu chí 4 quy định về cách ứng xử với đồng nghiệp: Đoàn kết, hợp tác, cộng tác với đồng nghiệp;
có ý thức xây dựng tập thể tốt để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục.
=> Có thể thấy mỗi ngành nghề đều phải tôn trọng những quy chuẩn đạo đức chung của xã hội và những
giá trị đạo đức riêng của từng ngành nghề đó. Ý thức đạo đức phát triển song song và là điều kiện cần
để phát triển kinh tế, cơ sở vật chất.
III. Ý thức nghệ thuật/ Ý thức thẩm mỹ:
1. Khái niệm:
- Ý thức thẩm mĩ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức
và sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật là hình thức
biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
- Nếu khoa học và triết học phản ánh thế giới bằng khái niệm, bằng phạm trù và quy luật, thì nghệ thuật
không phản ánh thế giới một cách trực tiếp mà thông qua các hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ
thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái chung trong cái riêng; là sự nhận thức cái bản chất trong các hiện
tượng, cái phổ biến trong cái cá biệt nhưng mang tính điển hình.
2. Kết cấu:
Ý thức thẩm mĩ bao gồm: cảm xúc, thị hiếu, quan điểm, lý tưởng thẩm mỹ. Nó tồn tại ở tất cả hoạt
động trong đời sống thường ngày của con người, đặc biệt là lĩnh vực sáng tạo.
Hình tượng nghệ thuật là một dạng thức phản ánh khác về chất với các thức phản ánh khác của hoạt
động nhận thức, – đó là sự phản ánh tình cảm – lý trí với cách thể hiện vừa cảm tính lại vừa cụ thể, vừa
nói được nội dung tư tưởng xã hội mà nó phản ánh. Mỗi hình thái ý thức xã hội đều có một đối tượng
phản ánh nhất định. Chẳng hạn, ở triết học, đó là mối quan hệ giữa tồn tại và ý thức; ở đạo đức, là mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội, v.v… Còn ở nghệ thuật, đối tượng đó vừa là quan hệ của con người với
hiện thực, vừa là chính bản thân con người và xã hội. Chính các đặc trưng này đã làm cho nghệ thuật
có khả năng đặc biệt trong việc thể hiện đời sống tinh thần của con người, các khả năng mà không một
loại hình phản ánh nào khác có thể đảm đương được.
3. Nguồn gốc:
- Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ hình thành rất sớm, từ trước khi xã hội có sự phân chia giai
cấp, cùng với sự ra đời của các hình thái nghệ thuật. Quá trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao
động của con người, với thực tiễn xã hội.
- Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật đã xuất hiện từ thời nguyên thủy khi con người đã biết sản xuất
những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng,.. Hay ghi lại những gì mình quan sát được trong cuộc
sống hàng ngày lên các vách đá, là tiền thân của nghệ thuật vẽ tranh sau này.
-Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng thống trị là tư tưởng của giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất
thống trị, và đồng thời với nó là sự tồn tại của nghệ thuật thống trị. Bên cạnh nền nghệ thuật thống trị,
những giai cấp bị trị cũng xây dựng nền nghệ thuật của mình, phản ánh những điều kiện sống, những
quyền lợi, nguyện vọng và lý tưởng của giai cấp mình. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước, việc xây dựng con người mới Việt Nam thấm nhuần lý tưởng thẩm mỹ Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn gắn bó mật thiết với xây dựng thị hiếu nghệ thuật tốt đẹp xứng đáng với giai
cấp công nhân, với thời đại, đáp ứng các nhu cầu thẩm mỹ ngày càng tăng của công chúng. Đảng ta,
trong nhiều văn kiện, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ V (khóa VIII), đã hướng xây dựng một nền
nghệ thuật xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
4. Đặc điểm:
- Nảy sinh trong quá trình lao động và phát triển cùng trong sự gắn bó với hoạt động sản xuất của con
người, không bao giờ tách khỏi sự tồn tại của xã hội. Khi con người tạo ra sản phẩm, con người sẽ hài
lòng vì nó thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như cho họ niềm vui, khoái cảm bởi tài nghệ của mình. Tuy
nhiên, mọi sự phát triển của thẩm mỹ đều do điều kiện xã hội quy định.
- Phản ánh tồn tại xã hội, luôn bám sát đời sống. Trong xã hội có phân chia giai cấp thì nghệ thuật mang
tính giai cấp và chịu sự chi phối của các quan điểm chính trị, của các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên, nghê
thuật hấp thụ mọi thành tựu của nhân loại làm biến dạng và biến đổi chúng theo cách của nghệ thuật,
những hình tượng nghệ thuật đôi khi không đơn thuần là các hình tượng nghệ thuật nữa mà có thể trở
thành những tượng trưng cho văn hóa có ý nghĩa và giá trị cho toàn nhân loại: Hamlet, Romeo và Juliet,
Đônkihôtê...
Có hình thức tư duy đặc thù là tư duy hình tượng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người có
hai cách để nắm vững bản chất của hiện tượng: trừu tượng hóa và hình tượng hóa để cụ thể, sinh động
hơn. Điều khác biệt nhất giữa nhà kiến trúc tồi nhất và con ong khéo léo là ở chỗ con người thì phải xây
dựng cái tổ đó trong óc mình trước khi xây dựng tổ ong. Con người có ý thức trước về những hành động
mình sẽ làm. Việc hình dung, tưởng tượng trước mục đích của lao động là phẩm chất quan trọng của tư
duy - ý thức xã hội.
Định hướng thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh từ tác phẩm nghệ thuật chính là nội dung định hướng sức tác
động đặc thù của hình tượng nghệ thuật mang giá trị sâu sắc, ý nghĩa nhân văn cao qúy, đáp ứng nhu
cầu thưởng thức của công chúng. Có thể nói, định hướng văn hóa văn nghệ đúng đắn của Đảng, sự rèn
luyện sâu sắc về thị hiếu thẩm mỹ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nền nghệ thuật mới –
nghệ thuật xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, định hướng thị hiếu ấy không
chỉ dừng lại ở phương châm hướng dẫn cho các chủ thể sáng tạo thẩm mỹ, mà nó còn tham gia tích cực
vào hoạt động đánh giá, sáng tạo để đối tượng hóa các thị hiếu tốt đẹp khi thưởng thức và tiếp nhận tác
phẩm nghệ thuật của công chúng.

Từ góc độ mỹ học, triết học việc định hướng thị hiếu nghệ thuật có liên quan mật thiết với cả nhu cầu
thưởng thức, đánh giá, biểu diễn và sáng tạo nghệ thuật và hoạt động tinh thần nói chung của con người.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, do sự phức tạp và đan xen của các loại thị
hiếu nghệ thuật khác nhau, nhất là việc mở rộng giao lưu văn hóa, nghệ thuật với nưóc ngoài, mỹ học
Mác – Lênin cần tăng cường giáo dục thị hiếu nghệ thuật khác nhau, giáo dục thị hiếu bằng những định
hướng thiết thực gắn liền với quá trình xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5. Vai trò:
- Các hình tượng nghệ thuật là các lĩnh vực mà con người muốn thể hiện cái “đẹp” ngày một phong phú
về hình thức sâu sắc về nội dung, con người ngày một quan tâm đến nghệ thuật nhiều hơn. Nghệ thuật
lúc này không chỉ đơn thuần là một yếu tố nhận thức thể hiện cải đen mà nó đã phát triển thành hẳn một
lĩnh vực khác Việc nhận thức đúng đắn vai trò của nghệ thuật cũng chính là yếu tố giúp con người phát
triển lý tính hoàn thiện chính mình.
- Ý thức nghệ thuật là sự biểu hiêng cho tầng sâu kín nhất của con người nơi mà khoa học chưa thể
vươn tới được, đó là nơi con người là con người với những bí ẩn kì diêng của tự nhiên. Có tác động tích
cực đến sự trải nghiệm, xúc cảm, tình cảm, lý trí, là nhân tố kích thích mạnh mẽ hoạt động của con
người và qua đó thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Nghệ thuật và những giá trị nghệ thuật cao đó còn có tác
dụng giáo dục các thế hệ tương lai, góp phần hình thành ở họ thế giới quan và vốn văn hóa tiên tiến.
Trước sự xâm nhập của nhiều yếu tố ngoại lai không phù hợp, việc giáo dục một ý thức thẩm mỹ đúng
sẽ thúc đẩy con người sống lành mạnh, văn minh và có ích hơn.
- Đối với đất nước: Văn học nghệ thuật cũng như người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, làm phong phú,
sâu sắc hơn tư tưởng và đời sống của nhân dân. Đảng ta đã áp dụng những chính sách để đẩy mạnh hơn
nữa hoạt động của các văn, nghệ sĩ, đề cao vai trò của văn nghệ trong sự phát triển và tồn vong của dân
tộc.
6. Ví dụ:
- Càng ngày chúng ta càng chú ý nhiều hơn về mỹ học sinh hoạt. Sinh hoạt bao gồm: sắp xếp nhà ở,
trang phục, đồ ăn, thức uống cách thức nghỉ ngơi, hưởng thụ cuộc sống,... đều phải đem đến cho con
người cảm xúc thẩm mỹ.
- Hay có thể thấy biểu hiện của ý thức nghệ thuật rõ ràng nhất trong lĩnh vực sáng tạo văn học, hội họa.
Khi các nhà khoa học nhìn tự nhiên thì tập trung vào những gì mà nó đang có, thấy ở trước mắt như hệ
sinh thái, tầng khí quyển, sự đa dạng và tiến hóa của các loài sinh vật sống trong đó nhưng với các nhà
văn, nhà thơ họ lại quan tâm nhiều đến vẻ đẹp tuyệt diệu của nó hay thậm chí là cảm xúc mà nó đem
lại.

You might also like