You are on page 1of 6

NGUỒN GỐC & LỊCH SỬ CỦA ĐẠO ĐỨC

1. NGUỒN GỐC ĐẠO ĐỨC


Vấn đề nguồn gốc của đạo đức cho đến nay vẫn có nhiều cách lý giải khác nhau, có
quan điểm duy vật, có quan điểm duy tâm, có quan điểm thần học, có quan điểm của các
nhà duy vật trước Mác (siêu hình), có quan điểm của những người theo thuyết Đác-uyn
xã hội.
Trước Mác, Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm và duy vật) đều rơi vào
quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không thấy được tính quy
định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng.
Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người, của xã
hội được nhìn nhận một cách tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các
nhà triết học, đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay
chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên
ngoài xã hội. Nét chung của các lý thuyết này là không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội,
hiện thực khách quan.
Các nhà triết học – thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là những hình
thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó. Những chuẩn mực đạo
đức, do vậy là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con người. Mọi biểu hiện
đạo đức của con người do vậy đều là sự thể hiện cái thiện tối cao từ đấng siêu nhiên; và
tiêu chuẩn tối cao để thẩm định thiện – ác chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó.
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy không
mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối”, về các lý giải
nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như vậy. Những nhà duy tâm
chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực “tiên thiên” của lý trí con người. Ý
chí đạo đức hay là “thiện ý” theo cách gọi của Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành
bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động với
những hoạt động mang tính xã hội của con người.
Những nhà duy vật trước Mác, mà tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức
trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với ông, con người chỉ là một thực thể
trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc
và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác-Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ nghĩa duy vật
bằng cách cho rằng những phẩm chất đạo đức của con người là đồng nhất với những bản
năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về thực chất cũng chỉ là những năng lực
được đem lại từ bên ngoài con người, từ xã hội.
S.Đác-uyn (Charles Darwin) là người đầu tiên đứng trên quan điểm khoa học giải
thích quy luật sinh vật học của sự phát triển những cơ thể sống và nói lên quá trình vận
động của sự phát sinh những hình thức cao cấp của cuộc sống bắt nguồn từ những hình
thức thấp. Trong “Nguồn gốc con người”, con người theo S.Đác-uyn “vẫn là những động
vật có năng lực “giao tiếp” với nhau và vẫn giữ lại từ thời rất xa xưa một tình yêu và một
sự đồng cảm bản năng nhất định với những kẻ thân thuộc, máu mủ. Những tình cảm này
tác động như là bản năng (xung động) một nửa tự giác và được hỗ trợ của lý trí, của kinh

1
nghiệm và ham muốn mãnh liệt, được sự tán thưởng của người khác” . Như vậy, S.Đác-
uyn phân biệt tình cảm đạo đức của con người và bản năng xã hội của con vật. Công lao
của ông là đã đối lập với đạo đức học duy tâm, siêu hình, ông tìm thấy những tiền đề tự
nhiên của tình cảm đạo đức con người ở chính ngay những bản năng xã hội.
Chính những quan điểm của S.Đác-uyn về đạo đức như trên đã được những người
theo chủ nghĩa S.Đác-uyn xã hội phát triển theo hướng cực đoan. Chẳng hạn, Kautsky
đem lược quy tình cảm đạo đức vào bản năng loài vật.
Phê phán quan điểm của chủ nghĩa S.Đác-uyn xã hội, A.F.Shishkin trong Nguyên
lý đạo đức học mác-xít đã cho rằng: “Ở những xu hướng bản năng của con vật,…, chẳng
hạn như ở việc động vật cái bảo vệ những đứa con của nó (thậm chí nó có thể hi sinh)
chẳng có chút gì giống với những động cơ đạo đức: không có sự lựa chọn tự giác, không
có ý niệm về nghĩa vụ, cũng không có sự đánh giá đạo đức hành động của mình. Hoàn
toàn không thể thấy ở đó sự biểu hiện của tình cảm đạo đức giống như những tình cảm có
ở con người. Tìm thấy ngọn nguồn của đạo đức ở những xu hướng bản năng này thì đại
loại cũng giống như là đi tìm cội nguồn lao động của con người ở những thao tác “kiến
thiết” của bầy kiến hoặc bầy ong, đi tìm ngọn nguồn của nghệ thuật ở tiếng hót hoặc bộ
lông của chim muông, v.v…” .
Đạo đức học khoa học không thể tiếp nhận quan điểm của đạo đức học thần học và
duy tâm về nguồn gốc thần linh hoặc siêu hình của đạo đức. Chỉ có chủ nghĩa duy vật biện
chứng, quan niệm duy vật về lịch sử mới có thể đưa ra lời giải đáp khoa học duy nhất về
vấn đề này.
Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác, Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh
do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Dựa trên cơ sở khái
quát những thành tựu của khoa học đương thời, đặc biệt là của khảo cổ học, nhân chủng
học, sinh vật học… bằng tư duy biện chứng duy vật các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã
đưa ra những kết luận khoa học về sự hình thành và phát triển của con người cũng như
các quan hệ xã hội của nó trong đó có quan hệ đạo đức.
Theo Mác, Ăngghen, con người khi sống phải có “quan hệ song trùng”. Một mặt,
con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn cuộc sống của mình.
Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con người phải xông vào tự nhiên để
thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên, con người không thể đơn độc, con
người phải quan hệ với con người để tác động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa
người và người là hệ quả của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt
động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Đạo đức học Mác - Lênin khẳng định rằng:
- Đạo đức là một hiện tượng xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển trong đời sống
hiện thực của con người, trong quá trình con người sống hoạt động giao tiếp.
- Lao động là nguồn gốc, là cơ sở xã hội của đạo đức, mọi giá trị đạo đức đều bắt
nguồn từ trong lao động, không có lao động thì sẽ không có con người, do đó không có gì
để nói về đạo đức cả.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của xã
hội loài người, Mác, Ăngghen cho rằng “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người”. Rằng “người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi làm chính trị, khoa

2
học, nghệ thuật…”. Xuất phát từ con người thực tiễn, chứ không phải con người thuần túy
ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến quan niệm về phương thức sản xuất quyết
định đối với toàn bộ các hoạt động của con người, xã hội loài người. Trong “Lời tựa” của
tác phẩm “Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học”, Mác viết: “Phương thức sản xuất
đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại chính sự tồn tại xã
hội của họ quyết định ý thức của họ” . Luận điểm này chính là chìa khóa để khám phá tất
cả các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã
hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự biểu hiện của những năng
lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã
hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh
tế. “Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”
- Cơ sở kinh tế là điều kiện khách quan để xác lập những quan hệ đạo đức. Nói cách
khác, sự hình thành và phát triển của đạo đức xã hội luôn luôn gắn liền với một cơ sở kinh
tế nhất định.
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện tương đối sớm, ngay
từ trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Khi đời sống của con người còn hoàn toàn lệ thuộc
vào giới tự nhiên, thì con người đã biết thiết lập những mối quan hệ và đề ra những nguyên
tắc, những chuẩn mực dùng để điều chỉnh hành vi của con người, như là: không được lấy
phần của cải của nhau, không được đàn áp lẫn nhau… những nguyên tắc, chuẩn mực này
nó dần dần được nội tâm hóa, nó trở thành nhu cầu, khát vọng bên trong của con người từ
đó tình cảm đạo bắt đầu xuất hiện.
Những phong tục đạo đức của người nguyên thủy, đời sống của xã hội văn minh là
sản phẩm của hoạt động thực tiễn và các hoạt động nhận thức của xã hội đó. Sự phát triển
từ phong tục đạo đức của người nguyên thủy đến ý thức đạo đức của xã hội văn minh là
kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức
của con người.
Việc giáo dục đạo đức, điều đặc biệt quan trọng là giáo dục đạo đức…
Ngay từ khởi nguồn của triết học đạo đức đã là một bộ phận của tri thức triết học.
Như vậy, đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động
sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm xã hội để con người
tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất của các quan hệ xã hội, hệ thống
các quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, hành vi đạo đức
cũng theo đó mà tăng lên ngày càng trở nên đa dạng, phong phú phức tạp, phản ánh tính
đa dạng phong phú của đời sống hiện thực.
Nghiên cứu nguồn gốc của đạo đức, cơ sở phát sinh, phát triển của nó chúng ta có
thể khẳng định rằng, đạo đức mang bản chất xã hội. Tức là, tình cảm đạo đức, đạo đức
một mặt là sản phẩm của đời sống xã hội, mặt khác là điều kiện và nội dung của nó. Vì
đạo đức là sản phẩm của xã hội, những biến đổi của đời sống này gây ra những biến đổi
tương ứng của đạo đức. Tính xác định của tình cảm đạo đức, tính chất của nó tùy thuộc

3
vào những điều kiện vật chất xã hội. Đạo đức là chức năng và là sự phản ánh của tồn tại
xã hội. Bản chất xã hội của đạo đức được biểu hiện ở chỗ:
- Nội dung của đạo đức là do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội quyết định. C.Mác
viết rằng: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của học, trái lại tồn tại xã
hội của họ quyết định ý thức của họ”. còn Ph.Ăng ghen viết: “tự giác hay không tự giác,
rút cuộc, người ta đều lấy những quan hệ đạo đức của mình từ những quan hệ thực tế đã
tạo thành cơ sở cho địa vị giai cấp của mình, tức là những mối quan hệ kinh tế trong đó
người ta tiến hành sản xuất và trao đổi” .
- Nhận thức xã hội đem lại những hình thức cụ thể của phản ánh đạo đức làm cho
đạo đức tồn tại như một lĩnh vực độc lập về sản xuất tinh thần của xã hội.
- Sự hình thành phát triển, hoàn thiện bản chất xã hội của đạo đức được quy định
bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người.
- Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp. Ngoài ra, đạo đức còn mang
tính dân tộc và thậm chí cả tính nhân loại phổ biến.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là
từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội,
trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của
sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo
đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và
phức tạp.
2. LỊCH SỬ ĐẠO ĐỨC
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản phẩm
của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người – người, cá
nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của chúng càng có tính chất xã
hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng có đạo đức. Đạo đức “đã là một sản phẩm
xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” Đạo đức trong cộng sản nguyên
thủy
1. Đạo đức trong xã hội Cộng sản nguyên thủy; Thời kỳ này trình độ con người rất thấp
kém, sống dựa vào tự nhiên, săn bắt, hái lượm. Trong điều kiện đó con người cần hợp tác
lại với nhau, tương trợ lẫn nhau để sản xuất, điều đó được nội tâm hóa trở thành nhu cầu
khát vọng bên trong của con người, họ tự giác hành động trở thành phong tục tập quán,
thói quen. Đây cũng là lúc nảy sinh chuẩn mực đạo đức, thể hiện trong hành vi giao tiếp,
những điều cấm kỵ ví dụ không được lấy phần của người khác, không được nói dối.
- Đặc điểm đạo đức trong XH cộng sản nguyên thủy:
+ Một là, ý thức đạo đức xuất hiện trong ý thức chung của dạng tổng hợp. Trong xã
hội ý thức đạo đức tiềm ẩn, chứa đựng trong các ý thức đạo đức xã hội khác, đặc biệt là ý
thức tôn giáo phù hợp với trình độ thấp kém của người nguyên thủy, ý thức của con người
lúc này cũng là: “mang tính động vật như chính con người ở trong giai đoạn ấy, đó là ý
thức quần cư đơn thuần trong trường hợp này con người khác con cừu ở chỗ con người ý
thức thay thế bằng bản năng, hoặc bản năng của con người là bản năng được ý thức.
+ Hai là, đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thủy mang tính cụ thể cảm tính,
trực quan, kinh nghiệm Đặc điểm này nảy sinh do trình độ kinh tế phát triển thấp kém của

4
con người. Thời kỳ này chưa hình thành những khái niệm phạm trù, chuẩn mực đạo đức.
Muốn truyền lại đạo đức cho thế hệ sau thì phải thông qua hành động cụ thể, quan sát và
làm theo. Muốn giáo dục tinh thần đoàn kết thì thế hệ trước phải đưa thế hệ sau đi săn
cùng. Thông qua những hành động bắt chước mà đạo đức và những điều cấm kỵ được
truyền từ đời nay sang đời khác. Do trình độ tư duy của con người thời kỳ này còn hạn
chế, vì vậy phải thông qua kinh nghiệm của cuộc sống thì những hành vi đạo đức mới
được truyền lại, các quan niệm của họ dựa trên cảm tính, không dựa trên bất cứ cơ sở khoa
học nào, quan niệm thiện ác cũng hoàn toàn dựa trên cảm tính.
+ Ba là, đạo đức thời kỳ cộng sản nguyên thủy mang tính hợp tác và công bằng. Do
trình độ lực lượng sản xuất thời kỳ này còn thấp kém, muốn lao động hiệu quả con người
phải hợp tác với nhau, sự hợp tác tự nguyện trở thành phong tục tập quán trong xã hội, do
vậy trở thành đạo đức. Trong xã hội này chưa xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
cho nên mọi người đều bình đằng về nghĩa vụ và quyền lợi, thực hiện phân phối 1 cách
công bằng, việc phân phối công bằng trong thời kỳ này là tất yếu khách quan, bởi lẽ trong
trình độ lực lướng sản xuất còn thấp kém, của cải xã hội còn khan hiếm, con người sẽ
không thể sống nổi, nếu phân phối kẻ nhiều người ít, con người phải chia nhau phần ít ỏi
của lương thực, thực phẩm mà sống, mà tồn tại, mặt khác thực hiện phân phối công bằng
mới đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài.
+ Bốn là, Đạo đức cá nhân chưa tách khỏi đạo đức cộng đồng. Đạo đức dưới chế
độ cộng sản nguyên thủy chế độ xã hội còn ở trình độ thấp kém, tất cả đều là của chung,
trình độ tư duy của con người còn hạn chế, do vậy cá nhân chưa tách khỏi cộng đồng xã
hội, mỗi người chưa có khả năng ý thức về bản thân mình, cái gì có lợi cho cộng đồng, họ
sẵn sàng làm kể cả hy sinh tính mệnh của bản thân. Khi có thị tộc khác xâm phạm thị tộc
mình hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của thành viên trong cộng đồng thì hộ sẵn sàng đấu tranh
để bảo vệ nhau để tồn tại là đặc điểm chung của thời kỳ này.
2. Đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ; Sản xuất ngày càng phát triển, xuất hiện của cải
dư thừa trong xã hội, xuất hiện giai cấp trong thời kỳ này. Giai cấp chủ nô giữ vai trò
thống trị trong thời kỳ này. Đạo đức trong thời kỳ này đã phát triển thành lý luận, xây
dựng thành phạm trù, khái niệm. Giai cấp thống trị giải thích quan niệm đạo đức theo
hướng bảo vệ lợi ích và quyền lực của giai cấp chủ nô. Đặc trưng đạo đức thời kỳ này: +
Đạo đức tách khỏi tư duy hỗn dung trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy. Kinh tế - xã hội
thời kỳ này đã có sự phát triển, có nhiều người chuyên hoạt động bằng trí tuệ, họ khái quát
về mặt triết học đối với quá trình phát triển của đời sống đạo đức, những phạm trù, khái
niệm thời kỳ này đã được hình thành, thời kỳ này người ta phân biệt giữa ý thức đạo đức
và thực tiễn đạo đức. + Tính đối kháng về đạo đức Trong xã hội chiếm hữu nô lệ có hai
giai cấp đối lập nhau, do vây cũng có 2 nền đạo đức là đạo đức của người chủ nô và đạo
đức của những người nô lệ. Sự đối kháng này trước hết thể hiện bằng thái độ lao động,
giai cấp chủ nô đề cao lao động trí tuệ, coi thường lao động chân tay, lao động nô lệ và cả
những người nô lệ bị coi thường. Nô lệ được coi là động vật biết nói, những người chủ nô
cho mình là thượng lưu, là tầng lớp quý tộc, chỉ họ mới là người có đạo đức vì vậy họ là
người thống trị, còn nô lệ là những người thấp hèn, không có đạo đức. Xuất hiện bất bình
đằng giữa nam và nữ. Nghĩa vụ đạo đức của người nô lệ là phải phục tùng chủ nô.

5
3. Đạo đức trong xã hội phong kiến; Trong chế độ phong kiến giai cấp quý tộc, phong kiến
giữ vai trò thống trị về kinh tế, đạo đức phong kiến là đạo đức giữ vai trò thống trị trong
xã hội. Thời kỳ phong kiến thần quyền và thế quyền kết hợp chặt chẽ với nhau để duy trì
sự thống trị của giai cấp phong kiến quý tộc trong xã hội. Tư tưởng phong kiến đạo đức
phương tây gắn liền với quan niệm tôn giáo (thiên chúa giáo, hồi giáo). Phương Đông thì
bị chi phối nhiều bởi quan niệm Nho giáo, Nho giáo cho rằng vua là thiên tử, là con trời,
vua được trời cử xuống cai trị thiên hạ, ai chống lại vua là chống lại trời sẽ bị trừng phạt
Nho giáo đưa ra quan niệm đạo đức như tam cương, tam tòng, thể hiện sự bất bình đẳng
trong xã hội và trong gia đình. Giai cấp phong kiến đưa ra những quan niệm đạo đức trái
với lợi ích của nhân dân lao động là tư tưởng đằng cấp, trọng nam khinh nữ, thói đạo đức
giả tư tưởng gia trưởng. Trái với lợi ích giai cấp phong kiến, những người nông dân và
những người lao động khác thường ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động như cần
cù chịu khó, đoàn kết thương người, phản đối tình trạng áp bức bất công trong xã hội.
4. Đạo đức trong xã hội tư bản chủ nghĩa; Giai cấp tư sản nêu cao khẩu hiệu tư do bình
đẳng, bác ái làm phương tiện đập tan chế độ phong kiến nhằm giải phóng người lao động
và tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Khi giai cấp tư sản trở thành giai cấp
thống trị thì đạo đức cũng giữ vai trò thống trị trong xã hội. Giai cấp tư sản đề cao tự do
trong nền kinh tế thị trường mà thực tế là tự do của kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, nước mạnh
bắt nạt nước yếu, nước lớn bắt nạt nước nhỏ. Giai cấp tư sản đề cao quan hệ đồng tiền, vì
tiền người ta bất chấp mọi luân thường đạo lý trong xã hội. Nguyên tắc cơ bản của đạo
đức xã hội tư bản chủ nghĩa. là chủ nghĩa cá nhân, cơ sở của chủ nghĩa cá nhân là sự thừa
nhận những quyền tuyệt đối của cá nhân trong xã hội, với tư cách là một nguyên tắc đạo
đức của chủ nghĩa cá nhân đem cá nhân đối lập với tập thể với xã hội, đòi hỏi lợi ích xã
hội phải phục tùng lợi ích cá nhân. Giai cấp tư sản cố dùng chủ nghĩa cá nhân để biện hộ
về mặt tư tưởng cho những quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Song tất cả biện hộ ấy không
khắc phục được sự khủng hoảng đạo đức trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
5. Đạo đức dưới chế độ cộng sản chủ nghĩa; Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức của
giai cấp công nhân cách mạng phản ánh những lợi ích căn bản của công nhân trong cuộc
đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội. Đạo đức của giai cấp công nhân
được hình thành ngay trong chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng là đạo đức của giai cấp bị trị.
Đạo đức của giai cấp công nhân trở thành đạo đức giữ vai trò thống trị trong xã hội. Đạo
đức xã hội cộng sản kế thừa tất cả những gì tốt đẹp nhất được nhân loại sáng tạo ra trong
lịch sử đấu tranh chống áp bức, bất công xã hội, phê phán thói hư tật xấu…. Tư tưởng cốt
lõi của đạo đức cộng sản là tất cả vì con người, tôn trọng con người, thương yêu con người,
giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện hài hòa trong
mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đem lại hạnh phúc
thật sự cho con người. Đạo đức cộng sản thể hiện sinh động hiện nay ở Việt Nam là đạo
đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ
chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".

PVL, biên soạn, TLNB-1-2022

You might also like