Professional Documents
Culture Documents
+ Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cantơ đến Hêghen đã phát triển
quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm.
- Heghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt
đối,là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được
xem xét vè mặt tinh thần
- Phơ bách quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản
năng tự nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào
hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để
chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những
quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người
=> Các quan niệm triết học trước Mác khi quan niệm về con người dù
đứng trên nền tảng thế giới quan nào cũng không phản ánh đúng bản
chất của con người. Họ đều xem xét con người một cách trừu tượng:
tuyệt đối hoá tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự
nhiên sinh học mà không thấy được mặt xã hội trong đời sống con
người.
Con người là điểm khởi nguồn của tư duy triết học. Như sự trung tâm gắn với
tác động, thay đổi được thực hiện. Phản chiếu, tác động lẫn nhau đối với mối
quan hệ trong thế giới xung quanh.
Mang đến điểm mới, tiến bộ khi phân biệt con người với tự nhiên. Tuy nhiên,
chưa nhìn nhận sâu đổi với bản chất bên trong.
Con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo. Với các đặc điểm khác
nhau làm nên số phận của mỗi con người. Đã được sắp xếp từ trước và gắn
cả với các cảm xúc niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi. Theo đó, ý chí của
Thượng đế là tối thượng. Mang đến các nhào nặn và hình thành nên trí tuệ
con người là thấp hơn.
Đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người. Đánh giá với các năng lực và
nhận thức, tác động thé giới của con người. Xem con người là một thực thể
có trí tuệ.
Với những nhà triết học nổi tiếng như Can tơ, Hê ghen. Với khuynh hướng
chủ nghĩa duy tâm.
Nhìn chung các thời kỳ này đều đã đạt được những thành tựu nhất định.
Nhưng các quan niệm đều xem xét con người một cách trừu tượng. Chưa
phản ánh được bản chất xã hội của con người.
Phật giáo phủ nhận cái Tôi của con người. Khi xem xét với con đường tu
nghiệp mang đến giá trị của kiếp người. Mục đích để trở thành La Hán, Bồ tát
hay Phật. Tức là phải hướng đến những điều tốt đẹp, đến cái thiện và theo
phật. Tiêu diệt sự tồn tại của cái ác trong mỗi con người.
Con người và vạn vật được tạo nên từ sự hỗn hợp giữa Trời với Đất trong
khoảng giữa âm – dương. Do đó bản tính con người vốn thiện.
Bản chất con người bị quy định bởi Mệnh Trời: “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức,
âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã – Con người là
cái đức của Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái
khí tinh tú của ngũ hành”.
2.2. Tha hóa là một hiện tượng xã hội: Theo C.Mác thì tha
hóa chỉ là một dạng quan hệ xã hội và nó chỉ tồn tại ở con người
và xã hội loài người. Hay nói một cách đơn giản, nội dung của
phạm trù tha hóa chỉ phản ánh và thể hiện những cái, những hiện
tượng, những quá trình có liên quan đến con người và liên quan
đến xã hội loài người. Tha hóa trong quan hệ xã hội tồn tại với
tư cách là “quan hệ kép”. Một mặt, đây là quan hệ của người lao
động với chính lao động của anh ta. Mặt khác, đó là quan hệ của
hành vi lao động với sản phẩm lao động của anh ta. C.Mác giải
thích rằng một mặt, chúng ta xem xét mối quan hệ của lao động
bị tha hóa với bản thân người công dân, nghĩa là quan hệ của lao
động bị tha hóa với bản thân nó thì ta đã tìm thấy quan hệ sở
hữu của “người không phải công nhân” với “người công nhân”
và với lao động với tính cách là sản phẩm hay kết quả tất nhiên
của quan hệ đó. Sở hữu tư nhân, với tư cách là biểu hiện vật chất
khái quát của lao động bị tha hóa, bao gồm hai quan hệ: quan hệ
của công nhân với lao động, với sản phẩm lao động của mình và
với người không phải công nhân, và quan hệ của người không
phải công nhân với người công nhân và với sản phẩm lao động
của người công nhân. Tư tưởng coi tha hóa với tư cách là một
loại quan hệ xã hội được V.I.Lênin đánh giá cao và cho là hết
sức đặc sắc và độc đáo: “Vì nó vạch rõ C.Mác đã tiến gần như
thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông, sit
venia verbo, tức là tư tưởng về những quan hệ sản xuất xã hội”
2.3. Tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội
loài người: Do nhiều nguyên nhân, xuất phát từ con người, từ xã
hội loài người, tha hóa đã trở thành cái khác xa lạ, vượt lên trên
con người và xã hội loài người; quay trở lại chi phối, nô dịch
con người và xã hội loài người. C.Mác cho rằng sự tha hóa thể
hiện ở chỗ tư liệu sinh hoạt của tôi thuộc về người khác, đối
tượng mong muốn của tôi là vật sở hữu của người khác mà tôi
không cóđược, cũng như bản thân mỗi vật hóa ra là một cái khác
với bản thân nó hay hoạt động của tôi hóa ra là một cái khác nào
đó và cuối cùng điều này cũng đúng cả đối với nhà tư sản, lực
lượng không phải người nói chung thống trị tất cả Như vậy, có
thể thấy, tha hóa xuất phát từ chính con người, xã hội loài người,
song trong những điều kiện và hoàn cảnh bất thuận đã trở thành
cái xa lạ, quay trở lại chi phối, thống trị con người và xã hội loài
người. Rõ ràng, về chất, cách hiểu của C.Mác về tha hóa khác so
với những nhà lý luận tôn giáo khác như Phoiơbắc, Pruđông và
kể cả Hêghen, mặc dù trong giai đoạn đầu của sự nghiệp triết
học, C.Mác đã một vài lần sử dụng thuật ngữ “vật hóa”, thuật
ngữ mà Hêghen thường dùng để luận giải về tha hóa. 2.4. Lao
động tha hóa: Đây là nội dung cơ bản, xuyên suốt, bao trùm nhất
trong toàn bộ lý luận của C.Mác về tha hóa. Thực ra, tha hóa lao
động là hiện tượng xuất hiện từ lâu trước khi có chủ nghĩa tư
bản. Đây là hiện tượng gắn với những xã hội mà ở đó con người
đã sản xuất ra những điều kiện sống chủ yếu cho xã hội, song lại
được hưởng quá ít từ những điều kiện sống do chính mình sản
xuất ra đó. Song, theo C.Mác, chỉ khi đến giai đoạn của chủ
nghĩa tư bản thì tha hóa lao động ở con người và xã hội loài
người mới trở nên phổ biến nhất, rõ ràng nhất và có những biểu
hiện đầy đủ nhất. Trong chủ nghĩa tư bản, không chỉ sản phẩm
lao động bị tha hóa là mà chính hành vi lao động bị tha hóa cũng
là tất yếu. Những hình thái xã hội của lao động của bản thân
người công nhân hay là những hình thái của lao động xã hội của
bản thân họ là những quan hệ được hình thành một cách hoàn
toàn độc lập đối với công nhân. Nếu lấy tách riêng từng người
ra, những người công nhân phụ thuộc vào tư bản trở thành
những yếu tố của những cơ cấu xã hội đó, nhưng những cơ cấu
xã hội đó lại không thuộc về công nhân. Vì vậy, những cơ cấu ấy
đối lập với công nhân như là những phương thức do chính tư
bản sử dụng, như là những sự kết hợp cấu thành cái thuộc tính
của tư bản (khác với sức lao động của mỗi người công nhân
đứng tách riêng ra), phát sinh từ tư bản và được gộp vào thành
phần của tư bản Sự tha hóa sản phẩm lao động và sự tha hóa
hình thái lao động có mối quan hệ nhân quả với nhau, đó là tha
hóa hình thái lao động là nguyên nhân, tha hóa sản phẩm lao
động là kết quả, là hệ quả tất yếu của tha hóa hành vi sản xuất.
3. Hệ quả của hiện tượng tha hóa lao động – con người mất
dần tính loài: Hiện tượng tha hóa của lao động dẫn tới những hệ
quả như sau: – Bản chất có tính loài của con người, cơ thể con
người cũng như tài sản tinh thần có tính loài của con người bị
biến thành một bản chất xa lạ với con người, thành phương tiện
duy trì sự tồn tại cá nhân của con người. Lao động bị tha hóa
làm cho thân thể của con người cả bên trong lẫn bên ngoài, bản
chất tinh thần của con người, bản chất nhân loại của con người,
trở thành xa lạ với con người. – Kết quả trực tiếp của việc con
người bị tha hóa với sản phẩm lao động của mình, với hoạt động
sống của mình, với bản chất có tính loài của mình đó là sự tha
hóa của con người với con người. Khi con người đối lập với bản
thân mình thì con người khác đối lập với nó… Nói chung, luận
điểm cho rằng bản chất có tính loài của con người bị tha hóa với
con người có nghĩa là một người này bị tha hóa với người khác
và từng người trong số họ cũng dần bị tha hóa với bản chất
người. Như vậy, con người vốn có bản chất loài, bản chất xã hội
những dần dần đã bị cá biệt hóa trong quá trình tha hóa, dẫn đến
hệ quả tất yếu là bản chất loài mất dần di, triệt tiêu dần đi. Con
người chỉ còn là những cá nhân, những cá thể riêng lẻ, đơn độc,
tất yếu mất dần tính loài, tính người. 4. Vấn đề giải phóng con
người theo quan điểm C.Mác: Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người đã để lại dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của
mình vào tự nhiên, cải tạo đời sống xã hội và từ đó phát triển,
hoàn thiện chính bản thân mình. Con người vừa là chủ thể, vừa
là khách thể của tiến trình phát triển lịch sử; con người làm nên
lịch sử của chính mình nên lịch sử là lịch sử của con người, do
con người và vì con người. Khẳng định tính xã hội của con
người và vị thế chủ thể sáng tạo lịch sử của con người, C. Mác
đi đến quan niệm rằng, trình độ giải phóng xã hội bao giờ cũng
thể hiện ở tự do xã hội. Giải phóng cá nhân tạo ra động lực cho
sự giải phóng xã hội và giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện
thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân; con người tự giải phóng
mình, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Con người
được giải phóng và được tự do phát triển toàn diện là một trong
những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã
hội chủ nghĩa mà giai cấp vô sản – giai cấp công nhân hiện đại
và các chính đảng của nó có sứ mệnh phải xây dựng.