You are on page 1of 70

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

KHOA QTKD

GV: ThS. PHẠM THỊ UYÊN THI

TẬP BÀI GIẢNG

§ Môn học: ĐẠO ĐỨC TRONG CÔNG VIỆC


Mã môn học: DTE 201
§ Số tín chỉ: 02 – Lý thuyết: 02 – Thực hành: 0
§ Dành cho sinh viên ngành: Tất cả các ngành
§ Khoa/Trung tâm: Các Khoa
§ Bậc đào tạo: Đại học
§ Năm học: 2021 - 2022

-1-
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH

Mục tiêu Chương:


Sau khi học xong chương này, sinh viên sẽ:
- Phát biểu được khái niệm về đạo đức và đạo đức kinh doanh
- Giải thích tầm quan trọng của đạo đức trong môi trường kinh
doanh
- Phân biệt giữa đạo đức và pháp luật
- Hiểu và giải thích về quan điểm đạo đức của thuyết vị lợi
- Giải thích thuyết công bằng Rawlsian là một học thuyết bình đẳng
- Vận dụng kiến thức cơ bản về đạo đức kinh doanh để xem xét các
tình huống trong thực tiễn
1.1. Khái niệm về đạo đức kinh doanh
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc,
chuẩn mực của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình
sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người, vì sự tiến bộ của xã hội
trong mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội. Đạo đức là
một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức đã xuất hiện hơn 26
thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Có rất
nhiều quan điểm đưa ra khái niệm về đạo đức:
- Theo gốc từ Latinh:
Đạo đức - Moralital có nghĩa là luân lý - bản thân mình cư xử.
- Theo gốc từ Hy lạp:
Đạo đức - Ethigos có nghĩa là đạo lý - người khác muốn ta hành xử và
ngược lại ta muốn họ.
- Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại, bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức:

-2-
"Đạo" có nghĩa là con đường, đường đi, đường sống của con người,
"Đức" có nghĩa là đức tính, nhân đức, các nguyên tắc luân lý.
Do vậy, theo quan điểm này thì đạo đức là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó
thuộc về vấn đề tốt - xấu, đúng – sai. Đạo đức gắn liền với nền văn hoá, tôn
giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và luật lệ xã hội.
- Theo từ điển Điện tử American Heritage Dictionary:
Từ giác độ khoa học, “đạo đức là một bộ môn khoa học nghiên cứu về
bản chất tự nhiên của cái đúng - cái sai và phân biệt khi lựa chọn giữa cái đúng
- cái sai, triết lý về cái đúng - cái sai, quy tắc hay chuẩn mực chi phối hành vi
của các thành viên cùng một nghề nghiệp”
a. Đặc điểm của đạo đức - Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội:
- Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương.
- Nội dung các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ
thể.
- Chức năng cơ bản của đạo đức là điều chỉnh hành vi của con người
theo các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận
bằng sức mạnh của sự thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã
hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục.
Đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với
bản thân cũng như đối với người khác và xã hội. Vì thế đạo đức là khuôn mẫu,
tiêu chuẩn để xây dựng lối sống, lý tưởng mỗi người.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức gồm: độ lượng, khoan dung,
chính trực khiêm tốn, dũng cảm, trung thực, tín, thiện, tàn bạo, tham lam, kiêu
ngạo, hèn nhát, phản bội, bất tín, ác…
b. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức:
Khi nghiên cứu đạo đức chúng ta cần quan tâm đến một số phạm trù cơ
bản của đạo đức.
b1. Ý thức nghĩa vụ và tình cảm nghĩa vụ:

-3-
Nghĩa vụ của đạo đức thể hiện ở chỗ khi con người tham gia vào hoạt
động sản xuất và hoạt động sống, anh ta ý thức được trách nhiệm của bản thân
đối với người khác và đối với cộng đồng. Từ thế kỷ 17-18, các nhà duy vật
Pháp đã chỉ rõ “Nghĩa vụ đạo đức là cái tất yếu đối với tất cả mọi người thực
hiện trách nhiệm của mình”. Nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện rất sớm và nó tồn
tại với thời gian, tồn tại qua các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người.
Điều đó cho thấy, ở bất kỳ chế độ xã hội nào, thời kỳ phát triển xã hội nào thì
nghĩa vụ cũng rất cần thiết.
Con người sống trong xã hội ai cũng có những nhu cầu và lợi ích riêng,
đồng thời ai cũng muốn được thoả mãn những nhu cầu và lợi ích ấy. Muốn vậy
con người phải lao động, sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho
cuộc sống của mình. Lao động và cuộc sống xã hội đòi hỏi sự bình đẳng, đoàn
kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau nhằm đạt hiệu quả lao động cao và có đời sống
tốt đẹp hơn. Vì vậy, mỗi cá nhân phải có ý thức nghĩa vụ là kết hợp hài hoà
những nhu cầu và lợi ích của mình với nhu cầu và lợi ích của người khác, của
toàn xã hội. Trong quá trình giao tiếp xã hội, con người nảy sinh dần tình cảm
nghĩa vụ, tôn trọng đối với nhu cầu và lợi ích của người khác, của xã hội, biết
tự nguyện đặt nhu cầu và lợi ích cá nhân trong nhu cầu và lợi ích chung của
toàn xã hội, thôi thúc con người thực hiện nghĩa vụ của mình với xã hội.
b1. Nghĩa vụ pháp lý và nghĩa vụ đạo đức:
Trong xã hội, điều chỉnh hành vi của con người là pháp luật, phong tục,
tập quán, tôn giáo và đạo đức. Pháp luật quy định rõ cái gì được làm và cái gì
không được làm, quy định các chuẩn mực hành vi của con người trong xã hội.
Tuy nhiên trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, thôn xóm, gia đình ...
đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức quy
định các chuẩn mực hành vi mà con người cảm nhận rõ mình có nghĩa vụ phải
tự giác tuân theo dù không có quy định của pháp luật.
b3. Hành vi đạo đức và tình cảm đạo đức:
Con người sống là phải có hành động. Hành động của con người có loại
do bản năng chi phối, là phản xạ tự nhiên đối với sự kích thích bên ngoài gọi là

-4-
hành động bản năng. Nhưng hầu hết các hành động của con người lại là những
hành động tự giác, có mục đích rõ rệt, có suy tính và ít nhiều hình dung được
kết quả của nó. Những hành động này là hành động có động cơ và được gọi là
hành vi của con người.
Hành vi đạo đức là những hành vi của con người có động cơ bên trong
phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực đạo đức của xã hội, của nhân dân,
những động cơ cao thượng, vô tư, xuất phát từ sự cảm thông và tình thương
yêu thực sự đối với người khác.
Con người sống trong xã hội, ngoài yêu cầu hành động còn có tình cảm,
đó là những nhân tố bên trong của tâm hồn con người, thể hiện thái độ cảm
xúc của con người đối với hiện thực khách quan.
Tình cảm của con người bao gồm: Tình cảm trí tuệ (lòng ham hiểu biết,
sự say mê khoa học, say mê nghiên cứu tìm tòi ...); tình cảm thẩm mỹ (yêu âm
nhạc, nghệ thuật, văn học, yêu cái đẹp, yêu sự hài hoà ...); tình cảm đạo đức
(lòng nhân ái, yêu sự công bằng, yêu lao động, ghét ăn bám bóc lột, yêu dân
chủ và bình đẳng, ghét áp bức bất công ...)
Tình cảm đạo đức là những tình cảm của con người do các quan niệm
đạo đức, các chuẩn mực đạo đức chi phối, trở thành động lực bên trong của
các đức tính, nhu cầu thực hiện hành vi đạo đức, là động cơ của hành vi đạo
đức.
Tình cảm đạo đức khi thì có ý nghĩa tích cực (lòng yêu thương, đồng
cảm, quý mến ...), khi thì lại có ý nghĩa tiêu cực (lòng ghen ghét, đố kỵ ...).
b4. Lương tâm:
Tình cảm đạo đức của mỗi người và năng lực tự đánh giá hành vi đạo
đức của chính mình, đó là lương tâm. Khi con người có tình cảm đạo đức
mạnh, luôn thực hiện những hành vi đạo đức tốt thì lương tâm con người đó
trong sáng và yên ổn. Khi con người có tình cảm đạo đức chưa đủ mạnh, có
lúc còn có những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội, có những
hành động sai lầm thì lương tâm vị cắn rứt, không yên ổn.

-5-
Lương tâm là một tình cảm tốt đẹp, thôi thúc con người vươn lên những
giá trị đạo đức đẹp đẽ, cao thượng, phải luôn luôn phấn đầu giữ lương tâm
trong sạch.
b5. Nhân phẩm và danh dự:
Nhân phẩm là giá trị đạo đức cao đẹp của mỗi người, là điều mà ai cũng
quan tâm và chăm lo giữ gìn. Giữ được nhân phẩm ở mọi nơi, mọi lúc trong
mọi hoàn cảnh là một điều khó khăn, đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên rèn
luyện.
Nhân phẩm (còn gọi là phẩm giá) của con người là toàn bộ những giá trị
đạo đức cao đẹp mà người đó đã đạt được, là giá trị làm người của mỗi con
người.
Người có nhân phẩm phải là người có những hiểu biết tốt đẹp sau :
- Có lương tâm trong sáng, động cơ hành vi hợp đạo đức, có nhu cầu
tinh thần và xã hội phát triển cao, lành mạnh.
- Thực hiện tốt các nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội, với người khác.
- Thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Xã hội đánh giá cao người có nhân phẩm, được kính trọng và có vinh dự
lớn. Người không có nhân phẩm sẽ bị xã hội coi thường, thậm chí khinh rẻ.
Danh dự là nhân phẩm của con người đã được xã hội cũng như chính
bản thân người đó đánh giá, công nhận. Mỗi người có quyền đánh giá công
nhận nhân phẩm của mình, nhưng sự đánh giá và công nhận của xã hội thường
vẫn có ý nghĩa quyết định. Danh dự có ý nghĩa rất lớn đối với con người. Trừ
một số kẻ đạo đức xấu. Người ta ai cũng có danh dự mà chính mỗi người phải
giữ gìn và mọi người trong xã hội phải tôn trọng, không được xúc phạm. Giữ
gìn danh dự là sức mạnh tinh thần thúc đẩy con người làm điều tốt và ngăn cản
con người làm điều xấu.
Con người cũng phải có lòng tự trọng, chăm lo giữ gìn nhân phẩm và
danh dự của mình đồng thời luôn luôn tôn trọng nhân phẩm, danh dự của
người khác, không được có hành vi thô bạo xúc phạm đến những giá trị đạo

-6-
đức và nhân phẩm của người khác. Người có lòng tự trọng sẽ được xã hội quý
trọng và sự quý trọng của xã hội càng củng cố lòng tự trọng của mỗi cá nhân.
b6. Hạnh phúc và tình yêu:
Trong cuộc sống của cá nhân, những kích thích bên ngoài, những tác
động của hiện thực khách quan đã ảnh hưởng tới con người và gây ra những
cảm xúc rung cảm, làm cho con người vui sướng hoặc đau khổ ở nhiều mức độ
khác nhau, tuỳ theo con người được thoả mãn hoặc không thoả mãn nhu cầu
lợi ích, những mong ước chủ quan để đảm bảo sự sống và sự phát triển của
mình.
Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng, bao gồm : nhu cầu vật
chất (như ăn, mặc, ở, đi lại ...) nhu cầu tinh thần (như học tập, nghiên cứu sáng
tạo, thưởng thức văn hoá nghệ thuật ...), nhu cầu giao tiếp và hoạt động xã hội.
Con người luôn vươn tới sự thoả mãn nhu cầu vì khi đã thoả mãn được nhu
cầu này thì con người lại nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn
đòi hỏi được thoả mãn tiếp.
Khi con người được đáp ứng nhu cầu và lợi ích của mình thì con người
có cảm xúc vui sướng, thích thú, khoan khoái ... và lúc đó con người cảm thấy
hạnh phúc.
Cảm xúc của con người luôn gắn với từng cá nhân cụ thể cho nên nói
đến hạnh phúc trước tiên là nói đến hạnh phúc cá nhân. Tuy vậy con người
sống trong xã hội phải có nghĩa vụ đối với mọi người đem lại lợi ích và hạnh
phúc cho mọi người, phục vụ lợi ích và hạnh phúc của xã hội. Vì vậy con
người phải chăm lo xây dựng hạnh phúc cho mình và cho mọi người.
Lòng yêu nước, tình yêu đất nước là một tình cảm đã có từ lâu đời, nó
được lớn dần lên cùng với sự mở rộng quan hệ của con người với đất nước.
Qua nhiều thế hệ tình yêu đất nước được củng cố, được kế thừa những giá trị
tinh hoa và được nâng lên mãi, có xu hướng mong muốn đem toàn bộ hoạt
động của mình phục vụ lợi ích của Tổ Quốc.
Tình yêu đất nước được bắt nguồn từ :

-7-
- Tình yêu đối với những người thân thiết nhất, gần gũi nhất của mỗi
người trong xã hội như : Tình yêu cha mẹ, vợ con, anh, chị em, họ
hàng, tình yêu lứa đôi và những người xung quanh mình.
- Tình yêu quê hương, lúc đầu là thôn xóm, làng xã nơi mình sinh ra,
nơi gắn bó những kỷ niệm thời thơ ấu. Khi con người lớn lên, hoạt
động xã hội mở rộng thì quê hương là Huyện, Tỉnh hoặc Thành phố
của mình và lớn nhất là Đất nước.
- Từ tình yêu người thân, yêu xung quanh và yêu quê hương, mỗi
người tiến dần đến tình yêu đất nước, yêu nhân dân.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực
bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Trong đời sống xã hội, đòi hỏi
tất yếu mỗi người phải ý thức được ý nghĩa, mục đích hoạt động của mình
trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Những hoạt động đó thường có sự chi
phối của những quan hệ giữa các cá nhân, cá nhân và xã hội. Những mối quan
hệ đó quy định giới hạn nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của cộng đồng và xã
hội. Những quy định này tự giác tạo thành động lực cho phát triển xã hội. Đó
là các quy tắc, chuẩn mực hoàn toàn tự giác trong hành động của mỗi cá nhân,
trong tất cả các quan hệ xã hội. Nói cách khác, đó chính là đạo đức của con
người trong xã hội.
1.1.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh
Khái niệm kinh doanh:
Kinh doanh (tiếng Anh: Business) là hoạt động của cá nhân hoặc tổ
chức nhằm mục đính đạt lợi nhuận qua một loạt các hoạt động như: quản trị,
tiếp thị, tài chính, kế toán, sản xuất.
Kinh doanh là một trong những hoạt động phong phú nhất của loài
người. Hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh
như công ty, tập đoàn, tư nhân... nhưng cũng có thể là hoạt động tự thân của
các cá nhân.
Tại Việt Nam, theo điều 4 Luật doanh nghiệp số 68/2014:

-8-
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Khái niệm Đạo đức kinh doanh:
Như đã đề cập ở phần đầu về khái niệm đạo đức thì khái niệm về kinh
doanh được hiểu là hoạt động gắn liền với các lợi ích kinh tế, do vậy khía cạnh
thể hiện trong ứng xử về đạo đức không hoàn toàn giống với các hoạt động
khác: Tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh tế là những đức tính tốt của
giới kinh doanh nhưng nếu áp dụng sang các lĩnh vực khác như giáo dục, y
tế... hoặc sang các quan hệ xã hội khác như vợ chồng, cha mẹ con cái thì đó lại
là những thói xấu bị xã hội phê phán. Điều cần lưu ý ở đây là đạo đức kinh
doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
xã hội chung.
Phạm trù quyết định đạo đức trong kinh doanh không chỉ giới hạn ở các
loại quyết định tạo ra những hậu quả xã hội. Trong mỗi thời điểm, mỗi nhân
viên và đặc biệt là người quản lý phải đối mặt với một vấn đề mà đòi hỏi phải
đưa ra một quyết định đạo đức. Không phải quyết định nào đưa ra cũng đã
được quy chuẩn bởi những điều luật hay nguyên tắc của công ty, xã hội hay
pháp luật. Vì vậy, để đưa ra một quyết định có trách nhiệm điều này còn tùy
thuộc vào giá trị nhân thân và nguyên tắc của từng cá nhân. Đôi khi những
quyết định của nhà quản lý chỉ xoay quanh các vấn đề tác động đến toàn thể
công ty, hoặc góp phần đưa ra những quyết định giúp thiết lập tiền lệ của
doanh nghiệp và cho xã hội. Hay nói một cách khác đạo đức kinh doanh là
việc đưa ra quyết định vì tính liêm chính cá nhân và vì trách nhiệm xã hội.
Có rất nhiều quan điểm đưa ra về đạo đức kinh doanh:
- Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác
dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các
chủ thể kinh doanh.
- Đạo đức kinh doanh là những nguyên tắc và chuẩn mực có tác dụng
hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh.

-9-
- Đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đức được vận dụng vào
trong hoạt động kinh doanh.
- Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp
- Đạo đức kinh doanh là một quy trình đưa ra quyết định có trách
nhiệm
Ø Theo Stoner (1989), ông đã nêu khá rõ: đạo đức kinh doanh là khi và
chỉ khi:
- Xem xét quyền và nghĩa vụ các bên liên quan, áp dụng các nguyên
tắc nhân bản trong quá trình ra quyết định quản trị kinh doanh và
- Quan tâm đến tác động của quyết định lên người khác cả bên ngoài
lẫn bên trong doanh nghiệp.
Như vậy thực thi đạo đức kinh doanh trước hết phái tuân thủ pháp luật.
Nhưng vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật là tuân thủ các nguyên tắc mà con
người và xã hội chấp nhận. Hiểu theo cách này, chúng ta loại trừ các doanh
nghiệp vi phạm pháp luật, chúng ta chỉ quan tâm, phân tích những doanh
nghiệp vẫn tuân thủ pháp luật nhưng có đảm bảo đạo đức kinh doanh hay
không.
Những năm 80, 90 của thế kỷ trước, những người bắt đầu làm kinh
doanh và những sinh viên đã có những hoài nghi về đạo đức kinh doanh. Họ
cho rằng đạo đức kinh doanh giống như tôm voi – sự ghép nối nghịch lý. Tuy
nhiên, có một số người lại cho rằng đạo đức kinh doanh là sự kết hợp của tình
cảm và ý kiến cá nhân nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Thế thì, ý
kiến nào đúng, ý kiến nào sai? Tuy nhiên, thái độ đó không còn trong môi
trường kinh doanh ngày nay. Trong thời điểm hiện tại, các công ty không còn
quan tâm nhiều đến việc tại sao và liệu có nên xem đạo đức là một phần trong
kinh doanh hay không, mà điều họ quan tâm chính là việc họ nên dựa theo
những giá trị và nguyên tắc nào khi đưa ra các quyết định kinh doanh và nên
kết hợp đạo đức với kinh doanh như thế nào cho đúng. Có thể nói rằng, sinh
viên chưa quen với khái niệm và những phạm trù đạo đức cơ bản, họ chưa
được trang bị kỹ lưỡng về những vấn đề đạo đức và chưa chuẩn bị sẵn sàng về

- 10 -
đạo đức phát sinh trong những ngành nghề đã chọn như kế toán, tài chính,
ngân hàng, kinh doanh….
1.2 . Vai trò của đạo đức kinh doanh
1.2.1. Đạo đức kinh doanh trong hoạt động doanh nghiệp
v Trách nhiệm với xã hội
- Tuân thủ luật pháp xã hội
- Chất lượng hàng hoá
- Với khách hàng, thị trường, quảng cáo, cạnh tranh
- Các cơ quan hữu quan
- Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên
- Tham gia cứu trợ xã hội…
v Trách nhiệm trong nội bộ doanh nghiệp
- Với người lao động: đãi ngộ, giao tiếp, lãnh đạo…
- Với cổ đông: huy động vốn, thông tin, chia lãi…
1.2.2. Vai trò của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp
- Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của các chủ thể
kinh doanh
- Đạo đức kinh doanh góp phần vào chất lượng của doanh nghiệp.
- Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết va tận tâm của nhân
viên.
- Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng.
- Đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền kinh tế
quốc gia.
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đạo đức kinh doanh
1.3.1. Đạo đức kinh doanh và việc đưa ra quyết định có đạo đức
Đạo đức kinh doanh là thể hiện qua việc đưa ra các quyết định có đạo
đức. Không có một cuốn sách nào mà có thể hình thành để tạo nên những con
người có trách nhiệm đạo đức hoặc thay đổi hành vi của họ theo một hướng
nào đó. Tuy nhiên, sinh viên có thể học tập và rèn luyện cách tư duy có trách

- 11 -
hiệm. Có thể thấy rằng, những quyết định tuân thủ theo một quy trình lập luận
sâu sắc và kỹ lưỡng thì sẽ có những quyết định có trách nhiệm và đạo đức.
Hay nói cách khác, khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra những quyết định có trách
nhiệm thì chúng ta sẽ cư xử có đạo đức hơn.
Vậy, mục đích của khóa học đạo đức kinh doanh là gì?
Một mặt, đạo đức ám chỉ đến những nguyên tắc chuẩn mực đã tồn tại
trong nhiều thế kỷ nên có thể nói rằng việc học lịch sử hình thành các nguyên
tắc này sẽ là một trong số những mục tiêu chính của lớp học đạo đức. Do đó,
trong khóa học đạo đức, sinh viên có thể sẽ phải học về những nhà đạo đức vĩ
đại trong lịch sử như Aristotle, Joh Stuart Mill và Immanuel Kant. Như các
môn học khác, phương pháp dạy và học môn đạo đức sẽ chú trọng vào hàm
lượng thông tin của lớp học
Tuy nhiên, theo một số nhà quan sát, việc học các lý thuyết đạo đức và
hiểu lịch sử đạo đức vẫn chưa đủ. Nhiều người, từ các công ty đang tìm kiếm
và thuê sinh viên mới tốt nghiệp về làm, đến các giáo viên và sinh viên kinh
doanh, hy vọng lớp học đạo đức sẽ tập trung vào hành vi đạo đức, chứ không
chỉ vào các thông tin và các học thuyết đạo đức. Nói chung, lớp học đạo đức là
cái có thể ngăn ngừa các tình huống của tổ chức trong tương lại. Đạo đức
không chỉ nói đến những nguyên tắc chuẩn mực mà là con người đã tiếp thu
những nguyên tắc chuẩn mực này như thế nào, hay nói cách khác là con người
nên sống như thế nào cho đúng.
1.3.2. Đạo đức kinh doanh chính là tính chính trực cá nhân và trách
nhiệm xã hội
Ở mức độ cơ bản nhất, đạo đức đề cập đến cách chúng ta hành động và
cách chúng ta sống. Phần lớn, mọi người thường đặt câu hỏi cho mình: chúng
ta nên sống như thế nào? Theo nghĩa này, thì đạo đức mang tính thực tiễn, luôn
song hành với cách chúng ta hành động, lựa chọn, cư xử và làm việc. Các triết
gia thường nhấn mạnh, đạo đức là quy chuẩn, là những lập luận nền tảng cho
các hành động của chúng ta. Đồng thời, các môn học khoa học xã hội như: tâm

- 12 -
lý học và xã hội học đều tìm hiểu về quy trình đưa ra quyết định và hành động
của con người
1.3.3. Đạo đức và pháp luật
Sự khác biệt giữa đạo đức và pháp luật:
- Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng
chế mà mang tính tự nguyện, các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành
văn bản pháp quy.
- Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật.
Pháp luật chỉ điều chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ
nhà nước; còn đạo đức bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. Pháp luật
chỉ làm rõ những mẫu số chung nhỏ nhất của các hành vi hợp lẽ phải, hành vi
đạo lý đúng đắn tồn tại bên trên luật.
1.3.4. Đạo đức, lập luận thực tiễn
Đạo đức ám chỉ đến các hành động, lựa chọn, quyết định mang tính thực
tiễn và quy chuẩn. Theo cách tiếp cận này, đạo đức như một phần lập luận thực
tiễn – lập luận này lý giải chúng ta nên làm gì và nó khác với lập luận lý thuyết
– là lập luận lý giải những gì chúng ta nên tin.
1.4. Những biểu hiện của đạo đức trong kinh doanh
1.4.1. Trong mối quan hệ với các đối tượng hữu quan
Đối tượng hữu quan bao gồm cả những người bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp. Những người bên trong là các công nhân viên chức, kể cả ban
giám đốc và các ủy viên trong hội đồng quản trị. Những người bên ngoài
doanh nghiệp là các cá nhân hay tập thể khác gây ảnh hưởng tới các hoạt động
của doanh nghiệp như khách hàng, nhà cung cấp, các cơ quan nhà nước, đối
thủ cạnh tranh, cộng đồng địa phương.
1.4.1.1. Chủ sở hữu
Chủ sở hữu với tư cách là người đại diện và được ủy thác, phải có trách
nhiệm nghĩa vụ kinh tế, pháp lý, đạo lý nhất định. Không nhận thức được
những nghĩa vụ này thì việc khai thác và sử dụng các nguồn lực tài chính có

- 13 -
thể gây ra những vấn đề đạo đức. Các vấn đề đạo đức liên quan đến chủ sở hữu
bao gồm:
- Mâu thuẫn giữa nhiệm vụ của nhà quản lý đối với chủ sở hữu và lợi
ích của chính họ, và sự tách biệt giữa việc sở hữu và điều khiển doanh nghiệp
- Chủ sở hữu có nghĩa vụ với xã hội. Nhiều chủ sở hữu rất quan tâm đến
vấn đề môi trường nhưng một số người khác cho rằng: môi trường không có
liên quan gì đến kinh doanh và phớt lờ hoặc vi phạm luật bảo vệ môi trường
bởi họ biết rằng làm theo luật này sẽ rất tốn kém.
1.4.1.2. Người lao động
Các vấn đề đạo đức liên quan đến người lao động bao gồm cáo giác,
quyền sở hữu trí tuệ, bí mật thương mại, điều kiện, môi trường lao động và
lạm dụng của công.
- Vấn đề cáo giác:
Cáo giác là việc một thành viên của tổ chức công bố những thông tin
làm chứng cứ về những hành động bất hợp pháp hay vô đạo đức của doanh
nghiệp.
Những người cáo giác là những nhân viên rất trung thành, họ gắn bó
chặt chẽ và sâu sắc với doanh nghiệp, những sai sót xảy ra đối với doanh
nghiệp được họ coi là một sự mất mát, họ cáo giác với một động cơ trong sáng
và họ tin rằng họ sẽ được lắng nghe, được tin tưởng
Thiệt hại đối với bản thân người cáo giác đôi khi rất lớn, vì vậy cần có ý
thức bảo vệ người cáo giác trước những số phận không chắc chắn. Điều này
đòi hỏi phải có sự phối hợp giải quyết của các cơ quan chức năng.
Cần lưu ý động cơ của người cáo giác. Cáo giác có thể bị cá nhân lợi
dụng vì động cơ cá nhân, có thể người cáo giác chỉ lợi dụng mượn danh vì lợi
ích xã hội, lợi ích doanh nghiệp để đạt lợi ích riêng của mình, nhằm trả thù, hạ
thấp uy tín, chứng tỏ cá nhân .
- Bí mật thương mại:
Bí mật thương mại là những thông tin được sử dụng trong quá trình tiến
hành hoạt động kinh doanh không được nhiều người biết tới nhưng lại có thể

- 14 -
tạo cơ hội cho người sở hữu nó có một lợi thế so với những đối thủ cạnh tranh
không biết hoặc không sử dụng những thông tin đó.
Bí mật thương mại cần phải được bảo vệ vì nó là một loại tài sản đặc
biệt mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu bí mật thương mại bị tiết lộ sẽ
dẫn đến hậu quả làm mất lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Điều kiện, môi trường làm việc:
Người lao động có quyền làm việc trong một môi trường an toàn và vệ
sinh, có quyền được bảo vệ tránh mọi nguy hiểm, có quyền được biết và được
từ chối các công việc nguy hiểm. Nếu lãnh đạo doanh nghiệp không cung cấp
đầy đủ các trang thiết bị an toàn cho người lao động, không thường xuyên
kiểm tra xem chúng có an toàn không, không đảm bảo các tiêu chuẩn cho phép
về môi trường làm việc dẫn đến người lao động gặp tai nạn, bị chết, bị thương
tật ... thì hành vi của người lãnh đạo ở đây là vô đạo đức.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm những khoản chi phí này dẫn
đến người lao động phải làm việc trong một điều kiện, môi trường bấp bênh.
Điều này cũng là phi đạo đức.
- Lạm dụng của công, phá hoại ngầm.
Nếu chủ doanh nghiệp đối xử với nhân viên thiếu đạo đức (không công
bằng, hạn chế cơ hội thăng tiến, trả lương không tương xứng...) sẽ dẫn đến tình
trạng người lao động không có trách nhiệm với doanh nghiệp, thậm chí ăn cắp
và phá hoại ngầm.
Khắc phục tình trạng này, một số doanh nghiệp đã lắp đặt các thiết bị
theo dõi hoặc cho người giám sát. Tuy nhiên, khi thực hiện các giải pháp này
sẽ làm cho nhân viên cảm thấy có áp lực, do đó giảm năng suất công việc và
có thể gây tai nạn lao động.
Trong trường hợp này, hành vi giám sát, theo dõi của công ty trở thành
phi đạo đức vi phạm quyền riêng tư của người lao động.
1.4.1.3. Khách hàng

- 15 -
Khách hàng chính là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ, đánh giá chất
lượng sản phẩm, dịch vụ, tái tạo và phát triển nguồn tài chính cho doanh
nghiệp. Những vấn đề đạo đức điển hình liên quan đến khách hàng là những
quảng cáo phi đạo đức, những thủ đoạn marketing lừa gạt về an toàn sản
phẩm, họ sẽ phải gánh chịu những thiệt hại lớn như ảnh hưởng đến sức khỏe,
đến tính mạng và cả nhân phẩm nữa.
Doanh nghiệp muốn tồn tại được phải tìm mọi cách làm hài lòng khách
hàng. Để làm được như vậy, các doanh nghiệp phải biết được khách hàng cần
và muốn gì, rồi sau đó tạo ra những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được những
mong muốn và nhu cầu đó
Trong nỗ lực làm hài lòng khách hàng, các doanh nghiệp không chỉ phải
quan tâm đến những nhu cầu tức thời của khách hàng mà còn phải biết được
những mong muốn lâu dài của họ. Vấn đề đạo đức có thể nảy sinh từ việc
không cân đối giữa nhu cầu trước mắt và nhu cầu lâu dài của khách hàng..
1.4.1.4. Đối thủ cạnh tranh
Trong kinh doanh, cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố vượt
lên trên đối thủ và lên chính bản thân. Cạnh tranh lành mạnh luôn rất cần thiết
với các doanh nghiệp. Cạnh tranh lành mạnh là thực hiện những điều pháp luật
không cấm để cạnh tranh cộng với “đạo đức kinh doanh” và tôn trọng đối thủ
cạnh tranh. Đây là cơ sở cho doanh nghiệp có những bước phát triển vững
chắc.
Trên thực tế đã xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp, gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của và uy tín kinh doanh
của doanh nghiệp bị giảm sút.
Trong kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh thể hiện phổ biến nhất ở
hành vi thông đồng giữa các đối thủ cạnh tranh để nâng cao sản phẩm, dịch vụ.
Cạnh tranh không lành mạnh còn thể hiện ở hành vi ăn cắp bí mật
thương mại của doanh nghiệp đối thủ bằng rất nhiều cách khác nhau như:
- Cập nhật thông tin hữu ích qua các cuộc phỏng vấn nghề nghiệp những
người làm công của đối thủ cạnh tranh.

- 16 -
- Núp dưới chiêu bài tiến hành các công trình nghiên cứu, phân tích về
ngành để mọi thông tin.
- Giả danh là một khách hàng hay người cung ứng tiềm năng.
- Che dấu danh phận để đi tham quan cơ sở của đối thủ cạnh tranh nhằm
thu thập thông tin.
- Dùng mỹ nhân kế, nam nhân kế, khổ nhục kế để thu thập thông tin.
- Dùng gián tiếp với những phương tiện hiện đại để ăn cắp thông tin.
1.4.2. Trong các chức năng của doanh nghiệp
1.4.2.1. Đạo đức trong quản trị nguồn nhân lực
Vấn đề đạo đức trong quản lý nguồn nhân lực liên quan đến các vấn đề
cơ bản sau:
- Đạo đức trong tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng lao động
Trong hoạt động tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự sẽ xuất hiện một vấn
đề khá nan giải, đó là tình trạng phân biệt đối xử. Phân biệt đối xử xuất phát từ
định kiến về phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo, địa phương, vùng văn
hóa, tuổi tác ...
- Đạo đức trong đánh giá người lao động
Đó là hành vi mà người quản lý đánh giá người lao động trên cơ sở định
kiến. Nghĩa là người quản lý dùng ấn tượng của mình về đặc điểm của nhóm
người đó để xử sự và đánh giá người lao động thuộc về nhóm đó. Các nhân tố
như quyền lực, ganh ghét, thất vọng, tội lỗi và sợ hãi là những điều kiện duy trì
và phát triển sự định kiến.
- Đạo đức trong bảo vệ người lao động
Đảm bảo điều kiện lao động an toàn là hoạt động có đạo đức nhất trong
vấn đề bảo vệ người lao động. Người lao động có quyền làm việc trong một
môi trường an toàn. Mặt khác xét từ lợi ích, khi người làm công bị tai nạn rủi
ro thì không chỉ ảnh hưởng xấu đến bản thân họ mà còn tác động đến vị thế
cạnh tranh của doanh nghiệp
1.4.2.2. Đạo đức trong marketing
- Marketing và phong trào bảo hộ người tiêu dùng

- 17 -
Các hoạt động marketing đều phải định hướng vào người tiêu dùng vì
họ là người phán xét cuối cùng việc doanh nghiệp sẽ thất bại hay thành công.
Nhưng trên thực tế vẫn tồn tại sự bất bình đẳng giữa người sản xuất và người
tiêu dùng. Hậu quả là người tiêu dùng phải chịu những thiệt thòi lớn, sản phẩm
không đảm bảo chất lượng ...
- Các biện pháp marketing phi đạo đức
+ Quảng cáo phi đạo đức:
+ Bán hàng phi đạo đức
Sử dụng những biện pháp thiếu văn hóa khác để hạ uy tín của doanh
nghiệp đối thủ như gièm pha hàng hóa của đối thủ cạnh tranh, hoặc đe dọa
người cung ứng sẽ cắt những quan hệ làm ăn với họ.Các hành vi này gây thiệt
hại cho người tiêu dùng không chỉ trước mắt mà còn cả lâu dài.
1.4.2.3. Đạo đức trong hoạt động kế toán, tài chính
Kế toán là tác nghiệp không thể thiếu của doanh nghiệp. Do phạm vi
hoạt động của tác nghiệp này, các vấn đề đạo đức có thể xuất hiện cả về nội bộ
hoặc ngoại vi của doanh nghiệp. Chẳng hạn bộ phận này lạm quyền quyết định
vốn và cơ cấu vốn hoạt động của doanh nghiệp với chi phí sử dụng vốn, lạm
quyền xây dựng các kế hoạch thu - chi tài chính, lạm dụng quyền quyết định
phân bổ các nguồn lực tài chính của bộ phận sản xuất - kinh doanh. Điều này
khiến hệ thống phân quyền trong tổ chức kém hiệu quả, quản lý chồng chéo.
1.5. Các thuyết nghiên cứu về đạo đức kinh doanh
Đạo đức bao hàm câu hỏi khá đặc biệt mà bất cứ người nào cũng có thể
hỏi, đó là: Chúng ta nên sống như thế nào? Đây không phải là một câu hỏi mới
mẻ nhưng tất cả những ngành triết học, văn hóa, chính trị và tôn giáo đều phải
vật lộn vất vả vì nó. Một số truyền thống đạo đức ở phương Tây đã tác động
đáng kể đến sự phát triển của công ty và các nền kinh tế hiện đại.
Tuy nhiên, nhiều sinh viên cho rằng, thảo luận về đạo đức triết học là
quá khó và quá trừu tượng. Do đó, những học thuyết đạo đức chúng ta sẽ thảo
luận là quá lý thuyết và không thích hợp cho môi trường kinh doanh. Chúng
tôi hy vọng qua chương này các bạn sẽ hiểu và dễ tiếp cận hơn với những học

- 18 -
thuyết đạo đức và giúp các bạn có thể ứng dụng để giải quyết những rắc rối
thực tế mà các nhà kinh doanh đang phải đối mặt.
Học thuyết đạo đức chẳng qua cũng chỉ là một nỗ lực để đưa ra một câu
trả lời có hệ thống cho một câu hỏi đạo đức cơ bản, đó là: Con người nên sống
như thế nào? Những học thuyết đạo đức cố gắng đưa ra được những lý lẽ hợp
lý để biện minh cho lý do tại sao chúng ta lại có hành động và quyết định theo
cách của ta.
Nội dung này sẽ giới thiệu một số khuôn mẫu đạo đức có ảnh hưởng đến
quá trình phát triển đạo đức kinh doanh: thuyết vị lợi – đạo nghĩa học – đức
hạnh.
1.5.1. Thuyết vị lợi – Đưa ra quyết định dựa theo các kết quả đạo đức
Truyền thống đạo đức đầu tiên mà chúng tôi sẽ thảo luận chính là thuyết
vị lợi – một thuyết bắt nguồn từ triết học chính trị và xã hội ở thế kỷ 18 và 19.
Thuyết vị lợi là một phần của phong trào xã hội góp phần hướng đến chủ nghĩa
tư bản dân chủ hiện đại.
Thuyết vị lợi – một kiểu đạo đức hướng dẫn chúng ta khi có bất kỳ
quyết định nào đều phải cân nhắc đến những hậu quả của những việc chúng ta
làm. Thuyết vị lợi bắt đầu với niềm tin rằng chúng ta nên quyết định những gì
nên làm bằng cách xem xét các hậu quả mà hành động đó mang lại kết quả
toàn diện tốt hơn những cách khác. Kết quả tốt hơn là những kết quả mà tạo
cho con người cảm giác vui vẻ, thoải mái: niềm hạnh phúc, sức khỏe, lòng tự
trọng, quyền tự do, sự tôn trọng của tất cả mọi người. Nếu giá trị cơ bản của
con người chính là hạnh phúc cá nhân thì hành động nào tạo ra nhiều hạnh
phúc cá nhân hơn sẽ được xem là hành động hợp lý và chính đáng hơn. Dưới
góc độ đạo đức, một quyết định mang lại nhiều giá trị hạnh phúc nhất cho
nhiều người nhất sẽ được xem là một quyết định hợp lý nhất.
Việc nhấn mạnh quan điểm tạo ra nhiều giá trị tốt nhất cho nhiều người
khiến thuyết vị lợi trở thành một triết lý xã hội ủng hộ mạnh mẽ các thể chế
cũng như chính sách dân chủ và phản đối các chính sách mà chỉ nhắm đến một
thiểu số xã hội, kinh tế hay chính trị nào đó.

- 19 -
Thuyết vị lợi giải đáp những câu hỏi cơ bản về đạo đức – Chúng ta nên
làm gì? Bằng cách tham khảo quy tắc: Hãy làm sao để mang lại hạnh phúc cho
tất cả. Nhưng có một câu hỏi khác vẫn chưa được trả lời: Làm thế nào để
chúng ta có thể đạt được mục tiêu này? Phương pháp nào là hiệu quả nhất nếu
muốn đạt được mục tiêu đem lại hạnh phúc cho mọi người? Hai câu hỏi này
thể hiện mối liên quan đặc biệt trong kinh doanh và đạo đức kinh doanh.
Liệu thuyết vị lợi có mang tính vị kỷ không?
Thuyết vị lợi nhấn mạnh việc tố đa hóa niềm vui và hạnh phúc, nghe có
vẻ rất ích kỷ và vị kỷ nhưng thật ra thuyết vị lợi khác thuyết vị kỷ ở nhiều
điểm sau: Thuyết vị kỷ cũng là một thuyết xét đến kết quả đem lại nhưng nó
chỉ tập trung vào hạnh phúc cá thể.
1.5.2. Đạo lý học – Quyết định dựa trên các nguyên tắc đạo đức
Việc ra quyết định tính đến kết quả là một phần trong việc ra quyết định
đạo đức có trách nhiệm. Nhưng cách thức này cần được bổ sung thêm một yếu
tố là: đôi khi con người phải đưa ra quyết định dựa trên nguyên tắc chứ không
phải dựa vào kết quả tiên đoán của quyết định đó. Nói cách khác, không phải
lúc nào kết quả cũng có thể biện minh cho phương thức hành động. Nhưng làm
thế nào chúng ta biết được nên tuân theo những nguyên tắc nào và biết được
khi nào nên tuân theo nguyên tắc nào và bỏ qua yếu tố kết quả nào? Do đó,
thuyết đạo đức dựa trên nguyên tắc hay đạo lý học sẽ tìm ra lời giải đáp cho
các vấn đề nêu ở trên.
Ngôn ngữ của “Đạo lý học” và “Đạo lý đạo đức” rất trừu tượng và sinh
viên dễ nghĩ rằng đây là lối văn cầu kỳ mang tính học thuật. Nhưng những ý
tưởng tiềm ẩn bên dưới phương thức này thì rất đời thường. Hiểu một cách
đơn giản, các nguyên tắc đạo đức là các loại quy tắc yêu cầu con người phải
tuân theo ngay cả khi điều này không giúp mang lại kết quả tốt cho tất cả mọi
người và thậm chí còn gây ra hậu quả xấu. Quy tắc hay nguyên tắc, chẳng hạn
như: tuân thủ luật pháp, giữ lời hứa) đòi hỏi chúng ta có trách nhiệm hành
động và quyết định theo một cách riêng nào đó.

- 20 -
Dẫn chứng: nhiều người cho rằng phải có qui tắc đạo đức cấm lao
động trẻ em, mặc dù nếu việc này được cho phép thì sẽ mang lại lợi ích
kinh tế cho xã hội ở một mức độ nào đó.
Nguồn gốc của qui tắc
Luật pháp là một ví dụ về loại qui tắc mà chúng ta phải tuân theo, ngay
cả khi chúng ta chẳng cảm thấy vui vẻ.
Ví dụ:
- Trách nhiệm nộp thuế mặc dù số tiền này sẽ có hiệu quả hơn nếu dành
cho việc học của con cái.
- Khi có đèn đỏ, chúng ta phải dừng lại. Nếu vượt đèn thì chúng ta sẽ đi
đến nơi nhanh hơn
Trong bối cảnh kinh doanh, việc ra quyết định sẽ xảy ra rất nhiều tình
huống buộc chúng ta phải tuân theo các qui tắc luật pháp ngay cả khi điều này
mang lại kết quả không mong muốn về mặt kinh tế hay những mặt khác.
Qui tắc xuất phát từ nhiều tổ chức khác nhau mà con người tham gia hay
từ các vai trò xã hội khác nhau mà con người đảm nhận.
Ví dụ:
- Tôi phải đọc từng bài tập nghiên cứu của sinh viên một cách cẩn thận
và kỹ càng. Trong khi sinh viên không biết được là việc tôi có đọc kỹ hay
không đọc kỹ bài.
- Với tư cách là trọng tài trong trận thi đấu thể thao, tôi có nhiệm vụ
phải thi hành luật thi đấu một cách công bằng ngay cả khi công việc của tôi sẽ
đơn giản hơn nếu tôi không làm như vậy.
Có nhiều trường hợp, trách nhiệm dựa vào vai trò xuất hiện trong kinh
doanh. Là nhân viên, mỗi người đảm nhận một vai trò nhất định gắn với nhiệm
vụ riêng. Mọi doanh nghiệp đều đặt ra một hệ thống các qui tắc mà nhân viên
phải tuân theo. Đôi khi những qui tắc này được nêu rõ trong các chuẩn mực
đạo đức, sổ tay của nhân viên hoặc do ban giám đốc đưa ra. Tương tự, một
giám đốc doanh nghiệp phải tuân theo những qui tắc liên quan đến các cổ
đông, nhân viên, nhà cung cấp và các nhóm liên đới.

- 21 -
Quyền lợi và nghĩa vụ về đạo đức
Chúng ta thường suy nghĩ: Có hay không những quy tắc mà chúng ta bắt
buộc phải tuân theo, những quyết định mà chúng ta phải đưa ra cho dù hậu quả
như thế nào? Người đi tiên phong về cách thức hành động đạo đức này là nhà
triết học người Đức ở thế kỷ 18 – Immanuel Kant – ông cho rằng nhất thiết
phải có một nguyên tắc đạo đức nền tảng như thế: đó là qui tắc tôn trọng phẩm
giá của cá nhân.
Kant cho rằng: trách nhiệm tôn trọng phẩm giá cá nhân có thể được diễn
đạt bằng nhiều cách khác nhau:
+ Cách thứ nhất: là hướng chúng ta hành động theo các qui tắc được mọi
người chấp nhận – mệnh lệnh tuyệt đối nổi tiếng của Kant
+ Cách thứ hai: chúng ta đối xử với mọi người như thể họ là mục đích
của chúng ta chứ không phải họ chỉ là phương tiện để ta đạt đến kết quả mà
chúng ta mong muốn. Nói một cách khác, trách nhiệm của chúng ta là đối xử
với mọi người như thể họ là chủ thể sống chứ không phải họ chỉ là những vật
thể tồn tại để phục vụ cho mục đích của chúng ta. Nhìn từ góc độ ngữ pháp,
con người là chủ thể bởi vì họ ra quyết định và thực hiện hành động chứ không
phải là vật thể chịu sự tác động của hành động. Con người có những mục đích
và ý định riêng, vì vậy con người không nên bị đối xử như là phương tiện để
người khác đạt được mục đích của họ.
Mỗi người đều có trách nhiệm cơ bản đối với người khác, vì thế mỗi
người đều có những quyền lợi đạo đức cơ bản: quyền được đối xử tôn trọng và
quyền được người khác đối xử như là mục đích để hướng đến chứ không phải
là phương tiện hướng đến mục đích và quyền được đối xử như một cá nhân
độc lập.
Trao đổi từ dẫn chứng về lao động trẻ em:
Xem xét ngôn ngữ được dùng trong nhóm từ Quản trị nguồn nhân lực,
cho thấy rằng con người là nguồn tài nguyên cần được quản lý. Quan điểm của
Kant phản đối về vấn đề lao động trẻ em bởi vì cách hành xử này là đi ngược
trách nhiêm của chúng ta là đối xử tôn trọng với trẻ em. Chúng ta vi phạm

- 22 -
quyền của trẻ em vì chúng ta đối xử với trẻ em như là phương tiện để đạt được
mục đích lợi ích kinh tế. Chúng ta đang đối xử với trẻ em như là một phương
tiện vì trẻ em chưa có quyền được tự do chọn lựa mục đích/hướng phát triển
của mình. Chúng ta chỉ sử dụng trẻ em như là công cụ hay vật dụng bình
thường.
1.5.3. Công lý xã hội – Công lý của Rawls là sự công bằng
Thuyết này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tiến trình ra quyết định.
Thuyết về công lý xã hội xem sự công tâm như là nguyên tắc xã hội chủ yếu.
John Rawls – triết gia người Mỹ - đã đưa ra phiên bản hiện đại cho
thuyết khế ước xã hội, trong đó ngầm hiểu rằng những qui tắc đạo đức cơ bản
là một phần của điều kiện cần nhằm đảm bảo tính hợp tác, cộng đồng trong xã
hội. Thuyết của Rawls có sự ảnh hưởng lớn đối với các học thuyết chính trị,
kinh tế và luật pháp. Thuyết công lý của Rawls gồm hai phần chính: phương
thức xác định các nguyên lý công bằng chi phối xã hội và các nguyên lý cụ thể
xuất phát từ phương thức đó.
Bản thân phương thức này là một loại khế ước xã hội mang tính giả
thuyết, là công cụ rất hữu hiệu trong việc quyết định các vấn đề về đạo đức.
Chẳng hạn: Các cá nhân có lý trí và có tính tư lợi phải lựa chọn và thống nhất
với nhau về một số nguyên tắc cơ bản của xã hội.
Ý tưởng của vị trí xuất phát của việc phải ra quyết định khi không đủ lý
trí là tư tưởng chủ đạo của thyết Rawls là công bằng – là yếu tố chính của một
quyết định công bằng.
_______________________________________________________________
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY – HỌC
- Giới thiệu môn học và các yêu cầu của giảng viên đối với sinh viên
- Phương pháp quy nạp
- Phương pháp diễn dịch
- Yêu cầu sinh viên tự nghiên cứu, đọc tài liệu nội dung của chương 1 ở
nhà trước khi đến lớp

- 23 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ThS. Phạm Thị Uyên Thi, Tập bài giảng Đạo đức trong công việc, 2017
- Nhóm dịch thuật DTU, Đạo đức kinh doanh
- Joe DesJardins, Business Ethics, Laura P.Hartman
_______________________________________________________________
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Nêu khái niệm về đạo đức và đạo đức kinh doanh?
Câu 2: Nêu vai trò của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp?
Câu 3: Hãy phân biệt đạo đức và pháp luật? Nêu dẫn chứng cụ thể?
Câu 4: Tài sao phải nghiên cứu đạo đức kinh doanh?
Câu 5: Trình bày cụ thể các thuyết nghiên cứu về đạo đức kinh doanh? Nêu cụ
thể và dẫn chứng?

- 24 -
CHƯƠNG 2
RA QUYẾT ĐỊNH ĐẠO ĐỨC CHO CÁ NHÂN VÀ TRONG
CÔNG VIỆC

Mục tiêu Chương:


Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên sẽ đạt được:
- Mô tả quá trình ra quyết định trách nhiệm mang tính đạo đức
- Giải thích lý do tại sao người tốt lại có thể liên quan đến các hành vi
vô đạo đức
- Biết được các rào cản của cá nhân khi đưa ra quyết định liên quan
đến đạo đức
- Phân tích và ứng dụng trong các tình huống thực tiễn
2.1. Tiến trình ra quyết định có đạo đức cho cá nhân
2.1.1. Xác định những dữ liệu của tình huống
Trước hết cần phải hiểu được tình huống và phân biệt những dữ liệu với
ý kiến thuần túy. Mỗi cá nhân có sự trải nghiệm khác nhau và có cách hiểu
tình huống khác nhau. Điều này cho thấy mỗi cá nhân có sự trải nghiệm khác
nhau và có cách hiểu tình huống khác nhau. Điều này dẫn đến mỗi cá nhân sẽ
có sự nhận thức khác nhau, qua đó lý giải cho nhiều sự bất đồng ý kiến đạo
đức.
Việc xác định các dữ liệu là rất quan trọng nên cần có vai trò của khoa
học (và các lập luận lý thuyết) trong bất kỳ nghiên cứu nào về đạo đức. Một sự
đánh giá về đạo đức được thực hiện với sự xác định cẩn thận các dữ kiện sẽ
hợp lý hơn sự đánh giá về đạo đức của một người mà không dựa trên các dữ
kiện. Một người hành động dựa trên sự xem xét cẩn thận các dữ kiện sẽ có
hành vi hay cách cư xử có trách nhiệm đạo đức hơn là những người hành động
không cần suy nghĩ cân nhắc yếu tố dữ liệu nào cả. Các ngành khoa học, đặc
biệt là khoa học xã hội có thể giúp xác định các dữ liệu có liên quan đến các
quyết định của chúng ta. Ví dụ như trong kinh doanh, hãy xem xét những yếu

- 25 -
tố nào có thể liên quan đến vấn đề lao động trẻ em. Xem xét bằng cách nào
ngành khoa học xã hội về nhân loại học và kinh tế có thể giúp ta hiểu các dữ
liệu thực tế liên quan đến vấn đề thuê mướn lao động trẻ em làm việc ở nước
ngoài.
Điều cốt lõi trong giai đoạn này chúng ta đừng vô tình làm cho người ta
thành kiến với quyết định của chúng ta, bằng cách chỉ tập trung các sự kiện mà
hỗ trợ cho mục đích riêng của mình.
2.1.2. Xác định các vấn đề đạo đức có liên quan
Bước này, đòi hỏi người đưa ra quyết định phải có khả năng nhận ra tính
đạo đức trong các quyết định hay các vấn đề mình đưa ra. Bước này, con
người rất dễ bị lạc hướng nếu không nhận ra yếu tố đạo đức trong quyết định
của mình. Làm cách nào người ta có thể xác định được rằng một vấn đề nào đó
lại là một vấn đề đạo đức? Khi nào thì một quyết định kinh doanh lại trở thành
một quyết định đạo đức?
Trước hết, chúng ta cần nhận thấy rằng các quyết định kinh doanh và
các quyết định đạo đức không phải bao giờ cũng loại trừ lẫn nhau. Bởi vì một
quyết định được đưa ra trên nền tảng kinh tế không có nghĩa rằng nó không
bao gồm sự xem xét về mặt đạo đức. Nhạy cảm với các vấn đề đạo đức là một
đặc điểm quan trọng rất cần thiết trọng việc xây dựng nên con người có trách
nhiệm đạo đức. Ngoài ra, chúng ta cũng cần xem xét các quyết định của mình
sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến những người có liên quan. Mức độ một quyết
định ảnh hưởng đến quyền lợi của những người có liên quan bao gồm: hạnh
phúc, sức khỏe, nhân phẩm, tính chính trực, tự do, sự tôn trọng phản ánh mức
độ đạo đức của quyết định đó.
Trong bối cảnh kinh doanh, người ta dễ đi đến việc quá chú trọng đến
các khía cạnh tài chính khi quyết định mà quên đi các khía cạnh đạo đức. Một
số tác giả đã gọi sự bất lực trong việc nhận ra những vấn đề đạo đức là chứng
cận thị đạo đức hay còn được hiểu là sự thiển cận trong cách nhìn nhận và
đánh giá các giá trị. Chứng cận thị đạo đức không chỉ xuất hiện trong kinh

- 26 -
doanh mà còn gặp rất nhiều trong đời sống xã hội, ví dụ nạn đạo văn, đạo
nhạc, đạo kịch bản,….
2.1.3. Xác định các nhóm người liên quan
Đây là bước khá quan trọng trong quá trình đưa ra quyết định. Yêu cầu
đặt ra là chúng ta phải xác định được tất cả những người sẽ ảnh hưởng bởi
quyết định của chúng ta, họ thường được gọi là “nhóm liên đới”. Nhóm liên
đới bao gồm tất cả các nhóm và/hoặc các cá nhân mà chịu ảnh hưởng bởi một
quyết định, một chính sách hay hoạt động của một công ty hay cá nhân. Xem
xét các vấn đề từ nhiều cách nhìn nhận khác nhau chứ không chỉ từ ý kiến chủ
quan của cá nhân và áp dụng nhiều quy tắc chứ không phải chỉ một quy tắc địa
phương cục bộ, điều này giúp chúng ta đưa ra những quyết định hợp lý và có
trách nhiệm hơn. Trái lại, suy nghĩ và lập luận từ cách nhìn hạn hẹp mang tính
cá nhân sẽ chắc chắn đưa chúng ta đến việc hiểu tình huống một cách không
đầy đủ. Từ cách nhìn hạn hẹp như vậy sẽ đưa chúng ta đến việc có thể đưa ra
một quyết định mà không xem xét đến những người khác và những quan điểm
khác.
Thực tế cho thấy, có nhiều quyết định (của cá nhân hay tổ chức) đụng
chạm đến quyền lợi của các bên liên đới, điều này giúp chúng ta hiểu thêm về
các thách thức mỗi khi chúng ta đưa ra các quyết định đạo đức. Khi đưa ra một
quyết định thì nó thường liên quan đến nhiều quan điểm khác nhau và nhiều
mối quan tâm khác nhau, điều đó có nghĩa là các quyết định có đạo đức
thường kéo theo các tình huống khó xử.
Mỗi giải pháp có thể sẽ làm một số bên liên đới phải trả giá và mang lại
lợi ích cho những nhóm liên đới khác. Quyết định theo một cách có lợi cho
một nhóm thường có nghĩa những nhóm liên đới khác bị tước bỏ lợi ích.
2.1.4. Xem xét các giải pháp sẵn có
Một khi chúng ta kiểm tra lại các sự kiện, xác định các khía cạnh đạo
đức có liên quan và xác định rõ các nhóm liên đới là ai, bước tiếp theo là phải
cân nhắc các giải pháp sẵn có.

- 27 -
Tính sáng tạo trong việc xác định các lựa chọn còn được gọi là trí tưởng
tượng đạo đức (moral imagination) là một yếu tố phân biệt những người tốt
dám đưa ra những quyết định có trách nhiệm và những người tốt nhưng lại
không dám đưa ra các quyết định đạo đức.
Việc quan trọng cần làm là không chỉ xem xét những giải pháp rõ ràng
cho một tình thế khó xử cụ thể mà cần phải lưu tâm đến những giải pháp khác
có thể không có tính khả thi lắm khi mới nhìn qua. Chẳng hạn, trường hợp của
Malden Mills, hãy tự hỏi bản thân mình là có bao nhiêu người trong tình
huống đó, vẫn còn có thể nghĩ đến việc trả lương cho nhân viên trong thời gian
đang xây dựng lại nhà máy. Aaron Feuerstein đã vận dụng tối đa trí tưởng
tượng đạo đức của mình để có thể làm như vậy.
2.1.5. So sánh và đánh giá các giải pháp
Đây là bước mà người đưa ra quyết định tạo ra một bàn tính trong đầu
để đánh giá ảnh hưởng của mỗi giải pháp mà bạn chọn đối với các nhóm liên
đới. Có lẽ cách có ích nhất để thực hiện điều này là cố gắng đặt mình vào vị trí
người khác. Hiểu được từng tình huống, từng quan điểm, nỗ lực đặt mình vào
tình huống của người khác sẽ góp phần giúp chúng ta có những quyết định đạo
đức. Quyết định có trách nhiệm là những quyết định có thể giải thích một cách
rõ ràng, minh bạch cho tất cả mọi người có liên quan. Những quyết định mà
chúng ta muốn che giấu thường là những quyết định thiếu trách nhiệm.
Việc cân nhắc giữa các giải pháp để chọn lựa sẽ bao gồm cả việc dự
đoán những hậu quả có thể xảy ra cho những bên có liên quan hay nhóm liên
đới. Ngoài ra, phải xem xét các cách để giảm thiểu hay đền bù cho bất cứ hậu
quả có hại nào cho các nhóm liên đới hoặc/và xem xét các cách để làm tăng và
kích thích các kết quả có lợi cho các nhóm này.
Tuy nhiên, việc xem xét sự ảnh hưởng cũng như tính tường minh của
mỗi giải pháp/quyết định không phải là phương tiện duy nhất để so sánh những
giải pháp này với nhau. Khi đưa ra một quyết định người ta còn phải lưu tâm
đến các vấn đề khác như các nguyên tắc, quyền lợi hay nghĩa vụ bên ngoài kết
quả.

- 28 -
Để cân nhắc lựa chọn giải pháp cần có một bước nữa đó là việc xem xét
các ảnh hưởng của quyết định đó lên chính cá nhân người ra quyết định và tính
cách của cá nhân đó. Hiểu tính cách và các giá trị của cá nhân có vai trò nhất
định trong việc ra quyết định. Một người có trách nhiệm sẽ tự đặt cho mình
những câu hỏi như: “Loại người nào sẽ ra những quyết định như thế này?
Bằng cách quyết định kiểu này chứ không phải kiểu khác sẽ giúp phát triển
thói quen nào trong tôi? Loại văn hóa nào tôi đang tạo ra và khuyến khích
người khác làm theo?....” Những câu hỏi này thực sự đi vào tâm khảm những
nhà lãnh đạo kinh doanh có đạo đức.
2.1.6. Ra quyết định
Một khi bạn đã cân nhắc tất cả các yếu tố lựa chọn trên, đây là thời điểm
ra quyết định. Tuy nhiên, đến đây thì quy trình này vẫn chưa thể gọi là hoàn
tất. Để hoàn tất trách nhiệm đối với quyết định mình đưa ra thì việc cân nhắc
cẩn thận trong suốt quá trình ra quyết định vẫn là chưa đủ. Thay vì thái độ
buông xuôi, không đoái hoài đến phần tiếp theo của một quyết định, với kiểu
nói: “Bây giờ nó đã vượt khỏi tầm tay tôi rồi?” thì chúng ta nên có thái độ học
tập từ những trải nghiệm của mình rút ra sau khi áp dụng các quyết định/ các
phương án đó.
2.1.7. Quan sát kết quả
Việc làm này, giúp chúng ta có trách nhiệm đánh giá ý nghĩa của những
quyết định mình đưa ra, để chúng ta có thể quan sát và học tập từ những kết
quả có được sau mỗi quyết định và từ đó điều chỉnh hành động của chúng ta
một cách hợp lý khi đối diện với những thử thách tương tự trong tương lai.
2.2. Rào cản của cá nhân khi ra quyết định có đạo đức
Đôi khi những người có dự định tốt lại không thể lựa chọn cách làm có
đạo đức. Dựa vào yếu tố nào mà chúng ta có thể xác định những công ty hay
cá nhân này là có đạo đức trong khi những công ty hay cá nhân kia là không có
đạo đức? Tại sao những người chúng ta cho là tốt lại làm những việc xấu xa?
Có thể có nhiều lý do khiến cho ai đó phải cư xử thiếu đạo đức. Để có được

- 29 -
một quyết định hay một hành vi có trách nhiệm thì đôi khi chúng ta phải vượt
qua khá nhiều rào cản.
- Rào cản hoàn toàn có chủ định: cá nhân bỏ qua một dữ kiện nào đó có
thể dẫn đến những hành động không tốt, không có đạo đức.
- Rào cản không chủ định: đôi khi cá nhân chỉ quan tâm đến một số giải
pháp hữu hạn. Khi chúng ta phải đối mặt với một tình huống mà chúng ta đã
nhìn thấy rõ có hai hướng giải quyết cho tình huống đó thì chúng ta thường chỉ
để tâm đến hai giải pháp đó mà quên đi thực tế cũng có thể áp dụng những
hướng giải quyết khác.
2.3. Ra quyết định kinh doanh ở vai trò quản lý
Bối cảnh xã hội có thể tác động rất lớn đến quyết định của cá nhân. Tùy
theo từng người mà bối cảnh xã hội có thể làm cho việc lập quyết định trở nên
dễ dàng hoặc khó khăn hơn. Đôi khi môi trường công ty cũng khiến cho những
người có ý định tốt nhất lại không thể hành động có đạo đức hoặc có thể khiến
cho người không lương thiện lại không thể hành động phi đạo đức. Ban quản
trị và tập thể Tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm tạo ra những hoàn cảnh để
khuyến khích những hành vi có đạo đức và can ngăn những hành vi phi đạo
đức.
Tính liêm chính của cá nhân thể hiện ngay trong việc đưa ra quyết định
cá nhân đó: Tôi thuộc kiểu người nào? Tôi có những giá trị nào? Tôi ủng hộ
cho cái gì? Mỗi cá nhân cũng giữ nhiều vai trò đối với xã hội và những vai trò
này mang đến cho họ nhiều kỳ vọng, nhiều trách nhiệm và nghĩa vụ. Trong
môi trường kinh doanh, các cá nhân phải xét đến hàm ý đạo đức của cả quyết
định cá nhân và quyết định kinh doanh. Những vai trò đối với xã hội là: bạn
bè, vợ chồng, con cái, công dân, hàng xóm. Một số vai trò đối với tổ chức:
giám đốc, giáo viên, sinh viên, chủ tịch hội học sinh – sinh viên.
_______________________________________________________________
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY – HỌC
- Giới thiệu môn học và các yêu cầu của giảng viên đối với sinh viên
- Phương pháp quy nạp

- 30 -
- Yêu cầu sinh viên tự nghiên cứu, đọc tài liệu nội dung của chương 2 ở
nhà trước khi đến lớp.
_______________________________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ThS. Phạm Thị Uyên Thi, Tập bài giảng Đạo đức trong công việc, 2017
- Nhóm dịch thuật DTU, Đạo đức kinh doanh
- Joe DesJardins, Business Ethics, Laura P.Hartman
_______________________________________________________________
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Trình bày các bước của quá trình ra quyết định cá nhân và trong công
việc?
Câu 2: Phân tích vai trò của quản lý trong việc ra quyết định?
Câu 3: Trình bày các rào cản của quá trình ra quyết định?
Câu 4: Hãy xem xét những giá trị cá nhân của bản thân và lý giải chúng bắt
nguồn từ đâu.
Câu 5: Hãy mô tả những phẩm chất mà bạn tin là cần thiết cho một nhà lãnh
đạo có đạo đức.
Câu 6: Mô tả một sự kiện hay một quyết định mà bạn cho là hoàn toàn không
có đạo đức.

- 31 -
CHƯƠNG 3
VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
CỦA DOANH NGHIỆP

Mục tiêu Chương:


Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên sẽ đạt được:
- Phát biểu được khái niệm về văn hóa và văn hóa doanh nghiệp
- Nhận biết được các yếu tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp
- Phân tích trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
- Vận dụng giải thích tình huống thực tế về văn hóa doanh nghiệp và
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
3.1. Văn hóa doanh nghiệp
3.1.1. Khái niệm về văn hóa doanh nghiệp
3.1.1.1. Văn hóa
Văn hoá là những điều tốt đẹp nhất của dân tộc, là động lực duy trì
truyền thống văn hoá qua nhiều thế hệ và là suy nghĩ phổ biến của mọi dân tộc
trên thế giới. Văn hoá được hiểu theo rất nhiều cách khác nhau và có nhiều
định nghĩa khác nhau về văn hoá.
Ø Nếu xét về ngôn ngữ:
- Phương Tây: văn hoá xuất phát từ tiếng La tinh: cultus có nghĩa là
trồng trọt, vun xới cây cối, thảo mộc làm cho nó xanh tươi và tươi
tốt.
- Phương Đông: văn là lễ nghĩa, tốt đẹp và hoá là truyền đạt, giáo hoá,
đưa nó ra.
Ø Nếu xét theo phạm vi
- Văn hoá theo nghĩa hẹp:
Thường được đồng nhất với văn hoá tinh hoa - là một tiểu văn hoá chứa
những giá trị đáp ứng các nhu cầu bậc cao của con người. Quy luật chung là
những giá trị đáp ứng các nhu cầu càng xa những đòi hỏi vật chất, đời thường,

- 32 -
nhất thời bao nhiêu thì tính giá trị, tính người càng cao bấy nhiêu, và do vậy
càng mang tính tinh hoa về văn hoá. Theo nghĩa này, văn hoá thường được
đồng nhất với các loại hình nghệ thuật, văn chương. Văn hoá theo nghĩa hẹp
thường được đồng nhất với văn hoá ứng xử.
- Văn hoá theo nghĩa rộng:
Là văn hoá trong khoa học nghiên cứu về văn hoá. Theo nghĩa này, định
nghĩa văn hoá cũng có rất nhiều. Chẳng hạn, định nghĩa đầu tiên của
E.B.Tylor năm 1871 xem văn hóa là “một phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả năng và thói
quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được”.
TS. Federico Mayor - Tổng giám đốc UNESCO, thì xem “văn hóa bao gồm
tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với một dân tộc khác
Ø Định nghĩa văn hoá phổ biến nhất hiện nay:
Văn hoá là một hệ thống của các giá trị do con người sáng tạo và tích
luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình. Định nghĩa này hàm chỉ một hệ toạ độ ba chiều mà
trong đó văn hoá tồn tại: con người là chủ thể văn hoá; môi trường tự nhiên và
xã hội là không gian văn hoá; quá trình hoạt động là thời gian văn hoá. Việc cụ
thể hoá ba thông số của hệ toạ độ này sẽ cho ta những nền văn hoá khác nhau.
Ø Các định nghĩa khác về văn hoá tham khảo thêm
§ Theo E.Heriot: “Cái gì còn lại khi tất cả những thứ khác bị quên đi,
cái đó chính là văn hoá”
§ Theo Unesco: “Văn hoá thể hiện và phản ảnh một cách tổng quát,
sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi công
đồng), đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện
tại, qua hằng bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các
giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống, và dưạ trên đó từng dân
tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”
Hiện có trên 300 định nghĩa khác nhau về văn hóa doanh nghiệp

- 33 -
Phẩm chất riêng biệt của tổ chức được nhận thức phân biệt nó với các tổ
chức khác trong lĩnh vực”. (Gold, K.A.)
“Văn hóa thể hiện tổng hợp các giá trị và cách hành xử phụ thuộc lẫn
nhau phổ biến trong doanh nghiệp và có xu hướng tự lưu truyền, thường trong
thời gian dài”. (Kotter, J.P. & Heskett, J.L.)
“Văn hóa doanh nghiệp là những niềm tin, thái độ và giá trị tồn tại phổ
biến và tương đối ổn định trong doanh nghiệp”. (Williams, A., Dobson, P. &
Walters, M.)
Còn nếu nói nôm na: Nếu doanh nghiệp là máy tính thì văn hóa doanh
nghiệp là hệ điều hành. Nói một cách hình tượng thì: Văn hóa là cái còn thiếu
khi ta có tất cả, là cái còn lại khi tất cả đã mất.
Tuy nhiên, mọi định nghĩa đều có nét chung coi VHDN là toàn bộ các
giá trị văn hóa được xây dựng trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp, chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên
của doanh nghiệp; tạo nên sự khác biệt giữa các doanh nghiệp và được coi là
truyền thống riêng của mỗi doanh nghiệp.
3.1.2. Các yếu tố hợp thành văn hoá doanh nghiệp
- Triết lý kinh doanh
- Đạo đức kinh doanh
- Hệ thống sản phẩm
- Thể chế hoạt động của doanh nghiệp
+ Phong cách lãnh đạo
+ Phong cách làm việc
+ Hệ thống các qui chế, qui trình sản xuất kinh doanh và đời sống.
+ Hệ thống giao tiếp và quan hệ ứng xử nội bộ, khách hàng và xã
hội
v Một số biểu hiện của văn hoá doanh nghiệp
- Trong giao dịch với khách hàng
- Cạnh tranh
- Quản lý nhân viên

- 34 -
- Đề bạt và phát triển nhân viên
- Hệ thống giá trị của người lãnh đạo
- Tác phong và lề lối làm việc của doanh nghiệp
- Quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội
3.1.3. Nhà lãnh đạo có đạo đức và văn hóa doanh nghiệp
Nếu mục tiêu của văn hóa công ty là nuôi dưỡng những giá trị, kì vọng,
niềm tin và các kiểu hành vi mà vốn dĩ sẽ hỗ trợ tốt nhất và hiệu quả nhất cho
quá trình đưa ra các quyết định đạo đức thì các nhà lãnh đạo công ty phải có
trách nhiệm phục vụ cho nỗ lực này. Các nhà lãnh đạo phần nào có trách
nhiệm trong việc này bởi vì các nhóm có liên quan trong tổ chức sẽ phần lớn bị
tác động dẫn dắt bởi tiếng nói của cấp cao.
Một Tổng giám đốc của Merck, Raymond Gilmartin, giải thích: “Trong
tư duy, lời nói và cả hành động, các nhà lãnh đạo công ty phải ủng hộ và tuân
theo hành vi đạo đức một cách rõ ràng và minh bạch”. Nếu một lãnh đạo có
hanh vi trốn tránh trách nhiệm, lạm dụng công quỹ của công ty, xuyên tạc
năng lực của công ty hay có những hành vi không thích đáng thì các nhóm có
liên quan trong công ty sẽ ngầm hiểu rằng đây là một hành vi không những có
thể chấp nhận được, mà có thể đó còn là một hành vi được kì vọng và là một
cách để tiến thân trong công ty này. Thay vào đó, nếu như lãnh đạo công ty tự
đặt hành vi đạo đức của bản thân lên trên bất kì một khía cạnh nào khác thì các
nhóm liên quan sẽ tuân theo mô hình vai trò đó và sẽ cố gắng để thúc đẩy việc
này.
Ngoài hành vi cá nhân, các nhà lãnh đạo còn có thể thiết lập một tinh
thần chung qua các cơ chế khác chẳng hạn như việc cung cấp các nguồn lực.
Các nhà lãnh đạo có đạo đức của công ty không chỉ nói về đạo đức, hành động
có đạo đức mà họ còn phải phân bổ các nguồn trong công ty để hỗ trợ và phát
huy các hành vi đạo đức. Có một cương lĩnh quản lý lâu dài: “Tất cả ngân sách
rót ra là để tạo nên các giá trị”. Cách nói thông dụng hơn là “bỏ tiền vào miệng
há” hay “nói là làm”.

- 35 -
Chẳng hạn, vào thập niên 90 của thế kỉ trước khi lần đầu tiên công ty
giới thiệu nhân viên đạo đức vào cơ cấu của nó, sức ảnh hưởng của các nhân
viên này chỉ được nhận thấy ở các khía cạnh mà họ đươc cung cấp nguồn tài
chính để hoạt động. Rõ ràng đạo đức không phải là ưu tiên hàng đầu nếu như
cố vấn luật pháp của công ty kiêm nhiệm luôn chức vụ nhân viên đạo đức
trong thời gian nhàn dỗi của họ, và không có nguồn bổ sung nào được bố trí
cho hoạt động này. Ngược lại, đạo đức sẽ có một vị trí khác trong công ty nếu
công ty bố trí một nhân viên có kĩ năng chuyên môn cao đảm nhiệm vị trí công
việc toàn thời gian với chức danh là nhân viên đạo đức và được cấp ngân sách
cũng như nhân viên để hỗ trợ họ làm việc theo yêu cầu. Tương tự, nếu công ty
yêu cầu các lao động của họ phải đưa ra quyết định có đạo đức dựa theo các
quy tắc hành nghề, mở rộng áp dụng tiêu chuẩn tương tự đó cho các bên bán,
bên cung ứng và các nhà thầu khác của công ty, thì đó là biểu hiện cho thấy
mức độ nghiêm túc trong việc thực thi quy tắc đạo đức của công ty.
Qua một ngiên cứu về bản chất của khả năng lãnh đạo có đạo đức, người
ta đã thấy được tầm quan trọng của nhà lãnh đạo, cũng như tầm quan trọng của
việc tham gia vào các hoạt động đạo đức rõ rệt của những nhà lãnh đạo này.
Bên cạnh những đặc tính được cho là truyền thống như liêm chính, chân thật
và đáng tin thì cũng có những đặc tính cũng không kém phần quan trọng như:
khả năng thấu hiểu, sự lắng nghe, có đầu óc cởi mở. Vì vậy, việc để người ta
biết mình là một nhà lãnh đạo có ý thức đạo đức rõ ràng, bày tỏ mối quan tâm
đối với nhiều nhóm có liên quan và áp dụng các quy trìnhđưa ra quyết định có
đạo đức cũng rất quan trọng.
Những nhà lãnh đạo có đạo đức thì làm nhiều việc mà các “nhà lãnh đạo
truyền thống” hay làm (chẳng hạn, củng cố quy tắc đạo đức họ đang tìm kiếm,
hình thành các tiêu chuaanrcho hành vi và vân vân), nhưng họ lại thực hiện
điều đó trong bối cảnh của một chương trình nghị sự đạo đức. Mọi người sẽ
nhận thây rằng mục tiêu của một nhà lãnh đạo có đạo đức không chỉ thuần túy
là cách làm việc mà cách làm việc phải tuân thủ theo các giá trị và quy tắc đạo
đức. Cuối cùng, những nhà lãnh đạo có đạo đức bày tỏ mối quan tâm đối với

- 36 -
nhiều người (lao động và các nhóm có liên quan bên ngoài) trong quy trình
này.
Tuy nhiên, như được đề cập ở trên, tất cả những đặc tính và hành vi này
phải nói rõ ràng. Nếu Tổng giám đốc là một “nhà đạo đức trầm lặng” chỉ được
biết đến trong phạm vi ban quản trị cấp cao, còn các nhân viên cấp dưới lại
không biết về điều đó, thì ông/bà ấy thường không được biết đến như một nhà
lãnh đạo có đạo đức. để gây được sự chú ý và tạo sức ảnh hưởng đối với nhận
thức của mọi người thì các đặc tính và hành vi đạo đức phải rõ ràng, rộng khắp
và mọi người đều có thể hiểu được. Các Tổng giám đốc sẽ tạo được chú ý của
mọi người nếu anh ta biết nói là lamfvaf hành động vì những mục đích tốt đẹp
chung, vì xã hội nói chung và vì các triển vọng kinh doanh dài lâu của công ty.
Người ta mong chờ các Tổng giám đốc sẽ tập trung vào các trọng điểm tài
chính của công ty cũng như những yêu cầu ngắn hạn như phân tích tình hình
cổ phiếu, nhưng họ cũng có thể gây được nhiều chú ý nếu họ cũng tập chung
vào những mối quan tâm rõ ràng và lâu dài hơn.
Cuối cùng, việc đưa ra các quyết định can đảm trong những tình huống
khắc nghiệt cũng có thể là một cách khác giúp các lãnh đạo có đạo đức được
chú ý đến. Các nhà lãnh đạo có đạo đức thì đủ can đảm để nói không đối với
những quy tắc làm việc không tương thích với giá trị đạo đức của họ.
3.1.4. Lãnh đạo có hiệu quả và lãnh đạo có đạo đức
Việc được mọi người nhìn nhận là một nhà lãnh đạo sẽ có một vai trò
khá quan trọng trong viêc giup nhà lãnh đạo đó tạo ra và chuyển đổi nền văn
hóa đạo đức của công ty. Các Tổng giám đốc chính là những người có khả
năng chuyển đổi nền văn hóa công ty theo chiều hướng tốt hơn hay xấu hơn.
Nếu nền văn hóa công ty tác động rất lớn đến quy trình đưa ra quyết định có
đạo đức trong phạm vi công ty thì các nhà lãnh đạo là người có trách nhiệm
phải định hướng môi trường đó để quy trình này có thể phát triển lên. Nhưng
làm thế nào để trở thành một nhà lãnh đạo, và quan trọng hơn là làm thế nào
để trở thành một nhà lãnh đạo có đạo đức?

- 37 -
Chúng ta muốn ám chỉ gì khi đề cập đến một nhà lãnh đạo có đạo đức?
Chúng ta cần phân biệt thế nào là một nhà lãnh đạo tốt và thế nào là một nhà
lãnh đạo có đạo đức. Nhà lãnh đạo tốt đơn giản là một người mà có thể hoàn
thành tốt những việc các lãnh đạo cần làm. Bởi vì trách nhiệm của các nhà
lãnh đạolà hướng dẫn, chỉ bảo, hỗ trợ các lao động khác tiến đến đích nên nhà
lãnh đạo tốt đồng nghĩa là một người có thể thực hiện những việc nêu trên một
cách thành công và hiệu quả. Những nhà lãnh đạo tốt có khả năng hướng các
đồng sự đến được đích chung mà họ đã đề ra. Nhưng không phải nhà lãnh đạo
tốt nào cũng là nhà lãnh đạo có đạo đức.
Xét trong bối cảnh công ty thì Ken Lay và Jeffrey Skilling là những nhà
lãnh đạo tốt và có hiệu quả của công ty. Họ có khả năng biến Enron từ một
công ty kinh doanh dầu và khí gas nhỏ thành một trong những tập đoàn lớn
nhất thế giới. Trong nhiều khía cạnh, họ là những nhà lãnh đạo đầy nhiệt
huyết, giàu trí tưởng tượng và sáng tạo, có thể tạo động lực thúc đẩy những lao
động đang làm việc cho họ đạt được nhiều thành công vượt bậc. Nhưng họ
cũng là những nhà lãnh đạo vô đạo đức. Như vậy thì điểm khác biệt giữa nhà
lãnh đạo có hiệu quả và nhà lãnh đạo có đạo đức là gì?
Điểm khác biệt chính nằm ở những biện pháp được sử dụng để tạo động
lực cho những lao động khác đạt được mục tiêu họ đưa ra. Những người làm
việc chung với Skilling đều nói ông ấy là một người không có tinh thần đồng
đội. Những nhà lãnh đạo có hiệu quả có thể đạt được mục tiêu của họ bằng
cách đe dọa, dọa dẫm, lạm dụng hay cưỡng ép người khác. Một người khác có
thể sẽ áp dụng những biện pháp tốt hơn chẳng hạn như lập mô hình hướng dẫn
hành vi đạo đức, thuyết phục hay đơn giản là sử dụng vai trò lãnh đạo của một
người nào đó.
Theo một số thảo luận về khả năng lãnh đạo thì việc lãnh đạo có đạo
đức hay không là được quyết định bởi cách thức lãnh đạo. Theo Robert
Greenleaf: những nhà lãnh đạo giỏi nhất chính là những cá nhân không quan
tâm đến cấp bậc, lãnh đạo theo kiểu phục vụ người khác.

- 38 -
Để trở thành một nhà lãnh đạo có đạo đức thì nhà lãnh đạo đó phải có
khả năng thiết lập nên một nền văn hóa công ty mà trong đó các lao động được
trao quyền và được kỳ vọng là có thể đưa ra các quyết định có trách nhiệm.
3.2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Đạo đức và trách nhiệm xã hội rõ ràng là những vấn đề không thể thiếu
trong kinh doanh. Nhưng thực tế cho thấy, các doanh nghiệp chưa chú ý đến
vấn đề đó. Điều này, thật khó mà thuyết phục các nhà quản lý của doanh
nghiệp. Thực hiện tốt các vấn đề đạo đức và trách nhiệm bằng những luận cứ
dựa trên lợi ích kinh tế trước mắt.
3.2.1. Khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility
hay CSR), theo chuyên gia của Ngân hàng thế giới được hiểu là “Cam kết của
doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc
tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động,
quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát
triển cộng đồng,… theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển
chung của xã hội”.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng
cách đạt một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ quy tắc ứng xử (Code
of Conduct – COC). Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp
phải thực hiện đối với xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa
các tác dụng tích cực và giảm tới tối thiểu các hậu quả tiêu cực đối với xã hội.
3.2.2. Các khía cạnh về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
a. Khía cạnh kinh tế
Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
phải sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá có
thể duy trì doanh nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp với
các nhà đầu tư; là tìm kiếm nguồn cung ứng lao động, phát hiện những nguồn
tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; là phân phối
các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch vụ như thế nào trong hệ thống xã hội

- 39 -
Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp
phần vào tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế của doanh nghiệp là tạo công
ăn việc làm với mức thù lao xứng đáng cơ hội việc làm như nhau, cơ hội phát
triển nghề và chuyên môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi trường lao
động an toàn, vệ sinh và đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân ở nơi làm việc.
Đối với người tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là cung
cấp hàng hoá và dịch vụ, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp còn liên quan
đến vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm
(quảng cáo), phân phối, bán hàng và cạnh tranh.
Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là cơ
sở cho các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong
kinh doanh đều được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý
b. Khía cạnh pháp lý
Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức đối
với các bên hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được cạnh
tranh, bảo vệ khách hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và an
toàn và cung cấp những sáng kiến chống lại những hành vi sai trái. Các nghĩa
vụ pháp lý được thể hiện trong luật dân sự và hình sự. Về cơ bản, nghĩa vụ
pháp lý bao gồm:
(1) Điều tiết cạnh tranh
(2) Bảo vệ người tiêu dùng
(3) Bảo vệ môi trường
(4) An toàn và bình đẳng
(5) Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái.
Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực thi
các hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ
không thực hiện trách nhiệm pháp lý.

- 40 -
c. Khía cạnh đạo đức
Khía cạnh đạo đức trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
những hành vi và hoạt động mà xã hội mong đợi ở doanh nghiệp nhưng không
được quy định trong hệ thống luật pháp, không được thể chế hóa thành luật.
Khía cạnh này liên quan tới những gì các công ty quyết định là đúng,
công bằng vượt qua cả những yêu cầu pháp lý khắc nghiệt, nó chỉ những hành
vi và hoạt động mà các thành viên của tổ chức, cộng đồng và xã hội mong đợi
từ phía các doanh nghiệp dù cho chúng không được viết thành luật.
Khía cạnh đạo đức của một doanh nghiệp thường được thể hiện thông
qua những nguyên tắc, giá trị đạo đức được tôn trọng trình bày trong bản sứ
mệnh và chiến lược của công ty. Thông qua các công bố này, nguyên tắc và
giá trị đạo đức trở thành kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi
thành viên trong công ty và với các bên hữu quan.
3.2.3. Đạo đức và trách nhiệm xã hội
Việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ đem lại nhiều lợi ích mang tính
chiến lược cho các doanh nghiệp. Những lợi ích đó là gì và bằng cách nào để
có được? Dưới đây là một số gợi ý:
- Khai thác các cơ hội từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội
Đạo đức và trách nhiệm xã hội không chỉ là những vấn đề gây tốn kém
và bó buộc mà còn có thể là những cơ hội tiềm tàng trong kinh doanh cho
những ai nhận ra và đón bắt được. Ví dụ xu hướng tiêu dùng những sản phẩm
sạch và xanh, dùng phương tiện giao thông an toàn và ít ô nhiễm đang tạo ra
thị trường tiềm năng cho nhiều sản phẩm mới. Thành công của Toyota trên thị
trường xe động cơ hybrid (chạy điện và xăng) hay của TRW trên lĩnh vực thiết
bị an toàn trong xe hơi đều xuất phát từ việc lấy mục tiêu an toàn của người
tiêu dùng và môi trường làm chiến lược kinh doanh.
Xem đạo đức và trách nhiệm xã hội là một phần thiết yếu của chiến lược
kinh doanh, các doanh nghiệp cũng sẽ cảm thấy tự nguyện và chủ động hơn
trong việc thực hiện. Khi đó, những vấn đề này không còn là một gánh nặng
hay điều bắt buộc mà là nguồn và cơ sở của những thành công. Motorola

- 41 -
thường xuyên có những đột phá về kỹ thuật vì công ty luôn chủ động đầu tư
vào các chương trình đào tạo và chăm sóc đời sống cho nhân viên. Những năm
đầu thập niên 1990, Proctor & Gamble đã đi tiên phong và gặt hái nhiều thành
công nhờ chiến lược tiếp thị các sản phẩm có thành phần và bao bì không gây
hại môi trường. Các sản phẩm “xanh” đã thành thời thượng ngay sau đó. Công
ty 3M khởi xướng chương trình giảm ô nhiễm 3P (Pollution Prevention Pays)
ngay từ những năm 1970 nên đã tiết kiệm rất nhiều chi phí về sau khi các vấn
đề về môi trường được áp đặt bằng luật lệ.
- Sự trung thành của nhân viên và khách hàng
Việc tôn trọng đạo đức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ mang
lại lợi ích chung cho nhân viên, khách hàng, đối tác và cộng đồng. Đây là
những bộ phận quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi doanh
nghiệp. Vì vậy, dù chi phí ban đầu có thể sẽ nặng, lợi ích có thể chưa thấy
ngay, nhưng chắc chắn về lâu về dài sẽ chẳng có gì thiệt thòi khi doanh nghiệp
tôn trọng lợi ích của những bộ phận thiết yếu này. Khi thực hiện tốt đạo đức và
trách nhiệm xã hội, doanh nghiệp sẽ nhận được sự ủng hộ trung thành và nhiệt
tình của nhân viên, khách hàng và các đối tác khác. Đây chính là điều kiện cơ
bản nhất của mọi thành công. Làm thương hiệu không gì khác hơn là làm cho
các bên có liên quan, không chỉ khách hàng mà cả nhân viên, đối tác và cộng
đồng, thương yêu cái hiệu, cái tên của công ty mình.
Ví dụ, nếu có dịp xem qua trang web của các doanh nghiệp lớn trên thế
giới, ta sẽ thấy họ ngày càng ít giới thiệu công ty qua những sản phẩm hay
dịch vụ, mà chỉ giới thiệu các thành tích trong việc thực hiện đạo đức và trách
nhiệm xã hội trong kinh doanh bằng cách nêu lên những nỗ lực của công ty để
trở thành ông chủ tốt, đối tác tốt, công dân tốt và là người bảo vệ môi trường.
Điều này cho thấy rõ đâu là xu hướng chính trong các chiến lược làm thương
hiệu và kinh doanh ngày nay.
Tóm lại, thực hiện đạo đức và trách nhiệm xã hội trong kinh doanh có
thể không mang lại những lợi nhuận trước mắt nhưng cũng không phải là gánh
nặng cho các doanh nghiệp. Nếu biết cách đưa những vấn đề này vào trong

- 42 -
chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp và cả xã hội sẽ có thể phát triển theo
hướng tích cực và bền vững hơn.
______________________________________________________________
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY – HỌC
- Giới thiệu môn học và các yêu cầu của giảng viên đối với sinh viên
- Phương pháp quy nạp
- Phương pháp diễn dịch
- Yêu cầu sinh viên tự nghiên cứu, đọc tài liệu nội dung của chương 3 ở
nhà trước khi đến lớp.
_______________________________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ThS. Phạm Thị Uyên Thi, Tập bài giảng Đạo đức trong công việc, 2017
- Nhóm dịch thuật DTU, Đạo đức kinh doanh
- Joe DesJardins, Business Ethics, Laura P.Hartman
_______________________________________________________________
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Nêu khái niệm về văn hóa doanh nghiệp? Trình bày các yếu tố hợp
thành văn hóa doanh nghiệp.
Câu 2: Có phải công ty, trường học, hoặc hội những người có cùng ngành
nghề,… đều có những văn hóa riêng của nó? Bạn hãy mô tả nó.
Câu 3: Nêu khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp? Phân tích các
khía cạnh về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp?
Câu 4: Nêu và trình bày cụ thể về đạo đức và trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp?
Câu 5: Vận dụng thực tiễn về trách nhiệm xã hội của doah nghiệp.

- 43 -
CHƯƠNG 4
RA QUYẾT ĐỊNH ĐẠO ĐỨC: TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ
CÔNG TY VÀ QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA CÁ NHÂN TẠI NƠI
LÀM VIỆC

Mục tiêu Chương:


Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên sẽ đạt được:
- Thảo luận hai quan điểm về đạo đức trong các mối quan hệ công sở
- Thảo luận quyết định tinh giảm nhân viên một cách có đạo đức
- Biết xác định được các yếu tố trong mối quan hệ lao động tại nơi làm
việc
- Thảo luận những vấn đề về quyền và trách nhiệm của người lao động
- Hiểu và nêu được khái niệm về quyền riêng tư cá nhân
4.1. Trách nhiệm của chủ công ty và quyền lợi của người lao động
4.1.1. Các vấn đề đạo đức tại nơi làm việc
Dường như chúng ta đều tự đưa ra quyết định về cách chúng ta sẽ đối xử
với những lao động khác tại nơi làm việc và cách chúng ta yêu cầu những lao
động khác đối xử với mình. Đạo đức tại nơi làm việc và trong quản trị nguồn
nhân lực là bàn về mối quan hệ của chúng ta với những lao động khác và với
các công ty chúng ta đang làm việc cho. Nghiên cứu cho thấy: “những công ty
có chiến lược kinh doanh lấy lao động làm nòng cốt thì sẽ thu được lợi nhuận
về lâu dài cho các cổ đông hơn những công ty kinh doanh khác chỉ tập trung
coi trọng ngành nghề”
Trong các mối quan hệ cá nhân cũng vậy. Hiện nay chưa đến ½ lao
động tại Mỹ cảm thấy gắn kết nhiều với công ty họ đang làm việc hay tin rằng
công ty họ đang làm viêc xứng đáng với lòng trung thành của họ. Cứ 4 lao
động thì có 1 lao động thì mới có 1 lao động là thực sự trung thành với nơi họ
đang làm việc. Khi được hỏi về yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến sự gắn kết
của họ đối với công ty là gì thì các lao động đều trả lời đó chính là sự bình

- 44 -
đẳng tại nơi làm việc, tiếp đó là sự quan tâm và chú ý đến người lao động. Đây
vốn là những yếu tố then chốt tạo nên môi trường làm việc có đạo đức
Quan điểm về đạo đức trong các mối quan hệ tại nơi làm việc
Thực tế hiện nay có tới hai quan điểm rất khác nhau, và đôi khi còn đối
nghịch nhau về đạo đức trong các mối quan hệ tại nơi làm việc:
Ø Chủ lao động đối xử tốt với nhân viên
Bởi vì họ xem người lao động là phương tiện giúp công ty có môi
trường làm việc nhịp nhàng, hài hòa và đạt năng suất cao.
- Phương pháp đạo đức vì kết quả - thực thi đạo đức để tạo môi trường
làm việc tốt cho các lao động khác
- Theo nghiên cứu của Jeffrey Pfeffer: công ty kinh doanh hiệu quả đều
đưa ra nhiều quy tắc chung, tất cả các quy tắc chung đều liên quan
đến việc đối xử với lao động trên tinh thần nhân văn và tôn trọng
Vai trò của cảm xúc tại nơi làm việc: Mặc dù đây là lĩnh vực nghiên cứu
tương đối mới mẻ những theo các nghiên cứu thì các giám đốc có tác động
đáng kể đến cảm xúc của người lao động và tác động này có thể ảnh hưởng lớn
đến năng suất, sự trung thành và nhận thức của người lao động về sự công
bằng, sự quan tâm và chú ý của công ty đối với họ.
Rõ ràng cơ cấu tiền lương và tiền thưởng tác động đến cảm xúc của
người lao động và thành phần lao động trong đội nhóm hay các mối quan hệ
giữa các lãnh đạo trong công ty cũng vậy.
Khi các lao động nhận thấy công ty coi trọng cảm xúc của họ cũng
như đưa ra các giá trị chẳng hạn như tính chân thật, sự kinh trọng và niềm tin
thì họ sẽ cảm thấy ít căng thẳng, cảm thấy giá trị bản thân được tăng lên, và họ
sẽ cảm thấy hài lòng với công ty họ đang làm việc hơn.
Ø Chủ lao động đối xử tốt với nhân viên
- Đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động, xem việc đối xử tốt
với người lao động như “việc đúng đắn phải làm”
- Ý thức trách nhiệm bắt nguồn từ luật pháp, những quy tắc đạo đức
ngành nghề, những quy tắc đạo đức công ty hoặc những nguyên tắc

- 45 -
đạo đức như tính công bằng – chính nghĩa hay nhân quyền của lãnh
đạo công ty.
Những người bảo vệ quyền lợi của người lao động tranh luận rằng các
quyền của người lao động phải bảo vệ được những lợi ích quan trọng của
người lao động sao cho họ không bị trở thành các con rối trong những tính
toán vị lợi và tính toán tài chính.
4.1.2. Xác định các tham số trong mối quan hệ lao động
4.1.2.1. Thủ tục tố tụng và lý do chính đáng
An toàn công việc – có nghĩa là có được công việc và giữ được công
việc – là khía sạnh đạo đức quan trọng nhất trong đạo đức lao động. Nhiều câu
hỏi cơ bản liên quan đến sự bình đẳng lao động đã nảy sinh bởi vì người lao
động là đối tượng dễ bị tổn hại nghiêm trọng do tính an toàn công việc bị hạn
chế quyền mà họ thì không có quyền thiết lập mối quan hệ này. Tuy nhiên có
nên hạn chế quyền và khả năng thuê mướn, sa thải hay kỷ luật nhân viên của
chủ lao động để ngăn ngừa tình trạng bất bình đẳng trong công ty không? Liệu
có phương pháp nào khác để chống lại những hành vi phi đạo đức hay những
kết quả bất bình đẳng này không?
Về mặt triết học, quyền được tiến hành thủ tục tố tụng chính là quyền
được bảo vệ nhằm chống lại hành vi sử dụng quyền lực một cách tùy ý. Trong
pháp luật, thủ tục tố tụng ám chỉ đến các thủ tục mà công an và tòa án phải
tuân thủ theo khi sử dụng quyền lực đối với công dân. Cũng có một ít tranh
luận cho rằng một quốc gia, thông qua cảnh sát và tòa án được có quyền trừng
phạt công dân của nước họ. Quyền này tạo ra một xã hội an toàn và có trật tự
để tất cả chúng ta có thể sống, làm việc và kinh doanh. Nhưng quyền lực
không phải là không bị giới hạn, nó chỉ có thể được thực thi ở một số cách nào
đó và theo những điều kiện nhất định. Quyền tố tụng sẽ quy định rõ những
điều kiện này.
Tương tự, thủ tục tố tụng tại nơi làm việc nêu rõ quyền hạn của chủ lao
động đối với các lao động. Chủ lao động có thể yêu cầu lao động làm những
việc gì, khi nào và làm theo cách nào. Họ có thể kỷ luật hoặc sa thải lao động

- 46 -
nếu những người này không tuân thủ theo mệnh lệnh của họ. Đối với người lao
động, công việc có giá trị rất lớn, do đó nguy cơ sợ mất việc chính là động lực
buộc học phải tuân thủ các quy định và quy tắc của công ty. Tuy nhiên, theo
yêu cầu về sự công bằng – thực thi thông qua thủ tục tố tụng – quyền lực này
nên được áp dụng một cách bình đẳng.
Những vấn đề về quyền thủ tục tố tụng cũng xảy ra trong những tình
huống lao động khác. Công ty luôn giám sát và đánh giá lao động tại nơi làm
việc và sử dụng những quyền lợi về lương bổng, điều kiện làm việc, sự thăng
chức nhằm động viên hay khuyến khích các lao động.
Tóm lại, thủ tục tố tụng chính là quyền được bảo vệ chống lại việc sử
dụng lao động tùy ý. Với tư cách là người đưa ra quyết định, chúng ta cần có
nhiệm vụ chống lại những quyết điịnh tùy ý đó. Các chủ lao động nên có thái
độ bình đẳng trong quá trình thực thi các quyết định và công bằng trong qua
trình thực thi quy trình để phục vụ các nguyên tắc trên.
4.1.2.2. Thu hẹp quy mô của công ty
Một trong những vấn đề nhạy cảm đối với người lao động và người đưa
ra quyết định là khi công ty quyết định thu hẹp qui mô công ty, lúc đó không
phải sa thải một vài người mà phải đưa ra quyết định khiến hàng loạt người
phải nghỉ việc. Quyết định sa thải lao động 1 người hay 100 người – thì không
nhất thiết quyết định nào cũng là quyết định phi đạo đức. Tuy nhiên, chính
quyết định này làm nảy sinh nhiều tình huống đạo đức khó xử vì công ty có
nhiều biện pháp khác để áp dụng trong điều kiện khó khăn về tài chính thay vì
biện pháp sa thải. Vì vậy, câu hỏi có nên luôn luôn vin vào biện pháp sa thải
nhân viên lúc công ty gặp khủng hoảng về tài chính mặc dù công ty vẫn có thể
có sẵn các biện pháp khác thay thế, thì vẫn chưa được trả lời một cách chính
xác, rõ ràng. Một khi công ty đã đưa ra quyết định thì có cách nào để công ty
có thể hành động có đạo đức hơn trong quá trình thu hẹp quy mô không?
v Đánh giá hiệu quả công việc một cách đạo đức và hợp pháp:
- Tiêu chuẩn hóa và thống nhất cho tất cả các lao động
- Truyền đạt công khai đến các lao động

- 47 -
- Thông báo cho nhân viên biết về những yếu kém trong công việc và
tạo cơ hội sửa sai
- Cho người lao động cơ hội để họ xem xét lại kết quả đánh giá
- Đưa ra các cơ chế thu hút, khuyến khích cho người lao động
- Sử dụng nhiều người đánh giá khác nhau và không thiên vị
- Đưa ra hướng dẫn và đào tạo bằng văn bản cho người đánh giá
- Có tài liệu biên soạn hướng dẫn đánh giá kỹ lưỡng và đưa ra ví dụ
cụ thể
- Thiết lập hệ thống đánh giá bài bản để tránh trường hợp phân biệt
đối xử hoặc lạm dụng trong việc đánh giá.
Một khi đã quyết định thu hẹp quy mô thì công ty cần giảm thiểu càng
nhiều ảnh hưởng càng tốt và cho phép những lao động bị sa thải rời công ty
với lòng tự trọng (chẳng hạn, nếu không vì bất cứ một lý do nào khác mà công
ty quyết định như vậy thì việc yêu cầu đội bảo vệ theo sát canh chừng những
lao động bị sa thải cho đến khi họ rời khỏi tòa nhà công ty là một việc không
nên làm chút nào). Quan trọng hơn, trong suốt thời gian khi mối quan hệ trở
nên căng thẳng thì công ty cần phải thành thật và thẳng thắn, thông cảm với
những gì mà những người lao động bị sa thải sẽ phải gánh chịu.
4.1.2.3. Sức khỏe và an toàn
Giống như công viêc, sức khỏe và an toàn là hai yếu tố được đánh giá
như một phương tiện để đạt được những mục tiêu có giá trị khác. Có sức khỏe
và an toàn thì có nhiều cơ hội để đạt được những gì mà chúng ta khao khát
trong cuộc sống. Theo cách này, sức khỏe và an toàn có một giá trị công cụ
cao bởi vì một phần giá trị của chúng bắt nguồn từ thực tế rằng chúng ta sử
dụng chúng để đạt được những kiểu giá trị khác. Vì thế, các dịch vụ bảo hiểm
cố gắng đền bù cho những người lao động bị thương bằng cách trả lương cho
họ khi họ bị thiệt hại do không thể làm việc khi bị thương.
Bản thân sức khỏe và an toàn cũng có giá trị cốt lõi của nó. Chúng có
giá trị thực bên cạnh giá trị công cụ. Để hiểu về sự khác biệt này, hãy xem một
người đối ứng như thế nào với câu hỏi anh ấy/cô ấy có giá trị bao nhiêu. Chẳng

- 48 -
hạn, cuộc sống của một người lao động chết do tai nạn lao động có một giá trị
công cụ có thể được đánh giá bằng tổng lương người lao động đó sẽ kiếm được
nếu họ còn sống. Tuy nhiên, mức lương này không đo được giá trị thực của
một đời người, giá trị thực là một cái gì đó mà không thể bồi hoàn được bằng
giá trị tài chính.
Giá trị sức khỏe là gì và khỏe mạnh thì có ý nghĩa gì? Thế nào là một
nơi làm việc an toàn, thế nào là không an toàn? Nếu “khỏe mạnh” được hiểu là
trạng thái tâm lý và thể chất hoàn toàn hoàn mỹ thì người ta có thể cho rằng
không ai là khỏe mạnh hoàn toàn. Nếu “an toàn” có nghĩa là hoàn toàn không
gặp rủi ro thì chắc chắn không có một nơi làm việc nào là an toàn cả. Nếu sức
khỏe và an toàn được nhìn nhận được nhìn nhận ở dạng hoàn toàn lý tưởng
đến nổi không có trên đời thì sẽ hoàn toàn không hợp lý khi đòi hỏi rằng người
lao động phải có quyền làm việc trong một nơi an toàn và khỏe mạnh. Sức
khỏe và an toàn - ở mức rủi ro có thể chấp nhận được.
4.1.3. Những tranh luận về quyền và trách nhiệm
4.1.3.1. Phân biệt đối xử
Sự bất đồng mang tính toàn cầu là quyền của người lao động có liên
quan đến việc phân biệt đối xử, phạm vi của các tầng lớp được bảo vệ và một
số vấn đề nhỏ hơn ví dụ như sự đa dạng hóa lực lượng lao động và hành động
đồng thuận mà chúng ta sẽ đề cập sau đây. Ngay cả ở nước Mỹ, khái niệm về
sự phân biệt chủng tộc là vấn đề được tranh cãi nhiều nhất. Người chủ lao
động tiếp tục ủng hộ cho quyền quản lý tại nơi làm việc và quyền được phép
thuê, giữ lại và chấm dứt hợp đồng với người lao động mà không có bất cứ sự
ảnh hưởng hay kiểm soát nào từ bên ngoài. Người lao động lo sợ bị đối xử
không công bằng và mất quyền lực dựa trên những lý do hoàn toàn nằm ngoài
sự kiểm soát của họ.
Nếu không giảm tác động của hành động phân biệt đối xử một cách
công khai hay để cho những hành động này tiếp tục xảy ra tại nơi làm việc thì
những hình thức phân biệt đối xử ngầm cũng phổ biến rộng rãi mặc dù chúng
thường không được chú ý.

- 49 -
4.1.3.2. Tính đa dạng trong lực lượng lao động
Tính đa dạng trong lực lượng lao động là sự đa dạng về văn hóa, ngôn
ngữ, dân tộc, chủng tộc, quan hệ thân thuộc, giới tính, tôn giáo, tầng lớp xã
hội, độ tuổi và nguồn gốc dân tộc của các lao động trong công ty. Đa số các
nhà quản lý cao cấp của các công ty cho rằng việc nuôi dưỡng tính đa dạng
hóa trong lực lượng lao động cũng là một phần trong chiến lược kinh doanh
tổng quát của tổ chức, giúp cho công ty hoạt động có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng sẽ tạo ra những xung đột mới. Khi một
công ty có những cá nhân có sự khác biệt thì người ta sẽ nhận biết được sự
khác biệt này ngay lập tức, từ đó có thể dẫn đến những xung đột và căng
thẳng. Tính đa dạng – nguồn để tạo ra giá trị thặng dư cho tổ chức và cũng là
nguồn tạo ra sự khác biệt cơ bản mà cần phải được cân bằng.
Khi từ chối tuyển dụng một ai đó thì không được cho là phân biệt đối
xử, trừ khi sự ác cảm đó phát sinh từ sự phân biệt chủng tộc hoặc giới tính.
Cần phải thận trọng với những định kiến. Những sự khác nhau ở tiêu chí văn
hóa cơ bản có thể biện minh cho việc tại sao người chủ lao động không tuyển
dụng, nhưng sự khác biệt cũng thuộc phạm trù văn hóa nhưng về quần áo, kiểu
tóc hoặc cách giao tiếp thì cần phải xem lại.
Mặt khác, nếu bỏ qua tính đa dạng thì phí tổn gánh chịu sẽ cao, không
chỉ là mất năng suất, giảm tính sáng tạo mà còn ở khía cạnh pháp lý. Chẳng
hạn công ty Texaco đã phải gánh chịu một sự cố mà những người trong cuộc
thường gọi là “cơn khủng hoảng” vào năm 1996 khi công ty này bị yêu cầu chi
trả 175 triệu đo Mỹ trong vụ kiện liên quan đến nạn phân biệt chủng tộc.
4.1.3.3. Hành động tích cực
Hành động tích cực đề cập đến chính sách hoặc chương trình nhằm xử
lý các trường hợp bị phân biệt đối xử trong quá khứ thông qua việc tiến hành
các biện pháp để đảm bảo mọi người có cơ hội công bằng ngang nhau.
Hành động tích cực tại nơi làm việc, có thể tiếp cận:
- Thông qua các yêu cầu pháp lý

- 50 -
- Các kế hoạch hành động tích cực tự nguyện mà các chủ lao động
tự tiến hành nhằm đảm bảo có thể vượt qua các rào cản để tạo ra
các cơ hội công bằng.
Quá trình này bao gồm các chương trình và kế hoạch huấn luyện, tuyển
dụng và giảm bớt sự phân biệt chủng tộc nhằm loại trừ một ứng viên nào đó.
4.2. Sự phát triển kỹ thuật và quyền riêng tư cá nhân tại nơi làm việc
4.2.1. Quyền riêng tư cá nhân
4.2.1.1. Khái niệm về quyền riêng tư cá nhân
Riêng tư là một giá trị rất mơ hồ và gây nhiều tranh cãi trong xã hội hiện
nay. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhu cầu bảo vệ quyền riêng tư
cá nhân ngày càng tăng. Người ta thường hay nhầm lẫn bản chất, mức độ và
giá trị của quyền riêng tư.
Quyền riêng tư cá nhân là một quyền bất khả xâm phạm thuộc phạm vi
riêng của cá nhân và quyền riêng tư như là quyền kiểm soát thông tin của
chính bản thân.
Quyền riêng tư cá nhân rất quan trọng bởi vì nó giúp để phân biệt ranh
giới giữa các cá nhân và qua đó giúp xác định được cá tính của một cá nhân. Ở
một chừng mực nào đó chúng ta coi trọng phẩm chất vốn có của mỗi cá nhân
và quyền của mỗi người được đối xử tôn trọng, chúng ta phải thừa nhận các
quyết định và thông tin cá nhân thuộc phạm vi độc quyền của cá nhân.
4.2.1.2. Các cơ sở đạo đức về quyền riêng tư cá nhân
Quyền riêng tư cá nhân là một quyền cơ bản, phổ biến của các cá nhân,
theo đó họ có quyền tự chủ, tự do đưa ra quyết định về sự tồn tại của cá nhân
mà không gặp bất cứ cản trở nào. Nhưng quyền này bị giới hạn bởi sự thỏa
thuận về mặt xã hội trong nền văn hóa của chúng ta và ngăn cản chúng ta
không xâm phạm đến quyền tự do cá nhân của người khác. Nhà triết học
Patricia mô tả giới hạn này như là một “bổn phận tương hỗ”, tức là, một cá
nhân muốn người khác tôn trọng quyền tự do của anh ấy thì cá nhân đó phải có
bổn phận tôn trọng sự tự do của người khác.

- 51 -
Quyền riêng tư cá nhân là một quyền cơ bản của con người, được công
nhận trong tất cả các hiệp ước và thỏa thuận quốc tế về quyền con người. Hầu
như mọi quốc gia trên thế giới đều công nhận một cách rõ ràng hoặc ngấm
ngầm quyền riêng tư như một quyền cơ bản của con người trong hiến pháp.
Hầu hết các hiến pháp được dự thảo gần đây đều bao gồm các quyền truy cập
và kiểm soát thông tin cá nhân.
4.2.2. Đời sống riêng tư và những ý nghĩa đạo đức của công nghệ
Sự xuất hiện của kỹ thuật công nghệ mới đã gây ra một số thách thức
mà con người khó có thể lường trước. Chẳng hạn, mối liên quan của công
nghệ mới với những kỳ vọng của chủ lao động và người lao động về việc sử
dụng thời gian; sự khác biệt giữa ứng dụng công nghệ trong công việc và trong
việc riêng; việc bảo vệ những thông tin có đăng ký quyền sở hữu, việc đánh
giá hiệu quả làm việc và những sở thích riêng. Mỗi chúng ta đều có khả năng
tạo ra năng suất nhiều hơn nhờ vào ứng dụng của công nghệ kỹ thuật nên công
nghệ không chỉ có nhiều lợi ích mà còn cho phép chủ lao động đòi hỏi nhiều
hơn ở từng lao động.
Tuy vậy, công nghệ mới không nhất thiết ảnh hưởng đến cách nhìn nhận
của chúng ta về giá trị mà thay vào đó là cung cấp cho chúng ta những phương
pháp mới để thu thập thông tin nhằm giúp chúng ta có cách đánh giá về những
giá trị này. Tuy nhiên việc tách bạch các vấn đề này cũng không dễ dàng gì.
Qua mỗi lần trải nghiệm, các doanh nghiệp thường cảm thấy rằng mình chưa
chuẩn bị tốt để ứng phó trước những thay đổi bất ngờ của công nghệ mới.
4.2.3. Quản lý nhân viên bằng cách kiểm soát
Một trong những hình thức thu thập thông tin phổ biến tại nơi làm việc
là kiểm soát công việc của nhân viên – đây là một trong những cách thức quản
lý hiệu quả chi phí thấp nhất. Qua các cuộc tiến hành khảo sát cho thấy xu
hướng kiểm soát thư điện tử của nhân viên tại các công ty đang ngày một gia
tăng.
Trong lĩnh vực quản lý thông tin, thật không dễ dàng gì phát hiện ra vấn
đề đạo đức. Khi chúng ta chưa hiểu rõ về công nghệ thì chúng ta sẽ không hiểu

- 52 -
được những mối liên quan về đạo đức trong các quyết định của chúng ta. Khi
điều đó xảy ra, chúng ta không thể nào bảo vệ một cách hiệu quả những thông
tin của chúng ta bởi vì chúng ta không hiểu được ảnh hưởng của điều này đối
với quyền tự trị của chúng ta, đối với việc kiểm soát thông tin của chúng ta,
đối với nghĩa vụ tương hỗ hoặc thậm chí điều gì là tốt nhất cho cuộc sống
riêng tư của chúng ta.
Ví dụ: bạn có nghĩ rằng những người khác có thể xem các thư điện tử
mà bạn gửi không? Người quản lý của bạn có thể đọc được thư điện tử của bạn
không? Có lẽ câu trả lời của bạn là không, chủ của bạn không có mật mã vào
máy. Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết rằng bất kỳ hệ thống nào cũng đều có
thể bị thâm nhập. Chủ lao động có thể bất ngờ đọc thư điện tử của nhân viên
để đảm bảo rằng hệ thống mạng của công ty mình được sử dụng cho mục đích
kinh doanh.
Vì sao doanh nghiệp kiểm soát việc sử dụng công nghệ? Chủ lao động
cần quản lý nơi làm việc của họ để có thể bố trí nhân viên của mình ở các vị trí
phù hợp. Khâu kiểm soát cũng cho phép cac nhà quản lý đảm bảo năng suất
lao động, không cho người lao động sử dụng công nghệ sai mục đích. Ngoài ra
việc kiểm soát còn cung cấp cho chủ lao động phương pháp bảo vệ những
nguồn lực khác: bảo vệ những thông tin độc quyền, đề phòng những thông tin
này bị trộm, bảo vệ những đầu tư của họ vào trang thiết bị và các băng thông
cũng như bảo vệ bản thân doanh nghiệp trước các trách nhiệm pháp lý.
_______________________________________________________________
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY – HỌC
- Giới thiệu môn học và các yêu cầu của giảng viên đối với sinh viên
- Phương pháp quy nạp
- Phương pháp diễn dịch
- Yêu cầu sinh viên tự nghiên cứu, đọc tài liệu nội dung của chương 4 ở
nhà trước khi đến lớp.

- 53 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ThS. Phạm Thị Uyên Thi, Tập bài giảng Đạo đức trong công việc, 2017
- Nhóm dịch thuật DTU, Đạo đức kinh doanh
- Joe DesJardins, Business Ethics, Laura P.Hartman
_______________________________________________________________
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Nêu quan điểm của bạn về đạo đức tại nơi làm việc?
Câu 2: Phân tích trách nhiệm và quyền lợi của cá nhân tại nơi làm việc?
Câu 3: Liệt kê các nguyên nhân tại sao người sử dụng lao động quyết định
giám sát công việc của người lao động.
Câu 4: Tại sao chủ doanh nghiệp quản lý nhân viên bằng cách kiểm soát?
Theo bạn như vậy có vi phạm đạo đức không?
Câu 5: Bình luận về thực trạng các cán bộ, công nhân viên chức thường xuyên
online facebook trong giờ hành chính.

- 54 -
CHƯƠNG 5: ĐẠO ĐỨC VÀ TIẾP THỊ

Mục tiêu Chương:


Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên sẽ đạt được:
- Hiểu được những khuôn khổ của các quyết định có đạo đức đối với
các vấn đề tiếp thị có đạo đức
- Giải thích các tiêu chuẩn thiết lập trách nhiệm an toàn sản phẩm của
doanh nghiệp
5.1. Những khuôn khổ đạo đức trong tiếp thị
Marketing là hoạt động hướng dòng lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ
chảy từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Triết lý của marketing là thoả mãn
tối đa nhu cầu của khách hàng nhờ đó tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp,
tối đa hóa lợi ích cho toàn xã hội. Nguyên tắc chỉ đạo của marketing là tất cả
các hoạt động marketing đều phải định hướng vào người tiêu dùng vì họ là
người phán xét cuối cùng về việc công ty sẽ thất bại hay thành công. Nhưng
trên thực tế vẫn tồn tại sự bất bình đẳng giữa người sản xuất và người tiêu
dùng: Người sản xuất có “vũ khí” trong tay, đó là kiến thức, kinh nghiệm, hiểu
biết về sản phẩm để quyết định có đưa sản phẩm của mình ra bán hay không,
còn người tiêu dùng luôn ở thế bị động, họ chỉ được vũ trang bằng quyền phủ
quyết với vốn kiến thức hạn hẹp về sản phẩm. Hơn nữa, họ thường xuyên bị
tấn công bởi những người bán hàng có trong tay sức mạnh ghê gớm của các
công cụ marketing hiện đại. Hậu quả là người tiêu dùng phải chịu những thiệt
thòi lớn: Vệ sinh thực phẩm không đảm bảo, tân dược già, đồ gia dụng không
đảm bảo chất lượng...
Chính vì lẽ trên, đã xuất hiện phong trào bảo hộ người tiêu dùng - bắt
đầu vào những năm 60 của thế kỷ XX, xuất phát từ Mỹ. Đây là phong trào có
tổ chức của người dân và cơ quan nhà nước về mở rộng quyền hạn và ảnh
hưởng của người mua đối với người bán.

- 55 -
- Tại Mỹ: có cơ quan nhà nước bảo vệ người tiêu dùng, có tổ chức
BBB (The Better Bussiness Bureau) với hàng trăm văn phòng trong
nước và thế giới.
- Tại Úc và NewZealand có Bộ Người Tiêu dùng.
- Tại Việt Nam có VINASTAS (Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu
dùng Việt Nam), được thành lập 4/5/1988, là thành viên của tổ chức
quốc tế người tiêu dùng (IC).
Trong những năm qua, VINASTAS đã tham gia tích cực vào việc đấu
tranh chống hàng giả, chống hiện tượng mất an toàn về vệ sinh thực phẩm.
Cung cấp những thông tin, phổ biến kiến thức hướng dẫn người tiêu dùng, hợp
tác với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức xã hội để đẩy mạnh các
hoạt động bảo vệ người tiêu dùng. Trong Bộ luật hình sự mới của Việt Nam
đưa thêm vào các điều 167, 170, 177 về Bảo vệ người tiêu dùng
Khái niệm trao đổi giữa người mua và người bán là tâm điểm của thị
trường và tư tưởng cốt lõi về khái niệm tiếp thị. Tiếp thị bao gồm các hoạt
động tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ cũng như là hoạt động đưa sản phẩm hoặc
dịch vụ đó vào thị trường. Do đó, đạo đức trong tiếp thị nghiên cứu những
trách nhiệm liên quan đến việc đưa sản phẩm vào thị trường, việc quảng bá sản
phẩm đó đến khách hàng. Vấn đề đơn giản của người bán là đưa sản phẩm vào
thị trường nhưng vấn đề đạo đức là tiềm ẩn và khá phức tạp.
Trước khi tạo ra sản phẩm, nhà sản xuất phải xem xét đối tượng nào
quan tâm đến việc mua sản phẩm đó? Sản phẩm này sau đó sẽ được thiết kế lại
hoặc được thay đổi theo những gì tiếp thu được từ những khách hàng tiềm
năng. Một khi sản phẩm sẵn sàng tung ra thị trường thì nhà sản xuất phải định
giá sao cho cả bên mua và bên bán đều có thể chấp nhận được. Nhà sản xuất
cũng xem xét đến vấn đề doanh số và định giá sản phẩm nhằm đảm bảo lợi
nhuận và đạt được những mục tiêu nhất định.
Trong các thành phần của 4P cũng phát sinh những vấn đề về đạo đức.
Nhà sản xuất có trách nhiệm gì đối với chất lượng và an toàn sản phẩm? Đối
tượng nào sẽ chịu trách nhiệm về những tổn hại do sản phẩm gây ra? Liệu có

- 56 -
một số sản phẩm không nên được sản xuất không hoặc liệu nhu cầu tiêu dùng
có quyết định tất cả những vấn đề về năng suất không? Liệu sự sẵn sàng chi trả
của người tiêu dùng có phải là ràng buộc duy nhất về mặt đạo đức dựa trên
việc định giá công bằng không? Liệu tất cả các khách hàng có xứng đáng được
hưởng cùng một mức giá hoặc liệu nhà sản xuất có thể phân biệt đối xử với
một số khách hàng không? Giá cả sẽ ảnh hưởng như thế nào đến đối thủ cạnh
tranh? Liệu những quảng cáo dối trá hoặc sai lệch là có đạo đức không?
Khi tiếp cận bất kỳ vấn đề đạo đức nào trong tiếp thị thì chúng ta cần
chú tâm vào ba vấn đề: truyền thống đạo đức của triết học Kant đặt ra câu hỏi
là những người tham gia thị trường được tôn trọng như những người tự do và
tự chủ ở mức độ như thế nào hay chỉ đơn giản là được đối xử như là một
phương tiện để đạt được mục đích là bán được hàng hóa. Thuyết vị lợi cũng
muốn biết ở mức độ nào cuộc giao dịch tạo ra những lợi ích thực sự chứ không
chỉ là những lợi ích trên danh nghĩa. Mỗi truyền thống đạo đức đều muốn biết
là còn có những giá trị nào khác trong cuộc giao dịch.
Vấn đề đạo đức thứ nhất, không dễ dàng xác định một người nào đó có
được tôn trọng trong những tình huống tiếp thị hay không? Có thể gợi ý hai
điều kiện:
- Thứ nhất, người này phải tự do đồng ý giao dịch. Như thế nào là tự do?
Rõ ràng là những giao dịch hoàn toàn bị ép buộc thì tất nhiên không mang tính
tự nguyện, do đó không thể nói là có đạo đức. Nhưng lại có nhiều mức tự
nguyện. Ví dụ, càng có nhiều khách hàng cần một sản phẩm hơn thì họ càng ít
được tự do lựa chọn hơn và do vậy họ càng xứng đáng được bảo vệ nhiều hơn
trong thương trường.
Trong nhiều trường hợp, việc lừa giá, ấn định giá độc quyền rõ ràng là
phát sinh vấn đề về quyền tự do trong tiếp thị. Những thủ đoạn nhắm vào
những người dễ bị tác động, chẳng hạn người già, trẻ em khiến người ta phải
suy nghĩ vấn đề về sự tự nguyện. Do đó, để phân tích một cách đầy đủ về đạo
đức trong tiếp thị buộc chúng ta phải tìm hiểu và tinh tế ở nhiều khía cạnh mà

- 57 -
trong đó khách hàng không được tự nguyện hoàn toàn trong các lựa chọn của
mình.
- Thứ hai, sự đồng ý không chỉ mang tính tự nguyện mà còn phải dựa
trên sự hiểu biết. Sự đồng ý dựa trên sự hiểu biết là vấn đề được quan tâm khá
phổ biến ở lĩnh vực y học, bởi vì các bệnh nhân ở thế bất lợi về mặt thông tin
so với những nhân viên chăm sóc sức khỏe. Những bất lợi tương tự cũng có
thể xảy ra trong các tình huống tiếp thị. Sự lừa dối và gian lận rõ ràng là không
có đạo đức. Nếu một người tiêu dùng bị lừa khi mua một sản phẩm nào đó thì
có thể hiểu là người này đồng ý mua một cách thiếu hiểu biết. Nhưng cũng có
thể có nhiều trường hợp gian lận hơn và nhiều thủ đoạn tiếp thị sai lệch hơn.
Tính phức tạp của nhiều sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng có thể cho thấy
rằng người tiêu dùng có thể không hiểu đầy đủ về những gì họ đang mua. Nói
chung là, trong khi một số doanh nghiệp tuyên bố rằng ngời tiêu dùng có hiểu
biết là khách hàng tốt nhất của chúng ta thì nhiều doanh nghiệp khác lại cho
rằng một người không hiểu biết có thể là mục tiêu để dễ dàng có được lợi
nhuận một cách nhanh chóng. Người ta sẽ đặt ra các thắc mắc đạo đức bất cứ
lúc nào khi mà các thực tiễn tiếp thị hoặc là từ chối cung cấp thông tin đầy đủ
cho người tiêu dùng hoặc là họ không năm đủ những thông tin phù hợp hoặc là
họ thiếu hiểu biết.
Vấn đề đạo đức thứ hai, là những lợi ích có được thông qua những giao
dịch trên thị trường hay không? Các sách kinh tế thường giả định là người tiêu
dùng được lợi bất cứ khi nào họ tiến hành giao dịch buôn bán trên thương
trường. Những giả định này không hoàn toàn đúng nếu được nghiên cứu kỹ
hơn. Nhiều cuộc mua bán không tạo được lợi ích thực sự.
Những nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm thực tiễn chứng minh rằng sức
tiêu dùng càng lớn thì không thể mang lại niềm vui, là một trạng thái do một
số “người mua sắm bốc đồng” đặt ra. Vì thế nếu sự hài lòng của từng khách
hàng đơn lẻ không phải là phép đo cuối cùng về lợi ích của những cuộc trao
đổi trên thị trường thì người ta cần phải luôn đặt ra câu hỏi là mục đích của
tiếp thị là gì? Người ta đạt được điều gì khi tiếp thị thành công sản phẩm hay

- 58 -
dịch vụ này? Các cá nhân và xã hội được lợi gì và như thế nào từ sản phẩm
này.
Vấn đề đạo đức thứ ba, cần được xem xét khi phân tích đạo đức trong
tiếp thị đó là các giá trị chứ không phải là chính bản thân của những cuộc trao
đổi mua bán. Những giá trị xã hội cơ bản như: tính công bằng, công lý, sức
khỏe và sự an toàn là một trong những giá trị có thể bị ảnh hưởng bởi một số
thủ đoạn tiếp thị.
Ví dụ, một ngân hàng đưa ra tỷ lệ thế chấp tại các vùng khá giả với mức
thấp hơn ở những vùng lân cận nội thành thì ngân hàng đó có lẽ chỉ thực hiện
những cuộc giao dịch mà đôi bên cùng có lợi vị thực tế các ngân hàng này
không bán tài sản thế chấp ở bên trong nội thành. Nhưng những hợp đồng như
vậy sẽ vi phạm các chuẩn mực xã hội quan trọng về cách cư xử bình đẳng và
tính công bằng.
5.2. Trách nhiệm đối với sản phẩm: an toàn và trách nhiệm pháp lý
Có nhiều vấn đề cần bàn về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sản
phẩm và dịch vụ mà nó bán ra. Một số vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm về
khía cạnh luật pháp, chính trị và đạo đức cũng như trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với những tổn hại do chính sản phẩm của doanh nghiệp đó gây ra.
Doanh nghiệp cần có trách nhiệm đạo đức khi thiết kế, sản xuất và quảng bá
các sản phẩm nhằm tránh gây tổn hại cho người tiêu dùng.
Cả pháp luật và đạo đức đều dựa vào một khuôn mẫu như nhau khi xem
xét những trường hợp mà các sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty gây ra những
tổn thất trên thị trường. Khi thảo luận về trách nhiệm của các doanh nghiệp đối
với an toàn sản phẩm, người ta nhấn mạnh vào việc quy trách nhiệm pháp lý
cho các doanh nghiệp gây ra những thiệt hại do sản phẩm của mình không an
toàn. Tính pháp luật quy định nghiêm ngặt về trách nhiệm này có thể gây ra
tranh luận về mặt đạo đức vì nó buộc công ty phải chịu trách nhiệm về việc chi
trả cho các thiệt hại (cho dù có phải là lỗi của công ty hay không). Trong
trường hợp chịu trách nhiệm pháp lý hoàn toàn, dù công ty có cẩn thận trong
sản xuất và dịch vụ của họ, nhưng nếu các kết quả gây ra thiệt hại là do vấn đề

- 59 -
sử dụng, thì công ty đó cũng phải chịu trách nhiệm. Chúng ta sẽ xem xét
những tiêu chuẩn khác nhau trong việc buộc các công ty chịu trách nhiệm về
các sản phẩm của họ.
5.2.1. Các tiêu chuẩn trong hợp đồng về sự an toàn sản phẩm
Công bằng mà nói phương thức Caveat emptor (ngay cả người mua
cũng cần cảnh giác) là cơ sở dẫn đến nhiều cuộc thảo luận về an toàn sản
phẩm. Phương thức Caveat emptor được hiểu là tiến trình mua bán theo bình
diện đơn giản là một hợp đồng giữa người mua và người bán. Theo cách này
thì mọi việc mua bán đều bao gồm sự đồng ý dựa trên sự hiểu biết của người
mua và nó được xem xét là hợp pháp về đạo đức. Người mua có trách nhiệm
để ý đến các quyền lợi cá nhân và đảm bảo sự an toàn cho bản thân khi mua
một sản phẩm nào đó. Từ cách nhìn nhận này, công ty cần phải có trách nhiệm
đó là cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ với giá cả được cả hai bên chấp nhận.
Truyền thống về đạo đức cho rằng tất cả các trách nhiệm đạo đức có thể
được hiểu theo loại hợp đồng này và những nhiệm vụ mà chúng ta có là những
nhiệm vụ mà chúng ta tự nguyện đảm nhận theo một hợp đồng xã hội. Các
cam kết và hợp đồng cá nhân là cơ sở của nhiệm vụ đạo đức. Hàm ý của điều
này trong lĩnh vực kinh doanh đó là trừ khi người bán đảm bảo một cách chắc
chắn về sự an toàn của sản phẩm, hay nói một cách khác, trừ khi người bán
đưa ra những cam kết về sự an toàn đó, nếu không thì người mua lại là người
chịu trách nhiệm về bất cứ thiệt hại mà họ phải gánh chịu.
Mô hình trao đổi mua bán dựa vào hợp đồng có đưa ra những ràng buộc
nhất định về mặt đạo đức đối với người bán thì người bán chỉ có một bổn phận
đạo đức là không được ép buộc, lừa gạt hay lừa đảo người mua. Các sản phẩm
được bán một cách lừa đảo và gian lận gây thiệt hại đến người tiêu dùng thì
pháp luật sẽ can thiệp vào để buộc người bán đền bù lại các thiệt hại cho họ.
5.2.2. Các tiêu chuẩn sai lệch trong an toàn sản phẩm
Việc sử dụng cam kết ngầm đã giải quyết được một số vấn đề trong luật
về việc chịu trách nhiệm pháp lý về sản phẩm. Khách hàng không cần phải có
các hợp đồng phức tạp để bảo vệ cá nhân trước các thiệt hại do các sản phẩm

- 60 -
gây ra. Khách hàng và nhà sản xuất có một khoảng cách rất lớn vì giữa có các
nhà phân phối bán sỉ, bán lẻ
Quan điểm đạo đức chỉ ra rằng tất cả chúng ta có nghĩa vụ chung chung
với những người khác, thậm chí nếu chúng ta không công khai. Chúng ta có
nghĩa vụ chung với người khác là không đặt họ vào tình huống rủi ro không
cần thiết và có thể tránh được. Chẳng hạn, cá nhân không bao giờ cam kết rõ
ràng với bất cứ ai là lái xe cẩn thận nhưng cá nhân phải có bổn phận đạo đức
của mình là không lái xe trên đường một cách bất cẩn.
5.3. Trách nhiệm đối với sản phẩm: quảng cáo và bán hàng
Các vấn đề về đạo đức liên quan đến marketing-bán hàng có thể sẽ nảy
sinh trong mối quan hệ với sự an toàn của sản phẩm, quảng cáo và bán sản
phẩm, định giá hay các kênh phân phối điều khiển dòng sản phẩm từ nơi sản
xuất tới tay khách hàng.
Lạm dụng quảng cáo có thể xếp từ nói phóng đại về sản phẩm và che
dấu sự thật tới lừa gạt hoàn toàn. Quảng cáo bị coi là vô đạo đức khi:
Quảng cáo phóng đại, thổi phồng sản phẩm vượt quá mức hợp lý, có thể
tạo nên trào lưu hay cả chủ nghĩa tiêu dùng sản phẩm đó, không đưa ra được
những lý do chính đáng đối với việc mua sản phẩm, ưu thế của nó với sản
phẩm khác.
Quảng cáo và bán hàng trực tiếp cũng có thể lừa dối khách hàng bằng
cách che dấu sự thật trong một thông điệp. Ví dụ như một người bán hàng
mong muốn bán những sản phẩm bảo hiểm y tế có thể sẽ liệt kê ra một danh
sách dài các bệnh mà sản phẩm trên có thể chữa trị, nhưng lại không đề cập
đến vấn đề sản phẩm này thậm chí không chữa nổi những bệnh thông thường
nhất.
Một dạng lạm dụng quảng cáo khác là đưa ra những lời giới thiệu mơ hồ
với những từ ngữ không rõ ràng khiến khách hàng phải tự hiểu những thông
điệp ấy. Những lời nói khôn ngoan này thường rất mơ hồ và giúp nhà sản xuất
tránh mang tiếng lừa đảo. Quảng cáo có hình thức khó coi, phi thị hiếu, sao

- 61 -
chép lố bịch, làm mất đi vẻ đẹp của ngôn ngữ, làm biến dạng những cảnh quan
thiên nhiên.
Những quảng cáo nhằm vào những đối tượng nhạy cảm như người
nghèo, trẻ em, trẻ vị thành niên làm ảnh hưởng đến sự kiểm soát hành vi của
họ và những quảng cáo nhồi nhét vào người tiêu dùng những tư tưởng về tình
dục, bạo lực và quyền thế. Đó là những quảng cáo mang theo sự xói mòn nền
văn hoá.
Tóm lại, quảng cáo cần phải được đánh giá trên cơ sở quyền tự do trong
việc ra những quyết định lựa chọn của người tiêu dùng, trên cơ sở những mong
muốn hợp lý của người tiêu dùng và đặc biệt phải phù hợp với môi trường văn
hoá - xã hội mà người tiêu dùng đang hoà nhập.
5.4. Đạo đức trong tiếp thị và quyền tự chủ của người tiêu dùng
Những người ủng hộ việc quảng cáo tranh luận rằng mặc dù có các
trường hợp dối trá nhưng quảng cáo nhìn chung vẫn đóng góp cho nền kinh tế.
Đa số các mẫu quảng cáo đều cung cấp thông tin đến người tiêu dùng. Những
người ủng hộ việc quảng cáo cũng lập luận rằng qua thời gian, lực lượng thị
trường sẽ loại trừ những mẫu quảng cáo lừa dối. Họ chỉ ra rằng sự phản công
hiệu suất nhất đối với những mẫu quảng cáo lừa dối là mẫu quảng cáo của đối
thủ cạnh tranh với nó gợi sự chú ý đến sự lừa dối.
Đằng sau câu hỏi rằng quảng cáo đã làm được gì cho con người thì câu
hỏi mang tính đạo đức quan trọng thứ hai đặt ra là quảng cáo, đã làm được gì
cho con người. Con người có thể hưởng lợi từ việc tiếp thị sản phẩm của
doanh nghiệp. Con người biết đến sản phẩm mà họ muốn hoặc cần, họ thu thập
thông tin nhằm giúp họ đưa ra những lựa chọn có trách nhiệm. Một số người
thậm chí còn nói tiếp thị cũng giúp hình thành nên nền văn hóa và hình thành
nên những cá nhân mà phát triển và thích nghi với nền văn hóa đó. Tiếp thị có
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên chính mỗi chúng ta. Nó làm được điều đó
bằng cách nào, và mẫu người mà chúng ta sẽ trở thành, là điều quan trọng cơ
bản về mặt đạo đức.

- 62 -
5.5. Trách nhiệm của chuỗi cung cấp sản phẩm
Trong việc tạo ra sản phẩm – giới thiệu – đưa ra thị trường, phần việc
tiếp thị sẽ có mối quan hệ rộng rãi với nhiều đơn vị thương mại. Trong những
năm gần đây, tiêu điểm đạo đức tập trung vào trách nhiệm mà một doanh
nghiệp cần phải có đối với các hoạt động của các đơn vị khác, điều mà chúng
ta gọi là trách nhiệm của chuỗi cung cấp sản phẩm.
Theo lẽ thường, chúng ta không thể buộc một người chịu trách nhiệm về
hành động của một người khác. Giả sử mỗi người đều là một cá nhân tự chủ,
thì mỗi người phải chịu trách nhiệm cho hành động của chính mình. Có người
cho rằng, một doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về hành động của những
nhà cung cấp. vì vậy, có thể lấy một ví dụ như một ông chủ có thể phải chịu
trách nhiệm pháp lý nếu tài xế của công ty gây tai nạn khi đang lái xe phục vụ
cho công việc của công ty.
Nếu đưa ra lập luận trái ngược thì có thể bị cho là không công bằng bởi
vì người này hành động với tư cách là đại diện của người chủ, dưới sự chỉ đạo
của người chủ và ông chủ có ảnh hưởng lên các hành động của người đó. Do
đó, nếu một người nào đó đang làm điều gì đó cho bạn, theo chỉ đạo của bạn
và chịu ảnh hưởng của bạn thì ít nhất bạn phải có một số trách nhiệm đối với
những hành động của người này. Vì vậy, trách nhiệm của doanh nghiệp đối
với các hoạt động của những nhà cung cấp của họ xuất phát từ hai trong số các
điều kiện sau: các nhà cung cấp thường hoạt động dưới sự chỉ đạo của doanh
nghiệp và doanh nghiệp thường có ảnh hưởng quan trọng đến hành động của
các nhà cung cấp
_______________________________________________________________
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY – HỌC
- Giới thiệu môn học và các yêu cầu của giảng viên đối với sinh viên
- Phương pháp quy nạp
- Yêu cầu sinh viên tự nghiên cứu, đọc tài liệu nội dung của chương 5 ở
nhà trước khi đến lớp.

- 63 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ThS. Phạm Thị Uyên Thi, Tập bài giảng Đạo đức trong công việc, 2017
- Nhóm dịch thuật DTU, Đạo đức kinh doanh
- Joe DesJardins, Business Ethics, Laura P.Hartman
_______________________________________________________________
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Phân tích những ý kiến ủng hộ và ý kiến phản đối trách nhiệm nghiêm
ngặt về sản phẩm?
Câu 2: Thảo luận cách thức đánh giá những phương pháp có đạo đức và vô
đạo đức ảnh hưởng đến con người thông qua hình thức quảng cáo
Câu 3: Phân biệt cách thức tiếp thị với khách hàng mục tiêu có đạo đức và
cách thức tiếp thị với khách hàng mục tiêu vô đạo đức, lấy ví dụ đối với những
người dễ bị tác động.
Câu 4: Liệu có phải một vài sản phẩm quá nguy hiểm không nên được bán ra
trên thị trường dù ở dưới bất kì tình huống nào? Nếu có các luật lệ thì luật lệ
nào bạn sẽ áp dụng vào việc bán thuốc lá? Thuốc theo đơn?

- 64 -
CHƯƠNG 6
KINH DOANH – MÔI TRƯỜNG VÀ TÍNH BỀN VỮNG

Mục tiêu Chương:


Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên sẽ đạt được:
- Mô tả được các giá trị có vai trò trong việc hình thành quyết định về
môi trường
- Giải thích sự khác nhau giữa các chính sách môi trường dựa vào thị
trường và chính sách dựa vào sự điều hành quản lý
- Mô tả trách nhiệm môi trường trong kinh doanh theo mỗi quan điểm
6.1. Đạo đức kinh doanh và những giá trị môi trường
Trong những năm gần đây, vấn đề môi trường trở thành mối quan tâm
của toàn thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 18, 19 có khả năng làm
suy thoái môi trường tự nhiên trên diện rộng. Vào cuối thế kỷ 20, các vấn đề
như: ô nhiễm không khí, nguồn nước và nguy cơ tuyệt chủng của các động vật
quý hiếm. Đặc biệt vào đầu thế kỷ 21, trái đất đã và đang trải qua thời kỳ tuyệt
chủng lớn nhất kể từ sau sự biến mất của khủng long cách đây gần 65 triệu
năm. Loài người bị đe dọa bởi sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Hiện tượng môi
trường như vậy, phần lớn là do hoạt động của con người và do xã hội công
nghiệp hiện đại.
Công bằng mà nói, các ngành kinh tế công nghiệp, các nhà kinh doanh
thường nhìn nhận các vấn đề về môi trường như những gánh nặng không mong
muốn và những rào cản đối với sự phát triển kinh tế. Xu hướng kinh doanh và
phát triển kinh tế bền vững là luôn tìm kiếm cách thức làm mới mà ở đó thành
công doanh nghiệp được đánh giá dựa trên các tiêu chí về kinh tế, đạo đức và
môi trường, đó được gọi là phương pháp Triple bottom line. Mô hình bền vững
nhìn nhận trách nhiệm đối với môi trường là một phần tất yếu của quy tắc kinh
doanh. Các công ty kinh doanh bền vững nhận thấy rằng việc chú ý đến môi
trường sẽ giúp họ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh.

- 65 -
Câu hỏi được đặt ra là: Môi trường tự nhiên ủng hộ những giá trị nào?
Tại sao chúng ta nên hành động theo cách bảo vệ môi trường khỏi sự suy
thoái? Tại sao kinh doanh quan tâm đến thế giới tự nhiên?
Quyền lợi cá nhân là câu trả lời rõ nhất cho các câu hỏi trên. Loại người
phải dựa vào môi trường tự nhiên để tồn tại. Họ cần nước sạch để uống, không
khí trong lành để thở, đất đai màu mỡ và đại dương phong phú để tạo thức ăn,
tầng ozon che chắn bức xạ mặt trời và bầu khí quyển để duy trì thế cân bằng
của khí hậu để con người có thể tồn tại. Sự thay đổi khí hậu, đặc biệt là sự
tuyệt chủng, xói mòn đất và chất thải hạt nhân sé đe dọa cuộc sống con người
trong tương lai.
Khoa học về sinh thái học và các yếu tố tự nhiên đã giúp chúng ta hiểu
được sự phụ thuộc của loài người vào các hệ sinh thái. Trước đây, con người
thường nghĩ rằng chất thải chôn sâu sẽ mất đi mãi mãi, nhưng bây giờ chúng ta
hiểu được rằng chất độc có thể thấm sâu vào mạch nước ngầm và làm nhiễm
bẩn nguồn nước uống theo thời gian và không gian
Cuối thế kỷ 19, con người đã dần nhận ra các lý do tư lợi trong việc bảo
vệ môi trường tự nhiên. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa môi trường hiện
đại ủng hộ đối với thế giới tự nhiên có phần hạn chế hơn. Theo cách nhìn nhận
này, thế giới tự nhiên được đánh giá là một nguồn tài nguyên cung cấp cho loài
người những nguồn lợi trực tiếp (không khí, nước, thức ăn) và những nguồn
lợi gián tiếp (hàng hóa và dịch vụ được tạo ra bởi các ngành kinh doanh)
Bên cạnh lý do bảo vệ cuộc sống và sức khỏe con người, môi trường tự
nhiên quan trọng và giá trị vì nhiều lý do khác nhau. Thông thường, những giá
trị này mâu thuẫn với giá trị thiên về tính công cụ, xuất phát từ việc xem thế
giới tự nhiên như một nguồn tài nguyên. Vẻ đẹp và nét hùng vĩ của thế giới tự
nhiên tạo nên giá trị mỹ học và cảm hứng rất lớn. Nhiều người nhìn nhận thế
giới tự nhiên như một sự biểu thị của giá trị tôn giáo và tâm linh.
6.2. Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường
6.2.1. Cách tiếp cận theo phương pháp thị trường

- 66 -
Theo phương pháp này, cách tốt nhất để xử lý các vấn đề môi trường là
phó mặt cho thị trường – lãnh đạo doanh nghiệp có trách nhiệm tìm kiếm lợi
nhuận một cách đơn giản và cho phép thị trường phân bổ nguồn tài nguyên
một cách hiệu quả (phục vụ lợi ích tổng thể - thuyết vị lợi).
Những người tiếp cận theo phương pháp này cho rằng vấn đề môi
trường là vấn đề kinh tế - phân bổ nguồn tài nguyên hữu hạn. Nếu chúng ta
quan tâm đến việc phân bổ những nguồn tài nguyên khan hiếm và không có
khả năng tự phục hồi như khí đốt và dầu hay quan tâm đến khả năng của trái
đất trong việc hấp thu những sản phẩm phụ công nghiệp như CO2 hoặc PCBs
thì thị trường hữu dụng chính là phương thức tốt có thể xử lý những thử thách
về môi trường.
6.2.2. Cách tiếp cận theo sự điều tiết của chính phủ
Chính phủ đưa ra các chuẩn mực nhằm ngăn cản sự ô nhiễm môi trường
và sự tuyệt chủng của các động vật hơn là đưa ra các khoản bồi thường sau khi
vấn đề đã xảy ra. Các doanh nghiệp tự do theo đuổi các mục đích miễn sao
phải tuân thủ những qui định đã đưa ra.
- Với tư cách là khách hàng, các cá nhân có quyền yêu cầu các sản phẩm
thân thiện với môi trường
- Với tư cách là một công dân, các cá nhân có thể ủng hộ các luật định
về môi trường
Một khi doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường và tuân thủ luật pháp
thì có nghĩa là hoàn thành trách nhiệm môi trường.
Nhìn chung, sự phát triển kinh tế phải đảm bảo về môi trường và đạo
đức. Các doanh nghiệp hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận, miễn sao họ có thể
duy trì trong khuôn khổ luật định đó. Những cách thức có được lợi nhuận khác
nhau đều có thể gây ra những hậu quả khác nhau cho môi trường.
6.2.3. Cách tiếp cận dựa trên tính bền vững
Đầu những năm 80 của thế kỷ 20, một mô hình kinh doanh có trách
nhiệm đối với môi trường đã bắt đầu hình thành – mô hình kết hợp các yếu tố
tài chính với trách nhiệm môi trường và đạo đức.

- 67 -
Khái niệm về sự phát triển bền vững bắt đầu từ báo cáo nă 1987 của Ủy
ban Liên hợp quốc về vấn đề môi trường và phát triển (WCED) – hoặc Ủy ban
Brundtland, đặt theo tên của người chủ tịch là Gro Harlem Brundtland - Ủy
ban này đã đưa ra khái niệm về sự phát triển bền vững: “phát triển bền vững là
sự phát triển đáp ứng nhu cầu thực tế mà không làm phương hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu cuộc sống của các thế hệ tương lai”
6.3. Cơ hội kinh doanh trong nền kinh tế bền vững
Tại sao doanh nghiệp nên theo đuổi chiến lược về tính bền vững? Đây là
câu hỏi được đặt ra để cùng trao đổi.
- Tính bền vững là một chiến lược lâu dài
- Tiềm lực thị trường rộng lớn
- Tiết kiệm chi phí hiệu quả: trong việc sử dụng năng lượng và nguyên
liệu không chỉ làm giảm chất thải môi trường mà còn giảm chi phí rác thải
- Tạo được lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp
- Tránh được sự điều tiết quản lý, trách nhiệm pháp lý
6.4. Các nguyên tắc của kinh doanh bền vững
Các nguồn tài nguyên đến từ bầu sinh quyển không nên gia nhập vào
chu kỳ kinh tế. Về lý tưởng, chất thải nên được loại bỏ hoặc tối thiểu là không
nên tạo ra với tốc độ nhanh hơn tốc độ bầu sinh quyển có thể hấp thụ. Năng
lượng vận hành trong hệ thống kinh tế nên là loại năng lượng có thể được phục
hồi lại và phải dựa vào nguồn năng lượng mặt trời – đây là nguồn năng lượng
duy nhất luôn luôn có thể tự làm mới.
Các nguyên tắc tổng quát hướng đến kinh doanh bền vững, đó là:
- Tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Với phương châm: “Hãy làm nhiều hơn với ít thứ hơn”. Chẳng hạn: đi xe đạp
– xe buýt; cải tiến hiệu suất nguồn năng lượng và nguyên liệu trong các sản
phẩm thắp sáng, thiết kế công trình, kênh phân phối.
- Sản xuất theo quy trình đóng – tìm kiếm cách để đưa chất thải trở lại
quy trình sản xuất. Một thực tế lý tưởng, chất thải của công ty này sẽ là nguồn
tài nguyên của một công ty khác và sự vận hành như vậy có thể tạo ra các khu

- 68 -
công nghiệp sinh thái. Mục tiêu rõ ràng của quá trình sinh học là loại bỏ hoàn
toàn chất thải chứ không phải giảm thiểu. Quá trình phát triển của chiến lược
kinh doanh hướng đến quá trình sinh học có thể được hiểu theo một chuỗi liên
tục:
+ Giai đoạn thứ nhất: được mô tả như “lấy vào – tạo ra – thải đi”. Các
nhà kinh doanh sử dụng các nguồn tài nguyên – tạo ra sản phẩm – thải ra
những gì không dùng được.
+ Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn doanh nghiệp kinh doanh chịu trách
nhiệm đối với sản phẩm “từ lúc sinh ra đến khi mất đi” – chu kỳ vòng đời.
Trách nhiệm vòng đời cho rằng ngành kinh doanh phải có trách nhiệm với toàn
bộ đời sống của sản phẩm, bao gồm cả sự thải bỏ sản phẩm thậm chí sau khi
đã bán chúng. Do đó, mô hình vòng đời sẽ buộc các nhà kinh doanh có bổn
phận đối với sự nhiễm bẩn mạch nước ngầm gây ra thậm chí sau nhiều năm
được chôn sâu ở các bãi rác.
_______________________________________________________________
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY – HỌC
- Giới thiệu môn học và các yêu cầu của giảng viên đối với sinh viên
- Phương pháp quy nạp: GV đưa ra tình huống, các nhóm cùng trao đổi
thảo luận và sau đó GV chốt lại vấn đề của tình huống cho nội dung
nghiên cứu của chương về vấn đề kinh doanh – môi trường và tính bền
vững.
- Yêu cầu sinh viên tự nghiên cứu, đọc tài liệu nội dung của chương 6 ở
nhà trước khi đến lớp.
_______________________________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ThS. Phạm Thị Uyên Thi, Tập bài giảng Đạo đức trong công việc, 2017
- Nhóm dịch thuật DTU, Đạo đức kinh doanh
- Joe DesJardins, Business Ethics, Laura P.Hartman

- 69 -
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Nêu các quan điểm về khái niệm phát triển bền vững? Anh (chị) tâm
đắc với quan điểm nào? Tại sao?
Câu 2: Trình bày trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường? Nêu dẫn
chứng cụ thể?
Câu 3: Bạn có tin rằng các ngành doanh nghiệp nên có bổn phận đạo đức trực
tiếp với sinh vật sống hơn là chỉ với con người hay không? Động vật, thực vật
và hệ sinh thái có quyền hay không?

- 70 -

You might also like