You are on page 1of 23

TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM NGHỀ NGHIỆP

Bài 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM


NGHỀ NGHIỆP

I- Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học


1- Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học

Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ các hiện tượng tâm lý với các
đặc điểm, quy luật và cơ chế của nó, những hiện tượng tâm lý này:

- Trước hết, có cơ sở tự nhiên là hoạt động của hệ thần kinh và hoạt động
biến đổi nội tiết (sinh lý). Ví dụ: khi sợ tái mét mặt, nổi hết cả da gà, khi lo lắng
mất ngủ, hoặc rối loạn tiêu hóa.

- Thứ hai, những hiện tượng tâm lý này chỉ được nảy sinh và hình thành
trong hoạt động, gắn liền với điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể. Ví dụ, phong tục,
tập quán, truyền thống, kinh nghiệm sống…

Với hai tính chất cơ bản trên của hiện tượng tâm lý mà khoa học tâm lý học
nghiên cứu, chúng ta nhận thấy, tâm lý học không phải là một môn khoa học tự
nhiên hay một môn khoa học xã hội đơn thuần, mà tâm lý học vừa là môn khoa
học tự nhiên nhưng đồng thời cũng vừa là môn khoa học xã hội.

2- Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học

Tâm lý học nghiên cứu:

- Bản chất và các quy luật của hoạt động tâm lý.

- Các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý.

- Những cơ sở khách quan và chủ quan tạo ra tâm lý người.

- Cơ chế hình thành và biểu hiện của hoạt động tâm lý.

- Chức năng vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người.

1
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lý học sẽ đưa ra những giải pháp
hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lý, sử dụng nhân tố tâm lý trong con
người một cách có hiệu quả nhất.

II- Bản chất hiện tượng tâm lý người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng

1- Tâm lý là sản phẩm phản ánh hiện thực khách quan bằng hoạt động
của mỗi người.

Khi hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não, chúng
sẽ để lại hình ảnh của hiện thực khách quan trên não. Hình ảnh đó gọi là hình ảnh
tâm lý.

Như vậy, hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào não. Song, hình ảnh của phản ánh tâm lý khác xa về chất so với hình
ảnh phản ánh của các hình thức phản ánh khác (phản ánh cơ học, vật lý, hóa học,
sinh lý, xã hội…). Sự khác nhau ở đây là việc phản ánh tâm lý mang:

- Tính tích cực: nghĩa là kết quả của lần phản ánh trước ảnh hưởng
trực tiếp tới lần phản ánh sau. Nhờ đó con người tích lũy được kinh nghiệm trong
cuộc sống, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển. Tục ngữ có câu: Mỗi lần ngã là
một lần bớt dại / Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần.

- Tính sinh động, sáng tạo: là việc cùng một hiện thực khách quan tác
động, nhưng ở những con người khác nhau và ngay trong cùng một con người
thì sự phản ánh khác nhau.

Ví dụ:

+ Với tình yêu: Đàn ông yêu bằng mắt - Phụ nữ yêu bằng tai.

+ Trong cùng một con người: Khi yêu một trăm chỗ lệch cũng kê cho
vừa, khi ghét bới bèo ra bọ …

2
+ Hình ảnh tâm lý về cuốn sách trong đầu của người biết chữ, khác xa về
chất so với hình ảnh vật lý có tính chất “chết cứng”, hình ảnh vật chất của chính
cuốn sách đó ở trong gương.

Sự phản ánh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo do nhiều yếu tố chi phối:
giới tính, hoàn cảnh, thời đại, nền văn hóa, giai cấp, lứa tuổi, giáo dục, đặc điểm
giải phẫu sinh lý, trạng thái tâm sinh lý, nghề nghiệp…Nếu các yếu tố này khác
nhau thì sự phản ánh sẽ khác nhau.

- Tính chủ thể: là sự phản ánh tâm lý mang đậm màu sắc cá nhân (hay
nhóm người) mang hình ảnh tâm lý đó, hay nói khác đi, hình ảnh tâm lý là hình
ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện
ở chỗ: mỗi chủ thể, trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu
biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng, tính khí,
năng lực)… vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.

Tuy nhiên, không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác
quan và não là có hình ảnh phản ánh tâm lý. Mà muốn có hình ảnh phản ánh tâm
lý phải thông qua con đường gián tiếp hoạt động (cầm, nắm, đo, đếm, sờ, mó,...)
của mỗi cá nhân thì thuộc tính của sự vật hiện tượng mới được bộc lộ, con người
mới cảm nhận được, mới có hiện tượng phản ánh tâm lý.

Qua việc phân tích luận điểm một của bản chất hiện tượng tâm lý người, ta
có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:

- Tâm lý người có nguồn gốc hiện thực khách quan, vì thế, khi nghiên cứu
cũng như khi hình thành, cải tạo tâm lý người, phải nghiên cứu hoàn cảnh trong
đó con người sống và hoạt động.

- Tâm lý người mang tính chủ thể, vì thế, trong dạy học cũng như trong
ứng xử, phải chú ý nguyên tắc quan sát đối tượng (tức chú ý đến đặc điểm riêng
của con người).

3
- Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức
hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm
lý con người.

2- Tâm lý là chức năng của não

Mối liên hệ giữa não và tâm lý là một trong những vấn đề cơ bản của việc lý
giải cơ sở tự nhiên, cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý người.

Khi có hiện thực khách quan tác động vào não, bộ não tiếp nhận tác động
của hiện thực khách quan dưới dạng các xung động thần kinh, cùng với những
biến đổi lý hóa ở từng nơ-ron thần kinh, từng xi-náp, các trung khu thần kinh ở
bộ phận dưới vỏ và vỏ não, làm cho bộ não hoạt động theo các quy luật thần kinh,
tạo nên hiện tượng tâm lý này hay hiện tượng tâm lý khác theo cơ chế phản xạ.

Như vậy, tâm lý là kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản
xạ của não. Vì vậy, các hiện tượng tâm lý vừa là hoạt động phản ánh, vừa là hoạt
động phản xạ.

Tuy nhiên:

- Không phải cứ có não và vỏ não là có hiện tượng tâm lý. Đó mới là điều
kiện cần, cái quyết định tâm lý là ở chỗ: não phải ở trạng thái hoạt động mới có
tâm lý.

- Tâm lý không phải do não sinh ra giống như gan tiết ra mật, mà não chỉ
quy định hình thức biểu hiện của hiện tượng tâm lý. Đó là quy định về tốc độ
biểu hiện nhanh hay chậm, cường độ mạnh hay yếu của hiện tượng tâm lý. Còn
nội dung của hiện tượng tâm lý do hiện thực khách quan, do kinh nghiệm sống,
do hoạt động của cá nhân quy định.

3- Tâm lý là kinh nghiệm xã hội, lịch sử của loài người biến thành cái
riêng của từng người

Tâm lý người bao giờ cũng phản ánh hiện thực khách quan, mang bản chất
xã hội, mang tính lịch sử của những điều kiện mà con người là một thành viên

4
sống và hoạt động. Do đó, tâm lý người bao giờ cũng mang bản chất xã hội và
mang tính lịch sử.

❖ Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý

Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý thể hiện ở nội dung xã hội và nguồn
gốc xã hội.

- Nội dung xã hội: Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu
của con người trong các quan hệ xã hội. Vì thế, tâm lý người mang đầy đủ dấu
ấn xã hội - lịch sử của loài người mà họ là một thành viên sống và hoạt động
trong xã hội đó.

- Nguồn gốc xã hội: Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan
(thế giới tự nhiên, thế giới xã hội), trong đó, nguồn gốc xã hội là cái quyết định
tâm lý con người, thể hiện qua các mối quan hệ xã hội: đó là quan hệ đạo đức,
pháp quyền, quan hệ giữa con người với con người, quan hệ gia đình, làng xóm,
cộng đồng,... Các quan hệ này quyết định bản chất tâm lý người. Nếu thoát ly
khỏi các quan hệ này thì tâm lý con người sẽ mất bản tính con người, hoặc rối
loạn, hoặc phát triển không bình thường.

Trong thực tế, người ta đã tìm được những đứa trẻ bị thú nuôi. Ở những
đứa trẻ này, về cấu tạo, hình hài là một con người, nhưng không có các phẩm
chất tâm lý người. Chúng không có dáng đứng thẳng và không đi bằng hai chân,
không có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ, không có khả năng lao động sáng tạo...

❖ Tính lịch sử của hiện tượng tâm lý

Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội vốn
kinh nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp mà ở
đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Trong tất cả các yếu tố trên, hoạt động của con
người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định.

Chính vì thế, tâm lý của mỗi cá nhân vừa mang những nét chung, đặc trưng
lịch sử - xã hội, vừa mang nét riêng tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân. Bởi vậy:

5
- Trong quan hệ cuộc sống, đặc biệt trong công tác giáo dục, chúng ta nên
đến với đối tượng bằng con mắt khả quan, đừng đến với đối tượng bằng con mắt
định kiến.

- Để mở rộng thế giới tâm lý, tinh thần của con người phong phú, cần mở
rộng các mối quan hệ trong xã hội. Tục ngữ, ca dao có câu rằng: Có đi thì mới
tới nơi/ Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.

Kết luận: Ba luận điểm trên giúp chúng ta hiểu một cách khoa học về bản
chất hiện tượng tâm lý người.

Tâm lý người là hiện tượng tinh thần do hiện thực khách quan tác động vào
giác quan và não một con người cụ thể gây ra, có tính xã hội - lịch sử, tính giai cấp,
tính dân tộc, mang màu sắc riêng của bản thân mỗi người.

2- Phân loại hiện tượng tâm lý

Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lý. Song, cách phân loại phổ biến
là dựa theo thời gian tồn tại của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân
cách. Theo cách này, người ta chia ra ba loại chính.

a) Quá trình tâm lý

Là những hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc.

Quá trình tâm lý thường diễn ra trong một thời gian ngắn, kết thúc tương
đối rõ ràng, bao gồm:

❖ Quá trình nhận thức

Là quá trình phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách
quan.

Dựa vào lý luận nhận thức của triết học Mark, người ta chia ra ở con người
có các quá trình nhận thức sau:

- Nhận thức cảm tính: là quá trình phản ánh những thuộc tính bên ngoài
không bản chất của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác

6
quan. Nhờ có nhận thức cảm tính mà con người hiểu biết về thế giới khách quan.
Nó diễn ra với hai giai đoạn nhận thức: Cảm giác và Tri giác.

- Nhận thức trung gian: phản ánh thuộc tính khái quát bên ngoài không
bản chất của một nhóm sự vật, hiện tượng cùng loại; giúp con người lưu giữ được
hình ảnh của sự vật, hiện tượng khi chúng thôi không còn trực tiếp tác động. Đó
là quá trình Trí nhớ.

- Nhận thức lý tính: phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên
hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó, con người chưa
biết. Nhờ có nhận thức lý tính mà con người cải tạo được thế giới khách quan.
Nó diễn ra với hai giai đoạn nhận thức: Tư duy và Tưởng tượng.

❖ Quá trình xúc cảm

Là sự biểu thị thái độ của con người đối với đối tượng mà con người nhận
thức được như: sự hài lòng, phấn khởi, buồn phiền, thất vọng, lo âu, chán nản

❖ Ý chí và hành động ý chí

Là quá trình con người tác động vào thế giới khách quan nhằm cải tạo thế
giới khách quan.

b) Trạng thái tâm lý

Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong một thời gian dài, việc mở đầu và kết
thúc thường không rõ ràng, ví như: Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không
hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu)

Các trạng thái tâm lý thường gặp: bâng khuâng, do dự, hồi hộp, lo lắng,
chú ý…

c) Thuộc tính tâm lý

Là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó mất
đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách, chi phối các quá trình tâm lý và trạng
thái tâm lý của con người. Bao gồm các thuộc tính sau:

7
- Xu hướng: mặt chỉ đạo của nhân cách.

- Tính cách: mặt bản chất của nhân cách.

- Khí chất: sắc thái biểu hiện của nhân cách.

- Năng lực: khả năng hiện thực của một nhân cách.

8
Bài 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC
I- Khái niệm chung

1- Qúa trình dạy học là gì?

Là quá trình tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức của người học nhằm
đạt được mục đích dạy học

2- Xét về mục đích quá trình dạy học

Là quá trình truyền thụ (phía giáo viên) và lĩnh hội (phía người học) những
yếu tố tích cực trong nền văn hóa của dân tộc và nhân loại nhằm “tái tạo ở người
học những năng lực bản chất người” để phát triển thành con người thực sự.

3- Xét về mặt thực hiện


Để đạt được mục đích của quá trình dạy học, nó được thực hiện thông qua
2 con đường, đó là: Hoạt động (gồm hoạt động của người giáo viên và hoạt động
của người học) và hoạt động giao lưu ( gồm giao lưu giữa người dạy và người
học, giữa người học với người học)

II- Các quy luật tâm lý của quá trình dạy học

1. Quy luật về sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và lý tính trong
dạy học

Một trong những nhiệm vụ cơ bản của quá trình dạy học là tổ chức và điều
khiển học sinh lĩnh hội một hệ thống các khái niệm khoa học ( tức thông qua việc
truyền thụ người học phải nắm được thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và
quan hệ có tính qui luật của sự vật hiện tượng)

Bản chất của sự lĩnh hội là quá trình nhận thức. Vì vậy, để đạt đến chất
lượng của dạy học, giáo viên phải tính toán và áp dụng đúng quy luật này vào
việc điều khiển quá trình nhận thức của học sinh.

9
Quá trình nhận thức hệ thống các khái niệm khoa học là một quá trình phức
tạp. Nó đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, qua hoạt động của các
giác quan. Học sinh thu thập tài liệu dưới dạng các hình ảnh, các sự kiện, sự mô
tả… Sau đó, bằng các thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát … đi đến những
khái niệm, những hiểu biết.

Hai giai đoạn nhận thức có đặc điểm, vai trò, ý nghĩa tương đối độc lập,
song nó có mối quan hệ mật thiết, xen kẽ và ảnh hưởng lẫn nhau.

Để đạt đến sự nhận thức đầy đủ, chính xác, phải là sự hoạt động phối hợp
và thống nhất của cả hai giai đoạn trên. Vì vậy, người thầy cần coi trọng cả hai
giai đoạn nhận thức trong quá trình dạy học. Nếu trong dạy học, giáo viên chỉ coi
trọng và nặng về nhận thức cảm tính, chỉ có thể hình thành những khái niệm đời
sống, hoặc rơi vào kinh nghiệm chủ nghĩa. Còn nếu trong dạy học, giáo viên chỉ
coi trọng và nặng về nhận thức lý tính, sẽ làm cho học sinh khó hiểu hoặc rơi
vào lý thuyết suông.

Ngoài ra, muốn nhận thức cảm tính thật sự trở thành tài liệu của tư duy để
hình thành khái niệm, giáo viên phải hướng dẫn học sinh thu thập các tài liệu cần
thiết cho việc hình thành khái niệm đó.

2. Quy luật về sự thống nhất giữa năng lực của giáo viên với sự phát
triển năng lực của học sinh.

Một trong những nhiệm vụ cơ bản nữa của dạy học là hình thành và phát
triển năng lực cho học sinh. Đó là năng lực nhận thức và năng lực hành động.
Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua việc giảng dạy các môn học trong nhà
trường.

Các công trình nghiên cứu về tâm lý học dạy học đã chỉ ra rằng, sự phát
triển năng lực của học sinh, diễn ra trong nhà trường, chịu sự quy định một cách
tương đối bởi năng lực của giáo viên.

Vậy những năng lực cần hình thành và phát triển ở học sinh phụ thuộc vào
những năng lực nào của giáo viên?
10
Thứ nhất, đó là phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của giáo viên. Cụ thể
là sự hiểu biết sâu sắc về tri thức bộ môn mình dạy, những hiểu biết cần thiết
những bộ môn liên quan, và những hiểu biết nhất định của thực tiễn, liên quan
tới chuyên môn của giáo viên. Năng lực này của giáo viên ảnh hưởng trực tiếp
đến độ sâu, rộng, tính thực tiễn của những khái niệm và tri thức khoa học mà học
sinh lĩnh hội được.

Vì thế, người giáo viên cần không ngừng tự học hỏi lý thuyết, tiếp cận
những tri thức khoa học hiện đại, nghiên cứu khoa học, tìm hiểu thực tiễn …

Thứ hai, đó là phụ thuộc vào năng lực sư phạm và nhất là phương pháp
giảng dạy bộ môn, vì phương pháp giảng dạy của giáo viên phần nào ảnh hưởng
trực tiếp đến phương pháp học của học sinh, ảnh hưởng cách nhìn và cách suy
nghĩ của họ.

Thực tế, cũng như các công trình nghiên cứu cho thấy, nhiều giáo viên rất
vững vàng về tri thức chuyên môn, nhưng không có phương pháp thích hợp nên
hiệu quả dạy học không cao, không phát huy được tính tích cực của học sinh.

3. Quy luật về sự thống nhất giữa tính tích cực nhận thức với động cơ
nhận thức.

Tính tích cực nhận thức của người học biểu hiện ở sự tập trung chú ý, tích
cực tìm tòi, động não với sự tự giác và hứng thú cao… Đây là điều kiện tâm lý
có vai trò quan trọng trong dạy học. Đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên,
nó là cơ sở để xây dựng các phương pháp dạy học tích cực. Đối với hoạt động
học của người học, nó có ảnh hưởng quyết định đến kết quả lĩnh hội tri thức. Vì
vậy, hình thành tính tích cực nhận thức của người học có ý nghĩa quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng của quá trình dạy học.

Vậy tính tích cực nhận thức của người học phụ thuộc vào yếu tố nào và
được hình thành ra sao?

Các kết quả nghiên cứu cho thấy, tính tích cực nhận thức phụ thuộc một
cách tương ứng vào động cơ nhận thức. Cho nên, trong dạy học, để hình thành
11
tính tích cực nhận thức ở người học, chủ yếu phải xuất phát từ việc hình thành
các động cơ nhận thức.

Động cơ nhận thức được hiểu là các yếu tố thúc đẩy hoạt động nhận thức.
Có hai loại động cơ nhận thức:

- Thứ nhất, động cơ hoàn thiện tri thức: trong học tập, cái thúc đẩy học
sinh tích cực học tập là ở bản thân tri thức, ở nhu cầu muốn được hoàn thiện tri
thức. Việc học tập được thúc đẩy bởi động cơ này là lý tưởng về mặt sư phạm,
khi đó việc học không gặp trở ngại bởi những mâu thuẫn bên trong bản thân
người học.

- Thứ hai, động cơ quan hệ xã hội: cái thúc đẩy học sinh tích cực học tập
ở bên ngoài tri thức, nhưng muốn đạt được phải thông qua tri thức. Ví dụ như
thích điểm cao, mong đợi ở tương lai, vì thương cha mẹ, do sĩ diện, vì thi đua …

Thứ bậc của hai loại động cơ trên có thể hoán đổi tùy theo từng trường hợp
cụ thể. Tuy nhiên, về mặt sư phạm, động cơ hoàn thiện tri thức vẫn ở thứ bậc cao
hơn cả.

III- Hoạt động giảng dạy của giáo viên

1- Khái niệm hoạt động giảng dạy

Là hoạt động của giáo viên bao gồm việc tổ chức và điều khiển hoạt động
học của học sinh, giúp học sinh lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển
tâm lý và hoàn thiện nhân cách của họ.

2- Mục đích của hoạt động giảng dạy

Nhằm giúp người học lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm
lý và hoàn thiện nhân cách.

3- Bằng cách nào để đạt mục đích?

Để đạt được mục đích trên, phải thông qua hoạt động dạy. Trong hoạt động
này, giáo viên là chủ thể của hoạt động. Chức năng của giáo viên trong hoạt động

12
dạy không nhằm sáng tạo ra tri thức mới cho nhân loại, cũng không tái tạo tri
thức cũ cho bản thân, mà chủ yếu là tổ chức quá trình tái tạo này ở học sinh.
Muốn vậy, điều quan trọng trong hoạt động dạy là phải tạo ra được tính tích cực
trong hoạt động học của người học, nghĩa là làm cho người học vừa ý thức được
đối tượng cần lĩnh hội, vừa biết cách lĩnh hội đối tượng đó. Chính tính tích cực
của học sinh trong hoạt động học quyết định chất lượng học tập. Do vậy, trong
lý luận dạy học, người ta khẳng định chất lượng học tập phụ thuộc vào trình độ
tổ chức và điều khiển hoạt động học của người thầy.

Như thế, hai hoạt động dạy và học được tiến hành do hai chủ thể khác nhau
(thầy và trò) thực hiện hai chức năng khác nhau (tổ chức và lĩnh hội), nhưng gắn
bó chặt chẽ với nhau. Hoạt động dạy diễn ra là để tổ chức và điều khiển hoạt
động học, còn hoạt động học là cơ sở để hoạt động dạy được diễn ra đúng mục
đích ban đầu.

4- Các yếu tố tâm lý của hoạt động giảng dạy

Hoạt động dạy nếu xét riêng nó được cấu trúc bởi 3 thành tố:

a. Thành tố thiết kế (giai đoạn chuẩn bị)

Hoạt động dạy của giáo viên được bắt đầu từ việc thiết kế những giờ học
trong và ngoài lớp (phòng thí nghiệm, xưởng thực tập, ngoài vườn trường…),
bao gồm những việc như lựa chọn tài liệu học tập, chế biến tài liệu và xây dựng
phương pháp dạy cho phù hợp với nội dung, chương trình và đặc điểm đối tượng
người học.

Tất cả những công việc trên, cuối cùng, được thể hiện ở giáo án chi tiết gồm
có nội dung, phương pháp, phương tiện, hệ thống hoạt động có tính nhất quán
của giáo viên và học sinh.

Như vậy, thiết kế một giờ học (trong và ngoài lớp) là giai đoạn chuẩn bị
của hoạt động dạy. Nếu chuẩn bị tích cực và chu đáo, sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho sự thành công của hoạt động dạy nói riêng, và của quá trình dạy học nói
chung.
13
Để thiết kế một giáo án chi tiết, chu đáo, qui định rõ hoạt động của thầy,
qui định rõ hoạt động của trò, đòi hỏi người giáo viên cần phải có:

+ Lương tâm, trách nhiệm với công việc, với học sinh của mình như những
đặc điểm nhân cách của người giáo viên. Có như vậy người giáo viên mới lựa
chọn, chế biến nội dung tài liệu học tập dù khó đến mấy cũng trở nên dễ và vừa
với người học.

+ Người giáo viên phải có chuyên môn sâu, có nghiệp vụ giỏi. Có như vậy,
người giáo viên mới lựa chọn, chế biến tài liệu mang tính vừa sức phù hợp với
khả năng nhận thức của người học.

+ Để đảm bảo chất lượng lĩnh hội khái niệm khoa học ở người học, đòi hỏi
người giáo viên phải tìm kiếm nhiều con đường ( phương pháp) để tác động vào
tư duy tích cực nhận thức ở người học.

b. Thành tố tổ chức

Thành tố tổ chức là một thành tố quan trọng trong cấu trúc của hoạt động
dạy. Yếu tố này không tách rời thành tố thiết kế ở giai đoạn chuẩn bị. Chúng tạo
nên một chỉnh thể thống nhất. Những gì giáo viên chuẩn bị để tiến hành trong
quá trình dạy học, cần phải gắn bó chặt chẽ với kỹ năng tổ chức toàn bộ quá trình
đó. Nếu thiếu sự gắn bó này, không thể truyền thụ tri thức cho học sinh được.

Thực tiễn dạy học đã chứng minh, có những giáo viên mới đứng lớp, soạn
giáo án và chuẩn bị bài rất tốt, chu đáo, nhưng giờ học không thu được kết quả
như mong muốn, vì bản thân giáo viên không có kỹ năng thực hiện giờ dạy trên
lớp. Ngược lại, có những giáo viên trước khi lên lớp soạn bài đại khái qua loa,
thậm chí có những nội dung giáo viên trình bày còn nắm không rõ, nhưng khi ra
trình bày thành công ở mức độ nhất định. Vậy để tạo nên chất lượng trọn vẹn của
giờ dạy nó phụ thuộc vào những kỹ năng cơ bản nào ?

Để tổ chức tốt một giờ học trên lớp, giáo viên cần có các kỹ năng cơ bản
sau:

14
- Kỹ năng trình bày tài liệu: Để có kỹ năng này, giáo viên phải luyện tập
ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, tập sử dụng các phương tiện dạy học như tranh ảnh,
mô hình, vật thật,… Biểu hiện cụ thể của kỹ năng này là sự nói năng lưu loát,
ngắn gọn, rõ ràng; trình bày bảng khoa học; tranh ảnh, mô hình, vật thật…được
sử dụng, khai thác để tổ chức hoạt động học cho học sinh một cách tích cực và
hiệu quả.

- Kỹ năng làm chủ hành vi của bản thân: Đây cũng là một kỹ năng quan
trọng của giáo viên để tổ chức tốt một giờ lên lớp. Những lúng túng trong ngôn
ngữ và cử chỉ, dáng điệu, đi đứng, nét mặt…của giáo viên, việc không biết kiềm
chế những trạng thái tâm lý bất lợi như nổi nóng, bực dọc…đều gây ra những
ảnh hưởng tiêu cực đến học sinh và có thể là nguyên nhân làm cho giờ học không
đạt được kết quả mong muốn.

- Kỹ năng điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh: Thực chất của
quá trình lĩnh hội tri thức là quá trình nhận thức. Vì vậy, để giúp học sinh đạt đến
sự lĩnh hội sâu sắc, giáo viên phải có kỹ năng điều khiển hoạt động nhận thức
của họ trong quá trình dạy học. Kỹ năng này thể hiện ở khả năng định hướng và
điều khiển các hoạt động như quan sát, gợi nhớ, suy nghĩ; khả năng tổ chức,
hướng dẫn học sinh thu thập các thông tin cần thiết cho việc hình thành các khái
niệm, lĩnh hội tri thức.

- Kỹ năng kiểm tra và đánh giá tiến trình dạy học: thể hiện ở khả năng
kiểm soát và đánh giá từng giai đoạn của quá trình lên lớp; đánh giá hành vi và
ngôn ngữ của mình; các phản ứng (tích cực và tiêu cực) ở học sinh cũng như kết
quả học tập của họ. Việc đánh giá này giúp giáo viên điều chỉnh kịp thời hoạt
động dạy và học, làm cho giờ học đi đúng hướng và nhờ đó mà có thể điều khiển
toàn bộ quá trình dạy học đạt được những mục tiêu đặt ra.

Các kỹ năng cụ thể trên có liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
và tổng hợp chúng lại sẽ góp phần tạo nên chất lượng trọn vẹn của giờ lên lớp.

15
Do đó, để có thể tổ chức tốt giờ lên lớp, giáo viên cần phải có đầy đủ các kỹ năng
trên.

c. Thành tố giao lưu

Đây là mối quan hệ giao lưu giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh
với học sinh. Các quan hệ giao lưu này là yếu tố quan trọng của hoạt động dạy
và có ảnh hưởng đến hai yếu tố trên.

- Giao lưu giữa giáo viên và học sinh

Thực tiễn cho thấy, nếu quan hệ giao lưu thầy trò tốt đẹp (thầy yêu mến trò,
trò kính trọng thầy) thì điều đó sẽ động viên người thầy toàn tâm toàn ý trong
việc chuẩn bị và tạo sự hứng thú khi đứng lớp. Đồng thời điều đó cũng tạo những
xúc cảm tích cực cho học sinh trong quá trình lĩnh hội. Đôi khi chỉ vì quan hệ
thầy - trò chưa tốt (lỗi là ở thầy) mà học sinh trở nên bất kính, bất phục và bất
tuân. Việc làm này khiến cho học sinh uể oải, chán nản trong giờ học, gây trở
ngại rất lớn cho sự lĩnh hội.

Trong mối quan hệ giao lưu này, ngoài việc giáo viên cần có thái độ đối xử
tích cực với tập thể lớp, còn phải lưu ý đến việc đối xử với từng học sinh. Nhận
biết và tính đến những đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh…của từng em, biết được
những khó khăn và thuận lợi trong học tập của từng học sinh để có những biện
pháp giúp đỡ và đối xử thích hợp.

- Giao lưu giữa học sinh với học sinh

Trong quá trình dạy học, người thầy không chỉ tác động đến một hay vài
học sinh mà đến cả một tập thể học sinh. Do vậy, chất lượng của quá trình dạy
học còn phụ thuộc vào mối quan hệ giao lưu giữa các cá nhân học sinh trong tập
thể đó với nhau.

Ngoài ra, ngay cả tác phong của giáo viên đối với học sinh trong rất nhiều
trường hợp cũng ảnh hưởng đến quan hệ giao lưu giữa học sinh với học sinh. Ví
dụ, nếu giáo viên có thái độ tích cực đối với học sinh (thể hiện thiện chí của mình,

16
thấy rõ những ưu điểm và những khó khăn của học sinh, động viên học sinh giúp
đỡ lẫn nhau...) thì học sinh sẽ thân thiện với nhau hơn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau
và tạo nên bầu không khí tâm lý thuận lợi cho hoạt động dạy nói riêng và giáo
dục nói chung.

Như vậy, các quan hệ giao lưu nói trên phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của
giáo viên đối với học sinh. Đây là thành tố quan trọng và có quan hệ mật thiết
với các thành tố khác để tạo nên cấu trúc trọn vẹn của hoạt động

IV- Hoạt động học và các vấn đề cơ bản của hoạt học

1- Sự học là gì ?
Con người từ khi sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay, để lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển, người ta có rất nhiều cách học
khác nhau:
+ Học 1 cách ngẫu nhiên trong cuộc sống đời thường: thông qua một
hoạt động nào đó thì rút kinh nghiệm.
+ Học bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, thông qua lao động sản xuất, giao
tiếp, đọc sách báo, qua các phương tiện truyền thống ...
Như vậy, trong quá trình tồn tại và phát triển bất cứ lúc nào con người
cũng học được một cái gì đó. Việc học như vậy người ta gọi là học một cách
ngẫu nhiên (học không chủ định) hay còn gọi là sự học.
“ Sự học là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương thức
thường ngày, tức là: Việc nắm được tri thức, kinh nghiệm, hình thành kỹ năng,
kỹ xảo, cũng như các phương thức hành vi khác thông qua việc thực hiện một
hoạt động khác trong cuộc sống hàng ngày”. Điều đó có nghĩa là, những kinh
nghiệm con người tiếp thu được không phải là mục đích mà chỉ là kết quả phụ
thu được trong hoạt động.
Kết quả của sự học chỉ mang lại: những tri thức tiền khoa học, có tính
chất ngẫu nhiên, rời rạc không hệ thống; chỉ lĩnh hội những gì liên quan trực
tiếp tới nhu cầu, hứng thú, nhiệm vụ trước mắt, còn cái gì không liên quan bỏ

17
qua; sự học chỉ hình thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm hàng ngày
trực tiếp mang lại; những kinh nghiệm lĩnh hội qua cách học này không phù hợp
với những mục tiêu trực tiếp của chính hoạt động hay hành vi
Song thực tiễn lại đòi hỏi con người phải có những tri thức khoa học
thực sự, phải hình thành những năng lực thực tiến mới mà cách học “ ngẫu nhiên”
dựa trên cơ sở hoạt động sống “tự nhiên” không thể mang lại
Để đạt được điều này, cần phải có một hoạt động đặc biệt- mục đích cơ
bản của nó chính là học – Mục đích cơ bản của hoạt động chính là học – được
gọi là hoạt động học ( hay còn gọi là học có chủ đích)

2- Khái niệm về hoạt động học tập

Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người, được điều khiển bởi
mục đích tự giác, là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình
thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định.

3- Bản chất của hoạt động học tập

Hoạt động học khác với các hoạt động khác được thể hiện ở các bản chất
sau:

a) Đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng với nó.

Hoạt động học nhằm hướng tới mục đích là chiếm lĩnh tri thức xã hội, thông
qua sự tái tạo ở mỗi cá nhân.

Sự tái tạo này sẽ không thực hiện được, nếu người học chỉ là khách thể bị
động của những tác động sư phạm; hoặc, nếu những tri thức này chỉ được truyền
cho người học theo cơ chế một chiều, kiểu máy phát và máy thu (người dạy -
người học).

Muốn học có kết quả, người học phải tích cực tiến hành các hành động học
tập, bằng chính ý thức tự giác và khả năng, kinh nghiệm của bản thân, có nghĩa

18
học sinh phải thực sự là chủ thể của hoạt động học, còn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
là đối tượng của hoạt động học.

b) Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính mình.

Thông thường, các hoạt động khác đều hướng vào làm thay đổi đối tượng
của hoạt động, trong khi đó hoạt động học lại làm thay đổi chính chủ thể hoạt
động.

Sở dĩ như vậy, vì tri thức mà loài người tích lũy được là đối tượng của hoạt
động học. Nội dung của tri thức này không hề bị thay đổi sau khi chủ thể học
sinh chiếm lĩnh nó, và nhờ sự chiếm lĩnh này, tâm lý chủ thể học sinh biến đổi và
phát triển.

Do vậy, người học càng ý thức được mục đích học tập sâu sắc bao nhiêu, thì
sự thay đổi và phát triển tâm lý diễn ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu.

c) Hoạt động học là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức, nhằm
tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.

Trước hết, sự tiếp thu này có thể diễn ra trong hoạt động thực tiễn như lao
động, vui chơi, giao lưu… Đó là sự tiếp thu diễn ra sau khi chủ thể hoạt động
trong một tình huống cụ thể. Những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tiếp thu trong các
tình huống này thường mang tính chất kinh nghiệm, chỉ giúp học sinh hoạt động
có kết quả trong tình huống xác định giống như tình huống đã gặp. Kinh nghiệm
được hình thành như vậy không có tính hệ thống, chưa được khái quát và khó có
thể giúp cho cá nhân giải quyết những nhiệm vụ đa dạng của thực tiễn.

Trái lại, sự tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động học được điều
khiển bởi mục đích tự giác là mục tiêu đào tạo. Đối tượng tiếp thu chính là mục
đích của hoạt động học tập. Hay nói khác đi, những tri thức học sinh cần phải
tiếp thu là những tri thức được chọn lọc, tinh chế và được tổ chức lại trong một
hệ thống nhất định, được cụ thể hóa trong chương trình đào tạo. Những tri thức
này không chỉ cần thiết và thích hợp cho việc giải quyết một tình huống cụ thể

19
nào đó, mà còn cần thiết và thích hợp để giải quyết những nhiệm vụ đa dạng của
cuộc sống.

d) Hoạt động học không chỉ hướng vào việc tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo mới , mà còn hướng vào tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt
động, nói cách khác là tiếp thu được cả phương pháp giành tri thức đó (cách học).

Muốn cho hoạt động học đạt được hiệu quả, người học phải biết cách học,
nghĩa là phải có những tri thức về bản thân hoạt động học. Tuy vậy, sự tiếp thu
loại tri thức này không thể diễn ra một cách độc lập, tách rời với tiếp thu tri thức,
mà diễn ra đồng thời với việc tiếp thu tri thức.

Do đó, khi tổ chức hoạt động học cho học sinh, người dạy vừa phải ý thức
được những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nào cần hình thành ở học sinh; vừa phải ý
thức được con đường, cách thức mà học sinh thực hiện để chiếm lĩnh tri thức đó,
để thông qua việc tổ chức sự lĩnh hội cho học sinh mà hình thành cách học ở họ.

4- Các vấn đề cơ bản của hoạt động học

a. Đối tượng của hoạt động học là tri thức - kỹ năng - kỹ xảo,

Những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà học sinh học trong nhà trường, được
lựa chọn từ những khoa học khác nhau, theo logic nhận thức và lôgíc sư phạm,
có nghĩa là, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và phục vụ cho mục tiêu
đào tạo, làm thành những môn học khác nhau.

Như vậy, đối tượng của hoạt động học được thể hiện ở chương trình các
môn học mà trong đó, cụ thể là hệ thống các khái niệm - kỹ năng - kỹ xảo. Do
đó, đối tượng của hoạt động học, có liên quan chặt chẽ với đối tượng của khoa
học.

Ta thấy giữa hoạt động học (lĩnh hội) của học sinh và hoạt động nghiên
cứu (phát hiện) của nhà khoa học vừa có sự giống nhau, lại vừa khác nhau. Giống
nhau, vì đều là hoạt động nhận thức, khác nhau, vì hoạt động nhận thức của học

20
sinh có tính độc đáo so với hoạt động nhận thức của nhà khoa học. Học sinh nhận
thức trong những điều kiện sư phạm nhất định.

- Nếu quá trình nghiên cứu của nhà khoa học diễn ra theo con đường tự tìm
tòi, theo nguyên tắc thử và sai, thì hoạt động học của học sinh diễn ra theo con
đường đã được khám phá. Do vậy, trong một thời gian ngắn, học sinh có thể lĩnh
hội một hệ thống tri thức mà các nhà khoa học đã mất nhiều thời gian mới khám
phá được.

- Nếu nhà khoa học phải đảm đương nhiệm vụ khó khăn là độc lập, đi vào
những bí ẩn của thế giới, để phát hiện và chứng minh những cái mà loài người
chưa hề biết trong tự nhiên, xã hội và tư duy để tìm ra những chân lý mới cho
nhân loại, thì hoạt động học của học sinh là để tái tạo những tri thức đó cho bản
thân.

- Tính độc đáo của hoạt động học của học sinh còn thể hiện ở chỗ được
củng cố, kiểm tra và đánh giá.

b. Nhiệm vụ của hoạt động học

Trong học tập, mục đích bao trùm là chiếm lĩnh đối tượng của hoạt động
học, đó là hệ thống tri thức - kỹ năng - kỹ xảo trong chương trình đào tạo.

Trong thực tế, học sinh chiếm lĩnh hệ thống tri thức này, bằng cách thực
hiện các nhiệm vụ học tập tương ứng, do giáo viên giao cho. Vậy làm cách nào
để thiết lập hệ thống các nhiệm vụ học tập đó?

Vì đối tượng của học tập được cụ thể hóa ở hệ thống các khái niệm - kỹ
năng - kỹ xảo, nên việc thiết lập hệ thống các nhiệm vụ học tập không thể tùy
tiện. Nó phải tuân theo logic chặt chẽ của đối tượng học tập. Có nghĩa là, các
nhiệm vụ học tập phải được làm thành một hệ thống đúng theo logic của hệ thống
khái niệm - kỹ năng - kỹ xảo có trong chương trình. Hay nói khác đi, đối tượng
tiến triển tới đâu, thì nhiệm vụ giao cho tới đó.

21
Trong thực tế, hệ thống các nhiệm vụ học tập thường được đưa đến cho
học sinh dưới nhiều hình thức, như hệ thống các câu hỏi, các yêu cầu, các bài tập,
bài toán hoặc các thao tác,...

c. Phương tiện của hoạt động học

Với mọi hoạt động, để tác động vào đối tượng thì chủ thể cần có phương
tiện, công cụ nhất định. Nếu phương tiện hoạt động tốt, thích hợp, thì việc tác
động đến đối tượng sẽ thuận lợi và đạt kết quả cao.

Vậy để hoạt động học đạt hiệu quả, cần có các phương tiện nào?

- Thứ nhất: là các hành động học tập

Các hành động học tập như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, cụ
thể hóa... là công cụ của hoạt động học, đồng thời lại được củng cố và phát triển
trong quá trình diễn ra hoạt động học. Để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, học
sinh phải sử dụng các thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát… Vì vậy, khi thiết
kế hoạt động học, giáo viên cần phải định hướng được các hành động nào học
sinh phải thực hiện, để thiết kế và tổ chức cho học sinh thực hiện các hành động
đó, nhằm lĩnh hội tri thức.

Loại hành động học tập nào cần tiến hành, tính chất và sự phát triển của
hành động đó như thế nào, tùy thuộc rất nhiều vào khả năng của giáo viên, trong
việc định hướng và tổ chức các hành động đó. Đây chính là yếu tố ảnh hưởng
quan trọng đến sự lĩnh hội tri thức, phát triển tâm lý của học sinh.

- Thứ hai: Các khái niệm khoa học

Trong học tập, các khái niệm khoa học vừa là đối tượng cần tác động, vừa
là mục đích mà học sinh cần đạt được. Khái niệm sau khi đã lĩnh hội, lại trở thành
công cụ, phương tiện để lĩnh hội khái niệm tiếp theo. Như vậy, trong quá trình
học tập, luôn luôn có sự chuyển hóa giữa đối tượng, mục đích với phương tiện,
công cụ. Ban đầu các khái niệm, kỹ năng, kỹ xảo là đối tượng cần tác động, là

22
mục đích cần đạt được trong học tập. Nhưng khi đã đạt được, thì nó trở thành
công cụ, phương tiện để tác động đến đối tượng tiếp theo.

Do vậy, để giúp học sinh có được phương tiện hữu hiệu cho hoạt động học
tập, điều quan trọng, cần phải quan tâm đến việc củng cố các kiến thức nền tảng
trước đó, hoặc các kiến thức liên quan.

- Thứ ba: Tư duy

Với tư cách là sản phẩm của tư duy, khái niệm chính là kết quả của quá
trình tư duy của học sinh. Vì vậy, quá trình hình thành khái niệm, thực chất cũng
chính là quá trình học sinh tiến hành tư duy, để giải quyết các nhiệm vụ học tập.
Hiệu quả của việc giải quyết các nhiệm vụ này, tùy thuộc trực tiếp vào quá trình
tư duy của học sinh, nhằm phân tích và xử lý các dữ liệu đã có, để đi đến các kết
luận, phán đoán. Như thế, để cho tư duy thực sự trở thành phương tiện, công cụ
của hoạt động học, giáo viên cần thiết phải quan tâm đến việc định hướng và tổ
chức hoạt động tư duy của học sinh, trong suốt quá trình diễn ra hoạt động học.

23

You might also like