You are on page 1of 45

1) Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của TLHXH.

Trình bày phương pháp thực


nghiệm trong TLHXH. Cho ví dụ
● Đối tượng
Tâm lý học xã hội là sự giao thoa của hai ngành khoa học lớn đó là Tâm lý học và Xã hội
học, nghiên cứu từ cả 2 phía là cá nhân và xã hội.
- Tâm lý chung của nhóm xã hội trong quá trình giao tiếp và tác động giữa các cá nhân.
- Cái chung, đặc trưng, bản chất của tâm lý nhiều người trong nhóm xã hội nhất định.
- Quy luật hình thành, nảy sinh, phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội.

● Nhiệm vụ:
Tâm lý học xã hội có hai nhiệm vụ chính là nghiên cứu lý luận và nghiên cứu ứng dụng.
❖ Nghiên cứu lý luận
- Xác lập được hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học riêng nằm trong cấu trúc hợp lý,
mang đặc thù của khoa học mình. Hiện nay một số khái niệm, phạm trù cấu trúc của tâm lý
học xã hội còn chưa rõ ràng để có thể phân biệt được ranh giới của nó với những khoa học
lân cận.
- Phát hiện được các quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội, chỉ ra
cách sử dụng chúng vào việc phát huy nhân tố con người trong các điều kiện hoạt động khác
nhau. Cụ thể là những quy luật của sự tác động qua lại trong nhóm, vai trò của cá nhân, vai
trò của nhóm trong quá trình này, những điều kiện chủ quan và khách quan của sự hình thành
nên những hiện tượng tâm lý xã hội và những hình thái biến động trong tâm lý xã hội.
- Xây dựng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu TLHXH đặc thù (kết hợp thành tựu
của nước ngoài với thực tiễn nước ta)
❖ Nghiên cứu ứng dụng
Những quy luật chung của Tâm lý học xã hội được vận dụng vào một số lĩnh vực khoa học
khác cũng như trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội. Từ đó tạo nên những chuyên ngành
khác nhau của tâm lý học xã hội.
- Tâm lý học dân tộc: Đây là một chuyên ngành quan trọng của tâm lý học xã hội. Nó nghiên
cứu tâm lý dân tộc và những biến đổi của tâm lý dân tộc gắn với những chuyển biến lịch sử
diễn ra trong đời sống các dân tộc. Nhận thức được tính phong phú, đa dạng hay độc đáo của
một dân tộc là yêu cầu cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, con người của
một quốc gia. Việc nghiên cứu tâm lý dân tộc còn góp phần quan trọng trong sự hiểu biết
giữa các dân tộc, là cơ sở của mối quan hệ hợp tác và liên kết giữa các nước với nhau.
- Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo và quản lý xã hội. Đây là một chuyên ngành
mới của tâm lý học xã hội, nó đi sâu vào nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong hệ thống
quản lý, chỉ ra các đặc điểm, cơ chế và quy luật tâm lý đang có ảnh hưởng tới hoạt động này
trên cơ sở đó nêu ra những yêu cầu về phẩm chất và năng lực tâm lý cần thiết của những
người lãnh đạo và bị lãnh đạo quản lý.
- Tâm lý học xã hội trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh Chuyên ngành này nghiên cứu
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, nghệ thuật bán hàng, thông tin quảng cáo v.v...Trên cơ
sở đó, nêu ra yêu cầu đối với cơ sở sản xuất về số lượng và chất lượng, hình thức của các loại
hàng hoá, dịch vụ.
- Tâm lý học xã hội trong tín ngưỡng tôn giáo, trong thông tin đại chúng, trong giáo dục y tế,
trong đời sống gia đình, trong dư luận xã hội và tâm trạng quần chúng. Phạm vi ứng dụng của
tâm lý học xã hội rất rộng. Nó sẽ ngày càng được mở rộng theo sự đòi hỏi của thực tiễn, cũng
như khả năng đáp ứng trong quá trình phát triển của nó.
- Các vấn đề xã hội khác: ma túy, mại dâm, tội phạm, môi trường,…
2) Trình bày Hiện tượng TLXH. So sánh giữa hiện tượng xã hội và hiện tượng
TLXH ( cho ví dụ) Mối quan hệ giữa hiện tượng xã hội và hiện tượng tâm lý xã
hội (cho ví dụ và phân tích)
❖ Hiện tượng tâm lý xã hội
❖ Là các hiện tượng tâm lý chung của nhiều người diễn ra trong các nhóm xã hội, khi
con người hoạt động, giao tiếp, tác động qua lại với nhau, được quy định bởi sự tác
động qua lại và nhóm xã hội.
❖ Một cách đơn giản, có thể hình dung các hiện tượng tâm lý xã hội là các hiện tượng
tâm lý nảy sinh khi cá nhân tác động qua lại với các đối tượng xã hội khác.
- Trong các quá trình tương tác đó, cá nhân nhận biết, đánh giá hành vi của mình và người
khác như thế nào, cá nhân chịu sự chi phối và chi phối các cá nhân khác ra sao, các mối quan
hệ như quan hệ liên nhân cách, sự hấp dẫn lẫn nhau và sự xung đột diễn ra như thế nào trong
các nhóm...
- Tâm lý học xã hội chịu trách nhiệm phát hiện các quy luật chi phối hành vi và hoạt động
của con người khi con người tham gia vào nhóm xã hội
- Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong môi trường xã hội, trong sự tác động qua lại
giữa các thành viên
- Các hiện tượng tâm lý xã hội đó điều chỉnh, điều khiển hoạt động cùng nhau của các thành
viên và của nhóm xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội có quan hệ đặc biệt và khó có thể tách
rời với các hiện tượng tâm lý cá nhân
- Các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối tâm lý của cá nhân và qua đó chi phối hoạt động sống
của cá nhân.

So sánh giữa hiện tượng xã hội và hiện tượng TLXH ( cho ví dụ) Mối quan hệ giữa
hiện tượng xã hội và hiện tượng tâm lý xã hội (cho ví dụ và phân tích)
Sự giống nhau:
- Là sự tương tác qua lại với nhau giữa người với người, nhóm và cá nhân trong một xã
hội, cộng đồng người.
- Phản ánh thực tại xã hội, nảy sinh và bắt nguồn tự xã hội .
- Con người hoạt động và giao tiếp với nhau, phản ánh diễn biến xảy ra trong xã hội,
bắt nguồn từ xã hội vì tuân theo những quy luật xã hội, hình thành tâm lý chung của
con người về các hiện tượng, vấn đề.
HTXH:
- Biến đổi tâm lý xã hội
- Chi phối ảnh hưởng đến đời sống, vật chất, tinh thần con người
- Diễn ra liên tục theo sự vận hành của xã hội
- Chỉ diễn ra ở một giai đoạn nhất định
- Dễ thay đổi hơn
HTTL:
- Mờ dần nhưng không mất đi
- Tồn tại lâu dài, khó thay đổi hơn
● Mối quan hệ:
- Htxh làm nảy sinh ra tlxh
- Các hiện tượng xã hội diễn ra theo các quy luật xã hội, nhưng bất kì một hiện tượng
xã hội nào cũng có mặt tâm lý xã hội của nó, bởi lẽ chủ thể của các hiện tượng xã hội
chính là con người với ý thức, tinh thần của mình.
- Các hiện tượng tâm lý xã hội diễn ra trong cộng đồng lại có tác động điều chỉnh hành
vi của các cá nhân trong cộng đồng đó và thông qua đó tác động ngược trở lại đến các
hiện tượng xã hội và tạo ra hiện tượng xã hội mới
- Hđ giao tiếp tạo ra sự lây lan và tạo ra hiện tượng tâm lý chung

Ví dụ: Covid là hiện tượng xã hội-> tâm lý con người sợ hãi, lo lắng dẫn đến biểu hiện
hành vi: tìm kiếm thông tin, mua thực phẩm-> làm nảy sinh hiện tượng về nhu cầu con
người, bùng nổ cung cầu, dự trữ thức ăn.

Hành Vi mới hình thành nên hiện tượng tâm lý xã hội mới , hiện tượng tâm lý mới lại
hình thành nên hiện tượng xh mới -> Tạo thành một vòng lặp.
Các Hiện tượng luôn luôn theo quy luật của xã hội, xã hội còn tồn tại là còn nảy sinh hiện
tượng xã hội, hiện tượng tâm lý xã hội mới.
3) Trình bày Hiện tượng TLXH. So sánh giữa hiện tượng tâm lý cá nhân và hiện
tượng TLXH (cho ví dụ). Mối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý cá nhân và hiện
tượng tâm lý xã hội (cho ví dụ và phân tích)

● Hiện Tượng TLXH:


- Là hiện tượng tâm lý chung trong 1 nhóm.
- Chi phối các mối quan hệ trong tập thể, cộng đồng, chi phối tâm lý cá nhân => chi
phối đời sống cá nhân.
- Khó tách rời khỏi hiện tượng tâm lý cá nhân.

● So sánh giữa hiện tượng tâm lý cá nhân và hiện tượng TLXH

SO SÁNH
❖ Giống nhau:
- Bị tác động bởi các quy luật phát triển trong môi trường xã hội ( đk tự nhiên, xã hội,
bối cảnh lịch sử)
- Thông qua con đường hoạt động giao tiếp
- Là hiện tượng tâm lý người => khó thay đổi
❖ Khác Nhau:
HTTL cá nhân
- HTTL của một cá nhân riêng lẻ
- Mang bản sắc cá nhân có tính riêng biệt ( tư duy cá nhân)
- Chịu ảnh hưởng của httl xã hội ( Bắt nguồn + tương tác -> httl XH)
- Phản ánh đời sống cá nhân ( nhu cầu, ý chí, mang tính chất riêng lẻ của từng người)
HTTL xã hội
- HTTL của một nhóm người, nhóm dân tộc, nhóm xã hội nhỏ
- Mang tính khái quát của một nhóm người ( mang màu sắc tâm lý của nhóm người
trong xã hội)
- Chi phối httl cá nhân ( một cách vô thức)
- Phản ánh đời sống của một nhóm người
● Mối quan hệ:
Chặt chẽ, chi phối lẫn nhau. Hiện diện ở mỗi cá nhân. Thúc đẩy hành động của cá nhân.
Hiện Tượng Xã Hội -> HTTL CN_> quy luật-> Hình thành HTTL -> chi phối HT tâm lý cá
nhân trong nhóm -> Điều chỉnh hành vi, thái độ cho phù hợp môi trường, bối cảnh -> Tạo ra
hiện tượng xã hội mới

4) Vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống phân ngành của khoa học? Đối
tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của TLHXH (cho ví dụ)
❖ Vị trí của TLHXH trong hệ thống phân ngành của khoa học:

Tâm lý học xã hội với xã hội học và với tâm lý học


Vẫn còn sự tranh cãi về ranh giới giữa TLH xã hội và TLH, xã hội học. Hiện nay có 3 lập
trường:
- Tâm lý học xã hội là 1 phần của Xã hội học.
- Tâm lý học xã hội là 1 phần của Tâm lý học.
- Tâm lý học xã hội là khoa học ở vị trí tiếp giáo của Tâm lý học và Xã hội học, chỗ
tiếp giáp được hiểu theo 2 cách:
o Tâm lý học xã hội chiếm 1 phần của Tâm lý học và 1 phần của Xã hội học.
o Tâm lý học xã hội chiếm 1 phần “vô chủ” - lĩnh vực không thuộc cả Xã hội
học và Tâm lý học.
 Tâm lý học xã hội có đặt ở đâu thì nó đều tiếp xúc với Xã hội học và Tâm lý học.

Tâm lý học xã hội với các ngành khoa học khác


Tâm lý học xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
- Khoa học tự nhiên:
o Sinh lý học thần kinh và Sinh học có vai trò lớn đối với tâm lý học xã hội
(dùng hoạt động của hệ thần kinh để giải thích cho hiện tượng tâm lý đám
đông).
o Kiến thức toán học giúp cho việc mô hình hóa hiện tượng tâm lý xã hội (ít
dùng) và việc sử dụng các phép toán thống kê để phân tích các hiện tượng tâm
lý xã hội.
- Triết học: Cung cấp nhiều cơ sở lý luận cho Tâm lý học xã hội trong việc chọn đối
tượng nghiên cứu, cách tiếp cận đối tượng, phân tích giải thích kết quả…
- Khoa học xã hội và nhân văn: cung cấp nhiều tư liệu đa dạng nhiều chiều về con
người trong các mối quan hệ xã hội khác nhau cho Tâm lý học xã hội.
Vd: Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của nhóm lớn (dân tộc, đất nước) không thể
thiếu kiến thức dân tộc học, lịch sử học,..

❖ Đối tượng nghiên cứu của TLHXH là những hiện tượng TLXH và quy luật của nó.
- Trong đó:
+ Hiện tượng TLXH: là những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong một nhóm
người, tập thể, cộng đồng (xung đột, không khí tâm lý, dư luận xã hội,...).
+ Quy luật và cơ chế hình thành những hiện tượng TLXH: quy luật kế thừa, quy
luật về sự quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội, bắt chước,..; các cơ
chế lây lan, đồng nhất hóa, ám thị,...
- VD: hiện tượng adua, xung đột, tương hợp nhóm, ám thị, trào lưu, dư luận xã hội, tin
đồn,...
❖ Nhiệm vụ: gồm có nhiệm vụ nghiên cứu lý luận và nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
- Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận:
+ Hệ thống hóa các vấn đề lý luận, xác định các khái niệm, phạm trù cơ bản để
xây dựng hoàn chỉnh giáo trình.
+ Phát hiện và chỉ ra các cơ chế, quy luật của những hiện tượng TLHXH
trong đời sống xã hội nước ta (thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận).
+ Xây dựng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu TLHXH đặc thù (kết
hợp thành tựu của nước ngoài với thực tiễn nước ta)
- Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng:
+ Hoạt động quản lý xã hội: các yếu tố tâm lý nảy sinh và tác động trong quá
trình quản lý, tâm lý của người lãnh đạo và người bị lãnh đạo,...
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh: nghiên cứu tâm lý người tiêu dùng (nhu
cầu, thị hiếu), tâm lý của hoạt động quảng cáo, tiếp thị và dịch vụ, tâm lý của
hoạt động bán hàng,...
+ Nghiên cứu tâm lý dân tộc và tôn giáo: hình thành, biến đổi và vận động
trong tiến trình lịch sử dân tộc.
+ Các vấn đề xã hội khác: ma túy, mại dâm, tội phạm, môi trường,...
- VD: Khi nghiên cứu về adua, thì đầu tiên đi nghiên cứu về lý luận để hệ thống được
khái niệm, phạm trù, xác định được các cơ chế, quy luật,... Sau đó, nghiên cứu ứng
dụng trong các hoạt động thực tiễn như: sản xuất kinh doanh, trong quản lý,...

5) Trình bày phương pháp thực nghiệm trong TLHXH. So sánh phương pháp thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm và phương pháp thực nghiệm tự nhiên. Cho ví
dụ.
❖ Phương pháp thực nghiệm trong TLHXH:
- Thực nghiệm là một quá trình tác động vào đối tượng nghiên cứu một cách có ý thức
trong những bối cảnh được khống chế, nhằm tạo điều kiện cho đối tượng bộc lộ
những biểu hiện tâm lý có tính quy luật về quan hệ nhân quả.
- Hai loại thực nghiệm:
+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: cần được tổ chức trong những điều
kiện đòi hỏi khá nghiêm ngặt - phải như thật. Các kết quả thực nghiệm trong
phòng thí nghiệm thường có giá trị cao bởi nó cho phép phát hiện và giải thích
những đặc điểm tâm lý bản chất và những quy luật xuất hiện của chúng mà
không có phương pháp nào khác sánh được.
+ Thực nghiệm tự nhiên: được tiến hành trong điều kiện bình thường của cuộc
sống. Tuy nhiên, dù thực nghiệm được tổ chức một cách tự nhiên, nhưng nó
vẫn thể hiện như các đặc điểm của phương pháp thực nghiệm trong phòng thí
nghiệm. Ưu điểm lớn nhất của thực nghiệm tự nhiên là nó cho phép nghiên
cứu các quá trình tâm lý của các cá nhân, nhóm người như vốn xảy ra trong
hoạt động sống.
- Đặc điểm của phương pháp thực nghiệm:
+ Xây dựng các tình huống xã hội để làm xuất hiện những hiện tượng tâm lý mà
họ muốn nghiên cứu. Các hiện tượng này xảy ra một cách khách quan.
+ Khi xây dựng các tình huống thực nghiệm, nhà thực nghiệm đã loại trừ ảnh
hưởng của những điều kiện bất thường.
+ Trong quá trình thực nghiệm, hiện tượng tâm lý cần được tổ chức nhiều lần và
đo đạc, định lượng, định tính cẩn thận các hiện tượng đã nghiên cứu. Vì vậy,
phương pháp thực nghiệm đòi hỏi cần có máy móc, công cụ và được đo đạc
chính xác, nhiều lần.
+ Đặc điểm cơ bản nhất của thực nghiệm là các điều kiện của hiện tượng tâm lý
cần nghiên cứu được thay đổi theo quy luật. Người tiến hành thực nghiệm phải
nắm được các quy luật tồn tại và phát triển của chúng, cũng như mối liên hệ
của chúng với các hiện tượng tâm lý khác.

❖ So sánh PP thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và PP thực nghiệm tự nhiên.

So PP thực nghiệm trong phòng thí nghiệm PP thực nghiệm trong tự nhiên
sánh

Giống - Phải có nghiệm thể.


nhau - Có tình huống.
- Tình huống được kiểm soát.
- Thực nghiệm nhiều lần với nhiều mức độ khác nhau để đo lường.

Khác - Kiểm soát biến chặt chẽ. - Khó kiểm soát biến chặt chẽ, chỉ có thể kiểm
nhau - Môi trường được thiết lập một cách soát trong khả năng có thể.
chủ đích (phòng thí nghiệm). - Môi trường trực tiếp ngoài tự nhiên, xã hội.
- Nghiệm thể tự nguyện tham gia. - Nghiệm thể chưa biết là tự nguyện hay
không, hoặc là thực nghiệm một cách bí mật,
do đó dễ vi phạm đạo đức nghiên cứu.

Ví dụ Thực nghiệm về hiệu ứng vô cảm trong Thực hiện hiệu ứng vô cảm trong tự nhiên - Bibb
phòng thí nghiệm - Bibb Latané và John Latané và John Darley:
Darley: - Người tham gia chưa được chọn sẵn, quan
- Người tham gia được đưa vào 1 sát ngẫu nhiên những người đi trên đường,
căn phòng và quan sát hành vi của đặt camera quan sát giấu kín.
họ. - Tạo tình huống: VD: Một người phụ nữ đang
- Tình huống: cho khói giả bốc ra từ đi bị trật chân ngã và kêu cứu.
một ô cửa. - Thực hiện thực nghiệm nhiều lần.
- Trường hợp người tham gia ở một - Kết quả quan sát thấy:
mình: khả năng sử dụng báo động + Nếu người giúp đỡ có mặt ở đó một mình thì
cao (>70%). khả năng cao sẽ đến giúp người phụ nữ kia
- Trường hợp người tham gia ở trong (70%).
một nhóm: khả năng sử dụng báo + Nếu xung quanh người giúp đỡ có nhiều
động thấp hơn, vì cho rằng những người thì chỉ có 40% người đến giúp đỡ
người xung quanh không phản ứng người phụ nữ kia. Vì họ nghĩ rằng những
gì có lẽ khói đó là chuyện bình người xung quanh rất điềm tĩnh nên họ cho
thường, hoặc có ai đó đã báo động rằng chuyện không quá nghiêm trọng.
rồi (>30%).

6) Trình bày 4 hiệu ứng xã hội mà bạn đã học. Phân tích và cho ví dụ.
❖ Hiệu ứng vô cảm:
- Là tình trạng nhiều cá nhân trong xã hội cùng chứng kiến một cách vô cảm
trước một hiện tượng khẩn cấp, mà họ đáng ra phải can thiệp hoặc gọi cho
người có trách nhiệm đến can thiệp.
- Latane và Darley cũng chỉ ra 3 yếu tố chính dẫn đến hiệu ứng vô cảm:
+ Phân tán trách nhiệm: sự hiện diện của những người khác tạo ra sự
phân tán trách nhiệm. Vì có những người khác cũng chứng kiến nên
các cá nhân không cảm thấy áp lực phải hành động. Trách nhiệm hành
động được chia đều cho tất cả những người có mặt. Kết quả là không
ai đứng ra gánh trách nhiệm này.
+ Tác động xã hội: nhu cầu hành động đúng đắn và được đông đảo xã
hội chấp nhận. Khi những người khác không phản ứng, các cá nhân
thường coi đây là tín hiệu cho thấy việc hành động là không cần thiết
hoặc không phù hợp. Ta sợ người khác đánh giá, bàn tán nếu đó là
hành động nông nổi, dư thừa, hoặc thậm chí dính dáng đến trách nhiệm
pháp lý.
+ Sự vô tri đa nguyên: Xu hướng đánh giá sự khẩn cấp của tình huống
dựa vào phản ứng của người xung quanh. Bạn quan sát một tình huống
và thoạt đầu nghĩ rằng đó là tình huống nguy hiểm. Nhưng thấy người
xung quanh hành động như thể chẳng có gì cần lo lắng, bạn cũng sẽ
cho rằng đây không phải là vấn đề gì lớn và không cần can thiệp.
- Latane và Darley đã đưa ra mô hình quyết định giúp đỡ lý giải quá trình đưa
ra quyết định giúp đỡ diễn ra như thế nào. Trong các tình huống khẩn cấp,
những người ngoài cuộc phải trải qua 5 bước:
1. Nhận thức: Người ngoài cuộc phải nhận thấy có điều gì đó không ổn.
2. Xác định: Họ phải xác định tình huống đó là trường hợp khẩn cấp.
3. Đánh giá: Người ngoài cuộc phải đánh giá xem họ cảm thấy có trách
nhiệm như thế nào.
4. Quyết định: Họ phải quyết định cách tốt nhất để cung cấp hỗ trợ.
5. Hành động: Họ phải hành động theo quyết định đó.
- VD: (giống câu 5)
❖ Hiệu ứng zeigarnik:
- Bluma Zeigarnik cho rằng não ghi nhớ những dòng tư duy, ý tưởng hoặc công
việc đang còn dang dở sẽ tốt hơn là ghi nhớ những điều đã hoàn tất.
- Hiệu ứng zeigarnik mô tả hiện tượng tâm trí luôn bị “gõ cửa” bởi những điều
còn dang dở. Dù đã gác lại và nhảy sang hoạt động khác, nhiệm vụ ấy cứ liên
tục hiện ra trong đầu và lôi kéo bạn quay trở lại. Cảm giác day dứt chỉ tan biến
khi bạn đã hoàn thành mục tiêu đó.
- Hiệu ứng zeigarnik được ứng dụng nhiều trong ngành công nghiệp phim ảnh
và sách báo, cụ thể là các bộ phim và truyện tranh dài tập. Các đạo diễn và họa
sĩ truyện tranh đã vận dụng hiệu ứng này qua cái kết bỏ ngỏ cuối tập, khơi gợi
sự tò mò và bức bối của người xem, để não bộ của họ tự động “nhắc hẹn” khi
đến tập sau.
- VD: trong các bộ phim dài tập, cuối mỗi tập phim thường là những tình huống
hấp dẫn, gay cấn, khi tình huống đang đến đoạn cao trào thì hết phim, làm cho
người xem rất bức bối về diễn biến của tình huống đó, do đó mà người xem cứ
trông chờ đến tập tiếp theo để xem cho bằng được kết cục của tình huống đó.
❖ Hiệu ứng được chú ý:
- Chỉ đơn giản là có mặt, thậm chí sự có mặt một cách thụ động của người khác
xung quanh một cá nhân cũng đã ảnh hưởng đến sự luyện tập hoặc thành tích
của người đó. Sự có mặt này đã làm nảy sinh nhiều hơn ở những đối tượng
đang luyện tập một công việc khó khăn hoặc trong trường hợp đòi hỏi một sự
cố gắng về thể lực. Hiệu ứng được chú ý nói lên khả năng một cá nhân có thể
hoàn thành công việc được dễ dàng hơn, tốt hơn do họ cảm thấy được chú ý,
do sự có mặt của người khác.
-VD: Đối với nhiều người, ngồi học bài trong phòng một mình thường cảm
thấy uể oải, dễ chán. Những khi học bài ở quán cà phê hay thư viện thì học
siêng năng hơn, vì họ cảm giác rằng mọi người xung quanh đang quan sát
mình nên họ chăm chỉ hơn.
❖ Hiệu ứng hào quang:
- Hiệu ứng hào quang là kết quả của sự khuếch đại những suy đoán chủ quan
của cá nhân đối với vấn đề hay con người gây được sự hấp dẫn với người tri
giác. Do ảnh hưởng của hiệu ứng hào quang mà chúng ta thường có xu hướng
gán những đặc điểm tính cách như lòng tốt, sự tin cậy, trí thông minh cho
những người có sức hấp dẫn.
- VD: khi đi học, thầy cô thường có sự ưu ái hơn và dễ bỏ qua các lỗi vi phạm
nhỏ nhặt cho những bạn học sinh giỏi, có thành tích cao hơn là các bạn học
sinh cá biệt, có thành tích học tập kém, thường xuyên vi phạm nội quy.
- VD: các fan hâm mộ các thần tượng như diễn viên, ca sĩ, người nổi tiếng,...
thường có xu hướng ca ngợi họ hơn là chỉ trích những điều chưa tốt ở họ.

7) Trình bày 2 thực nghiệm xã hội mà bạn đã học. Phân tích và cho ví dụ
7.1. THỰC NGHIỆM VỀ TÍNH KHUÔN PHÉP CỦA SOLOMON ASCH, 1951
(ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI)
Thí nghiệm
Năm 1950, Asch thực hiện nghiên cứu hiện tượng phù hợp, đó là xu hướng của cá nhân
tuân theo các quy tắc, hành vi bất thành văn của một nhóm xã hội mà họ thuộc về.
Thí nghiệm về sự phù hợp của Solomon Asch được tiến hành với 123 năm sinh viên đại học
da trắng, họ được yêu cầu tham gia nghiên cứu bằng phán đoán trực quan.

Ở giai đoạn 1, Asch đưa cho nghiệm thể một tờ giấy trên có một đường thẳng đen với độ dài
nhất định và yêu cầu anh ta so sánh đường thẳng đối với ba đường thẳng vẻ trên tờ giấy khác.
Giai đoạn này không có các “đồng mưu tham dự”.

Ở giai đoạn 2, Asch sử dụng “phương pháp nhóm giả tạo”. Trong thực tế ở thực nghiệm này
ông đã tạo ra một hoàn cảnh sức ép xã hội bằng sự có mặt của những người cộng sự. Mỗi
sinh viên được giới thiệu với một nhóm gồm 6-8 sinh viên khác, và trên thực tế đây là những
diễn viên đã biết trước nội dung thí nghiệm.
Sau đó, mỗi nhóm được tập trung trong một lớp học và đưa ra hai tấm thẻ. Tấm đầu tiên có
một dòng kẻ, tấm thứ hai có ba dòng kẻ với kích thước khác nhau. Mỗi học sinh được yêu
cầu nói to dòng nào trong tấm thẻ thứ hai khớp với dòng ở tấm đầu tiên. Các học sinh được
ngồi theo thứ tự sao cho các diễn viên sẽ trả lời trước, để lại người thực sự tham gia thí
nghiệm trả lời sau.

Asch làm đi làm lại với 18 bộ các đường thẳng. Tất cả những người khác là người đồng
mưu, họ được chỉ dẫn để đưa ra những câu trả lời sai với 12 lần trong số 18 lần thực nghiệm.
Đối tượng ngây thơ bảy tỏ các dấu hiệu hoài nghi và khó chịu khi phải đối mặt với một nhóm
đa số nhìn thế giới khác hẳn với cách nhìn của anh ta.

Kết quả:
- Trong các kết quả, quan sát thấy rằng trong các trường hợp ở giai đoạn 1, những
người tham gia đã trả lời đúng chiếm hơn 90%, vì vậy nhiệm vụ không gặp khó khăn
gì.
- Tuy nhiên, khi áp lực xã hội xuất hiện, những người tham gia đã bị tuân theo ý kiến
sai lầm của người khác chiếm 36,8%
- Tương tự như vậy, mặc dù hầu hết các đối tượng quan trọng (hơn một nửa) trả lời
đúng, nhiều người trong số họ trải qua sự khó chịu cao và 33% trong số họ đồng ý với
quan điểm đa số khi có ít nhất ba đồng phạm..
- Mặt khác, khi các đồng phạm không đưa ra phán quyết nhất trí, tỷ lệ thành công của
đối tượng quan trọng tăng đáng kể so với khi tất cả các đồng phạm đồng ý trả lời sai.
- Ngược lại, khi các đối tượng thực hiện cùng một nhiệm vụ mà không tiếp xúc với ý
kiến của người khác, họ không gặp vấn đề gì trong việc xác định câu trả lời đúng.

Kết luận

Giải thích sự tuân theo, kích cỡ nhóm và sự cố kết: Ách nhận ra một trong những nhân tố
ảnh hưởng đến sự tuân theo là số lượng người trong nhóm đưa ra câu trả lời khác. Trong hàng
loạt các nghiên cứu, ông sắp xếp cho số người đồng mưu đưa ra câu trả lời sai rất đa dạng từ
1 đến 15 người. Ông nhận thấy là nghiệm thể tuân theo nhóm 3 người hoặc 4 người dễ dàng
như họ tuân theo nhóm lớn hơn.

■ Sự phù hợp có xu hướng tăng lên khi có nhiều người hơn. Tuy nhiên, có rất ít
thay đổi khi kích thước nhóm vượt quá bốn hoặc năm người.
■ Sự phù hợp cũng tăng lên khi nhiệm vụ trở nên khó khăn hơn. Khi đối mặt với
sự không chắc chắn, mọi người quay sang những người khác để biết thông tin về
cách trả lời.
■ Sự phù hợp tăng lên khi các thành viên khác trong nhóm có địa vị xã hội cao
hơn. Khi mọi người xem những người khác trong nhóm là mạnh mẽ hơn, có ảnh
hưởng hoặc hiểu biết hơn bản thân họ, họ có nhiều khả năng đi cùng với nhóm
hơn.
■ Sự phù hợp có xu hướng giảm khi có sự hiện diện của ít nhất một người “đồng
minh”. số nghiệm thể thực sự tuân theo chỉ là ¼ so với thực nghiệm ban đầu.

“Xu hướng tuân thủ trong xã hội của chúng ta mạnh mẽ đến mức những người trẻ tuổi thông
minh và có ý tốt sẵn sàng gọi người da trắng là người da đen. Đây là một vấn đề cần quan
tâm. Nó đặt ra vấn đề về cách giáo dục của chúng ta và về các giá trị hướng dẫn hành vi của
chúng ta.” - Solomon Asch

Nhận xét
- Thí nghiệm Asch cho phép làm nổi bật tiềm năng cao của áp lực xã hội đối với sự
phán xét và hành vi cá nhân của con người.
- Mục tiêu chính của thí nghiệm là kiểm tra áp lực của đồng nghiệp có thể thay đổi
hành vi của con người như thế nào. Theo nghĩa này, thí nghiệm Asch liên quan trực
tiếp đến các thí nghiệm được thực hiện trong nhà tù Stanford và thí nghiệm Milgram.
Hai nghiên cứu này đã xem xét ảnh hưởng xã hội đối với hành vi cá nhân của từng
đối tượng.
- Một sự khác biệt quan trọng giữa thí nghiệm Asch và thí nghiệm Milgram nổi tiếng
nằm ở việc quy kết các hành vi sai.
- Trong thí nghiệm Asch, các đối tượng quy kết các phản ứng sai lầm của họ đối với
các khiếm khuyết về khả năng thị giác hoặc thiếu phán đoán (quy kết nội bộ). Ngược
lại, trong thí nghiệm Milgram, những người tham gia đổ lỗi cho thái độ và hành vi
của người thí nghiệm (ghi công bên ngoài).

7.2. PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ TÙY TIỆN (HIỆU ỨNG PYGMALION HAY HIỆU
ỨNG ROSENTHAL): ROBERT ROSENTHAL VÀ LENORE JACOBSON (1968)
1. Thí nghiệm
Hiệu ứng Pygmalion mô tả về những hiệu ứng mong đợi của giáo viên đối với hành vi
của học trò. Robert Rosenthal đã làm một cuộc “Trắc nghiệm xu thế phát triển trong tương
lai” tại trường tiểu học nọ. Rồi ông đưa cho hiệu trưởng và các giáo viên liên quan một bản
danh sách “Những học sinh có triển vọng học giỏi nhất” và nói với giọng tán thưởng cứ như
thật về các em học sinh có tên trong bản danh sách đó. Kỳ thực Rosenthal chỉ tung ra một
“Lời dối trá có tính quyền uy”, vì các học sinh trong danh sách ấy đều do ông tùy tiện nhặt ra
mà không qua sự lựa chọn nào cả. Tám tháng sau, chuyện thần kỳ xuất hiện: tất cả các học
sinh trong danh sách đều có tiến bộ rõ rệt trong học tập, đạt thành tích xuất sắc trên tất cả các
mặt. Như vậy, con người (học sinh) có thể thay đổi ứng xử do tác động của các biểu tượng xã
hội (Rosenthal là một nhà tâm lý nổi tiếng nên lời nói có giá trị cao đối với mọi người)
=> Hiệu ứng Pygmalion hay Rosenthal là hiện tượng kỳ vọng của người khác đối với một
con người, tác động đến thành tích của người ấy. Mà thông thường hiện tượng kỳ vọng ấy
xuất phát từ những người có tiếng nói, quyền uy, là biểu tượng trong xã hội.

2. Giải thích
- Hiệu quả được tạo ra trong thực nghiệm trên gọi là “Hiệu ứng Rosenthal” hay “Hiệu
ứng do mong mỏi của thầy giáo”, các học sinh học tốt hơn đơn giản chỉ vì chúng thấy
mình được thầy cô mong đợi làm như thế. Cũng cần nhấn mạnh rằng những mong
đợi được tạo ra một cách tùy tiện đã dẫn đến những thái độ phân biệt đối xử rõ
ràng (Rosenthal tùy tiện chọn vài học sinh nhưng đã khiến giáo viên tưởng học sinh
đó giỏi thật và ưu ái hơn), làm ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của học sinh.
- Hiệu ứng này đã thể hiện sự tồn tại của các ưu đãi giữa giáo viên và một số học sinh,
hay còn gọi là những ứng xử riêng biệt của giáo viên. Các nghiệm viên cũng đưa ra 4
yếu tố thích hợp sau khi quan sát thực nghiệm:
(1) Giáo viên tạo một bầu không khí học tập mang tính hỗ trợ và nồng ấm dành
cho các học sinh
(2) đặc biệt của mình.
(3) Giáo viên ban tặng nhiều phản hồi với học sinh về sự thực hiện việc học hành
của chúng.
(4) Giáo viên giao cho chúng nhiều bài tập, tài liệu khó hơn.
(5) Giáo viên tạo cho chúng nhiều cơ hội để đặt câu hỏi và đáp ứng các thắc mắc
của chúng.

3. Kết quả và hệ quả


a/ Kết quả
Đây là một thực nghiệm có tính ứng dụng được đánh giá rất cao trong lĩnh vực tâm lý
giáo dục và được nhiều nhà khoa học trên thế giới bàn luận. Hiệu ứng Pygmalion (Rosenthal)
có thể có những tác động rất tích cực đến những người mà nó ảnh hưởng. Như đã thấy trong
thí nghiệm Rosenthal và Jacobson, một học sinh có thể cải thiện điểm của mình khi một trong
những giáo viên của chúng tin tưởng vào chúng ; Nhưng đây không phải là khu vực duy nhất
mà hiệu ứng Pygmalion có thể thể hiện tác dụng của nó. Nó cũng có thể xảy ra tại nơi làm
việc, cải thiện hiệu suất của công nhân; hoặc thậm chí trong các mối quan hệ cá nhân.
b/ Hệ quả
Tuy nhiên, hiệu ứng Pygmalion cũng có thể gây ra những hậu quả rất có hại trong
trường hợp kỳ vọng về kết quả của một người rất thấp. Trong những trường hợp này, những
người bị ảnh hưởng có thể gặp các vấn đề nghiêm trọng về hiệu suất, hạnh phúc và lòng tự
trọng, đơn giản chỉ vì một nhân vật có thẩm quyền không tin tưởng vào họ. Ảnh hưởng tiêu
cực này cũng có thể thấy rõ nhất trong giáo dục. Khi một học sinh phải hứng chịu nhiều lời
chỉ trích từ giáo viên của mình, và nghe đi nghe lại nhiều lần rằng mình không có khả năng
học hỏi, chúng có xu hướng nội tâm hóa thông điệp này và kết quả của chúng ngày càng tệ
hơn.

8) Trình bày hiện tượng bầu không khí tâm lý, tương hợp tâm lý. Phân tích và cho
ví dụ. Ứng dụng vào giáo dục
 Hiện tượng bầu không khí tâm lý
8.2.1. Phân tích:
- Định nghĩa:
Không khí tâm lý là trạng thái tâm lý (tâm trạng) chung của tập thể, phản ánh tính
chất, nội dung và xu hướng tâm lý thực tế của các thành viên trong tập thể đó.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý
+ Hoàn cảnh sống và hoạt động của các thành viên chi phối quan hệ giữa các cá nhân
dẫn đến chi phối bầu không khí tâm lý.
+ Lề lối và phong cách làm việc của người lãnh đạo.
+ Tính chất của các mối quan hệ trong tập thể.
+ Những biến cố lớn của xã hội - gây một tâm trạng chung nền có ảnh hưởng đến bầu
không khí trong tâm lý.
+ Bản thân tính chất lao động.
+ Mức lương.
+ Uy tín nghề nghiệp.
+ Vị trí công tác, khả năng quan hệ với người khác.
+ Khả năng phát triển của nghề nghiệp.
+ Những đặc điểm và điều kiện cụ thể của nghề nghiệp, địa điểm công tác, địa điểm cơ
quan, chế độ làm việc, tính chất các mối quan hệ ở cơ quan.
Nếu nhóm được quy định bởi một hệ thống chuẩn mực chặt chẽ, cụ thể gắn với các
hình thức khen thưởng xử phạt công minh đối với mọi thành viên thì bầu không khí trong
nhóm thể hiện tính chất hoà thuận, hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, tính cố kết giảm,
nhóm dễ bị lộn xộn, phân tán, bè cánh.
Các yếu tố này chi phối đến sự thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân, từ đó ảnh hưởng
đến các mối quan hệ và ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý

- Tác dụng
Bầu không khí tâm lý có vai trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó có tác
dụng quy định toàn bộ cuộc sống, hành vi, quan hệ xã hội của mọi người trong nhóm,
Nếu ta sống trong một bầu không khí lành mạnh thân ái trong tập thể sẽ tạo ra tâm
trạng phấn khởi vui vẻ ở mỗi thành viên, làm tăng thêm tính tích cực của họ trong công việc
thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nếu sống trong bầu không khí ảm đạm, mất tự
do, dân chủ, mọi người lạnh nhạt với nhau, căng thẳng, xung đột… sẽ dẫn tới rối loạn nhịp độ
tốc độ lao động làm cho sản phẩm kém giá trị về chất lượng, không khí uể oải, buồn chán,
thờ ơ bao trùm…
- Điều kiện để xây dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh
+ Chú ý thích đáng đến mối quan hệ giữa các cá nhân trong tập thể, tạo điều kiện cho
mọi người hiểu và thông cảm với nhau.
+ Phân công trách nhiệm rõ ràng, có sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.
+ Lãnh đạo có phong cách phù hợp và lưu ý:
● Quan tâm đến tập thể, có phương pháp lãnh đạo phù hợp với tính chất và mức
độ phát triển của tập thể.
● Thận trọng khi nhận xét đánh giá cấp dưới.
● Phối hợp với các cơ quan tập thể bạn để giải quyết các vướng mắc, các nguyên
nhân gây ra căng thẳng tâm lý trong tập thể khi các nguyên nhân này nằm
ngoài tập thể mình phụ trách

8.2.2. Ví dụ
Bầu không khí lễ hội của cả nước ngày 30/4…
8.2.3. Ứng dụng: bầu không khí áp lực trong cuộc họp cuối năm, bầu không khí học
tập ở các trường học trong những ngày thi cuối năm…

8.2. Tương hợp tâm lý (ở mục 9.1)

9) Trình bày tương hợp tâm lý, xung đột tâm lý. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng
 Tương hợp tâm lý
9.1.1. Phân tích:
- Định nghĩa
Sự tương hợp tâm lý là một khía cạnh của mối quan hệ liên nhân cách hình thành giữa
các cá nhân trong nhóm. Nó biểu hiện sự hài hòa của quan hệ giữa các cá nhân. Theo ý nghĩa
này, sự tương hợp ngược lại với sự xung đột liên nhân cách
Theo Trần Quốc Thành & Nguyễn Đức Sơn (2011), sự tương hợp tâm lý “là một khía
cạnh của mối liên hệ nhân cách hình thành giữa cá nhân trong nhóm, từ đó biểu hiện sự hài
hòa trong mối quan hệ giữa các cá nhân.”
Một cách phổ biến có thể hiểu: sự tương hợp tâm lý là sự kết hợp thuận lợi nhất các
đặc điểm tâm lý cá nhân của các thành viên trong nhóm đảm bảo cho công việc chung cũng
như sự hài lòng cá nhân đều đạt ở mức độ cao

- Dấu hiệu cơ bản cho thấy có sự tương hợp trong nhóm:


1 là, tương hợp là sự kết hợp thuận lợi giữa các đặc điểm tâm lý giữa các cá nhân
trong nhóm (mọi người có đặc điểm chung/ bù trừ cho nhau về sở thích, tính cách,..)
2 là, công việc trong tập thể đạt kết quả tốt, giữa các cá nhân với nhau cũng ít có sự
xung đột, có sự hài lòng với nhau.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện này sẽ không phải là tương hợp

- Sự bù trừ và tương hợp trong tương hợp tâm lý nhóm:


Sự kết hợp tâm lý có thể theo hướng bù trừ cho nhau hoặc tương đồng nhau:
1) Sự tương hợp dựa trên sự bù trừ là giữa các cá nhân trong nhóm có sự bù trừ
những khuyết điểm của nhau, giúp tạo ra sự hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó còn giúp các cá
nhân đạt được kết quả cao hơn trong công việc cũng như có được cảm giác an toàn về tâm lý
cho các cá nhân.
Ví dụ, khi nhóm bạn có A là chuyên gia trễ giờ và B là người luôn đúng giờ. trong
những cuộc hẹn, B sẽ là người hối thúc A, giúp A hạn chế khuyết điểm về mặt giờ giấc của
mình. Và ngược lại, trong những tình huống khác, A sẽ giúp B hạn chế và hoàn thiện những
khuyết điểm của B
2) Sự tương hợp dựa trên sự tương đồng là loại tương hợp dựa trên sự tương đồng về
các đặc điểm tâm lý, từ đó cá nhân trong nhóm dễ dàng thống nhất mục đích, hành vi với
nhau.
Có 3 tiêu chuẩn đánh giá mức độ tương đồng:
(1) Kết quả hoạt động chung;
(2) Mức độ hao phí năng lượng cảm xúc;
(3) Mức độ hài lòng, thỏa mãn về hoạt động chung.
Theo Trần Quốc Thành & Nguyễn Đức Sơn (2015), có 3 mặt tương hợp:
1) Sự tương đồng về mặt sinh lí - thể chất: sức khỏe, chiều cao,…
2) Sự tương đồng tâm - sinh lí: là sự giống nhau về cường độ, tốc độ, chiều
hướng phản ứng của các thành viên trong một nhóm.
3) Sự tương đồng tâm lý - xã hội: là sự phối hợp tối ưu giữa các đặc điểm tâm
lý cá nhân khác nhau, có lợi cho hoạt động chung.
Trong đó tương hợp tâm lý là quan trọng nhất. Mặt này đòi hỏi sự tương hợp tương
đương. Và việc đòi hỏi về sự tương hợp cả ba mặt này thể hiện rõ nhất trong quan hệ vợ
chồng.

- Vai trò của tương hợp tâm lý nhóm:


Tạo ra bầu không khí thoải mái, đoàn kết trong tập thể; giúp năng suất lao động; chất
lượng, thành tích học tập;… được nâng cao.
Tập thể gồm những người có sự tương hợp tâm lý với nhau gọi là tập thể đồng tâm, sự
tương hợp với nhau giúp tập thể ăn ý, hiểu nhau và luôn đạt được hiệu quả công việc cao,
tránh xung đột nhóm.

9.1.2. Ví dụ
Trong một nhóm bạn bè có sự tương hợp tâm lý, những cuộc hẹn gặp mặt hoặc hẹn đi
chơi sẽ diễn ra suôn sẻ, ít tình trạng cãi vã lớn ( thành viên trong nhóm đồng nhất về địa
điểm, thời gian gặp mặt,..). Trong nhóm cũng không có hiện tượng “bằng mặt nhưng không
bằng lòng” giữa các thành viên

9.1.3. Ứng dụng: công tác chia nhóm học tập, đôi bạn cùng tiến,...

 Xung đột tâm lý


9.2.1. Phân tích:
- Định nghĩa:
Quá trình hình thành và phát triển các nhóm xã hội tự nó đã chứa đựng các mâu
thuẫn. Đó là mâu thuẫn về quan điểm, về cá tính, về lợi ích của các thành viên và nhóm nhỏ
hơn trong đó. Nhưng không phải mâu thuẫn nào cũng biến thành xung đột, mà chỉ khi mâu
thuẫn đó bùng nổ thì xung đột mới xuất hiện. Các cuộc xung đột luôn luôn diễn ra ở tất cả các
nhóm xã hội, bất kể quy mô của nhóm lớn hay nhỏ. Do đó, việc nghiên cứu xung đột của
nhóm trở thành nội dung quan trọng của Tâm lý học xã hội hiện nay.
Theo Vũ Mộng Đóa (2007), xung đột là “sự mâu thuẫn, bất đồng về các quan điểm,
niềm tin,.. giữa các thành viên trong nhóm liên quan đến các vấn đề của cuộc sống xã hội
hoạt động chạm đến quyền lợi vật chất hay tinh thần của các cá nhân. Và nó còn dẫn đến sự
phá vỡ thế cân bằng, gây rối loạn về cơ cấu, về tổ chức nhóm, là nguyên nhân làm thay đổi
nhóm”.

- Bản chất
C Mác viết: Suy cho cùng, mọi mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn lợi ích. Chính lợi
ích mới là nguồn gốc sâu xa của xung đột. Khi con người có mâu thuẫn lợi ích (có thể là vật
chất hoặc tinh thần) thì rất dễ xảy ra xung đột. Mức độ lợi ích của mỗi bên trong mâu thuẫn
sẽ chi phối mức độ xung đột. Nếu lợi ích đối kháng nhau thì xung đột sẽ rất mạnh mẽ và có
thể loại trừ nhau. Trong xung đột, mọi người nhận diện ra sự khác biệt giữa mình và với
người khác. Tùy mức độ mâu thuẫn lợi ích mà họ nhìn người khác như đối thủ hoặc như kẻ
thù
=> bản chất của xung đột là các mâu thuẫn lợi ích giữa các thành viên của nhóm hoặc
của các bộ phận trong nhóm. Điều hòa các lợi ích cho phù hợp là một biện pháp quan trọng
để phòng ngừa xung đột xảy ra.

- Phân loại:
Theo Trần Quốc Thành & Nguyễn Đức Sơn (2015), căn cứ vào chủ thể tham gia vào
xung đột, người ta có thể chia xung đột thành các loại hình sau:
Xung đột trong mỗi cá nhân (còn gọi là xung đột nội tâm): Loại xung đột này xuất
hiện khi cá nhân tham gia vào những nhóm xã hội có những lợi ích khác nhau. Họ lúng túng
không biết chọn theo lợi ích nào. Lợi ích của mỗi nhóm đều có sức hấp dẫn với cá nhân
nhưng không cho phép cá nhân chọn cả hai, mà chỉ được phép chọn một.
Xung đột cá nhân với cá nhân: Loại xung đột này diễn ra khi cá nhân này cho rằng cá
nhân kia cản trở hoặc phá hoại lợi ích của mình.
Xung đột cá nhân với tập thể: Đây là loại xung đột xuất hiện khi cá nhân cho rằng tập
thể ngăn cản lợi ích của họ và họ không chấp nhận ý kiến, quyết định của tập thể.
Xung đột tập thể với tập thể: Loại xung đột này vẫn thường xảy ra khi tập thể này cho
rằng tập thể kia ngăn cản hoặc phá hoại lợi ích của tập thể mình.

- Các giai đoạn (sự tiến triển) của xung đột:


Giai đoạn 1: Xung đột sẽ bắt đầu từ một sự tranh luận ở phạm vi của vấn đề cần làm
sáng tỏ. Các thành viên tranh luận cương quyết nhưng không ai động chạm đến các đặc điểm
cá nhân của người tham dự.
Giai đoạn 2: Nếu tranh luận không được giải quyết ổn thoả, sự bất đồng ý kiến sẽ mở
rộng và tạo thành một hố ngăn cách hai bên.
Giai đoạn 3: Xung đột xuất hiện khi các bên tham chiến từ bất đồng về cách nhìn
nhận, đánh giá vấn đề chuyển sang phê phán cá tính, thói quen, lôi khúc mắc trong quá khứ
của nhau để chứng minh cho ý kiến của mình.
Giai đoạn đối kháng tâm lý: Xung đột công khai, hai bên quyết giữ ý kiến mà không
muốn nghe ý kiến của nhau. Mọi người chỉ muốn thanh minh và lôi kéo những người khác
vào cuộc. Xung đột căng thẳng có thể dẫn đến tan rã nhóm nếu có đe dọa đến sự sống còn,
đến chỗ làm việc, đến địa vị xã hội của họ.

- Hậu quả của xung đột:


Từ cơ sở lý luận đã phân tích trên, nhiều nhà Tâm lý học xã hội đều nhận định rằng
xung đột có tác hại rất lớn đến nhóm và mỗi cá nhân, cụ thể như sau:
Theo Trần Quốc Thành & Nguyễn Đức Sơn, 2015, khi nhóm có xung đột, bầu không
khí của nhóm bị phá vỡ. Môi trường sống yên bình của cá nhân bị đảo lộn làm người ta sống
trong trạng thái căng thẳng, không có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của con người.
Sau mỗi lần xung đột cá nhân phải mất thời gian thể nghiệm lại bản thân nên vừa mất thời
gian vừa bị phân tán tư tưởng trong công việc. Do đó, những người bị lôi kéo vào xung đột sẽ
làm việc kém hiệu quả và dễ gây tai nạn vì không tập trung.
Đối với toàn nhóm, khi có xung đột, nhóm không thể thống nhất ý kiến và hành động
nên năng suất lao động sẽ giảm đi, mọi người dễ nghi kỵ nhau.
Theo Phương Kỳ Sơn & cộng sự (2001), xung đột dẫn đến rất nhiều hậu quả. Cụ thể:
Hình thành các nhóm nhỏ hơn, trường hợp này thường xảy ra khi những người đứng
đầu có mâu thuẫn, nhất là tranh chấp vị trí lãnh đạo, thủ lĩnh. Loại trừ thành viên chống đối
nhằm giảm bớt số lượng thành viên của "phe đối lập" để biến họ thành thiểu số hay giảm đi
sự căng thẳng.
Thay đổi tổ chức của nhóm: để giảm đi sự căng thẳng, người ta có thể thay đổi mục
đích, hoặc quy định lại trách nhiệm cá nhân; cũng có thể thay đổi kế hoạch hành động, sử
dụng các biện pháp mới để đạt mục đích; hoặc cũng có thể cải tổ cấu trúc nhóm theo chiều
hướng liên kết hay phân tán.
Xuất hiện hay thay đổi người lãnh đạo, thủ lĩnh: trường hợp này xảy ra nếu người
lãnh đạo, thủ lĩnh là nguồn gốc, nguyên nhân của xung đột, hoặc quản lý kém hiệu quả thì bắt
buộc phải thay đổi. Tuy nhiên, cũng có thể không phải giải quyết bằng thay người lãnh đạo
mà là thay đổi phong cách quản lý.
Tan rã, giải tán nhóm: điều này xảy ra khi các lực lượng phân tán trong thời điểm
xung đột mạnh hơn các lực lượng nhất trí.
Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng có những xung đột mang tính tích cực, thông
thường đó là xung đột đơn thuần về ý kiến, phương thức hoạt động, không phải là các xung
đột lợi ích. Các xung đột được gọi là tích cực có thể đem lại một động lực mới cho sự phát
triển của một nhóm. Dạng xung đột này có thể giúp nhóm thoát khỏi trạng thái ỳ, khi các cá
nhân đồng thuận đến mức bị động.

9.2.2. Ví dụ: trong gia đình, hai vợ chồng đều thống nhất với nhau cần phải nghiêm
khắc với con cái nhưng lại không thống nhất với nhau trong phương pháp và mức độ
thể hiện sự nghiêm khắc đó

9.2.3. Ứng dụng: học cách tránh và giải quyết mâu thuẫn trong làm việc nhóm

10) Trình bày dư luận xã hội và tin đồn. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng

 Dư luận xã hội
Khái niệm
Theo AKUle đốp thì dư luận xã hội là “Sự phán xét thể hiện sự đánh giá và thái độ
của mọi người đối với các hiện tượng của đời sống xã hội”.
Theo Nguyễn Quý Thanh (2015) thì dư luận xã hội là “ý kiến và thái độ được chia sẻ
bởi nhóm lớn gồm các cá nhân, nó mang tính đánh giá về vấn đề xã hội mà công chúng cảm
thấy có ý nghĩa hoặc vấn đề đó động chạm đến lợi ích, giá trị chung”.
Theo Chung Á thì “Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị sự phán
xét, đánh giá của quần chúng đối với các vấn đề mà xã hội quan tâm”
Bởi vì dư luận xã hội là một hiện tượng mang tính phức tạp, nên định nghĩa về nó rất
phong phú, những nhóm đã đúc kết và đưa ra khái niệm về dư luận xã hội như sau: “Dư luận
xã hội là biểu hiện của ý thức xã hội, phản ánh thái độ và phản ứng của đa số các cá nhân
trong xã hội với các hiện tượng, sự kiện xã hội trong những không gian và thời gian cụ thể
mà họ cảm thấy các hiện tượng, sự kiện đó đụng chạm đến lợi ích, giá trị chung”.
Phân tích và ví dụ
Quá trình hình thành dư luận
- Giai đoạn hình thành ý kiến cá nhân: Trên cơ sở sự việc, cá nhân sẽ chứng kiến và
bước đầu nảy sinh các cảm nghĩ, ý kiến.
- Giai đoạn trao đổi thông tin qua giao tiếp: Các cá nhân bắt đầu trao đổi, bàn luận các
ý kiến xung quanh sự việc. Cơ sở cho quá trình thảo luận là lợi ích chung
- Giai đoạn thống nhất ý kiến: Thông qua trao đổi, thảo luận các quan điểm sẽ được
thống nhất dựa trên những vấn đề cơ bản mang tính thỏa mãn đại đa số.
- Giai đoạn dư luận chính thức hình thành: Từ sự phán xét đánh giá chung sẽ đi tới
những kiến nghị về hoạt động thực tiễn
Ví dụ: tại buổi Hội nghị trực tuyến toàn quốc về tháo gỡ khó khăn, thúc thấy thị trường bất
động sản phát triển an toàn, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh tinh thần “Không
giải cứu cho ai”.
- Đầu tiên các trang báo, kênh tik tok bắt đầu đưa tin về vấn đề này, các cá nhân sẽ
chứng kiến.
- Thứ hai, lúc này các cá nhân sẽ bắt đầu tranh luận với nhau mỗi người sẽ có quan
điểm khác nhau, như là “làm vậy thì nhiều người sẽ nợ nần, phá sản” hay “làm vậy thì
giá bất động sản sẽ giảm”, các quan điểm này đều đụng chạm đến lợi ích túi tiền của
họ.
- Thứ ba, nhận thấy vấn đề cơ bản của đa số người dân đều là giá nhà đất quá cao,
khiến cho nhiều người không thể mua nhà, từ đó quan điểm đã được thống nhất.
- Thứ 4, Người dân mong muốn chính phủ có những hành động kìm hãm giá đất.
Trước dư luận xã hội như thế, thủ tướng cũng đã xây dựng đề án riêng về phát triển
nhà ở cho công nhân, người có thu nhập thấp.
Tính chất của dư luận xã hội
- Tính khuynh hướng: Thái độ chung của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện
tượng, quá trình xã hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định, gồm tán
thành, phản đối hay lưỡng lự.
Ví dụ: Vụ bé gái 8 tuổi bị mẹ ghẻ hành hạ đến tử vong, thì người bố ruột chỉ được tuyên phạt
8 năm tù giam, điều này dẫn đến dư luận xã hội hầu hết đều bày tỏ thái độ bức xúc.
- Tính lợi ích: là một đặc tính cốt yếu của dư luận xã hội, bởi nếu không đụng chạm tới
lợi ích của nhóm xã hội thì dư luận xã hội không thể hình thành. Tính lợi ích sẽ được
nhìn nhận trên 2 phương diện là vật chất và tinh thần.
Ví dụ: Giai đoạn từ giữa năm 2022, giá xăng tăng cao kỷ lục, điều này dẫn tới lạm phát, gây
khó khăn cho đời sống nhân dân. Từ đó hình thành nên 1 dư luận xã hội bất bình vì nhà nước
chậm trễ trong việc giảm thuế kìm hãm giá xăng.
- Tính lan truyền: Là một đặc trưng của dư luận xã hội, vì nếu không có cơ chế lan
truyền thì cũng sẽ không có sự hình thành và phát triển của dư luận xã hội. Đặc biệt
khi có sự kiện lớn thì sự hình thành và lan truyền sẽ được thể hiện rất rõ nét.
Ví dụ: Vụ việc động đất tại Syria và Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 6/2 đã gây xôn xao dư luận và
nhanh chóng lan tỏa khắp toàn cầu.
- Tính bền vững: những sự kiện, hiện tượng hay quá trình quen thuộc, dư luận xã hội
thường rất bền vững.
Ví dụ: Về tầm quan trọng của cuộc đời và con người của Bác Hồ tới nay vẫn được dư luận
đánh giá cao và không hề thay đổi
- Tính dễ biến đổi: Sự biến đổi thường được nhìn nhận trên 2 phương diện: không gian
và thời gian. Cùng một sự kiện nhưng sẽ được những cá nhân, cộng đồng khác nhau
có sự đánh giá khác nhau hoặc cùng một sự kiện nhưng được những cá nhân, cộng
đồng ở mốc thời gian khác nhau sẽ có những đánh giá khác nhau.
Ví dụ:
Về không gian, dư luận xã hội Việt Nam thoải mái hơn trong phong trào LGBT nhưng ở
phương Tây thì họ mang tính khó chịu hơn.
Về thời gian, thời phong kiến đàn ông có thể có nhiều vợ là điều bình thường nhưng ở hiện
tại thì hôn nhân chỉ được 1 vợ 1 chồng.
- Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế của dư luận xã hội: Sự phản ánh
thực tế xã hội của dư luận có thể đúng hoặc sai nên không thể tuyệt đối hóa. Chân lý
của dư luận không phụ thuộc vào tính tính phổ biến, không phải lúc nào số đông cũng
đúng so với thiểu số.
Ví dụ: Dưới góc nhìn của khoa học thì họ cho rằng “chết là hết”, vì thế nhiều người phản đối,
họ cho rằng có cuộc sống đằng sau cái chết như là “chuyển kiếp”.

Yếu tố ảnh hưởng đến hình thành dư luận xã hội:


- Mức độ chuẩn bị của quần chúng trong việc tiếp nhận sự kiện, hiện tượng => hiện
tượng bất ngờ thường gây hoang mang, chậm trễ trong hình thành dư luận (vì có quá
nhiều các luồng suy nghĩ trái chiều đối lập nhau).
- Đặc điểm tâm lý xã hội của quần chúng: những cách nhìn nhận nhất đinh, những tiêu
chuẩn để đánh giá sự việc => hình thành nên sự đánh giá xã hội tương ứng với tiêu
chuẩn đó.
- Trạng thái cảm xúc: cảm xúc tích cực dễ dẫn tới đánh giá không hết những khó khăn
có thể xảy ra.
- Số lượng và chất lượng thông tin: Thông tin không đầy đủ rõ ràng có thể tạo thành tin
đồn => sự đấu tranh giữa các quan điểm kéo dài.
- Sự phát triển của nhóm: Nhóm mới thành lập sẽ khó hình thành dư luận chung vì các
thành viên chưa có sự hiểu biết rõ về nhau.
Chức năng của dư luận xã hội:
- Chức năng đánh giá: Dư luận xã hội thể hiện thái độ đánh, giá phán xét của công
chúng với sự kiện hiện tượng. Có đánh giá trực tiếp, gián tiếp; có thể biểu hiện dưới
hình thức đơn giản mang sắc thái cảm xúc (đồng tình-phản đối), hoặc biểu hiện phong
phú về mặt nội dung.
 Chức năng đánh giá đóng vai trò quan trọng trong hình thành các thang bậc giá trị
xã hội.
- Chức năng điều tiết các mối quan hệ xã hội: Dư luận xã hội gây sức ép lên các nhóm
cực đoan phản đối, lên án những hành động của họ => đóng vai trò làm người lính
bảo vệ quyền lợi các giá trị chính đáng của con người.
- Sự lên án của dư luận mỗi khi giá trị quốc gia, dân tộc bị xâm phạm giúp gây
sức ép nhằm ngăn chặn hành vi đó.
- Dư luận giúp góp phần duy trì trật tự xã hội, tạo mối quan hệ hài hòa giữa các
cá nhân/ nhóm xã hội.
- Chức năng giáo dục: Sự uy tín lớn, sự khen chê, khuyên bảo của dư luận xã hội có tác
động rất mạnh đến ý thức và hành vi con người
- Chức năng giám sát: giám sát các hoạt động của nhà nước, cơ quan => đưa ra sức ép
đối với những hành động bất chính, tham nhũng
- Giải tỏa tâm lý
- Tư vấn, phản biện: Trước những vấn đề quan trọng của nhà nước, dư luận xã hội có
thể đưa ra những tư vấn sáng suốt (bởi dư luận gồm những cá nhân với góc nhìn, tri
thức, quan điểm đa dạng phong phú). Đồng thời cũng có thể phản biện lại những lỗ
hỏng trong thông báo, sự việc.
Tin đồn

Khái niệm
- Theo Allport và Postman, hai nhà tâm lý học Mỹ, tin đồn là một sự khẳng định về một chủ
đề được quan tâm mà không có đủ bằng chứng đáng tin cậy được đưa ra.
- Tin đồn là phương thức giao tiếp bằng ngôn ngữ, nói lên tính đặc thù trong đời
sống hàng ngày và trong các tổ chức xã hội.
- Trong giao tiếp hàng ngày, các thông tin được truyền từ chủ thể giao tiếp
sang đối tượng giao tiếp. Do có khó khăn trong việc nhớ các sự kiện, các ngôn từ cần truyền
đạt, do mức độ thu nhận thông tin khác nhau, do cá tính và cách nhìn nhận vấn đề khác nhau,
nên các đối tượng giao tiếp đã thu nội dung thông tin theo cách hiểu của mình. Vì vậy, tin
truyền miệng thường bị méo mó hoặc sai lệch là điều tất yếu trong giao tiếp xã hội.

Phân tích và ví dụ
Đặc điểm
- Phạm vi vấn đề tin đồn: Tin đồn thường đề cập đến bao gồm cả những vấn đề thuộc lĩnh
vực công cộng và lĩnh vực cá nhân nên đôi khi không thể xác định được là vấn đề có hay
không. Chẳng hạn như những tin đồn về hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ...và nguồn phát
thường không dễ xác định.
- Tính kiểm chứng tin đồn: Tin đồn thường khó được kiểm chứng về vấn đề được đề cập
đến bởi nguồn thông tin có thể không đảm bảo được độ tin cậy và tính xác thực cao.
- Tính ổn định của tin đồn: Tin đồn thường nhạy cảm hơn với thông tin rõ ràng về vấn đề
được đề cập đến. Chính vì vậy mà tin đồn có thể dễ thay đổi với mức độ tham gia của yếu tố
tinh thần thấp qua việc người truyền tin hầu như chỉ đóng vai trò “một máy thu phát”.
- Kênh lan tỏa tin đồn: Nếu như trước đây, tin đồn chủ yếu phổ biến qua kênh giao tiếp liên
cá nhân thì ngày nay đã có sự thay đổi khi có sự hỗ trợ của các kênh truyền thông kết nối
internet.
Cơ chế hình thành và lan tỏa tin đồn:
Sự hình thành tin đồn:
sự hình thành tin đồn được thể hiện ở quá trình từ thông tin không có thật được tin là có thật
và có thể dẫn đến thay đổi hành vi của công chúng hoặc thông tin được chuyển tải từ dạng
này sang dạng khác – sự biến đổi so v i thông tin ban đầu.
Sự rút bớt các chi tiết
Khi tin đồn được lan đi, nó có xu hướng ngắn hơn để dễ dàng nắm bắt và kể lại hơn =>
những lần kể kế tiếp càng ngày càng ít các chi tiết đi
Những lần truyền tin sau, số lượng thông tin ngày 1 ít đi, đến 1 lúc nào đó, số lượng thông
tin sẽ k đổi và đc nhiều người học thuộc để nhắc đi nhắc lại
VD:
Sự nhấn mạnh
Trong quá trình truyền tải tin đ n, một số chi tiết trọng tâm thường được nhấn mạnh và cường
điệu sự nhấn mạnh đó đôi khi còn được thực hiện do việc ghi nhớ không chủ định các từ ngữ
hay lời kể mang theo khái niệm vận động...Đồng thời, việc nhấn mạnh và cường điệu sự việc
còn mang tính chủ quan cá nhân bởi nó phù hợp với tâm lý người kể hoặc tình tiết của sự
kiện được cho là hợp lý. Việc tập trung vào một số chi tiết và cường điệu hoá là yếu tố quan
trọng trong quá trình làm biến dạng tin đồn.
VD: Giảng viên mới đẹp như hoa hậu
Sự sắp xếp lại
- Sự sắp xếp lại trong tin đồn là quá trình thay đổi hoặc chỉnh sửa thông tin ban đầu để phù
hợp với ý muốn của người đưa tin hoặc để tạo ra một câu chuyện hấp dẫn hơn. Các thông tin
được lấy từ nguồn gốc có thể được sắp xếp lại để hỗ trợ cho quan điểm hoặc lợi ích của người
truyền tải tin đồn.
Quy luật thêm thông tin và thái độ của công chúng khi tiếp nhận tin đồn. Cụ thể,
khi tin đồn xuất hiện, nếu tin đ n được giải quyết triệt để v i thông tin minh bạch, cung cấp
kết quả thông tin chính xác, thỏa đáng sẽ làm cho tin đồn bị triệt tiêu. Ngược lại, nếu tin đồn
không được giải quyết triệt để sẽ dẫn đến tin tồn cũ vẫn tồn tại và xuất hiện thêm các tin đồn
mới. Trong đó, các cá nhân có xu hướng hình thành các ý kiến cá nhân khác nhau và có thể
hình thành dư luận xã hội.
Tóm Lại: các quá trình rút bớt, nhấn mạnh, sắp xếp lại trong tin đồn không phải là một cơ chế
độc lập mà chúng được thực hiện đồng thời với nhau và phản ánh một quá trình mang tính
nội tâm duy nhất mà có kết quả là tính tự kỷ và sự xuyên tạc vốn là đặc tính của tin đồn.
Ví dụ

11) Trình bày thái độ xã hội và tâm trạng xã hội. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng

 Thái độ xã hội

Khái niệm

Hai nhà tâm lý học Mỹ: Thomas và Znaniecki (1918) Theo hai ông thì thái độ là
trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị.

Newcome (1961) cho rằng: Thái độ của một cá nhân đối với một khách thể nào đó
là thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể liên quan.
Đó là sự sẵn sàng phản ứng. Những gì mà chúng ta tin là đúng và có một thái độ nhất định
về một khách thể nào đó hay một nhóm nào đó sẽ đóng một vai trò hiển nhiên trong việc
quy định sự sẵn sàng phản ứng theo một cách thức nhất định của chúng ta.

Allport (1935): “Thái độ là khuynh hướng phản ứng của cá nhân đối với các sự vật
hiện tượng xung quanh”

Tóm lại thái độ xã hội là thái độ của cá nhân hoặc nhóm xã hội đối với các hiện
tượng xã hội

Phân tích và cho ví dụ

Đối tượng của thái độ

- Là tất cả những gì tồn tại trong thế giới vật chất và tinh thần mà
chúng ta đang sống: người khác, một nhóm người, một tổ chức, một
sự kiện,... có khi là thái độ về chính bản thân mình.

Ví dụ: Khi bản thân không làm tốt một bài kiểm tra thì xu hướng của chúng
ta là tự trách tại sao không nỗ lực cố gắng nhiều hơn.

Chức năng của thái độ

- Chức năng thích nghi xã hội: Thái độ hướng chúng ta tới các đối
tượng có thể giúp đạt được các mục đích kinh tế, xã hội của mình.

Ví dụ: thái độ của xã hội trước cộng đồng LGBT ngày nay đã thoải mái chấp
nhận chứ không còn gay gắt như xưa
- Chức năng kiến thức: Nhờ có thái độ mà chúng ta biết cách thức phải
ứng xử như thế nào trong các tình huống khác nhau một cách giản
đơn, tiết kiệm thời gian và sức lực.

Tinh thần học hỏi, hay Thái độ ham học luôn được đánh giá cao. Người ham
học hỏi có tính tự giác cao, nên nó được xếp vào 1 phần của thái độ. Ham học hỏi
giúp bạn có được kiến thức và kỹ năng tốt. Học là con đường giúp bạn tiến đến
thành công nhanh nhất.

Hãy cố gắng biến việc học hỏi trở thành chủ động và thường xuyên. Người
có thái độ ham học hỏi sẽ luôn được yêu quý và tôn trọng. Hầu hết các đơn vị luôn
muốn có được người ham học hỏi. Vì người ham học hỏi có khả năng thích nghi cao
giúp giải quyết công việc khó khăn thử thách. Nên nhớ rằng kiến thức nền quyết
định thái độ. Thái độ tốt, tiêu cực hay tích cực phụ thuộc hoàn toàn vào kiến thức
của bạn. Chính vì vậy hãy đưa việc ham học hỏi lên hàng đầu trong việc rèn luyện
thái độ tốt.

- Chức năng biểu hiện: Thái độ xã hội là phương tiện giúp con người
thoát khỏi các căng thẳng nội tâm và thể hiện mình như là một nhân
cách.

VD; làm việc nhóm khi có bất đồng quan điểm cần bày tỏ thái độ một cách phù hợp
để giải quyết vấn đề thay vì cứ giữ trong lòng

- Chức năng tự bảo vệ: Trong những tình huống xung đột (giữa các
suy nghĩ, niềm tin, có khi là giữa thái độ và hành vi). Chúng ta
thường tìm cách tự bào chữa, tìm lý do giải thích thậm chí tìm người
nào đó khác chịu trách nhiệm thay mình hoặc hợp lý hoá hành vi của
mình. Quá trình này dẫn đến sự thay đổi thái độ tương ứng. Thái độ
mới sẽ giúp chúng ta giảm bớt sự “bất đồng” nội tâm.

Ví dụ: rớt môn do thầy cô giảng bài khó hiểu đổ lỗi cho thầy cô nên
thái độ của chúng ta từ tiêu cực sẽ trở nên bớt tiêu cự chân do ddax có người
chịu trách nhiệm thay mình.

Các thành tố của thái độ

Thái độ xã hội có thể thực hiện được các chức năng trên là nhờ có một cấu
trúc phức tạp. Các nhà Tâm lý học xã hội đã phân biệt và nghiên cứu 3 bộ
phận cấu thành của nó như sau:

- Nhận thức: là kiến thức của cá nhân về đối tượng của thái độ cho dù
kiến thức đó có tương ứng hay không tương ứng, tức là có đúng hay
không đúng.
- Tình cảm: là các cảm xúc, tình cảm của cá nhân đối với đối tượng
của thái độ xã hội.
- Hành vi: Đó là hành động hay ý định hành động mà bạn sẽ ứng xử
với đối tượng.

Sự hình thành thái độ

Thái độ được hình thành trong quá trình phát triển của cá nhân. Những yếu
tố quyết định sự hình thành và phát triển thái độ là nhu cầu của cá nhân,
thông tin, giao tiếp trong nhóm và nhân cách của cá nhân.
Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu

Con người hình thành và phát triển các thái độ nhằm thoả mãn các nhu cầu
của mình. Người ta sẽ hình thành các thái độ tích cực đối với các khách thể
có lợi, tiêu cực đối với các khách thể có hại cho họ trên con đường đạt tới
mục đích nào đó để thoả mãn các nhu cầu nhất định của họ. Thực tế cho
thấy, thái độ có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Và như vậy, các
nhu cầu khác nhau có thể hình thành nên một thái độ.

Ví dụ: ít hay nhiều ai cũng sẽ có nhu cầu được mang xung quanh yêu mến
và để thỏa mãn nhu cầu đó người ta sẽ luôn tỏ thái độ hòa đồng và tôn trọng
mọi người xung quanh

Thái độ được hình thành bởi các thông tin

Nếu chúng ta không biết thông tin, hoặc biết rất ít về một sự vật hiện tượng
nào đó thì chúng ta không thể hiện thái độ đối với nó.

Với mọi người nguồn thông tin chính thức qua các phương tiện thông tin đại
chúng có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành thái độ, dư luận cũng như
thay đổi hành vi của các nhóm dân cư.

Ví dụ: Trong mùa dịch, nổi lên vụ chấn động là nâng giá kit test làm người
dân có thái độ hoảng loạn lo lắng,...

Giao tiếp nhóm là một trong những yếu tố quyết định trong quá trình hình thành
thái độ.

Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau. Thái độ thường phản
ánh niềm tin, giá trị, chuẩn mực của nhóm mà họ là thành viên. Sự khác
nhau giữa thái độ của các nhóm khác nhau một phần là do niềm tin của họ
khác nhau.

 Tâm trạng xã hội

Khái niệm

Tâm trạng xã hội là trạng thái cảm xúc chiếm ưu thế của các nhóm xã hội,
tồn tại trong một khoảng thời gian xác định.

Phân tích và cho ví dụ

Đặc điểm:

Tâm trạng xã hội có tính xung động, tính lan rộng và tính cơ động:

+ Tính lan rộng: Tâm trạng có lan tỏa từ người này sang người khác, nhóm này
sang nhóm khác

+ Tính xung động: Tâm trạng xã hội có thể làm tăng hay giảm cường độ, tốc độ,
nhịp độ và hiệu quả hoạt động của tập thể và của cá nhân.

+ Tính cơ động: Tâm trạng có thể thay đổi từ trạng thái này, mức độ này sang
trạng thái khác, mức độ khác.

Ví dụ: Trong lớp có nhóm đạt giải cao nghiên cứu khoa học thì hôm đó nhóm sẽ đi học với
tâm trạng vui vẻ:

+ Giáo viên hướng dẫn của nhóm là cô Chi cũng sẽ vui cùng với nhóm vì cô Chi là
người giúp mấy bạn đạt được thành tích cao như thế. Sau đó cô Chị vào lớp TLH Xã
Hội chia sẻ niềm vui đó thì lớp mà cô Chi giảng dạy cũng sẽ vui cùng với cô ( Tính
lan rộng: Tâm trạng truyền từ nhóm sang cô Chi và từ cô Chi truyền sang lớp TLH Xã
Hội)
+ Khi cô Chị vui vẻ thì cô cũng sẽ giảng bài một cách nhiệt huyết và tràn đầy năng
lượng hơn những người bình thường. Việc giảng dạy của cô đạt được hiệu quả tốt hơn
ngày thường. (Tính xung động: tâm trạng vui vẻ đã giúp hoạt động giảng bài của cô
Chi đạt hiệu quả tốt hơn 0
+ Tuy nhiên khi đang giảng bài có một bạn đi trễ bước vào lớp và gây ồn ào, điều này
khiến tâm trạng của cô Chi đang vui vẻ chuyển sang bực tức, khó chịu. (Tính cơ
động: tâm trạng vui vẻ của cô Chi chuyển sang tâm trạng khó chịu)

Tâm trạng xã hội phản ánh hoàn cảnh sống và những điều kiện hoạt động
thuận lợi hay không thuận lợi của các nhóm xã hội.

Tâm trạng xã hội có thể có ở một nhóm xã hội cụ thể, một địa phương, một đất
nước hoặc toàn cầu và xuất hiện ở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (sản
xuất, chính trị, văn hoá – xã hội...).

Điều kiện hình thành:

- Điều kiện bên ngoài: điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng, mối quan hệ xã hội…
- Điều kiện bên trong: nhu cầu, sự định hướng giá trị, niềm tin.

Như vậy, tâm trạng xã hội được hình thành bởi các điều kiện như kinh tế, văn hoá,
giáo dục, cơ chế lãnh đạo... và do ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lý xã hội khác
như: lây lan, bắt chước, ám thị, dư luận xã hội....

Phân loại:

Căn cứ vào mức độ, tính chất của tâm trạng xã hội người ta chia thành:

+ Tâm trạng xã hội tích cực: chính là sự phấn khởi, lạc quan dễ chịu và hân
hoan.
+ Tâm trạng xã hội tiêu cực như sự bi quan, uỷ mị, hoảng loạn, chán chường.

Căn cứ vào lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Người ta chia tâm trạng xã hội
thành:

+ Tâm trạng chính trị: liên quan đến hoạt động chính trị.

Chẳng hạn các nước thường xuyên có bạo loạn, lật đổ thì tạo nên tâm trạng
chung về chính trị không tốt.

+ Tâm trạng nghề nghiệp: là loại tâm trạng liên quan đến nội dung lao động.
+ Tâm trạng sinh hoạt: liên quan đến sinh hoạt hằng ngày.

Căn cứ vào phạm vi xã hội, người ta chia tâm trạng xã hội thành: tâm trạng nhóm, tâm
trạng xã hội, tâm trạng tập thể, tâm trạng dân tộc...

Vai trò của tâm trạng xã hội:

- Tâm trạng xã hội có thể gây ảnh hưởng đến toàn xã hội và các cá nhân, vì vậy
các tâm trạng tích cực cần được nhân rộng nhưng các tâm trạng tiêu cực cần
phải tìm cách khắc phục nhanh chóng.
- Tâm trạng xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến kết quả hoạt động của từng cá nhân
trong nhóm cũng như toàn nhóm. Nó là nhân tố góp phần điều tiết tính tích
cực trong nhận thức, tình cảm và hành động của cá nhân trong nhóm.

Chẳng hạn như tinh thần lạc quan, yêu đời của nhóm sẽ làm cho hoạt động của
nhóm đạt kết quả cao, dễ vượt qua khó khăn. Ngược lại tâm trạng tiêu cực như
sự trì trệ, bi quan, chán nản làm cho tính tích cực hoạt động của nhóm giảm
sút.

12) Trình bày truyền thống và thi đua. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng
 Truyền thống

Khái niệm
Theo từ điển tiếng việt, truyền thống được hiểu là  thói quen hình thành đã lâu đời
trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác
Truyền thống được hiểu là truyền tải các phong tục, hành vi, ký ức, biểu tượng, tín
ngưỡng, truyền thuyết, cho người dân của một cộng đồng và những gì được truyền tải trở
thành một phần của văn hóa.

Phân tích và cho ví dụ


Tính chất, đặc điểm.
● Truyền thống biểu thị tư tưởng, nhu cầu, tình cảm của quá khứ. 
● Truyền thống chỉ dễ dàng thay đổi tên gọi, hình thức bên ngoài 
● Truyền thống không chắc chắn là tốt, vì nó những truyền thống đã không còn phù hợp
với chuẩn mực xã hội đương thời.
● Có hai công việc lớn của con người từ khi nó tồn tại, đó là tạo ra một mạng lưới
những truyền thống, rồi ra sức phá huỷ chúng khi hiệu quả tốt đẹp của chúng bị mòn cũ.
Không có truyền thống, thì sẽ không có văn minh; không có sự thủ tiêu từ từ những truyền
thống ấy, thì sẽ không có sự tiến bộ.
● Chẳng có ví dụ nào chứng tỏ tốt hơn sức mạnh của truyền thống đối với tâm hồn đám
đông. Đó không phải là những thần tượng đáng sợ nhất cư ngụ trong các ngôi đền, cũng
không phải là những bạo chúa chuyên chế nhất trong các lâu đài; thần tượng và bạo chúa có
thể bị đập tan trong phút chốc; còn các ông chủ vô hình thống trị tâm hồn chúng ta thì thoát
khỏi mọi cố gắng nổi loạn, và chỉ chịu thua sự mòn mỏi chậm chạp của nhiều thế kỷ
🡺 Truyền thống có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn lên xã hội 
Ví dụ minh họa
Truyền thống hiếu học, truyền thống yêu nước, truyền thống tôn sư trọng đạo,...
Ở cuối thế kỉ trước, trước những ngôi nhà thờ bị phá huỷ, trước những thầy tu bị trục
xuất hay bị đưa lên máy chém, trước sự truy sát toàn thể đối với sự thờ phụng Công giáo, ta
có thể tưởng rằng những tư tưởng tôn giáo xưa cũ đã mất hết quyền năng, tuy nhiên vài năm
vừa mới qua đi, trước những đòi hỏi của toàn thể mọi người, thì người ta lại phục hồi thói
quen thờ phụng đã bị bãi bỏ. Bị xóa bỏ một thời gian, những truyền thống cũ đã lấy lại được
thế lực của mình.
 Thi đua
Khái niệm
Thi đua là một hoạt động có tổ chức do người có thẩm quyền phát động với sự tham
gia tự nguyện của cá nhân, tập thể, hộ gia đình   thường được diễn ra giữa cá nhân với nhau
hay giữa các nhóm với nhau hay giữa tập thể này với tập thể khác nhằm đạt được hiệu quả tốt
nhất trong học tập, hoạt động, làm việc.
Phân tích và ví dụ
Đặc điểm, tính chất 
Thi đua có mục đích là nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá
nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thi đua thường có hai hình thức là thi đua thường xuyên và thi đua theo đợt, cụ thể:
- Thi đua thường xuyên là hình thức thi đua căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được
giao của cá nhân, tập thể để tổ chức phát động, nhằm thực hiện tốt công việc hàng ngày, hàng
tháng, hàng quý, hàng năm của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đối tượng thi đua thường xuyên là
các cá nhân trong một tập thể, các tập thể trong cùng một cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giữa
các cơ quan, tổ chức, đơn vị có chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc tương đồng nhau.
- Thi đua theo theo đợt (chuyên đề) là hình thức thi đua nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
trọng tâm hoặc một lĩnh vực cần tập trung được xác định trong khoảng thời gian nhất định để
phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Chỉ phát
động thi đua theo đợt khi đã xác định rõ thời gian mục đích, yêu cầu, chỉ tiêu, nội dung và
giải pháp.
Ví dụ 
Thi đua hồi học sinh là khi các lớp cùng cố gắng và nỗ lực để cùng nhau không vi
phạm, phát biểu mỗi tiết học để có thật nhiều điểm trong sổ đầu bài để cả lớp cùng
được xướng tên trong buổi chào cờ (cho oách xà lách, mấy em gái nhìn là muốn bắn
tinh luôn)
Các phong trào thi đua của các công nhân, viên chức, lao động và các cấp công đoàn
để tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
công tác, góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động. 

13) Trình bày ấn tượng ban đầu và hấp dẫn cá nhân. Phân tích và cho ví dụ, ứng
dụng
Ấn tượng ban đầu là hình ảnh tổng thể mà chúng ta có được về một người
khác hoặc về nhóm xã hội dựa trên một sự nhìn nhận, đánh giá một cách chung chung
thông qua những biểu hiện về diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt,... Sau lần
tiếp xúc ban đầu ta sẽ có một ấn tượng nhất định về đối tượng của mình.
Ấn tượng ban đầu được hình thành trên cơ sở:
* Đặc điểm trung tâm
Ấn tượng ban đầu được hình thành trên cơ sở một vài đặc điểm biểu hiện ra
ngoài mang tính nổi bật trong một hoàn cảnh nào đó. Đặc điểm ấy thường gọi là đặc
điểm trung tâm. Nó quyết định, khống chế cách thức và chiều hướng suy nghĩ cảm
nhận của người tri giác. Vì thế, không phải lúc nào chúng ta tri giác cũng đúng.
* Sơ đồ nhân cách tiềm ẩn.
Trong cuộc sống, do tiếp xúc ứng xử, chúng ta thường có một cách thức hay
gán ghép các yếu tố với nhau thành một nhân cách.
Trong mỗi con người đều có sẵn một sơ đồ liên hệ giữa các tính cách của con
người với nhau. Chúng ta hay gán ghép những nét tính cách, phẩm chất giống nhau
lại. Khi tiếp xúc với các cá nhân trong xã hội, thì mối liên hệ nét tính cách tốt hay xấu
nó được hoạt hoá và chúng ta dùng để đánh giá người khác. Sự hoạt hoá - liên kết
giữa các nét tính cách đã ảnh hưởng đến việc chúng ta đánh giá người khác dựa vào
kinh nghiệm của chúng ta, nghĩa là chúng ta đặt con người bằng phạm trù sơ lược,
bằng kinh nghiệm.
Khái niệm sơ đồ nhân cách tiềm ẩn: nhằm mô tả một biểu tượng tinh thần sơ
lược có chức năng hiểu biết hiện thực bằng cách giản lược những phức tạp của đối
tượng, thực tế, dự đoán được các phản ứng hành động của đối tác, định ra cái chuẩn
có khả năng nhờ đó có thể kiểm tra được người khác và hành động của họ.
Sơ đồ nhân cách ngầm ẩn nó phụ thuộc vào:
+ Kinh nghiệm (những ý niệm, tri thức của chúng ta có về người khác), chúng ta sẽ có
phản ứng tích cực hay tiêu cực về các nhóm xã hội khác.
+ Động cơ (lý do hành động), đó là hoạt động của chúng ta hướng vào để đạt được
mong muốn, ý đồ của chúng ta.
+ Hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể. Nó quy định cách thức chúng ta nhìn nhận người khác,
quy định chuẩn mực của sự đánh giá.
* Thông tin đầu tiên
Là những tri thức, cảm xúc của con người, trật tự của những thông tin quy
định cách chúng ta đánh giá người khác.
Thứ tự thông tin rất quan trọng trong việc quan sát người khác, những thông
tin đến sớm nhất, đầu tiên bao giờ cũng tác động gây cho người ta có sự tri giác gây
ấn tượng lớn. Nó tạo nên sự áp đặt, nó chi phối làm sai lệch cách chúng ta cảm nhận
người khác.
Thông tin ban đầu có tính quyết định khi tri giác người lạ, còn đối với người
quen thì thông tin cuối cùng lại có ý nghĩa hơn cả.
Như vậy, ấn tượng ban đầu mang tính chủ quan khó xác định, bị nhiều hiệu
ứng tác động không dễ xoá nhoà. Nó quyết định nhiều thái độ ứng xử tiếp đó của
chúng ta đối với đối tượng.

14) Trình bày quy gán xã hội và định kiến xã hội. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng
 Quy gán xã hội
Việc chúng ta giải thích các sự kiện xã hội hay nhận định về người khác bằng
cách gán những nguyên nhân ổn định nằm trong kinh nghiệm của bản thân, gọi là quy
gán xã hội.
Quy gán xã hội, đó là quá trình suy diễn nhằm hiểu ý nghĩa hành động của
người khác bằng cách tìm những nguyên nhân hợp lý để giải thích cho các sự kiện,
hành động luôn biến đổi trong xã hội.
Quy gán xã hội tuân theo những nguyên tắc:
- Nguyên tắc tâm lý ngây thơ: chúng ta luôn tìm cách khám phá nguyên nhân hành vi
để hiểu và dự đoán sự kiện sắp tới, với mong muốn có thể giám sát được môi trường
và mọi vật xung quanh. Heider (nhà tâm lý học Mỹ) gọi xu thế này là tâm lý ngây thơ
vốn có ở mỗi người.
- Nguyên tắc suy diễn tương ứng: Khi quan sát hành vi của người khác, ta luôn tìm
cách suy diễn ý nghĩa của hành vi đó tương ứng với những gì ta thấy. Nếu chúng ta có
nhiều thông tin về mục đích hoạt động của đối tượng thì sự suy diễn tương ứng càng
chính xác. Sự suy diễn tương ứng nhằm đi đến một quy gán nào đó bị ảnh hưởng bởi
3 yếu tố sau:
+ Chuỗi hành vi không thống nhất
+ Hành vi xã hội được mong đợi hay hành vi không được mong đợi
+ Những hành vi được tự do lựa chọn dễ suy diễn hơn hành vi bắt buộc.
Cách suy diễn tương ứng để tìm nguyên nhân hành vi không phải lúc nào cũng
chính xác. Sự suy diễn tương ứng chỉ phản ánh được lượng thông tin chúng ta có về
đối tượng. Khi cá nhân không có thông tin chi tiết, cụ thể nên hay dựa vào một điều
bất kỳ mà người đó biết để quy gán hoặc cho là thế này, hoặc thế kia.
- Nguyên tắc suy diễn nhân quả: thường biểu hiện bởi 3 yếu tố: Chủ quan, khách
quan, đối tượng.
Theo một quy luật chung: khi cá nhân thành công thì thường quy gán nghiêng
về bản thân theo xu hướng quy gán vào nâng cao năng lực, phẩm chất của mình.
Ngược lại, khi thất bại cá nhân thường đổ lỗi cho khách quan. Còn đối với
người khác khi thành công chúng ta hay quy gán cho là khách quan, khi họ thất bại lại
quy gán do chủ quan của họ.
Trong quá trình quy gán chúng ta hay cho thái độ và hành vi của mình là
chuẩn, hành vi của người khác là không chuẩn. Từ đó, chúng ta nhìn nó để chiếu theo
người khác, ép người khác theo chuẩn của mình.
Một trong những nhược điểm của con người khi quy gán nguyên nhân hành vi
là ảo tưởng rằng mình có khả năng kiểm soát được mọi yếu tố quyết định thành công
hay thất bại. Ví dụ: như trò chơi xổ số, người ta có cảm tưởng rằng có nhiều cơ hội
thắng cuộc nếu tự do lựa chọn vé số.

 Định kiến xã hội


Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì: Định kiến là ý kiến riêng đã có
sẵn, khó có thể thay đổi được.
Như chúng ta đã biết, định kiến cùng với khuôn đúc là một trong những dạng thức của
Tri giác giác xã hội. Sự phân tích khái niệm định kiến (Prejudice), một khái niệm cổ điển của
tâm lý học xã hội, góp phần cho phép ta làm được một trong những dạng thức biểu hiện các
hệ thống tri giác của chúng ta, cũng như góp phần cho phép cụ thể hoá các cơ chế xây dựng
các hiện thực về mặt tinh thần và xã hội, sự vận hành của những dư luận và sự tin tưởng xã
hội.
Định nghĩa của các nhà Tâm lý học xã hội
Trước hết ta xem xét khái niệm Định khuôn xã hội. Thuật ngữ Định khuôn xã hội do
Lippman (người Mỹ) đưa ra, nhằm nói đến những biểu tượng bền vững được đơn giản hoá
khái quát và sơ đồ hoá mỗi khi nhìn nhận đối tượng mà thiếu hụt thông tin. Định khuôn là
biểu tượng xã hội của cá nhân trong cùng một nhóm. Định khuôn xã hội có thể mang tính tích
cực hoặc tiêu cực.
Trong tri giác xã hội, định khuôn xã hội biến thành định kiến xã hội khi nó mang sắc
thái tiêu cực.
Định kiến xã hội được hiểu là thái độ của một cá nhân trong từng nhóm xã hội, nó
thường là tiêu cực đối với người khác, nhóm khác trong quan hệ với nhau. Có nhiều loại định
kiến xã hội như: định kiến chủng tộc, giới tính, tôn giáo, giai cấp,...
Theo Fischer: Định kiến xã hội là những thái độ bao hàm sự đánh giá một chiều và sự
đánh giá đó là tiêu cực đối với cá nhân khác hoặc nhóm khác tuỳ theo sự quy thuộc xã hội
riêng của họ. Nói cách khác, định kiến là một loại phân biệt đối xử bao gồm 2 thành tố chính
là nhận thức và ứng xử.
Theo Godefroid: Định kiến là sự phán xét “tốt” hay “xấu” của chúng ta đối với người
khác, ngay cả trước khi ta biết rõ họ hoặc biết được lý do hành động của họ.
Theo J. P. Chaplin: Định kiến là thái độ có thể tích cực hoặc tiêu cực được hình thành
trên cơ sở của yếu tố cảm xúc. Là niềm tin hoặc cách nhìn thường là không thiện cảm dẫn
đến cho chủ thể một cách nghĩ hoặc cách ứng xử tương tự với người khác. Theo Rosenberg:
Định kiến xã hội là một định hướng được tiếp thụ có mục đích thiết lập một sự phân biệt xã
hội. Như vậy, có thể nói rằng định kiến là một sự phân biệt đối xử. Quan điểm này của ông
cho phép phân biệt hai thành tố căn bản của định kiến: thành tố nhận thức và thành tố ứng xử.
Ta có thể sơ đồ hoá khái niệm định kiến:

Như vậy, tuy có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề định kiến, nhưng suy
cho cùng, các tác giả đều có nhìn nhận giống nhau một cách cơ bản trên một số điểm. Hầu
hết họ đều thừa nhận định kiến là một kiểu thái độ tiêu cực – bất hợp lý đối với người khác
dựa trên những nhận thức thiếu căn cứ, phiến diện và một chiều của chủ thể là người mang
định kiến.

Các nguyên nhân hình thành định kiến xã hội


Sự cạnh tranh (competition)
Định kiến ra đời từ cuộc cạnh tranh giữa những nhóm xã hội khác nhau về những tiện
nghi giá trị và cơ hội. Thành viên của những nhóm liên quan tiếp tục nhìn nhận ngày
một tiêu cực về nhau. Họ “dán nhãn” nhau là kẻ thù, coi nhóm mình là đạo đức tối
thượng, dựng lên rào cản ở giữa và sự thù địch giữa họ ngày một sâu sắc. Kết quả tất
yếu là từ những cuộc cạnh tranh đơn giản chẳng liên quan gì tới oán hận và thù ghét
đã dần phát triển thành những định kiến gay gắt. Thậm chí những cuộc cạnh tranh
kiểu như vậy thường dẫn tới mâu thuẫn trực tiếp, công khai và những hành vi có tính
xâm kích.

Bất bình đẳng xã hội (social inequality)


Trong bất cứ xã hội nào cũng tồn tại những địa vị xã hội không ngang bằng. Các cá
nhân không có sự bình đẳng với nhau về cơ hội, lợi ích, về các giá trị... và sự không
ngang bằng đó dễ dàng làm phát sinh định kiến. Những người có định kiến thường
đánh giá vị trí của mình cao hơn người khác và bằng thái độ kẻ cả, họ thường yên tâm
về giá trị của mình. Họ tự cho mình cái quyền được phán xét người khác, họ cho mình
là tốt hơn, cao quý hơn còn những người thuộc về nhóm xã hội khác thì bị gán cho
những đặc điểm tiêu cực và bị đối xử kém ưu ái.
Theo một số tác giả, lúc này định kiến là sự hợp lý hoá bất bình đẳng xã hội và nó
được sử dụng như một công cụ để chứng minh cho tính đúng đắn của những người có
thế lực và tiền bạc, sở hữu nhiều giá trị cao hơn.
Xã hội hóa (socialization)
Định kiến xã hội được hình thành qua quá trình xã hội hóa ngay từ lúc đứa trẻ bắt đầu
sinh ra. Môi trường gia đình, đặc biệt là những khuôn mẫu của bố mẹ là nguồn hiểu
biết quan trọng nhất đối với trẻ. Qua bố mẹ, đứa trẻ hiểu và tiếp xúc với thế giới bên
ngoài, hình thành xu hướng lặp lại những gì mà bố mẹ và người lớn đã dạy dỗ nó.
Đứa trẻ học cách ứng xử xã hội bằng cách quan sát người khác và bắt chước họ. Vì
thế những kinh nghiệm đầu tiên trong cuộc đời có thể có tầm quan trọng nhất định
đến sự hình thành định kiến. Trẻ em học cách suy nghĩ, nhìn nhận và đánh giá như
những người xung quanh chúng.
Mặt khác, những phương tiện truyền thông đại chúng cũng đóng vai trò quan trọng
đối với các em trong việc nhận thức xã hội và những áp lực phải tuân theo các quy tắc
xã hội.

Khuôn mẫu trong nhận thức


Trong một hoàn cảnh thiếu hụt thông tin, kinh nghiệm sống hạn chế chúng ta thường
lựa chọn giải pháp dễ dàng nhất để giải bài toán về người khác.
Chúng ta có xu hướng xếp những con người rất đa dạng vào những hạng đơn giản và
có những kết luận sai lầm về họ. Chúng ta cũng có xu hướng dựa vào những khuôn
mẫu nhận thức có sẵn hơn là tìm hiểu về chúng để có một sự phản ánh chân thực hơn.
Trong điều kiện đó thì những khuôn mẫu giúp ta rút ngắn thời gian nhận thức và đưa
ra một hình ảnh giản ước về đối tượng.
Như vậy, các khuôn mẫu có những ảnh hưởng nhất định đến cách chúng ta xử lý
thông tin. Chúng ta có khuynh hướng chỉ lựa chọn những thông tin phù hợp với
khuôn mẫu, những thông tin được ưa thích, mong đợi và những thông tin này được xử
lý nhanh hơn, được ghi nhớ sâu hơn. Còn những thông tin không phù hợp nó sẽ được
ý thức của chúng ta chủ động bác bỏ.
Ngày nay, tuy một số đông đã chống lại các khuôn mẫu nhận thức tiêu cực không còn
phù hợp với quan điểm và niềm tin có ý thức của họ nhưng khi họ hành động hoặc
phản ứng một cách không có chủ ý thì những khuôn mẫu tiềm thức vẫn thắng thế.

Biểu tượng xã hội


Trong xã hội thường tồn tại những biểu tượng xã hội. Chẳng hạn trong xã hội Mỹ
người da trắng thường được quan niệm như những người có lòng tốt, sự trong sạch và
thông minh. Trong khi đó những người da đen thường bị liên tưởng là những kẻ bệnh
hoạn, tàn ác, ngu dốt và không có tinh thần trách nhiệm. Những biểu tượng xã hội này
đã làm ảnh hưởng đến định kiến và phản ứng của trẻ em.

Trường học
Trường học được đánh giá là một trong những nguồn gốc hình thành định kiến vì
nhiều định kiến đã được ra đời từ ảnh hưởng của trường học. Sự phân tích này cho
thấy sách giáo khoa trong nhà trường là một sự chuyển tiếp hàng đầu trong việc tập
luyện định kiến. Việc học trong nhà trường là một trong những hình thức phát triển và
duy trì định kiến qua sự hấp thụ nhập tâm những khuôn mẫu từ sách vở. Con người lại
rất dễ bị cầm tù bởi những quan niệm, những hiểu biết cũ kỹ được thấy trong sách
hoặc được học trong nhà trường. Nếu thấy ở đâu đó có điều gì không phù hợp với
những điều mình đã học, đã đọc là bác bỏ ngay không cần xem xét gì.
Kiểu hình thần kinh
Quan điểm này cho rằng những người thuộc kiểu hình thần kinh yếu (trong đó quá
trình ức chế mạnh hơn quá trình hưng phấn) là những người có yếu tố thuận lợi để
phát triển định kiến. Những người có kiểu hình thần kinh như vậy thường không linh
hoạt, rụt rè, tự ti. Khi gặp phải hoàn cảnh không thuận lợi họ thường suy nghĩ một
cách tiêu cực, thậm chí bệnh hoạn. Họ rất ngại giao du và nếu buộc phải tiếp xúc với
người khác thì thái độ của họ thiếu cởi mở, không lường trước được. Họ là những
người rất khó khăn trong việc chấp nhận những giá trị mới và ít thích nghi với những
biến động của môi trường.
Nói tóm lại, định kiến xã hội là một hiện tượng tâm lý phức tạp bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân đa dạng nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống của con người. Các nguyên
nhân này không tách rời nhau mà có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ. Hiểu được
nguyên nhân hình thành định kiến ta sẽ có cách khắc phục được nó. Bởi vì suy đến
cùng định kiến là một kiểu thái độ mà thái độ của con người có thể thay đổi.
4. Các mức độ của định kiến xã hội
Theo như định nghĩa về định kiến xã hội, có thể chia định kiến xã hội ra thành 3 mức
độ như sau: lời nói – nhận thức – hành vi, trong đó hành vi là mức độ cao nhất của định kiến
xã hội.
Có thể phân chia mức độ của định kiến theo sơ đồ:

Tuy nhiên, ta cũng cần phải hiểu sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối, bởi
định kiến dù ở mức độ nào thì nó cũng vẫn là một thái độ tiêu cực của chủ thể mang định
kiến.

5. Các bước thay đổi định kiến


Có hai bước chủ yếu để thay đổi định kiến:
- Thay đổi nguyên nhân dẫn đến định kiến: như trình bày ở phần trên, định kiến có
nhiều nguyên nhân khác nhau, muốn thay đổi được định kiến thì trước tiên ta phải xác định
được nguyên nhân chủ yếu dẫn đến định kiến đó để tác động vào.
- Thay đổi định kiến: sau khi xác định rõ nguyên nhân chủ yếu dẫn đến định kiến ta sẽ
dùng các biện pháp cụ thể phù hợp để thay đổi định kiến.
5.1. Biện pháp thay đổi định kiến
- Ngăn chặn quá trình hình thành định kiến: Định kiến xã hội được hình thành qua quá
trình xã hội hóa ngay từ khi đứa trẻ vừa sinh ra. Môi trường gia đình, đặc biệt là những khuôn
mẫu sống của bố mẹ là nguồn hiểu biết quan trọng nhất của đứa trẻ. Qua bố mẹ, đứa trẻ hiểu,
tiếp xúc với thế giới bên ngoài và có xu hướng lặp lại những gì bố mẹ trao cho. Trẻ con học
cách ứng xử xã hội qua hoạt động thực tiễn, qua bắt chước, quan sát, giao tiếp với người
khác. Chúng tiếp thu thái độ và định kiến của bố mẹ. Định kiến gắn chặt với thái độ, cũng
giống như thái độ, định kiến có thể tiếp thu được và cũng có thể từ bỏ được. Nó gây ảnh
hưởng tới hành vi vào những thời điểm nhất định và có khả năng suy giảm vào thời điểm
khác.
Trường học là cơ sở quan trọng hình thành định kiến. Nhiều định kiến được hình
thành từ những ảnh hưởng của sách vở, của nhóm bạn, của cuộc sống đời thường. Trong quá
trình sống, ảnh hưởng của các nhóm xã hội, thể chế chính trị, bối cảnh xã hội làm cho các
định kiến hoặc bền vững hoặc bị xoá bỏ đi. Ví dụ như định kiến trọng nam khinh nữ của xã
hội phong kiến khó xóa bỏ ngay được.
Nắm được quá trình hình thành định kiến, ta có thể dùng chính các môi trường hình
thành nên định kiến (gia đình, nhà trường, các thể chế...) để tác động giúp ngăn chặn hoặc
mất dần định kiến.
- Trị liệu cá nhân, trị liệu nhóm: Đây là phương pháp nhằm nâng cao khả năng tri giác
xã hội cho các cá nhân và nhóm. Quá trình trị liệu sẽ giúp cá nhân nhận thức đúng hơn về bản
thân, về người khác cũng như hoàn thiện hơn nhận thức xã hội của mình. Qua trị liệu cá
nhân, trị liệu nhóm sẽ góp phần ngăn chặn quá trình hình thành định kiến cũng như làm mờ
dần những định kiến vốn có của cá nhân do nhận thức của cá nhân đã được hoàn thiện.
- Thay đổi hành vi: Phương pháp này chủ yếu là dùng pháp luật và các thiết chế xã
hội để điều chỉnh, thay đổi hành vi (mang tính định kiến) của các cá nhân.
- Tiếp xúc trực tiếp nhóm: Sự tiếp xúc trực tiếp giữa các nhóm cũng có thể giúp ngăn
chặn và làm mờ dần định kiến giữa các nhóm. Bởi qua sự tiếp xúc trực tiếp các nhóm sẽ nhận
thức đúng đắn hơn về “địch thủ” của mình.
Tuy nhiên, sự tiếp xúc giữa các nhóm muốn có hiệu quả cũng cần tuân theo một số
những nguyên tắc nhất định:
+ Những nhóm tác động phải ngang bằng nhau về địa vị, vị thế xã hội.
+ Các nhóm phải tương trợ nhau.
+ Sự tiếp xúc giữa các nhóm phải chính thức (ràng buộc, trói buộc lẫn nhau)
+ Sự tiếp xúc phải có bối cảnh, các quy tắc, các nhóm như nhau
+ Các nhóm ảnh hưởng lẫn nhau theo cách cho phép phản đối những hành vi tiêu cực.
+ Nhìn nhận từng thành viên của nhóm bạn như là tiêu biểu của nhóm đó.

15) Trình bày ám thị và thỏa hiệp. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng
 Ám thị
Là tác động tâm lý có mục tiêu nhưng vô căn cứ từ một người đến người khác hoặc
nhóm. Nói cách khác, ám thị là sự thay đổi ứng xử của cá nhân do phục tùng vô căn cứ, máy
móc, mệnh lệnh đến từ một uy quyền hay một sự ngưỡng mộ nào đó.
Những yếu tố quy định hiệu quả của ám thị
- Thuộc tính của người ám thị (vị thế xã hội, sức lôi cuốn, ưu thế và ý chí, trí tuệ, tính logic)
- Những đặc điểm của người chịu ám thị (mức độ của tính dễ bị ám thị)
- Các mối quan hệ được thiết lập giữa người ám thị và người chịu ám thị (tin cậy, uy tín, phụ
thuộc)
- Phương thức tổ chức thông báo (mức độ có căn cứ, tính chất kết hợp các thành
tố logic và cảm xúc, củng cố thêm bằng những tác động khác).
Ám thị đặc biệt có hiệu quả khi nó gặp phải miếng đất thuận lợi. Chẳng hạn khi người
ta đang rất mong mỏi thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng nào đó, họ thường trở nên cả tin
hơn và dễ dàng chấp nhận bất cứ đề nghị nào mà không cần suy nghĩ gì hết.

 Thoả hiệp
Thỏa hiệp là cơ chế rất đặc trưng cho cá nhân ở trong nhóm. Đó là sự nhân nhượng
của cá nhân trước áp lực thực tế hoặc áp lực tưởng tượng của nhóm thể hiện qua việc cá nhân
thay đổi ứng xử và tâm thế của mình phù hợp với đa số.
Thoả hiệp xuất hiện trong sự giải quyết những biểu hiện xung đột giữa ý kiến cá nhân
và ý kiến nhóm. Khắc phục sự xung đột này dẫn đến có lợi cho nhóm. Mức độ thỏa hiệp là
mức độ thu phục của nhóm. Từ lâu trong tâm lý học xã hội phân chia ra hai loại thoả hiệp:
thoả hiệp bề ngoài hay thoả hiệp hình thức và thỏa hiệp bên trong hay thoả hiệp thực tâm.
- Thoả hiệp bề ngoài là sự quy thuộc của cá nhân để tỏ thái độ đối với ý kiến áp đặt của
nhóm, cá nhân chỉ tiếp nhận ý kiến của nhóm mang tính chất hình thức, còn trên thực
tế anh ta tiếp tục chống lại ý kiến của nhóm.
- Thỏa hiệp bên trong là sự biến đổi thực sự tâm thế cá nhân do tiếp nhận thật lòng
quan điểm của nhóm. Quan điểm của nhóm được cá nhân coi trọng và đánh giá hợp
lý, xác đáng và khách quan hơn là quan điểm riêng của cá nhân.
Tuy rằng khác nhau về bản chất nhưng cả hai hình thức thỏa hiệp này giống nhau ở
chỗ là phương thức đặc thù để giải quyết xung đột có ý thức giữa ý kiến cá nhân và ý kiến
nhóm, nghiêng về phía có lợi cho nhóm. Hành vi thỏa hiệp này được giải thích như là sự phụ
thuộc của cá nhân vào nhóm, buộc cá nhân phải tìm kiếm sự thỏa thuận thực sự hay giả tạo
với nhóm, điều chỉnh hành vi của mình theo cách thể hiện bề ngoài bằng những quy chuẩn xa
lạ và không quen thuộc đối với bản thân nhưng lại đáp ứng được yêu cầu của nhóm.

* Những yếu tố quyết định tính thoả hiệp


- Những đặc trưng của cá nhân phải chịu áp lực của nhóm như: giới tính, lứa tuổi, dân tộc, trí
tuệ, v.v...
- Những đặc trưng của nhóm là nguồn gốc của áp lực như: quy mô, mức độ nhất trí của đa số,
nghĩa là sự hiện diện số lượng thành viên của nhóm đi chệch với ý kiến chung.
- Những tính chất đặc thù của mối liên hệ lẫn nhau giữa cá nhân và nhóm: vị trí
của cá nhân trong nhóm, sự trung thành của cá nhân với nhóm, mức độ phụ thuộc lẫn nhau
giữa các cá nhân trong nhóm, ...
- Hoàn cảnh đặc thù: nội dung, nhiệm vụ, mức độ quan tâm của con người đối với nhiệm vụ
đó, sự am hiểu của người đó, …
Các nhân tố ảnh hưởng đến tính thoả hiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhưng
mức độ quan trọng của mỗi nhân tố lại phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Do đó, hiểu biết sâu về cơ chế thỏa hiệp giúp chúng ta tạo điều kiện cho các thành
viên của nhóm phát triển nhân cách cũng như dễ dàng tạo ra sự nhất trí, thống nhất trong
nhóm và trong toàn xã hội.

16) Trình bày cái tôi và vai xã hội. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng

 Phần 1. Cái tôi

là một khái niệm mang đặc điểm cá nhân, thể hiện những đánhgiá về bản thân dưới
ảnh hưởng của bối cảnh xã hội, bao gồm một tổ hợp có một không hai các đặc trưng
thể chất & tâm lý của 1 cá nhân trong điều kiện xã hội cụ thể.
Khái niệm “cái tôi” bao hàm 2 cách nhìn:
+ Cái tôi cá nhân: mỗi người tự bày tỏ ra là tôi là ai.
+ Cái tôi xã hội: là cái tôi mà mỗi cá nhân khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội họ phải
thực hiện các vai trò xã hội như mọi người mong đợi.
=> Hai chiều cạnh này thống nhất biện chứng với nhau trong quá trình hình thành và phát
triển cái tôi.
Ví dụ: hình ảnh cá nhân bị quy định bởi người khác, bởi chuẩn mực xã hội. Khi cá nhân hành
động theo sự chờ đợi xã hội, cá nhân sẽ được khen ngợi ủng hộ và hành động đó được lặp đi
lặp lại trở thành một phần của nhân cách của con người. Và hình ảnh bản thân còn phụ thuộc
lớn vào kỳ vọng của mỗi người, nếu cá nhân đòi hỏi cao ở bản thân, họ sẽ đạt được những gì
họ mong muốn và ngược lại, nếu cá nhân cho rằng bản thân kém cỏi, họ ít có khả năng và
động lực để thành công. Bên cạnh đó, hình ảnh của bản thân có ảnh hưởng đến tính chất quan
hệ của cá nhân. Chẳng hạn, thái độ tiêu cực của bản thân sẽ khiến họ lí giải tiêu cực với các
tác động bên ngoài (đổ lỗi do hoàn cảnh), hay HABT cũng chịu sự tác động của giới tính
(nam phải trở thành trụ cột gia đình, nữ phải tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh,..)
Phần 2. 
Khái niệm: Quá trình hòa nhập vào các nhóm xã hội thường gắn với sự phát triển năng lực
nhập vai. Nó được đánh dấu bằng khả năng tự ý thức của cá nhân trong nhóm đó (tức là cá
nhân đó phải hiểu được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình) khi đó mới nhập vai vào được
nhóm xã hội. Tức là hành vi của cá nhân không phải xuất phát từ những gì cá nhân muốn mà
phụ thuộc vào chuẩn mực nhóm, ý kiến của những người trong nhóm.
2.2. Các yếu tố tác động 
Cá nhân hành động và ứng xử theo nhóm đó. Nó phụ thuộc vào một số đặc điểm:
+ Việc cá nhân tôn trọng các chuẩn mực xã hội
+ Biết vị trí của mình trong xã hội. Một số cá nhân tôn trọng những quy định của nhóm, biết
cách cư xử của mình như một khách thể thì sự gia nhập của cá nhân vào nhóm càng được dễ
dàng.
+ Năng lực nhập vai gắn liền với ý thức về cái tôi (tuỳ từng đứa trẻ, nó phụ thuộc vào gia
đình). Ở trong xã hội khác nhau, tùy từng việc định vị cái tôi tạo nên cho đứa trẻ nhìn nhận
mình cao hay thấp. Sự nhập vai là kết quả của hai dạng năng lực mà đứa trẻ thu nhận được từ
chính gia đình mình.
+ Năng lực nhận biết ra đối tượng giao tiếp: năng lực hiểu được giá trị chuẩn mực của nhóm
mà chúng ta tồn tại. Về cá nhân, chúng ta hiểu được đối tượng, đặc điểm tính cách tâm lý như
thế nào khi chúng ta giao tiếp với họ.
+ Năng lực biết được mình là ai trong nhóm đối tượng giao tiếp đó.
+ Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào bản thân, lứa tuổi, vào tình hình kinh tế, chính trị - xã hội.
Những biến đổi về tâm sinh lý như lứa tuổi 12 - 13 hoặc 55 - 60 hoặc khi ở một đất nước có
những thay đổi về cơ chế, chính trị làm cho quá trình nhập vai của chúng ta bị cản trở.
Hình ảnh cái tôi cũng như tính cách của cá nhân có những thay đổi theo biến động của xã hội
(ví dụ: khi có chiến tranh, biến động về kinh tế). Với những thay đổi về chính trị - xã hội nó
tạo nên những chuẩn mực mới, những chuẩn mực do kinh tế, chính trị làm cho con người khó
hòa nhập trong khi những giá trị mới đang xuất hiện, các giá trị cũ, phương thức chúng ta đã
có không phù hợp với chuẩn mực mới. Cho nên con người trì trệ, co vào để bảo vệ an toàn
cho cá nhân.
Khi giá trị cũ mất đi, hệ giá trị mới chưa được hình thành thì đời sống tâm lý của cá nhân bị
khủng hoảng, đa số rơi vào tình trạng hẫng hụt. Các cá nhân hoang mang nghi ngờ. Trong
giai đoạn này cá nhân có một số biểu hiện xu hướng sau:
+ Nhiều cá nhân rơi vào trạng thái phục cổ (cá nhân quy về tìm cái cũ, cá nhân chỉ sống bằng
quá khứ không chấp nhận cái mới).
+ Cá nhân rơi vào trạng thái: “cá nhân chủ nghĩa” (tức là cá nhân ấy chỉ lo cho bản thân).
+ Cá nhân theo chủ nghĩa hư vô (không có giá trị nào có ý nghĩa trong đời sống tâm linh của
họ, tin vào những điều không có nghĩa). Cá nhân cảm thấy không có sự tác động nào có ý
nghĩa đối với họ. Cùng với thời gian thì đời sống xã hội và những định hình tâm sinh lý con
người trở về với đời sống thường nhật. Các giá trị mới, những quan niệm, cách sống lại được
ổn định và những chuẩn mực mới đã ổn định ở họ. Người già tuổi càng cao càng khó thích
nghi với những biến động, thay đổi trong xã hội (các cá nhân không có tính tích cực hoà vào
nhóm xã hội mới. Họ tìm đến sự ổn định trong cuộc sống. Đây là đặc trưng cho tuổi già).

17) Trình bày ekip (ekip lãnh đạo) và áp lực nhóm. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng

 Ekip

1. Khái niệm 
Ê-kíp là một đội, nhóm, tương tự từ “team” trong tiếng Anh. Đây là khái niệm
dùng để chỉ một nhóm người được tổ chức ra để cùng làm chung một công
việc, một nhiệm vụ nào đó.
Ê-kíp là một từ dùng để chỉ một nhóm người cùng thực hiện một hoạt động
hay công việc nào đó. Thường thì nhóm làm việc này sẽ ở dạng nhỏ và sự
tương tác giữa các thành viên trong ê kíp là trực tiếp. Bên cạnh đó, sự phối
hợp về mặt tâm lý và hành động trong ê kíp cần phải có sự hòa hợp và liên kết
chặt chẽ với nhau thì mới có thể hoạt động tốt (Phạm Văn Tình, 2018).
=> Như vậy, ta có thể định nghĩa: ê kíp là một nhóm xã hội cùng thực hiện một loại hoạt
động chuyên về một lĩnh vực nào đó có sự phối hợp về mặt tâm lý và hành động. Hiện nay,
thuật ngữ ê kíp được nhắc đến nhiều nhất là ở lĩnh vực quay phim, chụp ảnh, quảng cáo,...
Chẳng hạn như: ê kíp sản xuất, ê kíp làm phim, ê kíp chụp ảnh, ê kíp sự kiện,..

Đặc điểm, đặc trưng của Ê-kíp


 Ê-kíp (nhóm chính thức) có đặc điểm: các thành viên được xác định, vai trò của các
thành viên được phân chia rõ ràng, được thiết lập để thực hiện một chức năng nhiệm
vụ xã hội/tổ chức giao cho. Vì ê kíp là một loại nhóm nhỏ nên mối một ê kíp sẽ có
những đặc trưng cơ bản sau đây:
1) Điều quan trọng nhất của nhóm nhỏ là mối quan hệ qua lại trực tiếp, thường xuyên của các
thành viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
2) Hoạt động của nhóm có sự phân công rõ ràng, các thành viên trong nhóm luôn có sự kiểm
tra nhau chặt chẽ. Vì vậy, trong hoạt động chung của nhóm có sự điều hoà, phối hợp ăn ý.
3) Trong quá trình hoạt động, do sự liên hệ trực tiếp giữa các thành viên mà hình thành những
tình cảm, tâm trạng, nhu cầu, thị hiếu, niềm tin, tạo thành sợi dây ràng buộc các thành viên
của nhóm.
4) Chính các mối quan hệ tương hỗ trực tiếp giữa các thành viên trong nhóm, liên kết trong
một hoạt động chung đã ảnh hưởng đến sự nhận thức, đánh giá về nhau, tạo nên một chuẩn
mực ứng xử chung.
Tóm lại, nhóm nhỏ có một số các đặc trưng sau:
1) Có ít người (tối đa là 30 - 40 người). (Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơ sở cho số lượng
người trong nhóm nhỏ).
2) Quan hệ với nhau trực tiếp, thường xuyên.
3) Có sự hoạt động tương hỗ, thống nhất giữa các thành viên trong nhóm.
4) Các quan hệ trong nhóm mang tính thân mật, đồng điệu.
5) Tổ chức nhóm tương đối ổn định.
6) Có khả năng tái sản xuất ra các giá trị, chuẩn mực xã hội.
7) Thời gian tồn tại của ê kíp không cố định và phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau. 
Các điều kiện quyết định thời gian tồn tại của một ê kíp được phân thành 2 nhóm: nhóm điều
kiện khách quan (môi trường, quan hệ với nhóm khác, yêu cầu nhiệm vụ,...) và nhóm điều
kiện chủ quan (năng lực, ý tưởng, nhu cầu, động cơ của các thành viên,...).
Chức năng của Ê - kíp
Theo quan điểm của Donelson R., nhóm nhỏ có 5 chức năng lớn:
- Tạo điều kiện cho các cá nhân có cơ hội tiếp xúc và tạo lập quan hệ với các cá nhân khác
trong một mạng lưới xã hội có tổ chức.
- Tạo cơ hội cho những mối quan hệ thân thiện, gắn bó, tạo điều kiện cho sự phát triển nhóm
làm việc gắn bó.
- Tạo điều kiện cho tính hiệu quả, thành công, kiểm soát nguồn lực và định hướng công việc.
- Tạo ra sự ổn định về Tâm lý, giảm lo hãi, tạo cảm giác an toàn, tăng cường lòng tự  trọng…
- Tạo điều kiện cho sự sáng tạo, sàng lọc các ý tưởng, tự phát triển bản thân, hiểu bản thân và
người khác, tăng cường liên hệ liên nhân cách.
- Suy cho cùng, mọi chức năng của nhóm nhỏ hay ekip đều tạo điều kiện thuận lợi để hướng
đến nhiệm vụ chung là hoàn thành mục tiêu như mong đợi.

 Áp lực nhóm

a. Áp lực nhóm là các hiện tượng trong nhóm gây ảnh hưởng đến cá nhân buộc  cá nhân phải
thay đổi ứng xử của mình để phục tùng ý kiến của một số động hoặc phục tùng mệnh lệnh
của một quyền lực nào đó gọi là hiện tượng áp lực nhóm. 
Trong tâm lý học xã hội, áp lực nhóm tới cá nhân được gọi là a dua. Ở đây, a dua là để chỉ cá
nhân chấp nhận hay phản đối chuẩn mực về mức độ phục tùng của cá nhân đối với áp lực của
nhóm. Là hành vi được tạo ra do áp lực từ người khác, là sự nhân nhượng của cá nhân nhân
trước áp lực của thực tế hoặc do áp lực tưởng tượng của nhóm.

Biểu hiện của áp lực nhóm:


Biểu hiện của áp lực nhóm được biểu hiện qua những nội dung sau:
Đầu tiên, sự căng thẳng vì có ý nghĩ hoặc hành động của bản thân mâu thuẫn với
nhóm. 
Ví dụ, trong một nhóm làm việc với nhau, ai cũng có những ý kiến, hay những hành
động khác nhau gây ra mâu thuẫn giữa các thành viên. Tạo nên sự căng thẳng xảy ra
cãi vã.
Thứ hai, cá nhân chấp nhận sức ép của nhóm với sự miễn cưỡng. Ví dụ, khi nhóm
trưởng giao bài tập là làm tổng hợp word nhưng do chưa tổng hợp bao giờ nên không
biết làm. Những nhóm trưởng đã chỉ định và sắp hết hạn nộp nền cá nhân đó bắt buộc
phải hoàn thành bài tập.
Thứ ba, Cá nhân chối bỏ thói quen, ứng xử cũ chấp nhận một hình thức ứng xử mới
cho phù hợp với hành vi của nhóm. Ví dụ, Cá nhân chấp nhận theo số đông, trước đây
cá nhân đó có cách ứng xử không tốt với các bạn trong nhóm, nhưng do sự tác động là
lời nói từ phía các các bạn khác nên cá nhân đó từ bỏ thói quen xấu chấp nhận hòa
đồng với nhóm.
Như vậy, biểu hiện của áp lực nhóm tác động mạnh mẽ lên thực tế, nhờ đó mà có nhân thích
nghi được môi trường, xã hội, cách chung sống hợp tác với mọi người xung quanh.

Các yếu tố ảnh hưởng đến áp lực nhóm: 


1. Yếu tố cá nhân: Những người có tính độc lập ít bị tác động bởi áp lực của nhóm, cá
nhân tự giác trong mọi việc không bị trễ hẹn. Mỗi cá nhân đều có một vai trò nhất
định và hành vi cá nhân thay đổi theo vai trò của cá nhân đó trong nhóm.
2. Yếu tố nhóm: Thực tế cho thấy sự áp lực của yếu tố nhóm là rất lớn. Các cá nhân
thường theo ý kiến số đông. Ý kiến số đông chính xác hơn so với thiểu số. Xét về mặt
tâm lý, cá nhân cảm thấy an tâm hơn và ít chịu trách nhiệm cá nhân hơn khi họ hòa
đồng với số đông làm theo số đông.
3. Yếu tố thời gian và hoàn cảnh: Yếu tố thời gian tác động trực tiếp lên cá nhân, thời
gian sẽ làm cho áp lực cho cá nhân đó thúc dục cá nhân phải hoàn thành công việc
đúng thời hạn, nếu không thì sẽ bị khiển trách từ các cá nhân khác làm chậm tiến độ
của nhóm. Yếu tố hoàn cảnh cũng gây áp lực không kém khi chẳng may cá nhân đó
không có các thiết bị hỗ trợ cho việc làm việc nhóm, hay là chẳng may gặp phải vấn
đề cấp khi xảy ra sự việc ngoài ý muốn.

18) Trình bày quan hệ xã hội và xã hội hóa cá nhân. Phân tích và cho ví dụ, ứng
dụng

 Quan hệ xã hội
Quan hệ xã hội là các mối quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội,
các nhóm, các cá nhân với nhau, với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội,
khác biệt nhau bởi vị trí xã hội và chức năng trong đời sống xã hội.  
Quan hệ xã hội là các quan hệ bền vững, ổn định, lặp lại, có mục đích, có
hoạch định, có sự phối hợp hành động của các chủ thể hoạt động xã hội, được
hình thành trên cơ sở những tương tác xã hội.            
Các loại quan hệ xã hội 
Theo vị thế: quan hệ xã hội theo chiều ngang và quan hệ xã hội theo chiều dọc (bình
đẳng và bất bình đẳng). 
Theo chủ thể: quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn, giữa các nhóm xã hội nhỏ, giữa
các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữa các cá nhân. 
Theo nội dung: quan hệ tình cảm thuần tuý (quan hệ sơ cấp) và quan hệ xã hội (quan
hệ thứ cấp).  
 Quan hệ tình cảm dựa trên những đặc điểm sinh học hoặc tâm lý có sẵn ở các cá nhân
như giới tính, vẻ bề ngoài, quan hệ huyết thống, sở thích...  
 Quan hệ xã hội dựa trên những đặc điểm xã hội đạt được của cá nhân như nghề
nghiệp, học vấn, địa vị, quyền lực...  
 Nhưng không có nghĩa là quan hệ tình cảm không phải là quan hệ xã hội, mà chủ yếu
nó mang ít tính xã hội hơn. Đôi khi, quan hệ tình cảm lại trở thành quan hệ xã hội như
trong kinh doanh và ngược lại, chính quan hệ xã hội có thể tạo ra quan hệ tình cảm.
Vai trò của quan hệ xã hội
Đối với cá nhân: Quan hệ xã hội giúp các cá nhân trong xã hội có sự kết nối, tương
tác, học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau đem đến những điều thú vị trong cuộc sống. Khi bạn có
vòng tròn bạn bè những người bạn đánh giá cao về bạn các tương tác xã hội trở nên
rất thú vị. Đó là cách tương tác với người khác làm tăng thêm sự thú vị và niềm vui
cho cuộc sống.
Đối với tổ chức: Có được quan hệ xã hội tốt giúp tổ chức xây dựng và duy trì hình
ảnh, uy tín cũng như sự phát triển của tổ chức: xây dựng và quảng bá thương hiệu đối
với cộng đồng; khuyến khích và tạo động lực cho nhân viên/thành viên tích cực làm
việc, đóng góp vì quyền lợi của tập thể.
Vai trò của quan hệ xã hội không chỉ dừng lại ở việc thúc đẩy quá trình hoàn thiện của
1 cá nhân, 1 tổ chức, giúp dễ dàng hòa nhập vào vòng quay công nghiệp hóa - hiện
đại hóa hiện nay mà còn góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế - chính trị – xã hội
của đất nước.
Đối với các lĩnh vực xã hội:
+ Về văn hóa, quan hệ xã hội giúp tạo sự khăng khít trong xã hội, tạo nên sự
giao lưu về văn hóa cũng như kinh tế của các quốc gia trong xã hội, tiếp thu
những nền văn hóa tiến bộ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Tạo sự hội nhập
giữa các quốc gia trên thế giới.
+ Về lĩnh vực kinh tế: Nền kinh tế được giao lưu, công nghệ khoa học tiến bộ,
các công cụ sản xuất tiên tiến được áp dụng trong các ngành công nghiệp, giao
lưu trao đổi buôn bán giữa các nước làm cho xã hội ngày thêm lớn mạnh, cuộc
sống người dân ngày càng cải thiện.
+ Về lĩnh vực chính trị: Quan hệ xã hội không phải là các quốc gia can thiệp
vào chính trị của nhau mà là tạo sự hội nhập, tôn trọng lợi ích của nhau, cùng
nhau vượt qua khó khăn, thách thức để bảo vệ an ninh, hòa bình của thế giới.

 Xã hội hóa cá nhân


- “Khái niệm Xã hội hoá cá nhân là quá trình hình thành các đặc trưng tâm lý ở người phù
hợp với các quy tắc chuẩn mực mà xã hội đó quy định.”
- Theo hướng Phân tâm học: Nó là một quá trình cá nhân tự gạt bỏ những bản năng tự nhiên,
cá nhân tự học cách chế ngự những bản năng vô thức tự khuôn mình, ép mình vào các chuẩn
mực mà xã hội mong đợi.
- Theo những nhà Tâm lý học xã hội: xem xét quá trình xã hội hoá ở phương diện cá nhân
hoà nhập các mối quan hệ người – người thích nghi với những nhóm xã hội cụ thể.
Xem xét tâm lý của cá nhân được hình thành, biến đổi như thế nào.

Một số đặc điểm của quá trình xã hội hoá


Xã hội hoá là quá trình thích nghi liên tục vào các môi trường, các nhóm xã hội khác
nhau. Thông qua đó làm cho tâm lý của con người được phát triển. Trong tâm lý học
xã hội, xã hội hoá được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi
cá nhân khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội.
Mỗi giai đoạn của cuộc đời có các nhóm cơ bản khác nhau, hoạt động khác nhau tạo
nên những phẩm chất tâm lý khác nhau.
Mỗi giai đoạn của cuộc đời có những đặc trưng tâm lý thay đổi và để lại dấu ấn dưới
dạng kinh nghiệm, chi phối mạnh mẽ đến sự thích nghi cá thể ở giai đoạn sau.
Xã hội hoá của cá nhân diễn ra không đồng đều ở các giai đoạn khác nhau của cuộc đời.
Phân loại quá trình xã hội hoá. 
Xã hội hoá xét từ hai khía cạnh: mặt cắt ngang, mặt dọc 
Xã hội hoá nhìn theo mặt cắt ngang: Đó là quá trình thích nghi để hoà nhập với một
nhóm xã hội cụ thể.
Xã hội hoá nhìn theo mặt dọc: là quá trình cá nhân thích nghi liên tục vào các nhóm
xã hội trong toàn bộ cuộc đời, nó bị chi phối bởi một hoạt động chủ đạo trong từng
giai đoạn đó.
Quá trình xã hội hoá xét theo lứa tuổi
Quá trình xã hội hoá xét theo sự phát triển lứa tuổi (lát cắt dọc), các phẩm chất tâm lý
cá nhân được nảy sinh, hình thành theo mỗi một lứa tuổi thông qua một hoạt động chủ
đạo.
Các giai đoạn phát triển:
(1) Từ (0 – 12 tháng tuổi): hoạt động chủ đạo là giao tiếp với người mẹ (người nuôi trẻ). Vì
vậy làm phát triển các cảm xúc giữa nó và người mẹ, các cơ quan cảm giác, xúc giác phát
triển. Từ các cảm giác thỏa mãn sinh học chuyển dần sang những cảm xúc mang tính xã hội.
Vì vậy ta thấy ở những đứa trẻ chỉ cần nghe thấy những tiếng người mẹ là mắt nó sáng lên
(phản xạ có điều kiện). Các cơ quan giác quan phát triển như: mắt, tai. Trẻ bắt đầu có trí nhớ
nhận lại.
(2) Từ (1 – 3 tuổi): Hoạt động chủ đạo là chơi trên đồ vật tạo nên các hiện tượng tâm lý. Các
đặc điểm tâm lý của trẻ liên quan đến việc trẻ khám phá đồ vật. Chơi trên đồ vật làm cho trẻ
phát triển trí tuệ, tri thức, hiểu biết, tri giác. Chính chơi trên đồ vật đứa trẻ nó vận động, từ đó
tư duy bằng tay phát triển nhờ đồ vật.
Ở độ tuổi 3, là tuổi khủng hoảng, lần đầu tiên đứa trẻ tự biết về bản thân mình.
(3) Từ (3 – 6 tuổi): hoạt động chủ đạo là các trò chơi có chủ đề, trò chơi sắm vai. Trẻ phải
đến trường để giao tiếp với bạn bè. Nhờ đó nó hiểu vai trò của các nhân vật trong xã hội, hiểu
biết các quan hệ xã hội, xuất hiện nhiều hành vi mang tính chất bắt chước. Các phẩm chất
tâm lý được nảy sinh: tư duy hành động và tư duy trực quan hình ảnh. Tư duy trực quan hình
ảnh xuất phát từ việc trẻ lặp lại, tái tạo thông qua sự bắt chước những hành động của người
lớn trên đồ chơi.
Ở giai đoạn này tư duy ngôn ngữ bắt đầu phát triển (thông qua hệ thống đồ chơi và bắt chước.
Ở giai đoạn 6 tuổi, với sự hoàn thiện của bộ não đứa trẻ chuyển từ tư duy bằng tay sang tư
duy ngôn ngữ.
(4) Từ (6 – 12 tuổi): Hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập. Các quan hệ xã hội của trẻ
không nhiều, quá trình xã hội hoá là quá trình làm tăng các tri thức của đứa trẻ, phát triển tri
thức, tư duy, trí nhớ. Nó vẫn còn một số biểu hiện tri giác không chủ định do ảnh hưởng của
ngoại cảnh bên ngoài tác động vào tư duy của đứa trẻ. Chú ý không chủ định phát triển, đặc
biệt trong giai đoạn này các phẩm chất: cẩn thận, kiên trì, trung thực phải được dạy ở đây.
Nếu không dạy các phẩm chất này, đến giai đoạn sau nó rất khó hình thành.
(5) Từ (13 – 15 tuổi): Cùng với hoạt động học tập thì hoạt động giao tiếp cũng mang tính chủ
đạo. Ở giai đoạn này trẻ có sự khủng hoảng lứa tuổi lần thứ hai hướng về quan hệ Người –
người. Trẻ có phân biệt về mặt giới tính. Một số phẩm chất cơ bản được hình thành như: lòng
tự trọng, xấu hổ, năng lực tự đánh giá, tự khẳng định mình. Đặc biệt là ở trẻ xuất hiện một
nhu cầu về tình bạn. Vì vậy, trong lứa tuổi này có sự khủng hoảng giữa gia đình và đứa trẻ.
Trẻ tự đánh giá về mình: mình như thế nào, phân biệt được các quan hệ xã hội, có sự thay đổi
về cơ thể một cách rõ rệt. Ở giai đoạn này, các quan hệ giao tiếp nó hướng đến mâu thuẫn rất
nhiều giữa cha mẹ và con cái.
(6) Từ (15 – 18 tuổi): Giai đoạn cuối của vị thành niên. Ở giai đoạn này cơ thể phát triển cân
đối. Trẻ có một vốn kinh nghiệm cá nhân tương đối. Cơ quan giác quan phát triển thiên về
khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội. Ở lứa tuổi này đánh giá năng lực của mình cao hơn
thực tế. Đời sống tình cảm và trí tuệ phát triển cao
(7) Từ (18 – 24, 25 tuổi): hoạt động học tập và giao tiếp. Có sự phát triển hài hoà về các chức
năng tâm lý và sinh lý. Đặc biệt là về tâm lý, việc tiếp thu học tập có sự lựa chọn, lĩnh hội các
giá trị vật chất và tinh thần có chọn lọc theo nghề nghiệp.
(8) Từ (25 – 60): Hoạt động nghề nghiệp làm cơ sở để phát triển tâm lý. Những người ở độ
tuổi 55, 60 các cơ quan giác quan giảm độ nhạy cảm, việc tiếp nhận thông tin kém vì hưng
phấn kém ức chế lớn. Những người có hệ thần kinh ức chế mạnh hưng phấn kém thường hay
bảo thủ, họ lý giải cuộc sống bằng kinh nghiệm. Các sự kiện xã hội nó luôn luôn thay đổi, họ
lại lý giải bằng kiến thức cũ, do đó không đánh giá một cách đúng đắn, khoa học.
(9) Ở giai đoạn (50 – 55 tuổi): đó là giai đoạn khủng hoảng ở tuổi già. Khi chúng ta đang
khoẻ mạnh trở nên già yếu, các cơ quan giác quan kém đi. Họ trở nên hụt hẫng.
Kết luận: 
- Xã hội hoá là sự thay đổi từ nội tâm con người, làm nảy sinh nhận thức, nhu cầu phát triển
theo hướng hòa nhập vào xã hội với năng lực phát triển thông qua tác động bên ngoài.
- Các phẩm chất tâm lý giúp cho con người thích nghi cao nhất với các quan hệ trong tự
nhiên, xã hội và trọng bản thân mình. Sự phân chia lứa tuổi như trên nó chỉ có tính tương đối
vì sự phát triển tâm lý của con người thường đan xen vào nhau và phụ thuộc vào các đặc
trưng tâm lý của mỗi người.
19) Trình bày quan hệ liên nhân cách. Phân tích và cho ví dụ, ứng dụng

● Khái niệm: Theo Trương Oanh (2022): “Quan hệ liên nhân cách được hiểu
là những mối quan hệ về mặt tâm lý – xã hội giữa các chủ thể trong một nhóm
xã hội xác định. Quan hệ liên nhân cách là quan hệ giữa người với người, giữa
cá nhân với cá nhân trên cơ sở của những cái chung về nhận thức, đồng cảm
và sự đồng nhất tâm trạng ở mức độ nhất định”.
Ví dụ: bạn bè, tình yêu, hôn nhân và gia đình

● Đặc điểm:
- Quan hệ liên nhân cách gắn bó chặt chẽ với quan hệ xã hội.

- Là sự phản ánh trong ý thức của quan hệ xã hội.

- Diễn ra trên mối liên hệ tình cảm trong nhóm.

- Những người tham gia vào quan hệ liên nhân cách vừa thực hiện vai trò của
cá nhân trong nhóm và vai trò xã hội của nhóm.

- Trong mối quan hệ liên nhân cách còn có các quá trình hiểu biết, tương tác
lẫn nhau và có sự tác động qua lại.

-> Do đó, trong mối quan hệ xã hội đồng thời tồn tại mối quan hệ liên nhân
cách.

● Ví dụ: Mối quan hệ giữa một nhân viên và quản lý của một công ty:
- Cả hai người đều có những phẩm chất, kỹ năng và đặc điểm riêng, và
mối quan hệ giữa họ sẽ phụ thuộc vào cách họ tương tác với nhau.
- Nếu quản lý thể hiện sự tôn trọng và động viên đối với nhân viên, và
nhân viên đáp lại bằng sự cam kết và nỗ lực làm việc, mối quan hệ
giữa họ sẽ được củng cố và cải thiện. Tuy nhiên, nếu quản lý không
tôn trọng nhân viên hoặc đưa ra các yêu cầu không thích hợp, và nhân
viên không chấp nhận hay không thể đáp ứng, mối quan hệ giữa họ sẽ
bị ảnh hưởng tiêu cực, gây ra căng thẳng và mâu thuẫn trong công
việc.
- Mối quan hệ liên nhân cách giữa nhân viên và quản lý ảnh hưởng đến
cả hai người và cũng ảnh hưởng đến hiệu quả và thành công của công
việc. Do đó, việc tạo ra một mối quan hệ liên nhân cách tích cực, tôn
trọng và chuyên nghiệp trong môi trường làm việc là rất quan trọng.

● Yếu tố tâm lý xã hội của quan hệ liên nhân cách:


- Sự gần gũi
+ Mối quan hệ liên nhân cách thường có sự gần gũi về thể chất,
địa lý, tâm lý, sự thân thuộc
+ Một số công trình nghiên cứu cho thấy khoảng cách địa lý ngày
càng gần thì càng có nhiều mối quan hệ liên nhân cách.
+ Tạo điều kiện cho mối quan hệ liên nhân cách bền chặt và thân
thuộc hơn
- Sự giống nhau và khác nhau
+ Giống nhau tương đối về mặt lợi ích, quan điểm, sở thích hay
cách giao tiếp dễ hình thành mối quan hệ liên nhân cách - xu
hướng tìm kiếm người giống mình
+ Sự bổ sung lẫn nhau cũng cần thiết trong mối quan hệ này
+ Mặt khác, sự hấp dẫn về tài và đức có thể bổ sung cho thiếu sót
của bản thân, là điều kiện để thiết lập nên mối quan hệ
- Sự tương tác
+ Tương tác là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các đối tượng
qua các hoạt động trao đổi thông tin hướng tới mục đích chung
nào đó
+ Hoạt động tương tác có đặc điểm:

➨ Cùng mục đích và lợi ích chung cho các cá nhân

➨Các cá nhân tham gia hoạt động ở trong cùng 1 không gian
thời gian tác động trực tiếp qua lại, trao đổi thông tin, tư tưởng,
tình cảm

➨Giữa các cá nhân có sự phân công, tổ chức, lãnh đạo

➨Cơ sở hoạt động đồng thời (hệ thống xử lý nhiều công việc
cùng 1 lúc) cũng góp phần hình thành mối quan hệ liên nhân
cách

+ Có 2 loại tác động:


➨Cạnh tranh: dẫn đến những hậu quả tiêu cực, chẳng hạn như
làm suy yếu mối quan hệ giữa các bên, gây ra căng thẳng và
xung đột, và làm giảm hiệu quả và tốc độ của các hoạt động.
➨Hợp tác: có thể đem lại những lợi ích lớn, chẳng hạn như
cải thiện mối quan hệ, tăng tốc độ và hiệu quả hoạt động và
tạo ra giá trị mới cho tất cả các bên liên quan.
- Thân phận
+ Thân phận là cá nhân nhận thức được về bản thân, vị trí của
mình trong các mqh với cá nhân khác trong 1 hoàn cảnh nhất
định
+ Đặc trưng:
➨Xác định mình là ai, vị trí trong nhóm xã hội
➨Sự bày tỏ bản thân thể hiện sự khác biệt với người khác. Nếu
hình ảnh bản thân thành công sẽ gây dựng được sự tích cực.
Ngược lại, nếu bản thân không ăn khớp với hình ảnh đã gây
dựng sẽ gây sự căng thẳng trong mối quan hệ.
+ Sự phụ thuộc của bản thân vào xã hội:
➨Các yếu tố trong hệ thống xã hội như đất nước, chủng tộc,
tôn giáo, nhóm tập thể,... đã hình thành nếp sống, cách suy nghĩ
trong hành vi xã hội của cá nhân -> thân phận điển hình
➨Giá trị tương tác của thân phận xã hội còn phụ thuộc vào
nhóm xã hội nhất định với giá trị nội tại (bên trong) do nhóm
đó tạo ra
➨Giới tính cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự khác
biệt
+ Sự thay đổi thân phận:
➨Thân phận không mang tính cố định mà có thể thay đổi nếu
bản thân phấn đấu
➨Thân phận cá nhân được hình thành từ thời thơ ấu sang
trưởng thành
➨Các cơ chế hình thành thân phận: cơ chế đồng nhất hóa, ảnh
hưởng của những quy chiếu xã hội, các quá trình đánh giá cá
nhân và sự ứng tác

20) Trình bày thủ lĩnh và cấu trúc của nhóm xã hội (đặc điểm tâm lý xã hội). Phân
tích và cho ví dụ, ứng dụng
● Khái niệm: Trong một tập thể bao giờ cũng xuất hiện những người cầm đầu các
nhóm không chính thức (nhóm tự phát). Những người đó được coi là thủ lĩnh. Đây là
hiện tượng bình thường trong quá trình phát triển của tập thể như là kết quả của sự tác
động qua lại mang tính chất liên nhân cách. Cần phân biệt giữa thủ lĩnh và thủ trưởng

- Thủ trưởng: là người đứng đầu một nhóm chính thức đảm nhiệm việc lãnh đạo
quản lý nhóm. Thủ trưởng xuất hiện do yêu cầu từ bên ngoài. Do yêu cầu của
hoạt động chung người ta phải bổ nhiệm hoặc cho bầu thủ trưởng
- Thủ lĩnh: là người cầm đầu một nhóm không chính thức. Thủ lĩnh xuất hiện do
yêu cầu của nội bộ nhóm tự phát – mọi người tự nguyện thừa nhận người cầm
đầu chứ không phải do bên ngoài áp đặt vào.

Thủ lĩnh và thủ trưởng đều có chức năng điều khiển hoạt động chung của nhóm
và điều chỉnh các mối quan hệ trong nhóm nhưng bằng các phương thức khác
nhau. Một bên là bắt buộc còn một bên là tự giác.

● Có nhiều loại thủ lĩnh:

- Căn cứ vào phong cách có ba loại:


+ Thủ lĩnh độc đoán: tự quyết mọi vấn đề, không cần ý kiến của người xung
quanh.
+ Thủ lĩnh dân chủ: quyết định dựa trên căn cứ của những người xung quanh.
+ Thủ lĩnh pha trộn: pha trộn giữa độc đoán và dân chủ.
- Căn cứ vào đặc điểm hoạt động có hai loại thủ lĩnh:
+ Thủ lĩnh vạn năng: tình huống nào cũng cầm đầu
+ Thủ lĩnh tình huống: chỉ cầm đầu trong từng tình huống.
- Căn cứ vào nội dung hoạt động có ba loại:
+ Thủ lĩnh đề xuất: loại này chỉ nghĩ ra việc, không làm.
+ Thủ lĩnh thực hiện: chỉ thực hiện các quyết định của nhóm.
+ Thủ lĩnh vừa đề xuất vừa thực hiện: nghĩ được mà tổ chức làm cũng được.
- Căn cứ vào mức độ công khai làm thủ lĩnh trong tập thể có hai loại:
+ Thủ lĩnh công khai: công khai làm thủ lĩnh ai cũng biết.
+ Thủ lĩnh ngầm: không công khai làm thủ lĩnh nhưng ai cũng tín nhiệm nghề
theo khi phát biểu. Loại này chỉ xuất hiện tùy từng tình huống.

● Vai trò của thủ lĩnh trong tập thể.


Thủ lĩnh và thủ trưởng có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp. Trường hợp lý tưởng
là hai vai trò này trùng hợp với nhau. Trong trường hợp không trùng hợp vai trò của
thủ lĩnh có thể có hai mặt:
- Vai trò tích cực nếu muốn giúp tập thể.
- Vai trò tiêu cực khi không muốn giúp tập thể. Đặc biệt nếu thủ lĩnh bất đồng quan
điểm với thủ trưởng, không ủng hộ thủ trưởng thì tập thể sẽ khó đoàn kết. Nếu thủ
trưởng không mạnh mẽ, cứng rắn thì thủ lĩnh dễ lấn át. Một tập thể sẽ là tập thể lý
tưởng khi thủ trưởng và thủ lĩnh là một.
Trong trường hợp không trùng hợp, thủ trưởng cần khéo léo lôi kéo tận dụng vai trò
của thủ lĩnh đối với công việc chung.
● Cấu trúc của nhóm xã hội:
- Cấu trúc chính thức: là những mối quan hệ mang tính chất công việc được quy
định trước, phụ thuộc vào chức năng xã hội mà nhóm phải thực hiện, trong đó các vị
trí được quy định một cách rõ ràng. Nhóm chỉ thực hiện tốt chức năng của nó khi các
vị trí đó hoạt động một cách hiệu quả và có sự liên hệ chặt chẽ với các vị trí khác.

+ Vị thế có thể coi như quyền tự quyết của cá nhân khi cá nhân chiếm giữ một vị trí
trong các quan hệ trong nhóm từ khi bắt đầu và trong suốt quá trình duy trì vị trí đó.
Trong thực tế vị thế thường được hiểu là biểu hiện các quyền lực, các quyền lợi, các
đặc quyền gắn với một vị trí.
+ Vị trí là chức năng của cá nhân khi chiếm giữ vị trí đó đóng góp cho hoạt động của
nhóm. Các vị trí có thể có các chức năng khác nhau. Cá nhân chiếm giữ một vị trí cần
thực hiện các chức năng tương ứng. Các chức năng đó có thể là chức năng thực hiện,
giám sát hay lên kế hoạch…
- Cấu trúc không chính thức: là những mối quan hệ giữa các thành viên mang tính
xúc cảm được quy định bởi các đặc điểm tâm lý xã hội của các thành viên. Cấu trúc
không chính thức góp phần quan trọng trong việc tạo ra bầu không khí tâm lý của
nhóm.
+ Vị trí: là xúc cảm và sự gắn bó xúc cảm giữa các cá nhân. Đây là hiện tượng mang
tính quy luật. Chính các mối liên hệ về mặt xúc cảm giữa các thành viên trong nhóm
tạo ra cấu trúc không chính thức của nhóm.
→ Cấu trúc chính thức luôn tồn tại song hành với cấu trúc không chính thức.
21) Trình bày tập thể và quá trình hình thành tập thể lao động. Phân tích và cho ví
dụ, ứng dụng
*Định nghĩa: Tập thể là một tập đoàn người liên kết bền vững, có tổ chức, mục tiêu
và nhiệm vụ hoạt động phù hợp với các giá trị xã hội và lợi ích xã hội, có cơ quan
quản lý riêng và là đơn vị độc lập về mặt pháp lý.
*Những điều kiện để cho một tập thể tồn tại:
• Điều kiện bên ngoài:
- Được pháp luật công nhận
- Do nhu cầu của xã hội
- Có cơ sở vật chất nhất định
- Có người lãnh đạo
- Có các môi trường xung quanh tập thể và các mối liên hệ của nó với các tập thể
khác.
• Những điều kiện bên trong
- Năng lực, tính cách của các thành viên
- Lề lối làm việc của người lãnh đạo
- Các quan hệ chính thức, không chính thức.
*Những dấu hiệu đặc trưng:
- Là nhóm xã hội được nhà nước công nhận về mặt pháp lý.
- Có mục đích hoạt động phù hợp với định hướng chung của xã hội, đem lại lợi ích
cho xã hội và cá nhân.
- Các quan hệ giữa các thành viên trong tập thể do nhiệm vụ, mục đích hoạt động quy
định.
- Các quan hệ xã hội trong tập thể được quy định bởi tính pháp lý được thể chế hoá
bằng nội quy, quy chế,... tập thể tồn tại trong một thời gian và không gian nhất định.
- Mọi hoạt động đều xuất phát từ ý thức tự giác cao, từ tình cảm trí tuệ của mỗi người.
- Có cơ quan quản lý, có người lãnh đạo điều hành, phối hợp hài hòa giữa lợi ích xã
hội và cá nhân vì mục tiêu phát triển.
- Tính cố kết, bền vững trong tập thể cao
- Có các mối quan hệ pháp lý với các nhóm xã hội khác.
- Hoàn thành các chức năng nhất định do xã hội quy định (sản xuất, nghiên cứu khoa
học,...).
* Tập thể lao động là một nhóm xã hội bao gồm nhiều thành phần tham gia với các
mức độ nhận thức và sự hiểu biết khác nhau, gắn bó với nhau bằng một hoạt động
chung phù hợp với yêu cầu của sự phân công lao động xã hội.

Bậc một: bao hàm các tâm thế bậc thấp (như quan niệm của Uznatze),
hình thành trên cơ sở các nhu cầu và tình huống đơn giản nhất.
+ Bậc hai: các định vị phức tạp hơn, được hình thành trên cơ sở và các
tình huống giao tiếp của con người trong các nhóm nhỏ.
+ Bậc ba: các định vị mà trong đó định hướng chung của các sở thích
được hình thành trong các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể.
+ Bậc bốn: bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giá trị
của nhân cách, nó điều chỉnh hành vi và hoạt động của nhân cách trong
những tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất định đối với nhân
cách.

You might also like