Professional Documents
Culture Documents
13.12.22
CHƯƠNG II: VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI
VĂN HÓA thì nghiên cứu về vật thể/ phi vật thể
XÃ HỘI HỌC nghiên cứu về hành vi, quan hệ/ nhóm của “văn hóa”
- Phân biệt hành động xã hội với hành động vật lý bản năng và hành vi
Hành động vật lý bản năng
1. Là dạng hoạt động mang tính chất bản năng sinh học , được thực hiện
bất chấp ý chí hay mong muốn chủ quan của chủ thể hành động
2. Với hành động vật lý bản năng ,yếu tố duy lý và có ý thức rất thấp,
phản ứng đáp lại với kích thích từ môi trường diễn ra rất nhanh dừơng
như không cần tới quá trình tính toán có ý thức của chủ thể hành động
Vd: chạm vào cốc nước nóng thì rụt tay lại là hành động bản năng
Hành động xã hội là “toàn bộ những phản ứng , cách cư xử biểu hiện ra
ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định”
(viện ngôn ngữ học 1996:407)
hành vi
“bất cứ chuyển động công khai có thể quan sát được của cơ thể nói chung
bao gồm hành vi bằng lời cùng như các chuyển động vật lý”
Vd: “xin chào”, “cảm ơn”, giơ tay lên , gật đầu ,lắc đầu
- hành vi của con người có nhiều loại khác nhau ,từ hành vi bản năng
vô thức , tâm lý, sinh lý tới hành vi xã hội
- khi đề cập đến khái niệm hành vi hành động nói chung người ta
thường không chú ý tới mục đích trong phản ứng hay hành động của
con người còn khi nói đến hành vi xã hội , hoạt động xã hội là người
ta nói đến tính mục đích của một kiểu phản ứng , 1 kiểu đáp lại với
tác nhân kích thích từ môi rướng
hành động xã hội cơ bản khác hành động và hành vi nói
chung và có những đặc điểm nhất định có thể nhận biết được
hành động nói chung và hành động xã hội là 2 khái niệm có sự phân biệt với
nhau và chỉ hành động xã hội mới là đối tượng nghiên cứu của xã hội hóa
thuật ngữ hành động chỉ hành động của chủ thể là cá nhân hành động của
một tập thể
hành động liên quan giữa hay nhiều chủ thể thì đó đã là hành động xã hội
hành động xã hội có thể dịnh hướng vào hành vi của những người khác
trong quá khứ hiện tại lẫn tương tai
hành động xã hội không phải sự đồng nhất hành vi hoặc tương tự , thống
nhất giữa hành vi của các cá nhân
hành động xã hội không phải là những hành động được thực hiện do bị ảnh
hưởng bởi hành vi của người khác
khi quan sát một hành động có thể kết luận đấy có phải là hành
động xã hội hay không chúng ta không thể chỉ nhìn vào biểu hiện
của hành động đó mà còn xem hành động đó một ý nghĩa chủ quan
nào đó của chủ thể hành động và có sự định hướng đến hành động
của người khác hay không
3.2 Định nghĩa về xã hội hoá
- là một quá trình giới thiệu cho mọi người về các chuẩn mực xã hội và phong tục
thông qua quá trình tương tác với xã hội. Nhằm giúp con người phát triển các khả
năng của mình và học hỏi từ xã hội.
Xã hội hóa còn tạo sự hoàn thiện, phát triển nhân cách của mỗi người bởi lẽ mỗi
một cá nhân thể hiện vai trò của mình trong xã hội trong những điều kiện chủ động
sáng tạo của mình để xây dựng xã hội. Quá trình đó giúp cho cá nhân nâng cao
chất lượng hành vi xã hội của mình, tham gia góp phần sáng tạo cho xã hội. Như
vậy con người không chỉ tiếp thu thụ động những kinh nghiệm xã hội để tạo nên
nhân cách mà còn sáng tạo ra nhiều cái mới, cái tiến bộ hơn để xã hội ngày càng
phát triển, đấy cũng chính là quá trình phát triển nhân cách của cá nhân từ thấp tới
cao, từ đơn giản đến hoàn thiện.
Sự hoàn thiện nhân cách này được diễn ra trong các điều kiện xã hội nhất định. Vì
vậy, xã hội phải tạo ra các môi trường xã hội lành mạnh và định hướng rõ ràng
trong các môi trường đó nhằm tác động một cách có ý thức và quá trình xã hội hóa.
Quá trình hình thành ý thức trong cách ứng xử của con người được gọi là quá trình
xã hội hóa. Hay, quá trình xã hội hóa là quá trình mà trong đó chúng ta có thể tiếp
nhận nền văn hóa của xã hội, có thể học được cách suy nghĩ và ứng xử hợp với đặc
trưng của xã hội.
Trong quá trình xã hội hóa, cá nhân thu thập kinh nghiệm xã hội và học các chuẩn
mực, khuôn mẫu một cách tự nhiên mà không chống đối lại được.
Trong quá trình xã hội hoá, con người thu thập được kinh nghiệm xã hội và các
chuẩn mực, khuôn mẫu một cách tự nhiên mà không chống đối lại được.
Gia đình là bối cảnh xã hội đầu tiên và quan trọng nhất đối với quá trình xã hội
hóa, hầu hết với mọi cá nhân, gia đình là một thế giới xã hội, trẻ sinh ra và gần như
cả giai đoạn đầu là sinh hoạt trong gia đình. Ngay cả khi trẻ đã nhập học thì việc
đáp ứng nhu cầu của trẻ hầu như cũng thuộc về gia đình.
Kinh nghiệm xã hội của cá nhân ngày càng tăng lên nhờ những tương tác ở bên
trong gia đình, là nơi hình thành nền tảng nhân cách của con người, mặc cho sau
này đời sống của cá nhân đó có thay đổi nhiều thì nhân cách đó thường vẫn có độ
ổn định cao. Gia đình không chỉ là nơi cho cá nhân cái ăn, cái trú ngụ, tình yêu
thương mà còn là nơi thực hiện quá trình truyền dẫn văn hóa qua các giá trị và
chuẩn mực xã hội cho các thành viên mới. Đây là một tiểu văn hóa, tiểu văn hóa
này được xây dựng trên nền văn hóa chung của xã hội, song nó lại có những đặc
thù riêng của từng tiểu văn hóa và vì thế nó cũng tạo nên những đặc điểm nhân
cách riêng biệt cho từng cá nhân hoặc các cá nhân.
Nhìn chung những gì trẻ nhận được ở gia đình đều không phải chỉ có sự chủ đích
mà còn có cả sự vô tình, bởi số giá trị hay vai trò phải nhận thì còn có những thứ
trẻ tự quan sát và tự lĩnh hội. Cho dù là vô tình hay cố tình thì phần lớn những gì
trẻ suy nghĩ và đặt ra những câu hỏi với bản thân hoặc thế giới xung quanh đều do
môi trường gia đình. Sự quan tâm của người thân trong gia đình bằng việc tiếp xúc
của cơ thể của ngôn ngữ có lời hoặc không lời sẽ khuyến khích sự phát triển của
trẻ về cả thể chất lẫn trí tuệ.
Thông qua gia đình trẻ sẽ có những hiểu biết về thế giới rộng lớn xung quanh, thế
giới tự nhiên và cả thế giới loài người. Với tầm quan trọng như vậy, đòi hỏi gia
đình hay nói chính xác hơn là mọi thành viên trong gia đình phải ý thức được vai
trò của mình đối với con trẻ. Bởi ở một giai đoạn nhất định nào đó trẻ giống như
một tờ giấy trắng, như một máy chụp hình, máy thu âm kỹ thuật số, nghĩa là chúng
ta nói gì, làm gì thì nó sẽ làm thế ấy hay nói cách khác những gì chúng chụp được,
thu được xung quanh chúng sẽ phát ra nguyên xi như vậy. Rõ ràng lúc này trẻ sẽ
không biết đến đúng sai, cái gì nên làm hay không nên làm hoặc được và không
được, cứ như thế khi thấy người xung quanh làm hay nói thì chúng sẽ làm theo. Dĩ
nhiên đến lúc nào đó trẻ sẽ nhận thức được phần nào về vai trò và giá trị, các chuẩn
mực hành động trong xã hội gia đình hay xã hội rộng lớn bên ngoài. Song những gì
ở phía trước cùng đã tạo nên nếp gấp trong tiềm thức của chúng hoặc có nhiều thứ
thành thói quen của một giai đoạn thì có thể được lặp lại trong đời sống ở một tình
huống xã hội nào đó.
Tóm lại, xã hội hóa ở môi trường gia đình có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
mỗi cá nhân, nhất là từ khi sinh ra cho đến khi qua tuổi dậy thì một ít (khoảng tuổi
15, 16), là giai đoạn chuẩn bị cho đứa trẻ vào đời từ xã hội nhỏ gia đình bước ra xã
hội rộng lớn xung quanh. Vì vậy, nền tảng văn hóa chung của gia đình tốt sẽ là nền
tảng tốt cho trẻ trong suốt quá trình xã hội hóa về sau.
Nhà trường là nơi cung cấp cho cá nhân trước tiên đó là những kỹ năng cơ bản như
đọc, viết và số học. Sau đó sẽ là kỹ năng chuyên môn hay là kỹ năng nghề nghiệp.
Tuy nhiên, trong xã hội kém văn minh vấn đề này lại hoàn toàn khác, vì trường học
chưa xuất hiện hoặc nếu có xuất hiện thì vai trò của nhà trường chưa rõ ràng. Như
vậy, gia đình vẫn là môi trường chủ yếu cho quá trình xã hội hóa ở trẻ.
Trong xã hội tiến bộ, xã hội hiện đại hơn và đòi hỏi các cá nhân phải có sự hiểu
biết sâu rộng, cũng như các kỹ năng chuyên môn cao hơn thì rõ ràng gia đình
không thể đáp ứng được tất cả các đòi hỏi đó và vì vậy vai trò của các tổ chức xã
hội chính thức sẽ là chính yếu, trong đó đặc biệt là trường học. Như đã nói ở trên
nhiệm vụ xã hội hóa chủ yếu của trường học là truyền đạt kiến thức và kỹ năng
chuyên môn.
Môi trường xã hội hóa này sẽ được bắt đầu từ vườn trẻ, nhà mẫu giáo khoảng 3, 4
tuổi và thường sẽ kết thúc ở bậc trung học hoặc cao hơn.
Môi trường xã hóa ở trường học nên chia làm hai giai đoạn, dĩ nhiên giai đoạn chỉ
mang tính ước lệ. Giai đoạn đầu là giai đoạn nhà trường có nhiệm vụ cung cấp tri
thức nền, như việc định hướng lựa chọn hành vi xã hội, các khuôn mẫu, chuẩn mực
xã hội, như vậy một phần ở giai đoạn này gần giống với vai trò của gia đình. Nghĩa
là những kiến thức này sẽ là nền tảng nhằm phục vụ cho việc thực hiện các vai trò
xã hội sau này cá nhân đóng. Giai đoạn sau trung học, về cơ bản đây là giai đoạn
mà nhiệm vụ của nhà trường là cung cấp cho cá nhân những kỹ năng chuyên môn,
nghề nghiệp, những kỹ năng mà gia đình không thể cung cấp được như bác sĩ, luật
sư, kiến trúc sư... Nhờ vào đó, mà cá nhân có khả năng theo kịp và hòa nhập thành
công vào trong xã hội. Nói tóm lại, nhiệm vụ của nhà trường được tiến hành có
tính tổ chức cao, tính qui phạm, nghĩa là được trù liệu và theo một kế hoạch chặt
chẽ về cả nội dung lẫn hình thức trong hệ thống giáo dục của một quốc gia, một
khu vực.
Sau gia đình thì nhóm bạn bè đóng vai trò xã hội hóa hết sức quan trọng đối với cá
nhân, nhất là giai đoạn vị thành niên và lứa tuổi dậy thì. Nhóm bạn bè thường là
cùng hàng xóm (nhất là trong xã hội kém văn minh), về sau có nhóm cùng học và
nhóm hoạt động trong xã hội.
Nhóm bạn bè có sự khác biệt với gia đình và nhà trường ở chỗ là các thành viên
trong nhóm thường có chỗ đứng trong thang bậc xã hội như nhau, nghĩa là giữa họ
có quan hệ tương tác tương đối bình đẳng. Đặc biệt các cá nhân khi tham gia vào
nhóm sẽ thực hiện nhiều hoạt động không có sự giám sát của gia đình và nhà
trường, khi thoát khỏi sự áp đặt của bố mẹ và sự ràng buộc của nhà trường, nhờ
vào đó các cá nhân có được sự độc lập đáng kể, như vậy sẽ tạo điều kiện cho cá
nhân có được kinh nghiệm mà ngay ở trong gia đình và nhà trường không thể có
được.
Một hình dung ban đầu về nhóm chúng ta dễ nhận thấy nhất đó là đảm nhận chức
năng giải trí, song trong hoạt động thực tế thì nhóm bạn bè không chỉ dừng lại ở
chức năng đó. Từ đây sẽ tạo ra một mô hình ứng xử riêng hay nói cách khác đó là
một tiểu văn hóa với các giá trị, chuẩn mực khác so với gia đình và nhà trường
hoặc văn hóa của người lớn. Điều này được thể hiện qua phong cách ăn mặc, kiểu
tóc, xe cộ, sở thích âm nhạc... vì thế, cá nhân tìm cách tuân thủ các qui chuẩn của
nhóm, nhằm đảm bảo rằng anh ta được chấp nhận hay ủng hộ.
Rõ ràng cá nhân luôn cố gắng thực hiện đúng những gì mà nhóm đã qui định chứ
không phải anh ta cố gắng để nhóm theo các giá trị mà anh ta đặt ra (trừ những
trường hợp đặc biệt). Điều này lý giải vì sao bố mẹ chúng ta luôn thể hiện sự quan
tâm bằng cách cố gắng tìm hiểu xem bạn của chúng ta là ai? Mong muốn của họ là
chúng ta có nhóm bạn chí ít cũng có cùng nền tảng giáo dục, với hy vọng con cái
có sự phát triển tốt hơn, hoàn thiện hơn, điều này được thể hiện trong câu tục ngữ
“gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” mà cha ông ta đã đúc kết qua trải nghiệm của
cuộc sống.
Nếu như trong xã hội kém phát triển, khi mà hệ thống truyền thông (kỹ thuật và
công nghệ) chưa xuất hiện hoặc chưa phát triển thì trong các tác nhân của quá trình
xã hội hóa sẽ không có truyền thông đại chúng. Tuy nhiên trong xã hội hiện đại,
khi mà hệ thống truyền thông phát triển mạnh mẽ, với qui mô rộng lớn thì truyền
thông đại chúng có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình xã hội hóa.
Truyền thông đại chúng là những thiết chế sử dụng những phát kiến kỹ thuật ngày
càng tinh vi để phục vụ cho sự giao lưu tư tưởng, những mục đích thông tin, giải trí
và thuyết phục tới đông đảo khán thính giả. Và những phát kiến kỹ thuật hiện nay
đó là truyền hình, truyền thanh, báo chí và internet.
Hệ thống truyền thông đưa đến cho con người một lượng lớn thuộc đủ loại thông
tin mà gia đình hay trường học không thể cung cấp được, do đó có tác động đến
thái độ, hành vi của các cá nhân. Trong đó phải kể đến truyền hình, khi xuất hiện
lần đầu tiên vào năm 1938 ở Mỹ và sau đó không lâu nó nhanh chóng trở thành
một phần trong cuộc sống của người Mỹ, đến những năm 70 của thế kỷ XX số
lượng gia đình xem truyền hình đạt 98%. Cục thống kê của Mỹ năm 1987 đưa ra
con số khá ấn tượng về thời lượng xem truyền hình trong các gia đình là 7 giờ
đồng hồ mỗi ngày.
Ngày hôm nay không riêng gì người Mỹ mà nhiều quốc gia trên thế giới, việc tìm
và nhận thông tin là nhu cầu tất yếu. Vì vậy, thông tin hay phương tiện thông tin
đã, đang và sẽ trở thành một thứ hàng hóa đặc biệt, chính truyền thông đã cung cấp
cho các cá nhân những định hướng và các quan điểm đối với các vấn đề trong cuộc
sống, giúp con người mở rộng tầm nhìn, tăng tầm nhận thức, thỏa mãn các nhu cầu
thẩm mỹ, giải trí và hơn hết cả là nhờ vào đó mà nhân loại chúng ta ngày càng xích
lại gần nhau hơn (văn minh và quan hệ đa phương).
Bên cạnh những tác nhân đã nêu ở trên thì trong xã hội hiện đại chúng ta còn bắt
gặp nhiều yếu tố khác ít nhiều cũng có tác động đến quá trình xã hội hóa của cá
nhân như dư luận xã hội, các tổ chức tôn giáo, cơ quan nơi chúng ta tham gia lao
động sản xuất hoặc các câu lạc bộ bóng đá, bơi lội và có thể có ở mọi nơi.
Tóm lại, khi nói đến môi trường xã hội hóa, chúng ta không nên nghĩ nó như một
công việc được phân công, nghĩa là việc gia đình thì gia đình lo, việc nhà trường
lo... nếu cho rằng như vậy thì sẽ là sai lầm lớn đối với tiến trình xã hội hóa, vì
không có sự quan tâm đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội thì quá trình xã
hội sẽ khó có thể đạt được kết quả như mong muốn.
• Kiểu quan hệ tương đối ổn định, bền vững giữa các thành phần cơ bản cơ
bản nhất tạo nên hệ thống xã hội.
(Tài liệu tham khảo: Allan G. Johnson. The Blackwell Dictionary of Sociology: A
User’s Guide to Sociological Language. Massachusetts: Blackwell Publishers Ltd.
1995. P. 265).
1.2 Cấu trúc xã hội bao gồm hai yếu tố:
Một là, các thành tố cơ bản:
o Địa vị xã hội
o Vai trò xã hội
o Nhóm xã hội
o Tổ chức xã hội
o Thiết chế xã hội
Hai là, mối liên hệ, chi phối lẫn nhau giữa các thành tố xã hội (quan hệ xã hội).
1.3 Phân loại:
Căn cứ vào tính chất của kiểu quan hệ giữa các thành tố tạo nên hệ thống xã hội:
Cấu trúc xã hội nặng về quan hệ tình cảm.
Cấu trúc xã hội nặng về quan hệ chức năng
Căn cứ vào loại thành phần hay thành tố tạo nên hệ thống xã hội:
Cấu trúc xã hội vi mô.
Cấu trúc xã hội vĩ mô
1.4. CÁC PHÂN HỆ XÃ HỘI CƠ BẢN
Cấu trúc xã hội - giai cấp:
Cấu trúc xã hội giai cấp là sự phân chia cộng đồng dân cư thành các giai cấp
trên một cơ sở địa vị xã hội, chiếm hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thu
nhập.
Cấu trúc xã hội – giai cấp có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc duy trì các
quan hệ giai cấp và cuộc đấu tranh trong vòng trật tự, tạo ra sự ổn định xã
hội.
Gắn liền với phương thức sản xuất ra của cải vật chất xã hội
Phản ánh mối quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Xung đột giai cấp:
• Xung đột lợi ích.
• Xung đột về địa vị.
Xung đột về tâm lý xã hội
Nghiên cứu thực trạng các dân tộc và sự khác • Nhận diện sự biến đổi của cơ cấu
biệt giữa các dân tộc
• Tạo cơ sở khoa học
– Chức năng cơ bản của thiết chế xã hội là điều tiết các quan hệ xã hội trong những
lĩnh vực khác nhau của hoạt động xã hội. Sự điều tiết này tác động đến sự lựa chọn
của các cá nhân. Nhờ đó, thiết chế xã hội xã hội hoá con người và hành vi xã hội;
– Chức năng cơ bản của thiết chế xã hội là tạo sự ổn định và kế thừa trong các
quan hệ xã hội; điều chỉnh hành vi của nhóm, cá nhân và duy trì sự đoàn kết bên
trong nhóm;
– Chức năng cơ bản của thiết chế xã hội là kiểm soát xã hội. thiết chế xã hội là hệ
thống của những qui định xã hội rất chặt chẽ. Để thực hiện những qui định đó phải
có những phương tiện và phương thức cần thiết. Mặt khác, bản thân thiết chế xã
hội cũng là một phương tiện kiểm soát xã hội. Có hai phương thức kiểm soát xã
hội là kiểm soát chính thức và kiểm soát phi chính thức.
– Riêng với thiết chế truyền thông, còn có chức năng kết nối, siêu kết nối – kết nối
khơi thức nguồn tài nguyên mềm, tạo sức mạnh mềm.
– Từ siêu kết nối, truyền thông đảm nhận vai trò can thiệp và kiến tạo xã hội.
- Chức năng chuyên biệt của thiết chế xã hội:
+ Kinh tế, chính trị, tôn giáo, giáo dục, gia đình
CHƯƠNG 5: SỰ LỆCH CHUẨN VÀ KIỂM SOÁT XÃ HỘI
1. Định nghĩa về sự lệch chuẩn
Lệch chuẩn là hành vi của cá nhân hay một nhóm người… vi phạm các
nguyên tắc, các quy định, chuẩn mực của xã hội. Nói một cách nôm na là hành
vi, sở thích của những người muốn “làm nổi”, khác người, không giống ai, xa
lạ với chuẩn mực đã có…
5.2 Nền tảng xã hội của sự lệch chuẩn
- Lệch chuẩn chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các quy phạm văn hóa
- Lệch chuẩn cho mọi người thấy rõ hơn về những hành vi được chấp nhận
trong xã hội
1. Định nghĩa
Phân tầng xã hội (tiếng Anh: Social Stratification) là sự phân chia nhỏ xã hội thành
các tầng lớp khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, học vấn, kiểu dáng nhà ở,
nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử, sở thích nghệ thuật. Đây là một
trong những khái niệm cơ bản của xã hội học.
1.1: 4 nguyên tắc của phân tầng xã hội:
Phân tầng là một đặc tính hiển nhiên của xã hội –Không chỉ vì những khác biệt cá
nhân
- Phân tầng xã hội tồn tại qua từng thế hệ. Tuy nhiên đi động xã hội chỉ xảy ra
ở một số loại hình XH
- Phân tầng xã hội mang tính phổ quát nhưng đa dạng
- Phân tầng xã hội bao gồm sự bất bình đẳng và niềm tin
1.2 Cơ sở tạo nên phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội là đặc điểm xã hội
Tồn tại qua nhiều thế hệ
Mang tính phổ quát những đa dạng
Bao gồm bất bình đẳng và niềm tin
1.3 Tính hai mặt của phân tầng xã hội
Tích cực: Phân tầng xã hội tạo nên sự cạnh tranh tạo nên sự năng động sáng
tạo
Tiêu cực: Sự phân tầng xã hội PT có thể trở thành nguyên nhân gây ra sự bất
ổn xã hội như gia tăng khảng cách xã hội, xuất hiện những nhóm người dễ bị
tổn thương.
1.4 Các hệ thống phân tầng xã hội
- Hệ thống giai cấp
Không xác định rõ ràng bằng hệ thống đẳng cấp
Hệ thống chính trị dân chủ thường gặp trong xã hội công nghiệp đều mở
rộng quyền chính trị đến nhiều người hơn
Hệ thống công nghiệp của các hệ thống giai cấp có khuynh hướng khuyến
khích sự nhập cư từ các ngôi làng nông thôn truyền thống vào thành phố
Công nghiệp hóa thường thu hút sự di dân vào thành phố
Tính dễ thay đổi trong xã hội tìm thấy trong hệ thống giai cấp liên kết với
suy nghĩ rằng tài năng và khả năng cá nhân, chứ không phải là dòng dõi, là
những yếu tố then chốt của vị trí xã hội.
- Hệ thống đẳng cấp:
Hệ thống phân tầng xã hội trên cơ sở hầu như là sự gán cho
Gia đình là phương tiện chuyền vị trí xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác
Hệ thống đẳng cấp được các niềm tin văn hóa ủng hộ thường mang tính
chất tôn giáo
Hệ thống đẳng cấp thường có khuynh hướng mang tính nhất quán địa rất cao
2. Di động xã hội
2.1 Định nghĩa
-Là khái niệm mà các nhà xã hội học thường sử dụng khi nghiên cứu cơ cấu và
phân tầng xã hội để chỉ sự di chuyển giữa các cá nhân giữa các thang bậc trong
xã hội (nghề nghiệp).
2.2 Nguyên nhân tạo ra di động xã hội
Sự thay đổi khoa học kĩ thuật
Sự thay đổi của tháp kinh tế xã hội khi trong xã hội không có nhiều vị trí
cao dành cho nhiều người và sự cạnh tranh lớn.
Sự bắt đầu vị thế trong thang bậc xã hội của một số người quá cao và khi xã
hội thay đổi thì họ sẽ phải di động xuống.
2.3 Phân loại
2.3.1. Di động lên & di động xuống
2.3.2. Di động xã hội theo chiểu ngang
2.3.3. Di động trong thế hệ & di động liên thế hệ