Professional Documents
Culture Documents
kiện, các giai đoạn chuyển tiếp cũng như bối cảnh lịch sử xã hội, dấu ấn quan trọng
mà họ đã trải qua.
Vi mô
Truy?n
thông, Trung
D?ch v? XH mô
Ngo?i vi
Vi mô
Chúng ta có thể sử dụng một mô hình tổng hợp khác về môi trường hệ thống và
các lực tác động tới hành vi con người như sau (An, CTXH nhập môn, 2006: 24-33):
Ba cấp độ của hệ thống xã hội:
1- Cấp vi mô: hệ thống này đề cập đến một cá nhân và kết hợp các hệ thống sinh học,
tâm lý và xã hội tác động lên cá nhân ấy.
2- Cấp trung mô: hệ thống này đề cập đến các nhóm nhỏ ảnh hưởng đến cá nhân như
gia đình, nhóm làm việc và những nhóm xã hội khác.
3- Cấp vĩ mô: hệ thống này nói đến các nhóm và những hệ thống lớn hơn gia đình.
Bốn hệ thống vĩ mô quan trọng tác động đến cá nhân là các tổ chức xã hội 1, các
thiết chế xã hội 2, cộng đồng và nền văn hóa.
Các lực tương tác làm nảy sinh và tác động tới hành vi con người gồm có: lực bên
trong và lực bên ngoài. Lực bên trong là những lực thuộc hệ thống vi mô như tác
động tâm lý, sinh học và xã hội qua các giai đoạn phát triển của con người. Các giai
đoạn phát triển con người cũng góp phần làm nên lực bên trong3. Lực bên ngoài đến
từ hai hệ thống trung mô và vĩ mô.
1
Tổ chức xã hội là các nhóm người có cùng chung với nhau một mục đích cần phải đạt đến (Hòa, 1995: 119-
125).
2
Thiết chế xã hội là một hệ thống các chuẩn mực, giá trị và cấu trúc nhắm tới một mục tiêu xác định. Có năm
hình thức thiết chế xã hội chủ yếu: gia đình, giáo dục, tôn giáo, kinh tế và chính quyền. (Xuyến et al, 2002:
219-229).
3
“Các giai đoạn phát triển con người” cũng là một trong 15 đề tài tập huấn của dự án này.
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
Tới đây, chúng ta có thể đưa ra các điểm chính của lý thuyết môi trường hệ thống
như sau (Miley et al, 1995:36):
- Trình bày một cái nhìn triết lý về con người luôn ở trong bối cảnh sống.
- Nhấn mạnh trên các giao tiếp hỗ tương giữa con người (human transactions)
với môi trường (công thức “person: environment”, dấu (:) trong công thức biểu
thị tương quan hỗ tương).
- Nghiên cứu lịch sử hành vi phát triển như thế nào trong việc đáp trả lại các lực
bên trong và lực bên ngoài.
- Mô tả hành vi hiện tại như một thích ứng của “con người trong hoàn cảnh” vốn
giúp cân bằng giữa con người và môi trường. Sự cân bằng gìn giữ lợi ích hỗ
tương giữa con người với môi trường.
- Nhìn nhận tất cả mọi hành vi đều nhắm đến sự thích nghi trong bối cảnh.
- Đưa ra những giải pháp đa dạng dẫn tới sự thay đổi.
- Hệ thống xã hội là “một cấu trúc của những con người tương thuộc
(interdependent) và tương tác (interacting) với nhau” (Miley et al, 1995: 45).
- Các hệ thống xã hội vừa là thành tố của một hệ thống khác lớn hơn đồng thời
cũng được cấu thành từ những “tiểu hệ thống” (subsystems). Hệ thống lớn hơn
sẽ được gọi là “môi trường” của các hệ thống nhỏ bên trong. Ví dụ: cộng đồng
là “môi trường” của làng xóm. Làng xóm là “môi trường” của gia đình. Gia
đình là môi trường của hai tiểu hệ thống là “cha mẹ” và “con cái”.
- Lý thuyết môi trường hệ thống có thể giải thích về hành vi con người được sinh
ra cũng như được điều chỉnh trong tương tác và tương thuộc với các hệ thống
khác và với môi trường của mình. Hệ quả của lý thuyết này cho phép chúng ta
khi làm việc với thân chủ, chúng ta không chỉ quan tâm tới cá nhân hiện tại của
họ; nhưng còn phải chú ý tới lịch sử cuộc sống của họ và tác động của các môi
trường sống của họ nữa. Lý thuyết môi trường hệ thống đòi hỏi chúng ta phải
có cái nhìn toàn diện và đầy đủ về con người: đó là con người trong lịch sử
cuộc sống và trong bối cảnh sống. Lý thuyết này đưa ra một hướng trị liệu điều
chỉnh hành vi cá nhân dựa trên điều chỉnh hoặc thay đổi môi trường sống của
cá nhân trong CTXH thực hành.
1. Khái quát
- Tiến trình tương tác với môi trường sống để tiếp nhận các giá trị và chuẩn mực
xã hội được gọi là “tiến trình xã hội hóa”. Một yếu tố quan trọng của tiến trình
xã hội hóa là “bối cảnh xã hội” (social context) với các tác nhân của xã hội hóa:
gia đình, trường học, nhóm bạn ..v.v.. Cùng với yếu tố sinh học, yếu tố bối
cảnh xã hội và tác động lên hành vi của con người như sau (Landis, 1989:52):
- Sự phát triển bản ngã mang tính xã hội như vậy cũng là một tiến trình bắt đầu
từ thuở thơ ấu và kéo dài trong suốt cuộc đời. Các cá nhân vừa là chủ thể xây
dựng bản ngã có tính xã hội của mình vừa là đối tượng của sự đánh giá của xã
hội. Đồng thời, hành vi con người luôn nhằm vào sự mong đợi cũng như sự
chấp nhận của xã hội.
- Sự phát triển bản ngã theo cái nhìn của Cooley cho thấy áp lực xã hội tác động
rất lớn trên đời sống và hành vi của con người.
I. KHÁI QUÁT
Lý thuyết về hệ thống môi trường cho thấy hành vi con người chịu tác động từ sự
tương tác với các hệ thống và môi trường xã hội. Để được xã hội chấp nhận như một
thành viên, cá nhân phải hành xử theo mong đợi của xã hội khi cá nhân tuân thủ những
chuẩn mực của xã hội đề ra. Tiến trình xã hội hóa là tiến trình cá nhân học hỏi những
chuẩn mực được xã hội qui định, và những khuôn mẫu hành vi đúng, và những hành vi
không đúng. Khi các cá nhân trong xã hội cùng tuân thủ các chuẩn mực xã hội và thực
hiện các vai trò xã hội như xã hội mong muốn, xã hội sẽ đạt được trạng thái ổn định và
đạt được mục đích của toàn thể xã hội. Như vậy, chuẩn mực, vai trò mà văn hóa cung cấp
sẽ là những khung qui chiếu để con người hành xử theo như mong đợi của xã hội; nhờ
đó, họ trở thành một thành viên trong xã hội. Hành vi lệch chuẩn sẽ xuất hiện, khi một cá
nhân hoặc một số cá nhân phá vỡ và không tuân theo những qui chiếu này.
II. CHUẨN MỰC, VAI TRÒ VÀ VĂN HÓA (NORMS, ROLES AND CULTURE)
1. Chuẩn mực
- Chuẩn mực là “hành vi của cá nhân được chấp nhận hay bị đòi hỏi trong một
hoàn cảnh đặc thù” (Landis, 1989: 438). Chuẩn mực xuất hiện trong tiến trình
tương tác xã hội. Khi các cá nhân tương tác với nhau, họ học được và cùng
chấp nhận đâu là những cách hành xử thích hợp và được chấp nhận, đâu là
những cách hành xử không thích hợp và không được chấp nhận. Chuẩn mực
được chấp nhận nhờ vào giá trị của chúng. Chuẩn mực cho phép chúng ta có
thể dự đoán được hành vi của nhau.
- Giá trị là “những ý kiến tổng quát hay những niềm tin của con người về những
cách hành xử thích hợp và được chấp nhận, đâu là những cách hành xử không
thích hợp và không được chấp nhận” (Landis, 1989: 70-1). Giá trị thường là
những khái niệm trừu tượng như: lòng yêu nước, bình đẳng, dân chủ …
- Chuẩn mực có nhiều hình thức khác nhau: từ những văn bản luật cho tới những
thỏa thuận không chính thức giữa con người với nhau. Chuẩn mực xã hội có
thể thay đổi theo thời gian và văn hóa. Do đó, khi phán xét về hành vi của cá
nhân, cần đặt hành vi đó trong khung cảnh đặc thù về thời gian và nơi chốn.
- Chế tài xã hội (sanction): là sự trừng phạt khi cá nhân vi phạm chuẩn mực xã
hội hay phần thưởng cá nhân nhận được khi hành động đúng theo chuẩn mực
xã hội (Landis, 1989: 73).
2. Văn hóa
- Văn hóa là “một tổng hợp phức tạp về niềm tin, phong tục, kỹ năng, thói quen,
truyền thống và tri thức vốn được các thành viên trong một XHH hỏi và chia sẻ
với nhau”. Văn hóa được coi như một gia sản có tính xã hội của một xã hội
(Landis, 1989:80).
- Văn hóa gồm có văn hóa vật thể (materal culture) và văn hóa phi vật thể (non-
material culture). Văn hóa vật thể được thấy nơi những vật thể cụ thể như: tháp
bà Ponagar ở Nha Trang, lăng vua Tự Đức ở Huế, nhà thờ đá Phát Diệm. Văn
hóa phi vật thể là những sáng tạo trừu tượng của một xã hội như: hát xoan, dân
ca quan họ Bắc Ninh, hội Gióng, ca trù … vốn được UNESCO công nhận.
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
- Trong một xã hội, có văn hóa thống trị chung (dominant culture) nhưng cũng
có những tiểu văn hóa (subculture)4. Ví dụ, văn hóa Việt nam cho văn hóa
chung cho tất cả người Việt Nam, nhưng giữa 54 dân tộc Việt Nam cũng như
ba vùng Bắc, Trung, Nam có những tiểu văn hóa của các dân tộc và của các
vùng miền.
- Chuẩn mực văn hóa là “các tiêu chuẩn hành vi được thiết lập dựa trên những
gì mà một nhóm người hay một cộng đồng con người mong đợi (hay tán đồng)
trong suy nghĩ và tư cách đạo đức”(Hòa, 1995: 47).
- Chuẩn mực văn hóa có mức độ khác nhau: Tập tục là những chuẩn mực được
phát triển lên từ tập quán (thói quen) và trở thành hình thức sinh hoạt thông
thường trong một xã hội nhất định. Tập tục có tính chất nhẹ, ở mức độ “nên
làm”. Ví dụ về tập tục: phép lịch sự của người Việt mời khách tới nhà uống
nước trà. Phong tục là các chuẩn mực dựa trên cơ sở giá trị. Phong tục là
những niềm tin mang ý nghĩa về cái đúng, cái sai. Phong tục trong xã hội
thường hòa nhập vào hệ thống pháp luật và những giáo huấn tôn giáo. Phong
tục ở mức độ “bắt buộc phải làm”. Ví dụ về phong tục: người Việt phải chăm
sóc cha mẹ già. (Xuyến et al, 2002: 106-180). Luật pháp là phong tục mang ý
nghĩa cụ thể được luật pháp hóa trong các văn bản pháp luật. Ở mức độ này,
luật pháp có tính cưỡng chế rất mạnh để con người phải thi hành.
- Địa vị và vai trò (status and role). Địa vị xã hội là vị trí của một cá nhân trong
nhóm hay trong xã hội. Ví dụ: giáo viên, sinh viên, giám đốc, cầu thủ, cảnh sát
… Một cá nhân có thể đảm nhận nhiều địa vị cùng một lúc. Có hai loại địa vị.
Địa vị được gán (ascribed status) là địa vị cá nhân có được ngay khi chào đời
(con vua thì lại làm vua). Địa vị đạt được (achieved status) là địa vị cá nhân có
được do nỗ lực của bản thân trên con đường hoạt động xã hội (giáo viên, bác
sỹ, kỹ sư …).
3. Vai trò xã hội
- Vai trò xã hội “là cách hành xử cá nhân phải thực hiện theo qui định và mong
đợi của xã hội về địa vị người đó đang có” (Landis, 1989: 76). Sự căng thẳng
về vai trò (role strain) xảy ra trong một hoàn cảnh có những mong đợi khác
nhau và mâu thuẫn với nhau về cùng một địa vị mà một cá nhân đang có. Xung
đột vai trò (role conflict) xảy ra khi một cá nhân đảm nhận nhiều địa vị khác
nhau đòi hỏi những vai trò khác nhau.
- Khi một cá nhân hành xử đúng theo chuẩn mực văn hóa, các chuẩn mực xã hội
và vai trò xã hội của mình như xã hội mong đợi và qui định, cá nhân đó có
hành vi xã hội “đúng chuẩn”. Hành vi đúng chuẩn khác nhau theo thời gian, nơi
chốn và văn hóa. Do đó, một hành vi đúng chuẩn ở thời đại này, ở cộng đồng
này chưa chắc được coi là đúng chuẩn hay thậm chí là lệch chuẩn ở thời đại
khác và cộng đồng khác. Các nhà XHH coi khái niệm “lệch” là bất cứ hành vi
nào không phù hợp với sự mong đợi của xã hội. “Lệch” là một hành vi đi chệch
khỏi các chuẩn mực của xã hội.
4
Truyền thông ở Việt Nam thường dùng “văn hóa vùng, miền” hơn là “tiểu văn hóa”.
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
5
Nhà văn Sơn Nam có biên khảo một cuốn sách có tựa đề: “Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam – Miền Nam
đầu thế kỷ XX, Thiên địa hội & cuộc Minh Tân” (NXB Trẻ, tái bản lần 1: 2004). Cf. Nguyễn Dư, Cái răng cái
tóc là góc con người. Nguồn: http://chimvie3.free.fr/14/nddg070.htm.
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
động của các thành viên không thể đoán trước được, trật tự xã hội sẽ trở nên
hỗn loạn và con người sẽ mất niềm tin vào nhau. Cuối cùng, hành vi lệch chuẩn
làm phân tán các nguồn lực quí giá của xã hội. Thay vì các nguồn lực này được
dùng để đáp ứng các nhu cầu xã hội, chúng lại được dùng để ngăn chặn sự phát
tán của sự lệch chuẩn.
4. Chức năng của sự lệch chuẩn.
Tuy nhiên, ngoài những tác động tiêu cực của hành vi lệch chuẩn lên xã hội, hành
vi lệch chuẩn còn có tác động tích cực giúp cho một xã hội lành mạnh. Emile
Durkheim đưa ra bốn chức năng tích cực của hành vi lệch chuẩn như sau. Thứ nhất,
lệch chuẩn xác nhận có các giá trị văn hóa và các chuẩn mực trong việc hành xử
giữa các cá nhân với nhau. Thứ hai, việc xã hội đáp trả lại sự lệch chuẩn làm rõ
những ranh giới đạo đức giữa đúng - sai. Thứ ba, phản ứng của xã hội lại sự lệch
chuẩn cổ võ xã hội đồng tâm nhất trí. Cuối cùng, lệch chuẩn thúc đẩy sự thay đổi xã
hội xảy ra (Macionis, 2003: 130-1).
Cách giải thích này dựa trên giá trị và chuẩn mực xã hội để xác định hành vi lệch
chuẩn khi xuất hiện.
a. Lý thuyết sự kết hợp khác biệt (the Differential association theory)
Việc học hỏi các khuôn mẫu hành vi (behavioral patterns) có tính chuẩn mực
hay tính lệch chuẩn là một tiến trình xã hội luôn xảy ra trong một nhóm.
Edwin Sutherland (1940) đưa ra lý thuyết sự kết hợp khác biệt cho rằng,
khuynh hướng hành xử tuân thủ hay lệch chuẩn của một cá nhân tùy thuộc vào
thời gian và cường độ của sự tiếp xúc với những người tuân thủ hay từ chối
những hành vi chuẩn mực. Ví dụ, trẻ em đường phố khi bị bắt và được đưa
vào trại cải tạo. Tại đó, các em được tiếp xúc với các tay anh chị và học được
nhiều “chiêu trò’ từ những người này. Kết quả, khi ra khỏi trại, các em trở nên
lọc lõi và “chuyên nghiệp” hơn trong đời sống “giang hồ”.
b. Lý thuyết kiểm soát (the Control theory)
- Travis Hirschi đưa ra lý thuyết cho rằng sự kiểm soát xã hội phụ thuộc vào việc
lường trước hậu quả của hành vi. Cá nhân nào ít nhiều cũng có khuynh hướng
lệch chuẩn, nhưng việc thấy trước hậu quả của lệch chuẩn khác nhau nơi mỗi
cá nhân dẫn tới hành vi lệch chuẩn sẽ được thực hiện hay không.
- Hirschi đưa ra bốn dạng kiểm soát xã hội như sau:
Sự gắn bó (attachment) với người khác: sự gắn bó xã hội mạnh mẽ
khuyến khích sự tuân thủ. Ví dụ, cá nhân càng gắn bó với gia đình thì
càng ít khuynh hướng thực hiện hành vi lệch chuẩn.
Sự cam kết (commitment) vào sự tuân thủ: sự cam kết càng lâu dài vào
những cơ hội có tính hợp pháp và tính được xã hội nhìn nhận, thì càng
tuân thủ các chuẩn mực.
Sự ràng buộc (involvement) với các hoạt động hợp pháp: càng có ràng
buộc vững chắc và lâu dài với các hoạt động hợp pháp và chính đáng,
thì càng ít nguy cơ thực hiện những hoạt động lệch chuẩn.
Niềm tin (belief) mạnh mẽ vào hiệu lực luân lý và luật lệ xã hội sẽ
ngăn cản thực hiện các hành vi lệch chuẩn.
c. Lý thuyết dán nhãn (the Labeling theory)
- Lý thuyết này cho rằng hành vi là tuân thủ hay lệch chuẩn của một cá nhân đến
từ phản ứng của người khác hơn là do chính hành vi này biểu hiện. Như vậy, lý
thuyết dán nhãn cho thấy tính tương đối của hành vi lệch chuẩn. Cùng một
hành vi được thực hiện nhưng có thể được người khác “dán nhãn” cho là tuân
thủ hay lệch chuẩn.
- Edwin Lemert đưa ra hai loại lệch chuẩn: lệch chuẩn sơ cấp (primery deviance)
và lệch chuẩn thứ cấp (secondary deviance).
- Lệch chuẩn sơ cấp là hành vi của cá nhân xảy ra tạm thời và không được lặp lại
thành định kỳ. Phản ứng của người khác tới lệch chuẩn này không nặng nề và ít
ảnh hưởng tới sự tự nhận thức (self-concept) về bản thân của cá nhân đó. Cá
nhân không tự cho mình là người có hành vi lệch chuẩn.
- Lệch chuẩn thứ cấp xảy ra khi cá nhân tiếp tục nhận được phản ứng từ người
khác như phẫn nộ về mặt đạo đức, loại trừ hay trừng phạt với lệch chuẩn sơ cấp
của họ. Lúc này cá nhân phản ứng lại phản ứng của người khác và sự tự nhận
thức về bản thân thay đổi: họ làm cho bản thân mình trở nên điều họ bị dán
nhãn. Lúc này, cá nhân thực sự trở thành người có hành vi lệch chuẩn đúng như
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
họ bị gán. Như thế, một nghịch lý có thể xảy ra, phản ứng của xã hội nhằm
ngăn chặn lệch chuẩn sơ cấp nhưng phản ứng xã hội có thể đẩy lệch chuẩn sơ
cấp thành lệch chuẩn thứ cấp.
- Lệch chuẩn thứ cấp có thể là khởi đầu cho “vết nhơ” (stigma) xảy ra. Vết nhơ
là một nhãn hiệu cực kỳ tiêu cực làm thay đổi sự tự nhận thức về bản thân và
căn tính xã hội của cá nhân bị dán nhãn. Những người mang vết nhơ ngày càng
dấn thân sâu hơn vào hành vi lệch chuẩn.
d. Lý thuyết xung đột (the conflict theory)
- Lý thuyết xung đột tiếp nối lý thuyết dán nhãn. Lý thuyết này cũng dựa trên
hành vi lệch chuẩn đến từ sự phản ứng của người khác hơn là hành vi tự thân.
Lý thuyết xung đột đẩy lý thuyết dán nhãn từ bình diện cá nhân lên bình diện
giai cấp.
- Lý thuyết xung đột cho rằng, một thể chế xã hội sẽ thiết lập các luật lệ, các thiết
chế và phương thức dán nhãn để bảo vệ quyền lợi riêng của giai cấp này hay
giai cấp khác cũng như để duy trì trật tự xã hội. Cũng một hành vi lệch chuẩn
như nhau, nhưng cá nhân thuộc giai cấp có địa vị thấp dễ dàng bị gán hơn cá
nhân thuộc giai cấp có địa vị kinh tế và xã hội cao.
e. Lý thuyết phi chuẩn mực (the Strain theory)
Chúng ta sẽ nghiên cứu sâu hơn về hành vi lệch chuẩn với nghiên cứu của
Robert K. Merton. Lý thuyết phi chuẩn mực của Merton được chú ý do cách
ông ta sử dụng các yếu tố văn hóa và xã hội trong nghiên cứu của mình.
Merton nói rằng sự tuân thủ (conformity) xảy ra khi cá nhân chấp nhận sử
dụng những phương tiện xã hội nhìn nhận (institutionalized means) để đạt
được những mục đích mà văn hóa đề ra (cultural goals). Lý thuyết phi chuẩn
mực đưa ra bốn dạng lệch chuẩn trong thực tế, khi các cá nhân không đạt được
sự tuân thủ nói trên qua việc họ chấp nhận hay từ chối mục đích của văn hóa
đề ra và phương tiện được xã hội nhìn nhận. Việc chấp nhận hay từ chối chuẩn
mực của mục đích và phương tiện sẽ gây nên sự căng thẳng (strain) và dẫn tới
hành vi lệch chuẩn.
- Thứ nhất, lệch chuẩn dạng “sáng kiến” (innovation) xảy ra khi cá nhân hướng
tới mục đích và cố gắng đạt được mục đích này với những phương tiện không
phải là các phương tiện xã hội nhìn nhận. Ví dụ, trong khi mọi người cố gắng
đạt được sự giàu có bằng sự làm ăn cần cù, thì những kẻ tham nhũng đạt được
sự giàu có qua việc tham nhũng và hối lộ.
- Thứ hai, lệch chuẩn dạng “nghi thức” (ritualism) xảy ra khi cá nhân chú ý thực
hiện những phương tiện xã hội nhìn nhận nhưng lại lãng quên mục đích cần đạt
được. Ví dụ, một y tá quá quan tâm tới thủ tục giấy tờ đầy đủ trong khi quên
cấp cứu một bệnh nhân trong tình trạng nguy kịch.
- Thứ ba, lệch chuẩn dạng “thoát ly” (retreatism) xảy ra khi cá nhân từ chối mục
đích văn hóa lẫn phương tiện được xã hội nhìn nhận. Ví dụ, những người
nghiện rượu hay nghiện ma túy mà không quan tâm đến cuộc sống gia đình và
sự nghiệp.
- Thứ tư, lệch chuẩn dạng “nổi loạn” (rebellion) xảy ra khi cá nhân chối bỏ mục
đích xã hội lẫn phương tiện được xã hội nhìn nhận để thay thế bằng mục đích
lẫn phương tiện khác. Ví dụ, các thiếu niên nam nữ sống “dạt vòm” và quan hệ
tình dục “bầy đàn” với nhau.
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
2. Hành vi lệch chuẩn và vấn đề xã hội (lấy theo Danao et at, 2012)
- Rất nhiều hình thức của hành vi lệch chuẩn gây ra các vấn đề xã hội. Phạm vi
của các vấn đề xã hội có thể là gần như vô hạn và phức tạp hơn khi xác định đó
là hành vi lệch chuẩn mực xã hội.
- Hành vi lệch chuẩn, đặc biệt hành vi lệch chuẩn ở cấp độ cao thường gây ra
những hậu quả tai hại đối với xã hội và các thành viên cộng đồng. Những hành
vi sai lệch ở mức độ trầm trọng như vi phạm luật pháp có thể gây tổn hại lớn về
vật chất cho xã hội, gây không khí tâm lý lo sợ và làm tổn hại đến an ninh trật
tự xã hội. Ví dụ: nạn bạo lực, hiếp dâm, trộm cắp…
- Những hành vi lệch chuẩn có thể để lại hậu quả nặng nề như tham nhũng, lợi
dụng chức quyền, bè cánh…gây tổn hại về kinh tế xã hội và gây hậu quả tâm lý
như khủng hoảng niềm tin của nhân dân vào chính quyền, làm suy yếu kỷ
cương, trật tự xã hội.
- Hành vi lệch chuẩn như nghiện hút, mại dâm, ngoại tình…vừa gây hậu quả trực
tiếp vừa gây hậu quả gián tiếp. Một mặt nó làm băng hoại giá trị đạo đức xã
hội, mặt khác nó nêu gương xấu cho thế hệ trẻ. Những hành vi lệch chuẩn làm
suy bại thuần phong mỹ tục của xã hội, đồng thời nó là cái nôi nảy sinh ra các
tệ nạn xã hội, gây ra bệnh tật làm suy thoái giống nòi.
- Tóm lại, hành vi lệch chuẩn gây hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình và cộng
đồng. Mức độ sai lệch hành vi khác nhau để lại hậu quả ở mức độ khác nhau.
Hậu quả của mức độ hành vi sai lệch chuẩn mực có thể thiệt hại về kinh tế, mất
trật tự an ninh xã hội, làm suy thoái nhân cách con người, làm đồi bại thuần
phong mỹ tục xã hội, làm tổn thương con người cả về thể xác lẫn tâm hồn. Do
vậy, tăng cường giáo dục, uốn nắn, tuyên truyền phổ biến thường xuyên để con
người có hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội là điều vô cùng quan trọng.
- Nội dung tuyên truyền giáo dục nhằm ngăn ngừa các hành vi lệch chuẩn gồm
các nội dung sau:
Thứ nhất: Cung cấp cho các thành viên trong cộng đồng xã hội hệ
thống các chuẩn mực bằng nhiều hình thức khác nhau.
Thứ hai: Hình thành cho cộng đồng có thói quen phê phán, đấu tranh
với hành vi lệch chuẩn.
Thứ ba: tăng cường việc hướng dẫn hành vi cho các cá nhân trong xã
hội, đặc biệt coi trọng các thành viên mới của cộng đồng, chăm lo giáo
dục thế hệ trẻ một cách chu đáo.
tội phạm này là có nạn nhân của tội phạm và diễn ra ở mức độ nặng nề
(felonies). Mỗi một xã hội đều thiết lập một danh sách những tội phạm nặng.
Tuy nhiên, có loại tội phạm thứ ba là loại tội phạm không có nạn nhân
(victimless crimes). Đó là những tội phạm phá vỡ luật lệ nhưng không tạo ra
nạn nhân, ngoài việc nạn nhân cũng chính là người phạm tội. Ví dụ: những
người nghiện rượu, nghiện ma túy hay đam mê cờ bạc. (Macionis, 2003: 140
và Landis, 1989: 402)
2. Khi nào tội phạm chuyển từ hành vi lệch chuẩn sang vấn đề xã hội?
- Khi quy mô của hành vi tội phạm (crime rate) xảy ra ở mức độ lớn, tội phạm
chuyển từ hành vi lệch chuẩn ở phạm vi cá nhân sang phạm vi vấn đề xã hội.
Do đó, thống kê tội phạm (criminal statistics) là một công cụ quan trọng trong
việc nghiên cứu tội phạm như một vấn đề xã hội.
- Một trong những hình thức kiểm soát xã hội về tội phạm là “hệ thống tư pháp
hình sự” (The criminal Justice system) bao gồm: cảnh sát, tòa án, nhà giam và
nhà tù. Hệ thống tư pháp hình sự nhằm ngăn chặn vấn đề xã hội về tội phạm.
Tuy nhiên, khi hệ thống tư pháp hình sự đã bị tha hóa và thất bại trong chức
năng kiểm soát xã hội của mình, đến lượt nó, hệ thống tư pháp hình sự trở
thành một vấn đề xã hội.
(sanction) có tính tiêu cực (trừng phạt) hay tính tích cực (phần thưởng). Kiểm
soát bên ngoài có thể được thể hiện ra nơi cơ chế không chính thức và chính
thức.
Kiểm soát xã hội không chính thức tồn tại nơi các nhóm sơ cấp như gia
đình, nhóm bạn bè, nhóm làm việc. Kiểm soát này biểu hiện ở sự chế
giễu, xa lánh, cách ly, khinh bỉ, trừng phạt hay đe dọa.
Kiểm soát xã hội chính thức tồn tại trong một số thiết chế xã hội và
một vài cơ quan trọng yếu như cơ quan cảnh sát, tòa án, nhà tù, trung
tâm cải tạo… kiểm soát xã hội này cần có một cơ chế điều luật kèm
theo. Trong đó, các điều luật, các chuẩn mực xã hội được viết thành
văn bản kèm theo những hình phạt tương ứng cho những người vi
phạm.
I. KHÁI QUÁT:
Nói tới hành vi lệch chuẩn và các vấn đề xã hội là nói tới các hành vi có tác động tiêu cực
nơi chính cá nhân và trong xã hội. Chính yếu tố tiêu cực này dẫn tới vấn đề chủ thể con người
của các hành vi này cần được chữa trị, để giúp họ thay đổi hành vi như xã hội mong đợi và
chấp nhận.
Cùng với nhiều ngành trị liệu khác như y khoa, tham vấn tâm lý; CTXH cá nhân và CTXH
nhóm đều có mục tiêu trị liệu: giúp các cá nhân và các nhóm thay đổi hành vi (Lâm, 2006: 25;
An, CTXH cá nhân, 2006: 94). Do đó, hành vi lệch chuẩn cũng như các vấn đề xã hội đều là
đối tượng nghiên cứu và giải quyết của CTXH cá nhân và CTXH nhóm. Hiểu rõ bản chất của
hành vi lệch chuẩn và vấn đề xã hội trong viễn tượng của lý thuyết môi trường hệ thống có thể
giúp nhân viên CTXH thực hiện công việc của mình có hiệu quả hơn. Đồng thời, nhân viên
CTXH cũng cần hiểu rõ những chế tài và kiểm soát xã hội để có thể can thiệp vào hành vi lệch
chuẩn cũng như những vấn đề xã hội. Bài học này sẽ đưa ra một hướng đề nghị về việc trị liệu
hành vi lệch chuẩn và vấn đề xã hội như một sự áp dụng CTXH (applied social work).
II. ĐỊNH HƯỚNG TRỊ LIỆU NHẤN MẠNH TRÊN MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
Qua việc trình bày ở các bài học trước đây, chúng ta thấy rằng lý thuyết môi trường hệ
thống đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn toàn diện và đầy đủ về con người: đó là con người trong
lịch sử cuộc sống và trong bối cảnh sống. Lý thuyết này đưa ra một hướng trị liệu điều chỉnh
hành vi cá nhân dựa trên điều chỉnh hoặc thay đổi môi trường sống của cá nhân trong CTXH
thực hành6.
Kế tiếp, nguồn gốc của hành vi lệch chuẩn là ở cấu trúc xã hội 7. Bên cạnh đó, một thành tố
của vấn đề xã hội cũng thuộc về hoàn cảnh khách quan: những hoàn cảnh, điều kiện trong đó
vấn đề xã hội nảy sinh 8 . Như vậy, lý thuyết môi trường hệ thống giúp giải thích các hành vi
con người (ở bình diện cá nhân, nhóm, tổ chức, cộng đồng) sai chức năng hoặc thích nghi
không đúng trong môi trường xã hội. Từ đó, một hướng trị liệu được đưa ra nhấn mạnh trên
môi trường xã hội của thân chủ (Miley et al, 1995: 28-30; 40).
Cần hiểu biết về thân chủ hiện tại, với những hành vi lệch chuẩn cần được chữa trị, như là
“sản phẩm” của các môi trường xã hội mà họ đã trải qua được lớn lên. Việc hiểu biết về các
môi trường sống quá khứ và hiện tại của thân chủ sẽ soi sáng cho nhân viên CTXH đề ra những
hướng can thiệp và hướng chữa trị cho thân chủ. Nhân viên CTXH có thể tạo ra môi trường xã
hội mới, hoặc cung ứng những kỹ năng sống mới, giúp thân chủ hội nhập và phát triển trong
môi trường hiện tại của họ. Việc tìm hiểu môi trường xã hội hiện tại với những “gốc rễ” quá
khứ của thân chủ là một tiến trình CTXH lâu dài trong việc tiếp xúc với thân chủ với một số kỹ
năng CTXH như lắng nghe, quan sát, vấn đàm, mối quan hệ, vãng gia …
Khi nhân viên CTXH hiểu biết về các môi trường sống trong quá khứ dẫn tới tình trạng
hiện nay của thân chủ có những hành vi lệch chuẩn, họ sẽ có thái độ thông cảm với thân chủ.
6
Bài 1, mục I
7
Bài 2, mục III.1
8
Bài 3, mục II.1
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
Một điều quan trọng giúp cho việc trị liệu có kết quả là thái độ của nhân viên CTXH. Đó là một
thái độ không kết án và chấp nhận con người cũng như tôn trọng nhân phẩm của thân chủ. Thái
độ không kết án con người của thân chủ là một trong những nguyên tắc CTXH thực hành (An,
CTXH nhập môn, 2002: 61).
III. TRỊ LIỆU CÁC HÀNH VI LỆCH CHUẨN NHẤN MẠNH TRÊN MÔI
TRƯỜNG XÃ HỘI TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN VÀ CÔNG
TÁC XÃ HỘI NHÓM.
1. Chức năng của CTXH
Chức năng của CTXH là “phòng ngừa, chữa trị, phục hồi và phát triển” để đưa
thân chủ tái hội nhập vào cộng đồng (An, CTXH nhập môn, 2006:45-6). Tái hội
nhập vào cộng đồng có nghĩa là hành xử theo mong ước của cộng đồng với tư
cách là thành viên của cộng đồng đó. Để thực hiện các chức năng này, nhân viên
CTXH làm việc với các cá nhân và với nhóm (nhóm tự giúp, gia đình trị liệu hay
nhóm trị liệu).
2. Công tác trị liệu theo định hướng thay đổi môi trường xã hội
- Việc trị liệu các hành vi lệch chuẩn nhấn mạnh trên môi trường dựa trên tiền đề
sau đây. Hành vi hiện tại của thân chủ chính là kết quả của việc học hỏi trước
đây kết hợp với những biến cố đương thời gây ra. Việc học hỏi này xảy ra trong
tiến trình xã hội hóa trong môi trường xã hội của thân chủ (An, CTXH cá nhân,
2006: 102-5). Do đó, cải tạo hoặc thay đổi môi trường xã hội có thể giúp thân
chủ thay đổi hành vi lệch chuẩn 9.
- Sự thay đổi hành vi (sau khi đã thay đổi nhận thức) là kết quả của sự tương tác
giữa thân chủ và môi trường xã hội. Môi trường xã hội đó bao gồm hoàn cảnh
xã hội và các cá nhân và tổ chức xã hội. Sự tương tác này không được diễn ra
một cách tự nhiên, nhưng dưới sự hoạch định và can thiệp của NVCTXH.
- Môi trường xã hội có thể chia làm ba cấp độ như sau:
Cấp độ vĩ mô: cấp độ xã hội hay cấp độ cộng đồng với các các hệ
thống là các tổ chức xã hội và chính quyền.
Cấp độ trung mô: với các hệ thống là các nhóm xã hội như nhóm tự
giúp, nhóm trị liệu hay nhóm cùng hoàn cảnh.
Cấp độ vi mô: các cá nhân và gia đình.
- Định hướng trị liệu các hành vi lệch chuẩn nhấn mạnh trên môi trường xã hội
có thể được thực hiện qua những bước đi sau đây:
Trong trường hợp môi trường xã hội lành mạnh (môi trường vĩ mô):
nhân viên CTXH giúp chuyển trao các giá trị và chuẩn mực của văn
hóa và xã hội để giúp thân chủ phát triển. Sự tiếp nhận những giá trị và
chuẩn mực sẽ dẫn tới sự kiện thân chủ thay đổi nhận thức như là một
tiền đề cần thiết cho sự thay đổi hành vi (trị liệu nhận thức, An, CTXH
cá nhân, 2006: 98-9). Trong trường hợp này, thân nhân có thể thay đổi
hành vi qua tiến trình xã hội hóa trong môi trường lành mạnh: học biết
và thủ đắc những giá trị và chuẩn mực của xã hội.
Trong trường hợp môi trường xã hội chưa hoặc không lành mạnh (môi
trường vĩ mô): nhân viên CTXH cải tạo môi trường (ví dụ qua công tác
9
Có thể nói đây là công việc thực hiện tiến trình “tái xã hội hóa” để giúp thân chủ thủ đắc lại những giá trị,
chuẩn mực. Nhờ đó, thân chủ có thể thay đổi nhận thức và thay đổi hành vi.
T[Type text]- Hành vi lệch chuẩn
Tài liệu phát SDRC - CFSI
biện hộ), hoặc chuyển thân chủ qua môi trường xã hội khác tích cực và
lành mạnh hơn (ví dụ, chuyển trường cho các em học sinh cá biệt, khi
trường cũ là một môi trường không thân thiện và tạo điều kiện cho các
em sống băng nhóm). Như vậy, thân chủ sẽ hạn chế hoặc không tiếp
xúc với những hành vi tiêu cực (theo lý thuyết sự kết hợp khác biệt).
- Hơn nữa, nhân viên CTXH còn phải chủ động tạo ra các môi trường tích cực
và lành mạnh (môi trường trung mô và vi mô) để giúp thân chủ phát triển
trong môi trường đó trong việc tương tác với các cá nhân khác và với các
nhóm. Như vậy, CTXH nhóm và CTXH cá nhân cần thiết lập các nhóm trị
liệu, nhóm tự giúp và gia đình trị liệu (Lâm, 2006: 36, 38; An, CTXH cá nhân,
2006: 41) trong việc các chức năng “phòng ngừa, chữa trị, phục hồi và phát
triển” của mình.
- Cuối cùng, nhân viên CTXH cũng cần vận dụng những chế tài và kiểm soát xã
hội trong cả ba môi trường vĩ mô, trung mô và vi mô trong những trường hợp
cần thiết để hạn chế tác động tiêu cực của hành vi lệch chuẩn và vấn đề xã hội.