You are on page 1of 13

Câu 1:

Khái niệm tổng hợp về con người trước Mác:


*Trước Mác :
- các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu vũ trụ, là một
thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản
chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể
của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai
phần là phần xác và phần hồn.
- triết học Hy lạp cổ đại, con người được xem là khởi đầu của tư
duy triết học. Con người và thế giới xung quanh phản chiếu lẫn
nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Prôtago,
một nhà triết học nguỵ biện cho rằng “con người là thước đo của vũ
trụ”.
- Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do
thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác,
linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Mọi mặt cuộc sống con người,
niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do thượng đế sắp
đặt. Lý trí anh minh của sáng suốt của thượng đế cao hơn trí tuệ
nhỏ nhoi của con người. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc
sống, nhưng đành bằng lòng, can phận với cuộc sống tạm bợ trên
trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thiên đường
- Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định
và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá
trình nhận thức đó không ngừng được phát hiện.
+ Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con
người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát
triển
- Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy vận
động theo một quy luật cổ
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt
coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái
không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá
cảm giác của mìnhnên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc
đấng tới cao
 Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý
tính người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và
hoàn cảnh

+ Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cantơ đến Hêghen đã phát triển
quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm.
- Heghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt
đối,là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được
xem xét vè mặt tinh thần
- Phơ bách quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản
năng tự nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào
hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để
chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những
quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người

=> Các quan niệm triết học trước Mác khi quan niệm về con người dù
đứng trên nền tảng thế giới quan nào cũng không phản ánh đúng bản
chất của con người. Họ đều xem xét con người một cách trừu tượng:
tuyệt đối hoá tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự
nhiên sinh học mà không thấy được mặt xã hội trong đời sống con
người.

Ví dụ về khái niệm con người trước Mác:

1. Triết học Hy Lạp cổ đại

Con người là điểm khởi nguồn của tư duy triết học. Như sự trung tâm gắn với
tác động, thay đổi được thực hiện. Phản chiếu, tác động lẫn nhau đối với mối
quan hệ trong thế giới xung quanh.
Mang đến điểm mới, tiến bộ khi phân biệt con người với tự nhiên. Tuy nhiên,
chưa nhìn nhận sâu đổi với bản chất bên trong.

2. Triết học Tây Âu trung cổ

Con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo. Với các đặc điểm khác
nhau làm nên số phận của mỗi con người. Đã được sắp xếp từ trước và gắn
cả với các cảm xúc niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi. Theo đó, ý chí của
Thượng đế là tối thượng. Mang đến các nhào nặn và hình thành nên trí tuệ
con người là thấp hơn.

3. Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại

Đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người. Đánh giá với các năng lực và
nhận thức, tác động thé giới của con người. Xem con người là một thực thể
có trí tuệ.

4. Triết học cổ điển Đức

Với những nhà triết học nổi tiếng như Can tơ, Hê ghen. Với khuynh hướng
chủ nghĩa duy tâm.

Nhìn chung các thời kỳ này đều đã đạt được những thành tựu nhất định.
Nhưng các quan niệm đều xem xét con người một cách trừu tượng. Chưa
phản ánh được bản chất xã hội của con người.

5. Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo

Phật giáo phủ nhận cái Tôi của con người. Khi xem xét với con đường tu
nghiệp mang đến giá trị của kiếp người. Mục đích để trở thành La Hán, Bồ tát
hay Phật. Tức là phải hướng đến những điều tốt đẹp, đến cái thiện và theo
phật. Tiêu diệt sự tồn tại của cái ác trong mỗi con người.

6. Quan điểm về con người trong triết học Nho gia :

Con người và vạn vật được tạo nên từ sự hỗn hợp giữa Trời với Đất trong
khoảng giữa âm – dương. Do đó bản tính con người vốn thiện.
Bản chất con người bị quy định bởi Mệnh Trời: “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức,
âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã – Con người là
cái đức của Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái
khí tinh tú của ngũ hành”.

Khái niệm về con người trong Mác:


*Triết học Mác-Lênin
Khái niệm: Con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình
độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội,là
chủ thể của lịch sử xã hội,sáng tạo nên tất cả các thành tựu của
văn minh và văn hoá.Có thể nói,con người là thực thể sinh học-
xã hội,có sự thống nhất giữa 2 mặt tự nhiên và xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ
sau:
+ Thứ nhất, con người là con đẻ của thế giới tự nhiên ,là kết
quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên.Về phương
diện sinh học,con người là một thực thể sinh học,là sản phẩm
của giới tự nhiên,con người cũng phải đi kiếm thức ăn ,nước
uống,sinh đẻ,tồn tại,phát triển. Cơ sở khoa học của kết luận này
được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy
vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về
sự tiến hóa của các loài.
+ Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên,có mối
quan hệ với môi trường xung quanh,con người tác động vào thế
giới tự nhiên và thế giới tự nhiên tác động ngược lại con
người.Con người tuân theo các quy luật sinh học tự nhiên.Về
mặt thể xác,con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên.Do
đó con người phải dựa vào giới tự nhiên,thống nhất với giới tự
nhiên để tồn tại và phát triển.
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau
đây:
+ Thứ nhất,yếu tố quyết định hình thành và phát triển con
người thì không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển
của vật chất tự nhiên mà có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước
hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động.Hoạt động xã hội quan
trọng nhất của con người là lao động sản xuất. Nhờ lao động sản
xuất mà con người trở thành thực thể xã hội,chủ thể của ‘lịch sử
có tính tự nhiên’
+ Thứ hai,trong tồn tại và phát triển, con người luôn bị chi
phối bởi các nhân tố xã hội và các qui luật xã hội. Xã hội biến
đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương
ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự
phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con
người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy
mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
=>Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại
trong tính thống nhất,quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm
biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo
của con người trong quá trình làm ra lịch sử củachính nó. Vì thế,
nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từgiác
độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến
diện,không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết
luận sai lầm trongnhận thức và thực tiễn.
Bản chất của con người:
- Trong tính hiện thực của nó,bản chất của con người là
tổng hoà các quan hệ xã hội
+ Trọng sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch
sử nhất định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát
triển. Bản chất của con người luôn được hình thành và thể hiện ở
những con người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử
cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người,
nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng
chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng, mỗi quan hệ xã hội
có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời
nhau. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành lên bản
chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì it hoặc
nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi
theo.
* Con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của
lịch sử
- Con người là sản phẩm của lịch sử:
Kế thừa có chọn lọc các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ
nghĩa Mác - Lênin khẳng định con người vừa là sản phẩm của
sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch
sử xã hội loài người và của chính bản thân con người.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại
và phát triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào
giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn lực của tự nhiên để
cải biển chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình.
+ Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội, sản
phẩm chịu ảnh hưởng của môi trường xã hội. Chính nhờ
môi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã
hội và mang bản chất xã hội.
+ Con người còn là sản phẩm của chính các hoạt động lao
động sản xuất và các hoạt động xã hội khác của chính
mình.
- Con người là chủ thể của lịch sử
Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền
đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các ông
là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất
và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những
con người như đang tồn tại. Con người vừa là sản phẩm của lịch
sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là chủ thể của
lịch sử bởi:
+ Con người là chủ thể của hành vi lao động sản xuất và
sáng tạo trong lao động sản xuất. Lao động và sáng tạo là thuộc
tỉnh xã hội tối cao của con người. Hoạt động lịch sử đầu tiên
khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân
chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động
sản xuất.
+ Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất,
mà còn là chủ thể của hoạt động lịch sử xã hội và sáng tạo ra
lịch sử xã hội, chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Bằng hoạt động thực
tiễn, con người đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của
mình vào giới tự nhiên, cải tạo đời sống xã hội.
+ Thông qua quá trình lao động sản xuất và sáng tạo ra
lịch sử, con người không ngừng phát triển, cải tạo và hoàn thiện
chính bản thân mình.
 Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến
trình phát triển lịch sử, con người làm nên lịch sử của
chính mình và do vậy, lịch sử là lịch sử của con người,
do con người và vì con người,
Câu 2:
1. Quan điểm của C.Mác về hiện tượng tha hóa của con
người: Khái niệm tha hóa được C.Mác tiếp tục kế thừa từ
Hêghen và Phoiơbắc nhưng dựa trên sự nghiên cứu các mặt khác
nhau của tha hóa gắn liền với cái gọi là “sự phụ thuộc của tư bản
vào lao động”. C.Mác đã phân tích tha hóa thông qua quan hệ
nền tảng giữa con người với con người, giữa con người với sản
xuất vật chất, giữa con người với hoạt động kinh tế. Theo
C.Mác, tha hóa nói lên quá trình mà trong đó sản phẩm do con
người tạo ra (sản phẩm lao động, tiền bạc, quan hệ xã hội…)
cũng như thuộc tính hoặc năng lực nào đó của con người trong
những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nhất định, chúng bị biến đổi
trở thành những thứ độc lập với con người và chi phối lại con
người. Không những thế, tha hóa còn chỉ những hiện tượng hay
những quan hệ xã hội nào đó biến thành một cái gì khác với bản
thân chúng, trở thành cái chi phối con người, trở thành mục đích
sống của con người. Như vậy, theo C.Mác, “tha hóa là quá trình
con người tự đánh mất những năng lực bản chất người của mình,
trở thành một thực thể khác” Như vậy, cách tiếp cận của C.Mác
về tha hóa được dựa trên nền tảng hiện thực, không chung
chung, trừu tượng, phi lịch sử mà xuất phát từ những con người
cụ thể đang sống và hoạt động trong những quan hệ xã hội nhất
định, trong những điều kiện lịch sử của một thời đại nhất định
nói cách khác quan niệm duy vật lịch sử về tha hóa đã được tuân
thủ và áp dụng triệt để.
2. Đặc điểm của hiện tượng tha hóa theo quan điểm C.Mác:
2.1. Tha hóa là quá trình con người đã trở thành không phải
chính mình: Điều này được thể hiện qua việc C.Mác chỉ ra và lý
giải rằng do nhiều nguyên nhân, yếu tố khác nhau và trong
những điều kiện xác định, quá trình tha hóa ở con người với tư
cách là những cá nhân trong xã hội đã diễn ra như một quá trình.
C.Mác cho rằng việc quan hệ cá nhân chuyển biến thành mặt đối
lập của nó, tức là thành quan hệ thuần túy khách thể. Việc cá
nhân tự bản thân phân biệt cá tính và tính ngẫu nhiên là một quá
trình lịch sử và mang những hình thức khác nhau, ngày càng gay
gắt và phổ biến ở các thời kỳ lịch sử phát triển khác nhau. Trong
xã hội ngày nay, sự thống trị của những quan hệ khách thể đối
với cá nhân, sự khống chế của tính ngẫu nhiên với cá tính đã
mang một hình thức gay gắt nhất, phổ biến nhất. Do đó đã đặt ra
trước những cá nhân đang tồn tại một nhiệm vụ hoàn toàn rõ
ràng. Sự thống trị này đã đặt ra nhiệm vụ sau đây: xác lập sự
thống trị của cá nhân đối với tính ngẫu nhiên và những quan hệ
để thay thế cho sự thống trị của các quan hệ và của tính ngẫu
nhiên đối với cá nhân. Khi phê phán Pruđông về vấn đề này,
C.Mác đã có sự phân tích rõ hơn rằng Pruđông chưa thể diễn đạt
tư tưởng ấy của mình một cách thỏa đáng. “Chiếm hữu bình
đẳng” là quan niệm kinh tế chính trị, do đó nó vẫn còn là biểu
hiện tha hóa của một sự thực là vật thể, với tư cách là sự tồn tại
vì con người, là sự tồn tại vật thể của con người đồng thời cũng
là sự tồn tại hiện có của con người và cũng là sự tồn tại hiện có
của con người vì người khác. Đây là quan hệ người của anh ta
đối với người khác, là quan hệ xã hội của người đối với người.

2.2. Tha hóa là một hiện tượng xã hội: Theo C.Mác thì tha
hóa chỉ là một dạng quan hệ xã hội và nó chỉ tồn tại ở con người
và xã hội loài người. Hay nói một cách đơn giản, nội dung của
phạm trù tha hóa chỉ phản ánh và thể hiện những cái, những hiện
tượng, những quá trình có liên quan đến con người và liên quan
đến xã hội loài người. Tha hóa trong quan hệ xã hội tồn tại với
tư cách là “quan hệ kép”. Một mặt, đây là quan hệ của người lao
động với chính lao động của anh ta. Mặt khác, đó là quan hệ của
hành vi lao động với sản phẩm lao động của anh ta. C.Mác giải
thích rằng một mặt, chúng ta xem xét mối quan hệ của lao động
bị tha hóa với bản thân người công dân, nghĩa là quan hệ của lao
động bị tha hóa với bản thân nó thì ta đã tìm thấy quan hệ sở
hữu của “người không phải công nhân” với “người công nhân”
và với lao động với tính cách là sản phẩm hay kết quả tất nhiên
của quan hệ đó. Sở hữu tư nhân, với tư cách là biểu hiện vật chất
khái quát của lao động bị tha hóa, bao gồm hai quan hệ: quan hệ
của công nhân với lao động, với sản phẩm lao động của mình và
với người không phải công nhân, và quan hệ của người không
phải công nhân với người công nhân và với sản phẩm lao động
của người công nhân. Tư tưởng coi tha hóa với tư cách là một
loại quan hệ xã hội được V.I.Lênin đánh giá cao và cho là hết
sức đặc sắc và độc đáo: “Vì nó vạch rõ C.Mác đã tiến gần như
thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông, sit
venia verbo, tức là tư tưởng về những quan hệ sản xuất xã hội”

2.3. Tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội
loài người: Do nhiều nguyên nhân, xuất phát từ con người, từ xã
hội loài người, tha hóa đã trở thành cái khác xa lạ, vượt lên trên
con người và xã hội loài người; quay trở lại chi phối, nô dịch
con người và xã hội loài người. C.Mác cho rằng sự tha hóa thể
hiện ở chỗ tư liệu sinh hoạt của tôi thuộc về người khác, đối
tượng mong muốn của tôi là vật sở hữu của người khác mà tôi
không cóđược, cũng như bản thân mỗi vật hóa ra là một cái khác
với bản thân nó hay hoạt động của tôi hóa ra là một cái khác nào
đó và cuối cùng điều này cũng đúng cả đối với nhà tư sản, lực
lượng không phải người nói chung thống trị tất cả Như vậy, có
thể thấy, tha hóa xuất phát từ chính con người, xã hội loài người,
song trong những điều kiện và hoàn cảnh bất thuận đã trở thành
cái xa lạ, quay trở lại chi phối, thống trị con người và xã hội loài
người. Rõ ràng, về chất, cách hiểu của C.Mác về tha hóa khác so
với những nhà lý luận tôn giáo khác như Phoiơbắc, Pruđông và
kể cả Hêghen, mặc dù trong giai đoạn đầu của sự nghiệp triết
học, C.Mác đã một vài lần sử dụng thuật ngữ “vật hóa”, thuật
ngữ mà Hêghen thường dùng để luận giải về tha hóa. 2.4. Lao
động tha hóa: Đây là nội dung cơ bản, xuyên suốt, bao trùm nhất
trong toàn bộ lý luận của C.Mác về tha hóa. Thực ra, tha hóa lao
động là hiện tượng xuất hiện từ lâu trước khi có chủ nghĩa tư
bản. Đây là hiện tượng gắn với những xã hội mà ở đó con người
đã sản xuất ra những điều kiện sống chủ yếu cho xã hội, song lại
được hưởng quá ít từ những điều kiện sống do chính mình sản
xuất ra đó. Song, theo C.Mác, chỉ khi đến giai đoạn của chủ
nghĩa tư bản thì tha hóa lao động ở con người và xã hội loài
người mới trở nên phổ biến nhất, rõ ràng nhất và có những biểu
hiện đầy đủ nhất. Trong chủ nghĩa tư bản, không chỉ sản phẩm
lao động bị tha hóa là mà chính hành vi lao động bị tha hóa cũng
là tất yếu. Những hình thái xã hội của lao động của bản thân
người công nhân hay là những hình thái của lao động xã hội của
bản thân họ là những quan hệ được hình thành một cách hoàn
toàn độc lập đối với công nhân. Nếu lấy tách riêng từng người
ra, những người công nhân phụ thuộc vào tư bản trở thành
những yếu tố của những cơ cấu xã hội đó, nhưng những cơ cấu
xã hội đó lại không thuộc về công nhân. Vì vậy, những cơ cấu ấy
đối lập với công nhân như là những phương thức do chính tư
bản sử dụng, như là những sự kết hợp cấu thành cái thuộc tính
của tư bản (khác với sức lao động của mỗi người công nhân
đứng tách riêng ra), phát sinh từ tư bản và được gộp vào thành
phần của tư bản Sự tha hóa sản phẩm lao động và sự tha hóa
hình thái lao động có mối quan hệ nhân quả với nhau, đó là tha
hóa hình thái lao động là nguyên nhân, tha hóa sản phẩm lao
động là kết quả, là hệ quả tất yếu của tha hóa hành vi sản xuất.

3. Hệ quả của hiện tượng tha hóa lao động – con người mất
dần tính loài: Hiện tượng tha hóa của lao động dẫn tới những hệ
quả như sau: – Bản chất có tính loài của con người, cơ thể con
người cũng như tài sản tinh thần có tính loài của con người bị
biến thành một bản chất xa lạ với con người, thành phương tiện
duy trì sự tồn tại cá nhân của con người. Lao động bị tha hóa
làm cho thân thể của con người cả bên trong lẫn bên ngoài, bản
chất tinh thần của con người, bản chất nhân loại của con người,
trở thành xa lạ với con người. – Kết quả trực tiếp của việc con
người bị tha hóa với sản phẩm lao động của mình, với hoạt động
sống của mình, với bản chất có tính loài của mình đó là sự tha
hóa của con người với con người. Khi con người đối lập với bản
thân mình thì con người khác đối lập với nó… Nói chung, luận
điểm cho rằng bản chất có tính loài của con người bị tha hóa với
con người có nghĩa là một người này bị tha hóa với người khác
và từng người trong số họ cũng dần bị tha hóa với bản chất
người. Như vậy, con người vốn có bản chất loài, bản chất xã hội
những dần dần đã bị cá biệt hóa trong quá trình tha hóa, dẫn đến
hệ quả tất yếu là bản chất loài mất dần di, triệt tiêu dần đi. Con
người chỉ còn là những cá nhân, những cá thể riêng lẻ, đơn độc,
tất yếu mất dần tính loài, tính người. 4. Vấn đề giải phóng con
người theo quan điểm C.Mác: Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người đã để lại dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của
mình vào tự nhiên, cải tạo đời sống xã hội và từ đó phát triển,
hoàn thiện chính bản thân mình. Con người vừa là chủ thể, vừa
là khách thể của tiến trình phát triển lịch sử; con người làm nên
lịch sử của chính mình nên lịch sử là lịch sử của con người, do
con người và vì con người. Khẳng định tính xã hội của con
người và vị thế chủ thể sáng tạo lịch sử của con người, C. Mác
đi đến quan niệm rằng, trình độ giải phóng xã hội bao giờ cũng
thể hiện ở tự do xã hội. Giải phóng cá nhân tạo ra động lực cho
sự giải phóng xã hội và giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện
thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân; con người tự giải phóng
mình, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Con người
được giải phóng và được tự do phát triển toàn diện là một trong
những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã
hội chủ nghĩa mà giai cấp vô sản – giai cấp công nhân hiện đại
và các chính đảng của nó có sứ mệnh phải xây dựng.

You might also like