You are on page 1of 182

lOMoARcPSD|16835821

Giáo trình TLH XH - TRẦN QUỐC Thành - NGUYỄN ĐỨC


SƠN
Kinh tế chính trị (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn)

StuDocu is not sponsored or endorsed by any college or university


Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)
lOMoARcPSD|16835821

TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI


TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Tác giả: TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN

LỜI NÓI ĐẦU

Tâm lý học xã hội là một ngành của Tâm lý học và mang đậm hơi thở
của đời sống xã hội. Lịch sử Tâm lý học xã hội cho thấy, những vấn đề nổi bật
của các giai đoạn xã hội lịch sử đều được phản ánh trong Tâm lý học xã hội ở
các mức độ khác nhau. Không ít những vấn đề mang tính cấp thiết của xã hội
được tiến hành nghiên cứu trong Tâm lý học xã hội ngay từ khi chúng bắt đầu
xuất hiện. Những nghiên cứu về phong cách lãnh đạo và công bằng xã hội
những năm 1930 - 1940; về sự a dua vào những năm 1950, về sự xâm kích
những năm 1960; về giới tính, về dân tộc những năm 1960 - 1970; về chủng
tộc những năm 1980 và về những vấn đề Tâm lý xã hội xuyên văn hóa vào
những năm 1990 đến nay là sự phản ánh sắc nét những diễn biến và sự kiện
lịch sử xã hội. Đồng thời với tính thời sự, những vấn đề mang tính cơ bản và
ổn định của Tâm lý học xã hội như vấn đề nguồn gốc của các hành vi xã hội,
các quy luật và các cơ chế của sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội,
bản thân các hiện tượng tâm lý xã hội với các đặc điểm và diễn biến của nó
ngày càng được quan tâm. Như một quy luật, xã hội ngày càng phát triển,
nhận thức của con người ngày càng được mở rộng và nâng cao thì nhu cầu
tìm hiểu bản chất của các quá trình xã hội mà con người tham gia vừa là chủ
thể và khách thể càng lớn. Chính vì những lý do như vậy mà sự quan tâm
đến Tâm lý học xã hội ngày càng nhiều hơn.

Đối với những người làm công tác giảng dạy, việc tiếp cận những vấn
đề của Tâm lý học xã hội là hết sức có ý nghĩa. Bởi vì, dù là có ý thức hay
không có ý thức, công việc của họ gắn liền với các hiện tượng tâm lý xã hội,
chịu sự chi phối của các quy luật tâm lý xã hội. Hơn nữa, nhiều khi chính
người làm công tác giảng dạy lại phải chủ động để tạo ra một số hiện tượng

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tâm lý xã hội trong công việc của mình như làm việc với nhóm sinh viên, đồng
nghiệp hay phải đối diện với các hiện tượng tâm lý xã hội cần giải quyết như
dư luận xã hội, bầu không khí tập thể...

Tuy vậy, đây là công việc khó khăn vì chính sự đa dạng và da chiều của
các hiện tượng tâm lý xã hội không cho phép có được các khái quát khoa học
dễ dàng. Bên cạnh đó, việc thiếu vắng các nghiên cứu trong lĩnh vực này ở
Việt Nam, cũng như sự non trẻ của bộ môn khoa học này ở nước ta chắc
chắn làm cho việc biên soạn khó đáp ứng được đòi hỏi của người đọc. Tài
liệu khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Vì vậy, các tác giả rất
mong được sự đóng góp ý kiến để có thể chỉnh sửa, bổ sung giúp tài liệu trở
nên có ích và đầy đủ hơn.

Các tác giả

Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC


Nội dung cơ bản:

- Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội: hiện tượng tâm lý xã hội,
bản chất, chức năng, phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện
tượng xã hội;

- Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội: các quan điểm về đối
tượng của Tâm lý học xã hội, đối tượng của Tâm lý học xã hội, nhiệm vụ của
Tâm lý học xã hội; Lịch sử hình thành của Tâm lý học xã hội: các tiền đề cho
sự ra đời của Tâm lý học xã hội, Tâm lý học xã hội ra đời như là khoa học độc
lập, các hình thái đầu tiên của Tâm lý học xã hội; Tâm lý học xã hội trong hệ
thống các khoa học: quan hệ của Tâm lý học xã hội với các khoa học khác;

- Phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.

I. BẢN CHẤT CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI


1. Các hiện tượng tâm lý xã hội là gì?

Khi nói tới đời sống tâm lý của con người, người ta thường đề cập đến
các hiện tượng xúc cảm, tình cảm, đến các quá trình nhận thức như tư duy,

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tưởng tượng đến ý chí, nhu cầu, động cơ thúc đẩy con người thực hiện các
hoạt động này hay hoạt động khác. Các hiện tượng tâm lý đó gọi là tâm lý cá
nhân, tức là các hiện tượng tâm lý thuộc về từng cá nhân, mang sắc thái
riêng của mỗi cá nhân. Các hiện tượng tâm lý đó là sự phản ánh nội dung đời
sống xã hội, là sự phản ánh mang tính chất cá nhân riêng lẻ. Các hiện tượng
tâm lý cá nhân đó được nghiên cứu một cách tương đối độc lập với nhóm xã
hội có cá nhân đó. Tuy vậy, trong đời sống, con người liên tục tham gia vào
các nhóm xã hội: gia đình, trường học, bạn bè, đồng nghiệp... Trong quá trình
đó, cá nhân tác động qua lại với những cá nhân khác, biểu lộ thái độ đánh
giá, mong muốn của bản thân và của người khác, nhận biết người khác, ảnh
hưởng và bị ảnh hưởng của người khác. Tâm lý của cá nhân khi đó một mặt
chịu sự quy định của nhóm xã hội và sự tương tác xã hội, mặt khác điều
chỉnh hành vi của bản thân cho phù hợp với yêu cầu và tình huống tương tác.
Hệ quả tất yếu là làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý chung ở nhiều cá nhân
trong một nhóm trong một cộng đồng, trong cả một dân tộc, thậm chí trong
nhiều dân tộc. Đó là các hiện tượng tâm lý xã hội.

Như vậy, tâm lý xã hội không phải là tổng đơn giản, cơ học của các
hiện tượng tâm lý cá nhân. Nó là các hiện tượng tâm lý chung của nhiều
người diễn ra trong các nhóm xã hội, khi con người hoạt động, giao tiếp, tác
động qua lại với nhau, được quy định bởi sự tác động qua lại và nhóm xã hội.
Tâm lý học xã hội là khoa học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội đó.

Một cách đơn giản, có thể hình dung các hiện tượng tâm lý xã hội là
các hiện tượng tâm lý nảy sinh khi cá nhân tác động qua lại với các đối tượng
xã hội khác:

Cá nhân <-> Nhóm xã hội.

Cá nhân <-> Cá nhân (trong nhóm xã hội).

Nhóm <-> Nhóm.

Trong các quá trình tương tác đó, cá nhân nhận biết, đánh giá hành vi
của mình và người khác như thế nào, cá nhân chịu sự chi phối và chi phối

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

các cá nhân khác ra sao, các mối quan hệ như quan hệ liên nhân cách, sự
hấp dẫn lẫn nhau và sự xung đột diễn ra như thế nào trong các nhóm... Các
hiện tượng tâm lý xã hội đó diễn ra không phải một cách ngẫu nhiên mà theo
các quy luật nhất định. Tâm lý học xã hội chịu trách nhiệm phát hiện các quy
luật chi phối hành vi và hoạt động của con người khi con người tham gia vào
nhóm xã hội cũng như các đặc trưng tâm lý của chính các nhóm xã hội đó.

Như vậy, Tâm lý học xã hội nghiên cứu các quy luật và cơ chế của các
hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong các tương tác xã hội.

2. Bản chất và chức năng của các hiện tượng Tâm lý xã hội

Trước khi đề cập đến bản chất của hiện tượng tâm lý xã hội, điều đầu
tiên chúng ta phải khẳng định rằng: cá nhân không tồn tại tự nó, tách rời với
những cá nhân khác. Cá nhân tồn tại phát triển trong các mối quan hệ xã hội
và chính vì thế mỗi cá nhân là “tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” (C.
Mác). Tham gia vào hệ thống các mối quan hệ xã hội khác nhau tức là cá
nhân tham gia vào các nhóm xã hội. Các nhóm đó hiện diện mọi nơi và chính
là môi trường xã hội của cá nhân. Đó có thể là gia đình - một dạng nhóm đặc
biệt, lớp học, cơ quan, bạn bè... Tâm lý học xã hội gọi chung đó là các nhóm
xã hội. Hoạt động trong các nhóm xã hội đó cá nhân tác động đến các cá
nhân khác đồng thời chịu sự tác động của các cá nhân khác. Sự tác động qua
lại đó ảnh hưởng đến hành vi cá nhân và làm nảy sinh những hiện tượng tâm
lý chung. Đó là các hiện tượng tâm lý nhóm, rộng hơn gọi là các hiện tượng
tâm lý xã hội. Nói như vậy để thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh
trong môi trường xã hội, trong sự tác động qua lại giữa các thành viên. Do
vậy bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội phải gắn liền với sự tác động
qua lại này.

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng tâm lý xã hội là những hiện
tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình tác
động qua lại, giao tiếp và hoạt động cùng nhau của các cá nhân trong nhóm.
Các hiện tượng tâm lý xã hội đó điều chỉnh, điều khiển hoạt động cùng nhau
của các thành viên và của nhóm xã hội. Mặt khác cũng phải thấy rằng các

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

hiện tượng tâm lý xã hội có quan hệ đặc biệt và khó có thể tách rời với các
hiện tượng tâm lý cá nhân. Các hiện tượng tâm lý xã hội không tồn tại lơ lửng
đâu đó ngoài cá nhân mà chúng hiện diện ở cá nhân, thúc đẩy cá nhân hành
động, ví dụ sự a dua, sự hoảng loạn, các trào lưu, thị hiếu... Việc nhận biết
các hiện tượng tâm lý xã hội cũng chỉ có thể diễn ra trên cơ sở của nhiều cá
nhân. Tuy vậy các hiện tượng tâm lý đó không hoàn toàn là các hiện tượng
tâm lý cá nhân có thể kiểm soát mà nó từ “bên ngoài” thâm nhập vào cá nhân,
vừa được biểu hiện với sắc thái của cá nhân vừa có tính tương đồng với các
cá nhân khác trong cùng mối quan hệ tương tác. Có thể coi mối quan hệ giữa
các hiện tượng tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội là mối quan hệ giữa cái chung
và riêng.

Các hiện tượng tâm lý xã hội hiện diện trong đời sống hàng ngày của
chúng ta nhưng không phải lúc nào chúng cũng được nhận biết. Cá nhân có
thể bị chi phối bởi các hiện tượng tâm lý xã hội một cách vô thức hay có ý
thức. Học tập, rèn luyện để phát huy truyền thống đó là hành động có ý thức,
nhưng bắt chước hành vi của người khác, theo trào lưu nhiều khi lại là vô
thức. Bị ảnh hưởng của định kiến xã hội trong khi nhìn nhận đánh giá người
khác, dân tộc khác mà nhiều khi cá nhân không nhận biết, trong khi hoàn toàn
có ý thức thuyết phục người khác làm theo điều mình mong muốn. Nói cách
khác, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối tâm lý của cá nhân và qua đó chi
phối hoạt động sống của cá nhân.

Ở phạm vi lớn hơn, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối các mối quan
hệ xã hội trong các nhóm, các cộng đồng hay các dân tộc và cả xã hội loài
người. Từ sự thân thiện hay xung đột giữa các cá nhân trong một nhóm xã
hội, từ sự định kiến hay đồng nhất hóa với một dân tộc hay một cộng đồng, cá
nhân thiết lập quan hệ với các cá nhân khác, nhóm thiết lập quan hệ với
nhóm khác. Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu khía
cạnh tâm lý xã hội của các tầng lớp, các dân tộc nhằm tạo ra các cơ sở cho
việc thiết lập và vận hành các mối quan hệ giữa các nhóm đó một cách hiệu

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

quả. Rõ ràng, các hiện tượng tâm lý xã hội đóng vai trò chi phối, ảnh hưởng
đến các mối quan hệ đó.

Như vậy, có thể thấy các hiện tượng tâm lý xã hội có chức năng định
hướng, thúc đẩy và điều khiển, điều chỉnh hoạt động của cá nhân. Hoạt động
của các nhóm xã hội, thông qua đó tác động đến các quá trình xã hội.

3. Phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã
hội

Các hiện tượng xã hội và các hiện tượng tâm lý xã hội không đồng
nhất, nhưng cũng không tồn tại độc lập, tách rời.

Hiện tượng xã hội: bất kì hiện tượng nào nảy sinh trong đời sống xã hội
của con người, liên quan đến đời sống xã hội của con người đều được gọi là
các hiện tượng xã hội. Đó có thể là các hiện tượng tôn giáo, giáo dục, văn
hóa, khoa học, đạo đức, chính trị, giai cấp, giới tính... Có những hiện tượng
xã hội có ở mọi thời kì trong lịch sử của loài người, cũng có những hiện tượng
xã hội chỉ có ở một giai đoạn xã hội nhất định. Các hiện tượng xã hội nảy
sinh, biến đổi và chuyển hóa theo những quy luật nhất định. Có những quy
luật phổ quát cho nhiều hiện tượng xã hội, nhưng cũng có những quy luật
mang tính đặc thù cho một lĩnh vực xã hội nào đó. Do vậy nghiên cứu các
hiện tượng xã hội đòi hỏi sự tham gia của nhiều khoa học khác nhau. Mỗi
khoa học tập trung nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể nhưng sự giao thoa là điều
tất yếu Tâm lý xã hội chính là minh chứng cho sự giao thoa của các hiện
tượng xã hội và tâm lý xã hội.

Các hiện tượng xã hội chính là nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã
hội, ví dụ chiến tranh, khủng hoảng, khủng bố... sẽ tạo ra các hiện tượng tâm
lý xã hội nhất định như tâm trạng lo lắng của xã hội, tâm trạng phản đối chiến
tranh. Như vậy, các hiện tượng tâm lý xã hội là sự phản ánh các hiện tượng
xã hội. Các hiện tượng xã hội diễn ra theo các quy luật xã hội, nhưng bất kì
một hiện tượng xã hội nào cũng có mặt tâm lý xã hội của nó, bởi lẽ chủ thể
của các hiện tượng xã hội chính là con người với ý thức, tinh thần của mình.
Đó cũng là điều mà V.Wundt trong tác phẩm Tâm lý học dân tộc - một tác

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

phẩm sớm trong lịch sử của Tâm lý học xã hội đã khẳng định: Một góc nhìn
quan trọng mà nhờ đó có thể xem xét tất cả các hiện tượng liên quan đến đời
sống cùng nhau của con người đó là góc nhìn Tâm lý học.

Cũng cần thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có tính độc lập tương
đối với các hiện tượng xã hội. Với tư cách là các hiện tượng thứ phát, các
hiện tượng tâm lý xã hội có thể tồn tại lâu hơn và tương đối bền vững, trong
khi các hiện tượng xã hội lại dễ thay đổi. Các hiện tượng tâm lý xã hội diễn ra
trong cộng đồng lại có tác động điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong
cộng đồng đó và thông qua đó tác động ngược trở lại đến các hiện tượng xã
hội.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ


HỘI
1. Các quan điểm về đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội

Giống như mọi khoa học. Tâm lý học xã hội cần phải xác định rõ đối
tượng nghiên cứu của mình. Cũng không phải là ngoại lệ, khi trong lịch sử
phát triển của Tâm lý học xã hội, vấn đề đối tượng của khoa học này đã là
vấn đề của nhiều cuộc tranh luận. Vấn đề xác định đối tượng của Tâm lý học
xã hội lại càng trở nên khó khăn hơn bởi tính chất giao thoa và sự đa dạng
của các vấn đề mà nó nghiên cứu. Có thể điểm qua những quan điểm khác
nhau về đối tượng của Tâm lý học xã hội như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý đám đông như tâm lý tầng lớp, cộng đồng xã hội, bao gồm:
truyền thống đạo đức, tập quán; nghiên cứu các tập thể, các quan điểm xã
hội. Những nghiên cứu sớm trong lịch sử Tâm lý học xã hội đều tập trung vào
đối tượng đám đông. Các tác phẩm của G.Tard về tâm lý dân tộc, của
G.Lebon về tâm lý đám đông là minh họa cho quan điểm này.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu nhân
cách: đặc điểm loại hình, vị trí, các mối quan hệ liên nhân cách trong đời sống
xã hội. Quan điểm này xuất phát từ nghiên cứu nhân cách, đặt các nhân cách

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

trong mối quan hệ liên nhân cách. Cơ sở lý luận của nó chính là bản chất xã
hội và giá trị xã hội của nhân cách.

Quan điểm thứ ba: nghiên cứu cả các quá trình tâm lý đại chúng, cả vị
trí của cá nhân trong nhóm; những thay đổi hoạt động tâm lý của cá nhân
trong nhóm do ảnh hưởng của sự tác động qua lại, các đặc điểm nhóm, các
khía cạnh tâm lý của các quá trình xã hội. Các nhà tâm lý học xã hội theo
quan điểm này tập trung vào việc nghiên cứu suy nghĩ, hành vi xã hội của cá
nhân, tri giác xã hội, sự ảnh hưởng xã hội đối với các cá nhân.

2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội

Các quan điểm nêu trên cho thấy: đối tượng của Tâm lý học xã hội là
rất rộng và phải xác định từ hai phía - cá nhân và nhóm xã hội. Từ đó, ngày
nay một cách phổ biến, đối tượng của Tâm lý học xã hội được xác định như
sau:

- Các hiện tượng tâm lý chung của nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong
quá trình giao tiếp và tác động qua lại giữa các cá nhân.

- Cái chung, đặc trưng, cái bản chất trong tâm lý nhiều người trong các
nhóm xã hội nhất định.

- Những đặc trưng tâm lý cơ bản của các loại nhóm xã hội được tạo
nên từ sự tác động qua lại.

- Các quy luật nảy sinh hình thành, vận động và phát triển của các hiện
tượng tâm lý xã hội và sự tác động qua lại.

Cách xác định như vậy cho phép bao quát một diện rộng các vấn đề
mà Tâm lý học xã hội cần giải quyết. Đồng thời nó định hướng cho việc
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý không phải đơn thuần của cá nhân mà là
các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong đời sống xã hội của con người.

Từ cách xác định như vậy, trong quá trình phát triển của Tâm lý học xã
hội, hàng loạt các phân ngành ra đời và tập trung sâu hơn vào các vấn đề
trong từng lĩnh vực cụ thể như tâm lý học tôn giáo, tâm lý học dân tộc, tâm lý
học giới tính...

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội

* Nghiên cứu lý luận: Với tư cách là một bộ môn khoa học giao thoa, sử
dụng nhiều tri thức khoa học từ các ngành khoa học liên quan, đồng thời tập
trung vào việc nghiên cứu các hiện tượng rất phức tạp, Tâm lý học xã hội
muốn khẳng định được vị trí của nó trong hệ thống các khoa học thì không
thể coi nhẹ việc nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận tập trung
vào các nội chính như sau:

- Xác lập hệ thống các khái niệm khoa học riêng của Tâm lý học xã hội,
đặc biệt thống nhất nội hàm của các khái niệm dùng trong lĩnh vực này giữa
các nhà khoa học và phân biệt các khái niệm đó với các khái niệm gần hoặc
có liên quan trong các lĩnh vực khác. Việc sử dụng các khái niệm của các
khoa học giao thoa với nội hàm không xác định làm đánh mất bản chất tâm lý
xã hội của khái niệm cũng như tạo ra sự lẫn lộn trong việc trao đổi và phản
biện khoa học. Điều đó làm giảm giá trị khoa học của các nghiên cứu.

- Phát hiện các quy luật của sự nảy sinh, hình thành và phát triển của
các hiện tượng tâm lý xã hội, các quy luật của sự tác động qua lại giữa người
với người trong các nhóm, các quan hệ xã hội. Cụ thể: phát hiện những điều
kiện chủ quan, khách quan của sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội,
những hình thái biến động, các cơ chế diễn ra các hiện tượng đó. Đóng góp
của Tâm lý học xã hội đối với khoa học khác và đối với đời sống xã hội chính
là ở nội dung này. Trên cơ sở các quy luật được phát hiện, Tâm lý học xã hội
có thể góp phần lý giải các hiện tượng lâm lý xã hội nảy sinh, dự báo xu
hướng của các hiện tượng đó và chỉ ra cách thức tác động đến các hiện
tượng tâm lý xã hội.

- Xây dựng, thiết kế các phương pháp nghiên cứu đặc thù để nghiên
cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Trong các phương pháp đã có, Tâm lý học
xã hội khá mạnh với việc sử dụng các phương pháp thực nghiệm để làm bộc
lộ các quy luật và các cơ chế của các hiện tượng tâm lý xã hội tuy vậy trong
xu hướng nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội ở phạm vi rộng lớn như

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tâm lý tộc người, tôn giáo, xuất hiện những khó khăn nhất định về phương
pháp nghiên cứu.

* Nghiên cứu thực tiễn: Có thể nói những vấn đề thực tiễn ngày càng
được đặt ra hết sức đa dạng trước Tâm lý học xã hội và các chuyên ngành
hẹp của nó. Việc ứng dụng các quy luật chung của Tâm lý học xã hội vào các
lĩnh vực hẹp hơn trong đời sống xã hội liên tục làm nảy sinh các chuyên
ngành mới với các vấn đề nóng hổi và phức tạp. Tâm lý học dân tộc đang rất
được chú ý trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa với các vấn đề thực tiễn
cần giải quyết: làm thế nào để gìn giữ bản sắc dân tộc, sự đồng nhất về văn
hóa và tâm lý dân tộc có vai trò thế nào trong quá trình hội nhập? Tâm lý học
tôn giáo với các vấn đề về niềm tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo trong thời kì có
sự tác động qua lại mạnh mẽ của các tôn giáo khác nhau sẽ như thế nào?
Tâm lý học giới tính lại đối đầu với các vấn đề nóng bỏng: đâu là nguyên
nhân tâm lý xã hội của các hiện tượng đồng giới? Hệ quả của các phong trào
đồng giới đối với đời sống xã hội nói chung? Đặc trưng tâm lý xã hội của các
nhóm đồng giới?... Cũng như vậy, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học tổ chức và
công nghiệp cũng đang đứng trước các vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách.
Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn vừa là một nhiệm vụ xã hội đặc ra với
Tâm lý học xã hội nói chung và các chuyên ngành của nó nói riêng vừa là
nhiệm vụ bên ngoài, vừa là sự thúc đẩy bên trong của chính Tâm lý học xã
hội. Giải quyết được các nhiệm vụ đó sẽ tạo ra sự phát triển cho chính Tâm lý
học xã hội và khẳng định vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa
học và trong đời sống xã hội.

III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI


1. Các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội

Việc chỉ ra những dấu mốc cơ bản trong lịch sử của Tâm lý học xã hội
nhằm tới hai mục đích. Thứ nhất, người nghiên cứu có được bức tranh chung
về tiến trình ra đời và phát triển của Tâm lý học xã hội với tư cách là một
ngành khoa học. Thứ hai, quan trọng hơn, nó giúp chỉ ra được bản chất của

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Tâm lý học xã hội, về các vấn đề Tâm lý học xã hội giải quyết, về sự phát
triển trong các quan niệm về đối tượng của Tâm lý học xã hội.

Cũng giống như nhiều bộ môn khoa học khác, các tư tưởng riêng lẻ đề
cập đến các hiện tượng tâm lý xã hội đã xuất hiện từ thời kì cổ đại, dưới hình
thức chung nhất là các tư tưởng và các học thuyết triết học. Nguồn gốc của
các tư tưởng đó chính là các hiện tượng tâm lý xã hội trong cuộc sống có thể
được quan sát thấy như: sự cuồng loạn hay hoảng loạn của đám đông, sự
thăng hoa trong các lễ tế thần, sự a dua theo các ý tưởng của đa số, sự tôn
sùng của các cộng đồng đối với thủ lĩnh, với tô tem... Tất cả các hiện tượng
tâm lý xã hội đó trong cuộc sống đã đặt các nhà triết học, các nhà tư tưởng
trước những câu hỏi lớn: Điều gì thúc đẩy con người cùng tiến hành các hành
động như vậy? Cái gì chi phối hành vi của một nhóm, một cộng đồng người?
Trả lời các câu hỏi đó, các nhà triết học đã đưa ra những ý tưởng đầu tiên về
các hiện tượng tâm lý xã hội. Rất nhiều nhà nghiên cứu đều nhìn thấy sự tồn
tại của các tư tưởng Tâm lý học xã hội trong lòng các lý thuyết triết học cổ
đại. Các ý tưởng về “tâm lý dân tộc” - sự khác biệt trong tâm lý của dân tộc
này với dân tộc khác, các “bản năng đám đông” có thể tìm thấy trong các
công trình của Arixtốt hay Platon. G.Allport cho rằng người đặt nền móng cho
các vấn đề của Tâm lý học xã hội là Platon. Nói cách khác, các mầm mống
của Tâm lý học xã hội đã được gieo từ thời kì cổ đại, trên chính mảnh đất là
cuộc sống xã hội của con người.

Xã hội ngày càng phát triển hơn, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội, việc điều chỉnh hành vi xã hội cùng ngày càng trở nên
cần thiết hơn. Cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao, càng mang tính cấp thiết
của xã hội và sự phát triển của các khoa học khác nhau, Tâm lý học xã hội trở
thành một khoa học độc lập.

2. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập

Theo quan điểm của Anđrêeva, khi xem xét vấn đề tâm lý học trở thành
một khoa học độc lập như thế nào cần phải chú ý đến ba yếu tố: 1) Các yêu
cầu đối với việc giải quyết các vấn đề Tâm lý học xã hội, xuất hiện trong các

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

ngành khoa học giáp ranh khác nhau mà bản thân các khoa học đó chưa giải
quyết được; 2) Các quá trình chuẩn bị phân tách các vấn đề Tâm lý học xã
hội bên trong hai bộ môn “mẹ” chủ yếu: tâm lý học và xã hội học; 3) Đặc điểm
của các dạng tri thức Tâm lý học xã hội độc lập đầu tiên - Đây là các động lực
trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của Tâm lý học xã hội như là một ngành khoa học
độc lập.

Giai đoạn giữa thế kỉ XIX là giai đoạn một loạt các bộ môn khoa học,
trong đó có các bộ môn khoa học xã hội, đạt được những tiến bộ đáng kể. Ví
dụ, ngôn ngữ học đã có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu
lớn lao. Năm 1859, M.Laxarus (1824 - 1903) và nhà ngôn ngữ học G.Steinthal
(1823 - 1893) sáng lập tạp chí “Tạp chí tâm lý học dân tộc và ngôn ngữ” tại
Đức. Vấn đề giao lưu ngôn ngữ và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc
được quan tâm. Thế nhưng Ngôn ngữ học không thể giải quyết được các vấn
đề như sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc bằng các phương tiện của
mình. Cũng như vậy, các khoa học khác như Nhân chủng học, Dân tộc học,
Khảo cổ học đến thời điểm đó đã tích luỹ được rất nhiều dữ kiện. Trong tất cả
các nghiên cứu này xuất hiện một hiện thực cần được tính đến: các đặc điểm
tâm lý của một số các nhóm dân tộc, mối liên hệ của các sản phẩm văn hóa
và truyền thống, các lễ nghi... Đó chính là lý đo mà nhà tâm lý học xã hội
người Mỹ T.Shibutani kết luận rằng Tâm lý học xã hội đã trở thành một lĩnh
vực độc lập một phần vì các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học xã hội
khác nhau không thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh - có liên quan đến
Tâm lý học xã hội (Shibutani, 1999). Như vậy, rõ ràng trong sự phát triển của
khoa học xuất hiện nhu cầu tách riêng một lớp các vấn đề mới không thuộc
riêng về bất kì một bộ môn nào đang tồn tại rõ rệt hơn, nhu cầu này thể hiện
trong việc phát triển của hai bộ môn khoa học được coi là “mẹ đẻ” của Tâm lý
học xã hội: Tâm lý học và Xã hội học.

Tâm lý học giữa thế kỉ XIX tập trung chủ yếu vào các vấn đề của tâm lý
học cá nhân. Trong một số phần của nó, trước hết là trong bệnh lý tâm thần
học bắt đầu xuất hiện các mầm mống của các khái niệm tương lai đề cập đến

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

đặc trưng của các dạng tác động qua lại lẫn nhau của con người, các ảnh
hưởng lẫn nhau của chúng... Bên cạnh đó cũng phát hiện ra sự phụ thuộc
trong việc điều chỉnh tâm lý và hành vi cá nhân vào các tác động điều khiển từ
phía người khác. Tức là sự điều chỉnh từ phía xã hội. Nói cách khác, một
cách tự nhiên, xuất hiện các vấn đề liên quan đến Tâm lý học xã hội ngay
trong lòng Tâm lý học.

Các tri thức tâm lý - xã hội trong lòng lĩnh vực Xã hội học cũng dần
được hình thành, nhưng theo một cách hoàn toàn khác. Gần như ngay từ thời
gian đầu tồn tại của mình (giữa thế kỉ XIX) Xã hội học đi tìm kiếm các giải
thích cho một loạt những sự kiện xã hội bằng các quy luật từ những lĩnh vực
tri thức khác. Ví dụ Spencer vận dụng các quy luật sinh học để giải thích xã
hội trong trường phái hữu sinh: quy luật đấu tranh sinh tồn hay tiến hóa xã
hội. Song việc quy giản sinh học không thể lý giải đúng đắn các quá trình xã
hội và không thể giải thích được bản chất của các quá trình xã hội đã buộc
các nhà nghiên cứu phải tìm kiếm các quy luật của Tâm lý học để giải thích
cho các quá trình xã hội. Nguồn gốc của các hiện tượng xã hội được cho là
nằm trong tâm lý của con người. Khía cạnh tâm lý trong mỗi hiện tượng xã
hội trở thành sự quyết định về mặt tâm lý đối với các hiện tượng xã hội. Ví dụ,
theo quan điểm nhà xã hội học người Pháp G.Tarde thì các sự kiện xã hội cơ
bản bao hàm không phải trong phạm vi một bộ óc, mà trong sự tiếp xúc của
một vài bộ óc, là đối tượng tâm lý học “liên trí óc” phải nghiên cứu. Mô hình
tổng thể của một sự kiện xã hội được vẽ ra như là mối tương quan của hai cá
nhân, trong đó một người bắt chước người khác.

Như vậy, trong quá trình phát triển của hai bộ môn khoa học: Tâm lý
học và Xã hội học, hiện rõ sự dịch chuyển theo chiều gặp nhau kết thúc bằng
việc hình thành các vấn đề đã trở thành đối tượng của một bộ môn khoa học
mới.

3. Các hình thái lịch sử đầu tiên của tri thức Tâm lý học xã hội

Từ những thúc đẩy trực tiếp nêu trên, sự ra đời của Tâm lý học xã hội
trở thành hiện thực vào giữa thế kỉ XIX. Các hình thái đầu tiên của riêng tri

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thức tâm lý - xã hội được khai sinh. Những hình thức đầu tiên này chủ yếu là
các lý thuyết trừu tượng, mang tính mô tả mà chưa dựa trên các nghiên cứu
thực tế. Tuy vậy chúng đã tạo ra hình hài của một bộ môn khoa học mới. Từ
tất cả sự da dạng của những lý thuyết Tâm lý học xã hội đầu tiên thường
người ta chọn ra ba lý thuyết đáng kể nhất: tâm lý học dân tộc, tâm lý học
đám đông và lý thuyết bản năng của hành vi xã hội.

Tâm lý học dân tộc như là một trong các dạng đầu tiên của các lý
thuyết tâm lý học xã hội được hình thành vào giữa thế kỉ XIX tại nước Đức.
Những người trực tiếp sáng lập nên tâm lý học các dân tộc là nhà triết học
M.Laxarus (1824 - 1903) và nhà ngôn ngữ học G.Steinthal (1823 - 1893). Vào
năm 1859 tạp chí Tâm lý học các dân tộc và ngôn ngữ được ra mắt và đăng
bài báo “Bàn về tâm lý học các dân tộc”. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội là
“nhận biết về mặt tâm lý bản chất của tinh thần dân tộc, phát hiện các quy luật
diễn ra các hoạt động tinh thần của dân tộc”. Sau đó các tư tưởng tâm lý học
dân tộc được phát triển trong các quan điểm của V.Wundt (1852 - 1920). Lần
đầu tiên Wundt xây dựng lập trường của mình vào năm 1863 trong “Các bài
giảng về tâm hồn con người và động vật”. Tư tưởng được phát triển chủ yếu
vào năm 1900 trong tập đầu tiên của bộ sách mười tập Tâm lý học các dân
tộc. Wundt cho rằng Tâm lý học cần phải cấu thành từ hai phần: Tâm sinh lý
học và Tâm lý học các dân tộc. Trong đó, Tâm lý học dân tộc cần phải áp
dụng các phương pháp khác, đó chính là phân tích các sản phẩm văn hóa:
ngôn ngữ, truyền thuyết, phong tục, nghệ thuật.

Các đại diện nổi bật khác của Tâm lý học xã hội thời kì đầu là G.Tard và
G.Lebon với lý thuyết về tâm lý học đám đông - một trong các lý thuyết tâm lý
xã hội đầu tiên. Lý thuyết này được sinh ra tại Pháp trong nửa cuối của thế kỉ
XIX. Các cội nguồn của nó xuất phát từ quan niệm về quy luật bắt chước của
G.Tarde (1843 - 1904). Theo quan điểm của Tarde trong “Những quy luật của
sự bắt chước”, hành vi xã hội không có lời giải thích nào khác ngoài việc sử
dụng ý tưởng về sự bắt chước ông cho rằng Tâm lý học hàn lâm chính thống,
định hướng thiên về trí tuệ, đã không thành công khi bỏ qua các thành phần

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

xúc cảm trong các giải thích của mình. Ý tưởng về sự bắt chước tính đến các
yếu tố phi lý trong hành vi xã hội, bởi vậy nó có hiệu quả hơn. Chính hai tư
tưởng này của Tarde - vai trò của các yếu tố phi lý trong hành vi xã hội và vai
trò của sự bắt chước - đã được các nhà sáng lập trực tiếp tâm lý đám đông
lĩnh hội. Đó là luật sư người ý S.Sigele (1868 - 1913) và nhà xã hội học người
Pháp G.Lebon (1841 - 1931). Lebon, với tư cách của một nhà xã hội học, chủ
yếu quan tâm tới vấn đề đối lập tương phản giữa đại chúng và giới thượng
lưu trong xã hội. Vào năm 1895 xuất hiện công trình chủ yếu của ông Tâm lý
học đám đông trong đó có trình bày bản chất của lý thuyết này. Theo quan
điểm của Lebon, bất kì một đám đông nào cũng được gọi là “đại chúng”. Đặc
điểm chính của nó là mất khả năng lý tính nhưng lại tồn tại sự thống nhất tinh
thần của đám đông. “Đám đông này hình thành nên một thực thể duy nhất,
phục tùng quy luật thống nhất tinh thần của những đám đông” với một số điều
kiện nhất định (G.Lebon,1905). Các đặc điểm điển hình của hành vi con
người trong đám đông là: vô trách nhiệm cá nhân (điều này dẫn đến sự thống
soái của các phản ứng xung động, bản năng), vai trò cảm xúc chiếm ưu thế
đột biến so với lý trí (điều này dẫn đến việc dễ bị các ảnh hưởng khác nhau),
hoàn toàn đánh mất lý trí (điều này dẫn đến từ bỏ lôgic), đánh mất trách
nhiệm riêng (điều này dẫn đến việc không kiểm soát được các hăng hái bùng
phát) (Lebon, 1995). Kết luận suy từ việc mô tả bức tranh về hành vi của con
người trong đám đông này là đám đông theo bản chất của mình, luôn luôn lộn
xộn, hỗn loạn. Bởi vậy nó cần có “thủ lĩnh”, vai trò này có thể thực hiện bởi
“giới thượng lưu”. Các kết luận này được đưa ra trên cơ sở quan sát đám
đông trong tình huống hoảng loạn. Không có bất kì khẳng định thực nghiệm
nào được đưa ra, mặc dù sau này các quan sát này được ngoại suy cho bất
kì hành động của đám đông nào khác.

Ý nghĩa về mặt lý thuyết của Tâm lý học đám đông có tính chất hai mặt:
một mặt, nó đưa ra lời giải thích ở một mức độ nhất định các tương quan của
cá nhân và xã hội, nhưng mặt khác, lời giải thích này lại không có cơ sở. Trên
danh nghĩa, ưu thế của cá nhân so với xã hội được công nhận, nhưng bản
thân xã hội lại bị tùy tiện quy thành đám đông và thậm chí ở dạng này cũng

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

rất phiến diện, vì bản thân “đám đông”, hay “đại chúng” chỉ được mô tả trong
một tình huống hành vi duy nhất của nó - tình huống hỗn loạn. Mặc dù quan
niệm tâm lý học đám đông không có ý nghĩa quan trọng đối với số phận
tương lai của Tâm lý học xã hội, nhưng dù sao thì các vấn đề được nghiên
cứu trong khuôn khổ quan niệm này cũng đáng lưu ý, kể cả vào thời điểm
ngày nay.

Quan niệm thứ ba, đứng vào hàng những công trình tâm lý - xã hội độc
lập đầu tiên là lý thuyết bản năng của hành vi xã hội của nhà tâm lý học người
Anh Mc.Dougall (1871 - 1938), chuyển đến Mỹ vào năm 1920 và về sau làm
việc ở đó. Công trình của Mc.Dougall Nhập môn Tâm lý học xã hội ra đời vào
năm 1908 và năm đó được coi là năm khẳng định cuối cùng của Tâm lý học
xã hội như là một bộ môn tồn tại độc lập. Cũng trong năm đó ở Mỹ xuất bản
cuốn sách của nhà xã hội học E.Ross Tâm lý học xã hội và như vậy, rất trùng
hợp, khi cả nhà tâm lý học và nhà xã hội học trong cùng một năm xuất bản
giáo trình hệ thống đầu tiên của cùng một bộ môn. Song, năm đó chỉ có thể
rất tượng trưng được coi là khởi đầu của thời kì mới trong Tâm lý học xã hội
vì ngay từ năm 1897 J.Bolđuin đã đăng công trình Những nghiên cứu về Tâm
lý học xã hội mà cũng có thể coi như cuốn sách chỉ dẫn hệ thống đầu tiên.

Luận điểm đầu tiên của lý thuyết Mc.Dougall là các bản năng bẩm sinh
được coi là nguyên nhân của hành vi xã hội. Tư tưởng này là hiện thực hóa
nguyên tắc chung hơn: sự hướng tới mục đích là thuộc tính của cả loài vật và
con người. Chính nguyên tắc này đặc biệt có ý nghĩa trong quan niệm của
Mc.Dougall, đối trọng với chủ nghĩa hành vi (giải thích hành vi như là phản xạ
đơn giản với kích thích bên ngoài). Ông cho là tâm lý “hướng đích” hay
“hormic” (từ Hi Lạp horme - hướng tới, khát vọng, khí thế). Các bản năng của
mỗi người xuất hiện nhờ kết quả của một sự chuẩn bị tâm sinh lý nào đó - sự
có mặt của các kênh nạp năng lượng thần kinh gắn theo di truyền. Các bản
năng bao gồm các phần kích thích (dây thần kinh), trung tâm (xúc cảm) và li
tâm (vận động). Như vậy, tất cả những gì diễn ra trong phạm vi ý thức đều
phụ thuộc trực tiếp vào sự khởi đầu vô thức. Thể hiện bên trong của bản

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

năng chủ yếu là các cảm xúc. Mối liên hệ giữa các bản năng và các cảm xúc
mang tính chất hệ thống và được xác định. Mc.Dougall đã liệt kê một số cặp
bản năng và cảm xúc có liên quan với nhau: bản năng đấu tranh và tương
ứng với nó là sự tức giận, sợ hãi; bản năng bỏ chạy và ý thức tự vệ; bản
năng duy trì nòi giống và ghen tương; bản năng tìm kiếm và cảm giác sở hữu;
bản năng xây dựng và cảm giác sáng tạo; bản năng bầy đàn và cảm giác
thuộc một tổ chức nào đó. Từ các bản năng xuất phát tất cả các tổ chức xã
hội: gia đình, buôn bán, các quá trình xã hội khác nhau mà trước hết là chiến
tranh. Dù các tư tưởng của Mc.Dougall rất phổ biến, chúng đóng vai trò tiêu
cực trong lịch sử khoa học: việc diễn giải hành vi xã hội theo quan điểm của
một sự hướng tới mục đích bột phát nào đó hơn thực hóa ý nghĩa của những
ảnh hưởng phi lý, vô thức như là động lực không chỉ của cá nhân mà còn của
cả loài người. Bởi vậy, cũng như trong Tâm lý học nói chung, vượt qua được
các tư tưởng của lý thuyết bản năng là một mốc quan trọng sau này trong sự
phát triển của Tâm lý học xã hội khoa học.

Những quan niệm đầu tiên của Tân lý học xã hội có những ý nghĩa nhất
định. Trước hết, ý nghĩa tích cực của chúng là đã tách biệt và đặt ra rõ ràng
các vấn đề thực sự quan trọng, cần phải giải quyết: về tương quan của ý thức
cá nhân và ý thức của nhóm, về các động lực của hành vi xã hội... Các quan
niệm tâm lý - xã hội đầu tiên hãy còn yếu bởi việc chúng không dựa trên thực
tế nghiên cứu nào, chúng hoàn toàn không dựa trên các công trình nghiên
cứu. Song điều cơ bản đã hoàn thành: Tâm lý học xã hội đã được tuyên bố
như là một bộ môn khoa học độc lập có quyền tồn tại. Bây giờ nó cần phải tạo
ra cơ sở thực nghiệm cho mình vì nói chung tâm lý học đến thời điểm này đã
tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sử dụng phương pháp thực nghiệm. Giai
đoạn trưởng thành sau đó của Tâm lý học xã hội như là một bộ môn khoa học
chỉ có thể là giai đoạn thực nghiệm trong lịch sử phát triển của nó.

IV. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC


1. Tâm lý học xã hội với Xã hội học và Tâm lý học

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Đến nay đã có được sự đồng thuận tương đối về đối tượng của Tâm lý
học xã hội. Nhưng sự đồng thuận trong quan niệm về phạm vi các nhiệm vụ
được giải quyết bởi Tâm lý học xã hội không có nghĩa là đã có sự thống nhất
trong cách hiểu về các quan hệ của nó với Tâm lý học và Xã hội học. Bởi vậy
cuộc tranh luận về vấn đề “ranh giới” của Tâm lý học xã hội vẫn diễn ra khá
độc lập. Ở đây có thể nêu ra ba lập trường: 1) Tâm lý học xã hội là một phần
của Xã hội học; 2) Tâm lý học xã hội là một phần của Tâm lý học; 3) Tâm lý
học xã hội - đó là khoa học ở vị trí tiếp giáp của Tâm lý học và Xã hội học,
trong đó bản thân “chỗ tiếp giáp” được hiểu theo hai cách: a) Tâm lý học xã
hội chiếm một phần nào đó của Tâm lý học và một phần nào đó của Xã hội
học; bị nó chiếm phần “vô chủ” - lĩnh vực không thuộc cả Xã hội học cũng như
Tâm lý học.

Nếu theo đề xuất của các nhà tâm lý học xã hội Mỹ Mc.Dougall và
G.Harary, thì tất cả các lập trường nói trên có thể đưa về hai quan điểm: nội
ngành và liên ngành. Nói cách khác, vị trí của Tâm lý học xã hội có thể tìm ở
bên trong một lĩnh vực “mẹ” hay trên ranh giới giữa chúng. Điều này có thể
biểu diễn qua sơ đồ sau:

Hình 1. Các phương án xác định vị trí của Tâm lý học xã hội (“ranh giới”
với Xã hội học và Tâm lý học)

Mặc dù có những khác biệt dường như rất cơ bản, tất cả các quan
điểm được đưa ra về bản chất đều dừng lại trước một vấn đề: “ranh giới” nào
phân chia Tâm lý học xã hội với Tâm lý học và với Xã hội học. Vì có đặt Tâm
lý học xã hội ở đâu thì trong mọi hoàn cảnh nó cũng tiếp xúc với hai bộ môn
này.

2. Tâm lý học xã hội với các khoa học khác

Là bộ môn khoa học “giao thoa” giữa Tâm lý học xã hội và Xã hội học,
đương nhiên Tâm lý học xã hội có quan hệ chặt chẽ không chỉ với hai khoa
học mẹ mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, cả
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Khoa học tự nhiên, đặc biệt là khoa học Sinh lý thần kinh và Sinh học
có vai trò to lớn đối với Tâm lý học xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu Tâm lý học
xã hội sử dụng các tri thức về hoạt động của hệ thần kinh nhằm lý giải các
hiện tượng tâm lý đám đông như sự hoảng loạn, sự ám thị, sự lây lan xúc
cảm, tình cảm, hay đi tìm các cơ chế hoạt động của não bộ để lý giải hiện
tượng đồng cảm giữa con người với con người. Một loạt các lý thuyết của
sinh học đã từng được sử dụng để giải thích các hiện tượng tâm lý xã hội như
khái niệm “tâm lý bầy đàn”, “sự hấp dẫn bầy đàn”. Ngay cả việc nghiên cứu
các hiện tượng tâm lý xã hội liên quan đến các nhóm giới tính: sự hấp dẫn
giới tính, các hành vi của các giới khác nhau, cũng không hiếm khi các nhà
nghiên cứu phải xuất phát từ các hiểu biết về cơ sở sinh học của chúng. Các
kiến thức toán học cũng ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn với hai xu
hướng: dùng để mô hình hóa các hiện tượng tâm lý xã hội (mặc dù hướng
này còn rất hạn chế) và hữu dụng hơn là xu hướng sử dụng các phép toán
thống kê để phân tích sâu các hiện tượng tâm lý xã hội. Các phép tính tương
quan, phân tích nhân tố, các kiểm định... được sử dụng rất phổ biến.

Với tư cách là khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy con người, triết học cung cấp các cơ sở phương pháp luận cho
Tâm lý học xã hội. Từ việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận đối
tượng nghiên cứu đến việc phân tích, giải thích và khái quát kết quả nghiên
cứu, các nhà Tâm lý học xã hội đều dựa trên lập trường triết học nhất định.
Vấn đề đã và vẫn đang là trung tâm của các cuộc tranh luận liên quan đến
vấn đề phương pháp luận là ảnh hưởng (tích cực hay tiêu cực) của việc một
nhà Tâm lý học xã hội đứng trên một lập trường triết học nào đó để giải quyết
một vấn đề tâm lý xã hội. Vấn đề này được gọi là vấn đề giá trị (tư tưởng)
trong nghiên cứu Tâm lý học xã hội. Dù câu trả lời là thế nào đi nữa, không
thể có nhà tâm lý học xã hội nào lại không đứng trên một lập trường triết học
nhất định để giải quyết vấn đề tâm lý xã hội.

Để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội sử dụng
rất nhiều những thành tựu của các khoa học xã hội và nhân văn. Muốn chỉ ra

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

các đặc điểm tâm lý của nhóm lớn như dân tộc chẳng hạn, không thể thiếu
các kiến thức của dân tộc học, lịch sử dân tộc, văn hóa học. Khá nhiều vấn đề
mang tính giao thoa trong Tâm lý học xã hội và các khoa học xã hội nhân văn
kể trên như vấn đề nhóm gia đình, vấn đề truyền thống của một cộng đồng
hay vấn đề giới... Muốn làm rõ các hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận xã
hội, tâm trạng xã hội, không thể bỏ qua các vấn đề kinh tế học, chính trị học,
quản trị học. Các khoa học xã hội nhân văn cung cấp các tư liệu đa dạng và
nhiều chiều về con người trong các mối quan hệ xã hội khác nhau.

Ngược lại, các tri thức mà Tâm lý học xã hội phát hiện ra lại đóng vai
trò quan trọng đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Chính
việc ra đời của Tâm lý học xã hội là minh chứng cho sự cần thiết của nó trong
việc giải quyết những vấn đề mà một số khoa học khác chưa giải quyết được
một cách đầy đủ.

Tóm lại, Tâm lý học xã hội luôn bị đặt trước những đòi hỏi của đời sống
xã hội trong việc giải quyết hàng loạt các vấn đề phức tạp và đa diện. Do vậy
chỉ khi sử dụng các kiến thức của các khoa học khác có liên quan, Tâm lý học
xã hội mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đồng thời nghiên cứu
các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội cung cấp cho các khoa học
khác những kiến thức để làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của các hiện
tượng xã hội. Đây cũng chính là cơ sở của mối quan hệ ngày càng chặt chẽ
giữa Tâm lý học xã hội và các khoa học khác.

V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI


1. Các nguyên tắc phương pháp luận

a) Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng

Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò quyết định của các điều kiện vật
chất, của các điều kiện thực tiễn đối với các hiện tượng tâm lý xã hội. Các
hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trên cơ sở của các điều kiện sống, điều kiện
hoạt động của nhóm, của cộng đồng. Nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý
xã hội phải được tìm kiếm trong đời sống thực. Các hiện tượng tâm lý xã hội

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

không phải nảy sinh một cách “tự nó”, tồn tại lơ lửng đâu đó không có chủ
thể. Do vậy, lý giải các hiện tượng tâm lý xã hội phải xuất phát từ các hiện
tượng cụ thể trong đời sống xã hội, tìm tòi các nguyên nhân làm nảy sinh các
hiện tượng tâm lý xã hội trong đời sống xã hội hiện thực của con người, trong
nhóm người, cộng đồng người cụ thể. Đó chính là nguyên tắc duy vật trong
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Ngược lại, các hiện tượng tâm lý xã
hội khi đã hình thành lại có được sự độc lập tương đối đối với tồn tại xã hội và
có sức mạnh riêng của nó. Nó có thể chi phối ngược lại đến các điều kiện xã
hội tạo ra những thay đổi, những vận động nhất định. Các hiện tượng tâm lý
xã hội như dư luận xã hội, truyền thống xã hội, tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo...
có những sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người, của
cộng đồng, thậm chí nó có thể tạo ra những sức mạnh làm thay đổi tiến trình
của lịch sử trong những thời điểm nhất định. Đó hình là lập trường biện
chứng khi nhìn nhận, đánh giá, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Như
vậy, nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng chỉ ra cách thức tiếp cận,
lý giải và đánh giá các hiện tượng tâm lý xã hội một cách đầy đủ và toàn diện.

b) Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan

Nguyên tắc này đòi hỏi khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội,
phải nghiên cứu như nó vốn có, vốn tồn tại trong đời sống hiện thực. Các dữ
liệu thu được không được bóp méo, hoặc bị làm sai lệch. Khi lý giải các hiện
tượng không được áp đặt chủ quan. Để thực hiện được điều đó, người
nghiên cứu cần có khả năng phát hiện các hiện tượng tâm lý xã hội, có khả
năng lựa chọn, sử dụng các phương pháp, công cụ thu thập dữ liệu phù hợp,
cho độ tin cậy và chính xác cao. Bên cạnh đó, bản thân người nghiên cứu có
thái độ trung thực, khoa học trong khi thu thập và xử lý dữ liệu. Nguyên tắc
khách quan làm tăng giá trị của các kết quả nghiên cứu và giúp các nghiên
cứu ngày càng tiến gần hơn đến bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội
cần nghiên cứu.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

c) Nguyên tắc nghiên cứu các hiện tượng Tâm lý xã hội trong mối
liên hệ với các hiện tượng xã hội và trong mối liên hệ với các hiện tượng
tâm lý xã hội khác

Nguyên tắc này được đề ra trên cơ sở coi mọi hiện tượng tâm lý xã hội
đều nảy sinh trên các điều kiện sống xã hội, nói cách khác các hiện tượng
tâm lý xã hội là sự phản ánh các điều kiện xã hội của nhóm, của cộng đồng.
Để chỉ ra nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội người nghiên cứu phải
tìm hiểu các hiện tượng xã hội có liên quan. Ví dụ: Một chính sách xã hội một
sự kiện xã hội là những nhân tố xã hội tạo ra tâm trạng hay dư luận xã hội.
Tất nhiên ở đây không đơn giản là mối quan hệ nhân quả, sự kiện nào tâm lý
xã hội ấy mà có hàng loạt các yếu tố khác trong đời sống của cá nhân, nhóm
và cộng đồng xã hội tác động đến sự phản ánh các sự kiện xã hội đó. Đặt các
hiện tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu trong mối liên hệ với các hiện tượng
xã hội cho phép thấy rõ hơn nội dung, mức độ, diễn biến của các hiện tượng
tâm lý xã hội. Cũng chính vì thế, các hiện tượng tâm lý xã hội khác nhau có
mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau như bản thân các điều kiện xã hội mà
nó phản ánh. Mỗi hiện tượng tâm lý xã hội có vai trò, vị trí nhất định trong đời
sống xã hội. Ví dụ: dư luận xã hội tồn tại trong thời gian tương đối ngắn, có
chức năng thúc đẩy hoặc kìm hãm những hành vi xã hội nào đó vào thời điểm
nhất định, trong khi đó truyền thống của nhóm lớn lại đóng vai trò điều chỉnh
hành vi trong thời gian dài hơn, tạo ra sự thống nhất cả thái độ, hành vi, giá trị
cho các thế hệ khác nhau. Mặt khác dư luận xã hội lại được hình thành trên
cơ sở những giá trị đã ổn định của nhóm, của xã hội - đó chính là nhân tố
thuộc về truyền thống. Nói cách khác, ở đây hai hiện tượng tâm lý xã hội mặc
dù có những sự khác biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ và có thể chuyển hóa
lẫn nhau.

d) Nguyên tắc phát triển

Nguyên tắc này nhấn mạnh đến việc tiếp cận, nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó. Theo
quan điểm biện chứng, sự vật hiện tượng luôn vận động biến đổi, không có

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

sự vật hiện tượng nào là bất biến. Coi sự vật hiện tượng là bất biến tức là rơi
vào quan điểm siêu hình. Sự vật hiện tượng tồn tại ổn định tương đối, vận
động và biến đổi là tuyệt đối. Xã hội cũng vậy, nó cũng vận động, biến đổi và
phát triển theo các quy luật, các chiều hướng nhất định. Với tư cách là sự
phản ánh đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội cũng không thể là bất
biến. Các hiện tượng tâm lý xã hội cũng nảy sinh, hình thành và phát triển
theo những quy luật, những chiều hướng nhất định. Với sự độc lập tương đối
của chúng, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể chuyển hóa lẫn nhau, tác
động qua lại làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội mới. Hội chứng “tâm lý
đám đông” trong lĩnh vực chứng khóan gần đây là ví dụ điển hình cho sự tác
động qua lại và chuyển hóa này. Từ việc bắt chước hành vi của người khác,
cá nhân có hành vi giống người khác, sự giống nhau về hành vi lại trở thành
kích thích làm nảy sinh tâm trạng chung tạo điều kiện cho sự bắt chước thuận
lợi hơn. Sự tác động qua lại đó làm cho hành vi của đám đông không kiểm
soát được. Chỉ khi có một tác động lớn nào đó làm cho vòng xoáy tác động
đó đột ngột bị dừng lại, hiệu lực của sự tác động qua lại đó mới giảm đi. Như
vậy, với tư cách là sự phản ánh đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội
luôn vận động, phát triển, với tư cách là các hiện tượng tinh thần của nhóm,
của cộng đồng xã hội có sự độc lập tương đối, các hiện tượng tâm lý xã hội
cũng luôn vận động và phát triển không ngừng. Do vậy, cách tiếp cận đúng
đắn chính là tiếp cận phát triển.

Trên đây là các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản đối với việc
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Các nguyên tắc đó chỉ đạo việc tiếp
cận, thu thập, phân tích và khái quát kết quả nghiên cứu. Để có được các dữ
liệu về các hiện tượng tâm lý xã hội, người nghiên cứu cần lựa chọn và sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau cho phù hợp với mục
đích và đối tượng nghiên cứu. Sau đây là một số các phương pháp nghiên
cứu cụ thể thường được sử dụng trong các nghiên cứu Tâm lý học xã hội.

2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Nghiên cứu các tài liệu có ý nghĩa lớn, vì nhờ phương pháp này có thể
hệ thống hóa, phân tích và xây dựng được bức tranh chung về vấn đề cần
nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu tài liệu, nhà nghiên cứu có thể xác
định được những vấn đề đã được giải quyết, mức độ giải quyết một vấn đề
vấn đề cần làm rõ thêm, các vấn đề chưa được giải quyết... Qua đó, nó cho
phép định hướng nghiên cứu. Việc nghiên cứu tài liệu đóng vai trò quan trọng
trong việc xác định hoặc xây dựng hệ thống các khái niệm mà nhờ đó nghiên
cứu có thể được tiến hành. Một cách ví von, nghiên cứu tài liệu chính là tìm
cách “đứng trên vai những người khổng lồ” để tiến xa hơn trong nghiên cứu
và tiến gần hơn đến bản chất của đối tượng nghiên cứu. Thực hiện phương
pháp này để thu thập thông tin, nhà nghiên cứu cần thiết lập danh mục tài liệu
nghiên cứu, ghi lại các nội dung có liên quan, phân tích, phê phán và khái
quát các kết quả nghiên cứu đã có.

Một vấn đề đặc biệt xuất hiện ở đây liên quan đến việc nhà nghiên cứu
lựa chọn, trình bày tài liệu như thế nào. Nhà nghiên cứu cũng là con người
với những đặc điểm tâm lý cá nhân có sẵn của riêng mình với các lựa chọn
chủ quan, do vậy việc nghiên cứu tài liệu phải phải ánh đúng và đầy đủ các
quan điểm khác nhau. Để tránh dạng “chủ quan” (việc trình bày tài liệu theo
cách của nhà nghiên cứu) mới này, một thủ pháp đặc biệt có tên gọi là “phân
tích nội dung” được đưa vào (Bôgômôlôva, Xtêphanenko, 1992). Đây là
phương pháp phân tích tài liệu đặc biệt, dựa trên hình thức của tài liệu: đoạn
văn bản được tách riêng ra “các đơn vị”, sau đó tính toán tần suất được sử
dụng của chúng. Phương pháp phân tích nội dung chỉ có ý nghĩa sử dụng
trong các trường hợp, khi nhà nghiên cứu phải làm việc với các khối thông tin
lớn, cho nên phải phân tích rất nhiều văn bản.

b) Phương pháp quan sát

Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực
nghiên cứu khác nhau, trong đó có Tâm lý học xã hội. Trong Tâm lý học xã
hội, quan sát là tri giác các hiện tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu một cách
có chủ định, có kế hoạch nhằm phát hiện những dữ kiện cần thiết cho các

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

nghiên cứu. Phương pháp quan sát có thể được sử dụng độc lập hoặc cũng
có thể được sử dụng như là một phương pháp bổ sung cho một phương
pháp khác. Có nhiều loại quan sát khác nhau: quan sát tự nhiên hay quan sát
trong phòng thí nghiệm, quan sát phát hiện hay quan sát kiểm định, quan sát
ngắn hạn hay quan sát dài hạn. Trong Tâm lý học xã hội hiện đại có mối quan
tâm đặc biệt với một dạng của quan sát là quan sát tham gia, khi nhà nghiên
cứu (giấu mặt) trở thành một thành viên của nhóm đang được nghiên cứu.
Việc lựa chọn các hình thức quan sát phụ thuộc vào ý đồ, mục đích và điều
kiện cụ thể của người nghiên cứu. Hiện nay, nhà nghiên cứu có thể sử dụng
nhiều thiết bị hiện đại để hỗ trợ và lưu giữ các biểu hiện của hiện tượng cần
nghiên cứu như các phương tiện ghi âm, ghi hình, các camera quan sát... ưu
điểm cơ bản của phương pháp quan sát là dễ tiến hành, chi phí thấp, linh
hoạt. Đặc biệt đối với việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, thường
diễn ra nhanh chóng, không lặp lại, việc sử dụng phương pháp quan sát có
lợi thế lớn vì tính linh hoạt của nó. Bên cạnh các ưu điểm, phương pháp quan
sát cũng có những hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất là nó phụ thuộc nhiều
vào kinh nghiệm và tính chủ quan của nhà quan sát. Một người nghiên cứu ít
kinh nghiệm có thể bỏ qua những biểu hiện có vẻ không quan trọng nhưng lại
là dấu hiệu bản chất của hiện tượng, hay người nghiên cứu có thể bỏ qua
những dấu hiệu ít liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, phương
pháp này còn đòi hỏi sự chú ý liên tục và lâu dài của người nghiên cứu bởi vì
các hiện tượng cần nghiên cứu có thể diễn ra bất kì lúc nào có thể làm người
nghiên cứu bị động. Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý là phương pháp quán
sát chủ yếu cung cấp các dữ liệu trực quan, cảm tính. Nó cũng cấp các dữ
liệu chủ yếu về các hành vi “bên ngoài” - được bộc lộ ra bên ngoài của cá
nhân hay nhóm xã hội, mà ít cho thấy những cấu trúc nhận thức bên trong.
Do vậy để sử dụng các dữ liệu này một cách hiệu quả cần kết hợp với các dữ
liệu thu được từ các phương pháp khác.

c) Điều tra (Thăm dò ý kiến)

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Đây là phương pháp rất được phổ biến trong các nghiên cứu Tâm lý
học xã hội. Trong số rất nhiều dạng thăm dò ý kiến, phổ biến nhất trong Tâm
lý học xã hội là phỏng vấn và điều tra bằng bảng hỏi. Phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi được sử dụng phổ biến trong Tâm lý học xã hội, đặc biệt trong
việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội của các nhóm lớn như nghiên
cứu dư luận xã hội, các đặc trưng tâm lý của các nhóm lớn. Phương pháp
này cho phép nghiên cứu trên lượng khách thể lớn, với thời gian ngắn và có
khả năng khái quát kết quả cao. Tất nhiên phương pháp này cũng có những
hạn chế nhất định. Để thực hiện phương pháp này, điều quan trọng nhất là
xây dựng, thiết kế các câu hỏi. Việc xây dựng bảng câu hỏi để kê khai đòi hỏi
nghệ thuật của nhà nghiên cứu. Lôgic của việc xây dựng câu hỏi, thứ tự các
câu hỏi, kiểu của chúng (mở - đóng) cần phải được suy tính kĩ càng. Người
lập bảng điền kê khai cần phải có “chìa khóa”, nhờ đó các câu trả lời câu hỏi
có thể được trình bày một cách thích hợp. Để có được bảng câu hỏi đáp ứng
được các tiêu chí đo lường tâm lý như: độ ứng nghiệm (hay còn gọi là độ hiệu
lực), độ tin cậy... người thiết kế cần được đào tạo về kĩ thuật thiết kế các bảng
hỏi và phải thực hiện một quy trình đầy đủ. Có nhiều quy tắc xây dựng cho
mỗi bảng câu hỏi, phân bố chúng theo một trật tự nhất định, nhóm lại thành
các khối riêng biệt...

d) Phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng
trong Tâm lý học xã hội. Trong Tâm lý học xã hội người ta phân biệt hai dạng
thực nghiệm chủ yếu: trong phòng thí nghiệm và tự nhiên. Đối với cả hai
dạng, tồn tại một số quy tắc chung thể hiện bản chất của phương pháp, đó là:
người làm thực nghiệm tự do đưa ra những biến số độc lập và kiểm soát
chúng cũng như kiểm soát cả những thay đổi của các biến số phụ thuộc.
Trong đó, yêu cầu tách riêng các nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm để
các kết quả do đặc có thể được so sánh với một chuẩn mực nào đó. Để thực
hiện phương pháp này, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tuân thủ một loạt các yêu
cầu một cách nghiêm ngặt như xác định mục đích thực nghiệm, thiết kế thực

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

nghiệm, kiểm soát các biến số, tiến hành thực nghiệm đúng với thiết kế... Đặc
biệt trong thực nghiệm Tâm lý học xã hội nhà nghiên cứu được yêu cầu phải
tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực đạo đức nghiên cứu vì các nghiên cứu liên
quan đến khách thể là con người. Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có
những nghiên cứu thực nghiệm nổi tiếng. Đó là những nghiên cứu về áp lực
của nhóm đối với cá nhân, nghiên cứu về việc bắt chước các hành vi xã hội
của người khác, nghiên cứu về vai xã hội...

e) Trắc đạc xã hội

Trắc đạc xã hội là phương pháp nghiên cứu nổi tiếng của trường phái
Trắc đạc xã hội gắn liền với tên tuổi của J.Moreno. J.Moreno cho rằng: trong
nhóm nhỏ tồn tại hai cấu trúc các mối quan hệ - cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi
mô. Cấu trúc vĩ mô là các mối quan hệ qua lại về mặt công việc, hoạt động
sống và chức năng của các cá nhân. Cấu trúc vi mô là cấu trúc quan hệ tâm
lý của cá nhân với những người xung quanh thể hiện chủ yếu ở sự thiện cảm
ác cảm hay thờ ơ giữa các thành viên. Nguyên nhân của sự không trùng
khớp là ở chỗ: những người cùng hoạt động trong một không gian có thể là
những người không có được sự thân thiện về mặt tâm lý. Do vậy, sử dụng
phương pháp này có thể “làm bộc lộ các cấu trúc ẩn dấu, những vị trí cá nhân
trong nhóm”, chỉ ra các tiếp xúc xúc cảm, vị thế của cá nhân trong các quan
hệ xúc cảm, ảnh hưởng của các mức độ quan hệ xúc cảm đến tính hiệu quả
hay đến sự hình thành các chuẩn mực nhóm, đến hiện tượng áp lực nhóm...
Để nghiên cứu các vấn đề đó, J.Moreno đã đưa ra phương pháp Trắc đạc xã
hội. Phương pháp này được sử dụng phổ biến để xác định các mối liên hệ
liên nhân cách trong nhóm, dựa trên sự lựa chọn, khước từ hoặc bỏ mặc của
các thành viên trong nhóm với các thành viên khác của nhóm trong hoạt động
chung. Nó còn được sử dụng để nghiên cứu các cấu trúc không chính thức
của nhóm, đo lường vị thế của cá nhân trong nhóm, khả năng hoà nhập của
cá nhân trong nhóm. Phương pháp này cho phép xác định các quan hệ xúc
cảm qua lại giữa các thành viên trong nhóm, từ đó có thể xây dựng được một
sơ đồ về cấu trúc vi mô, đồng thời xác định cách phân nhóm tối ưu, làm cho

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cấu trúc vĩ mô phù hợp với cấu trúc vi mô, góp phần làm cho các nhóm trở
nên gắn kết và có hiệu quả hơn. Trắc đạc xã hội được thực hiện dưới dạng
điều tra. Nhà nghiên cứu lựa chọn các tiêu chí trắc đạc cần quan tâm, sau đó
điều tra sự lựa chọn của các cá nhân theo tiêu chí trắc đạc đó. Ví dụ: để
nghiên cứu mối quan hệ về mặt xúc cảm của các cá nhân đối với cá nhân
khác trong nhóm, người nghiên cứu có thể lựa chọn tiêu chí trắc đặc: nếu
được lựa chọn ai đó trong nhóm để đi du lịch cùng, anh (chị) sẽ lựa chọn ai?".
Dựa trên sự lựa chọn của các cá nhân trong nhóm có thể mô tả được cấu
trúc không chính thức của nhóm dưới dạng họa đồ xã hội (sociogram) hoặc
tính các chỉ số vị thế xã hội (sociostatus) hoặc chỉ số cố kết nhóm (group
cohension).

f) Phương pháp đánh giá của nhóm về cá nhân

Phương pháp này thường được sử dụng trong việc nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến nhân cách xã hội. Ví dụ, tìm hiểu những phẩm chất hay
năng lực cần có ở người lãnh đạo nhóm hoặc tập thể, để từ đó xây dựng mô
hình nhân cách của các cá nhân trong một vị trí xã hội nào đó hoặc để đánh
giá các mức độ phát triển của các phẩm chất, năng lực đó ở cá nhân cụ thể
dưới con mắt của các thành viên khác trong nhóm. Để thực hiện việc này,
người nghiên cứu có thể hình thành trước một danh sách bao gồm nhiều
phẩm chất tâm lý xã hội mà cá nhân cần có ở một vị trí nhất định (dựa vào
việc phân tích nội dung, tính chất công việc... hoặc dựa vào các điều tra sơ
bộ) sau đó đề nghị các cá nhân của nhóm đánh giá mức độ phát triển các
phẩm chất đó ở một cá nhân cụ thể cần nghiên cứu. Kết quả cho biết cá nhân
có được các phẩm chất, năng lực ở mức độ nào theo sự nhận biết, đánh giá
của cá nhân khác hoặc một cá nhân cần có những phẩm chất hay năng lực
nào tương ứng với vị trí và vai xã hội nhất định.

NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI:

Tâm lý học xã hội ngày càng được chú ý hơn trong đời sống xã hội, đặc
biệt là trong các lĩnh vực ứng dụng của nó.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Quản lý và phát triển tổ chức: Hướng vận dụng này đang trở thành
phổ biến trong xã hội hiện đại ở các tổ chức thuộc mọi lĩnh vực: sản xuất, kinh
doanh, giáo dục. Những khía cạnh cơ bản gồm: các phương thức quản lý,
các phẩm chất tâm lý của người quản lý, giao tiếp công việc, phát triển tổ
chức, tư vấn tổ chức, quản trị nhân sự, xây dựng và phát triển nhóm làm việc.

- Thông tin đại chúng và quảng cáo: Hướng vận dụng này tập trung vào
các vấn đề như người truyền tin, thông điệp, sự giải mã thông tin, tự giác các
thông điệp, kênh thông tin, qua đó đưa ra các cách thức tổ chức thông tin và
tác động hiệu quả nhất đến công chúng.

- Gia đình và nhà trường: Lĩnh vực này bao gồm các nội dung cơ bản
như: phổ biến kiến thức tâm lý xã hội, tham vấn tâm lý, tư liệu những lệch lạc
tâm lý xã hội, tư vấn chuẩn bị hôn nhân, điều chỉnh các quan hệ gia đình...

- Luật pháp và chính trị: Các vấn đề được tập trung giải quyết bao gồm:
trẻ phạm pháp vị thành niên, cảnh báo tội phạm xã hội, các nhóm nhỏ tội
phạm, đồng giới tham vấn các vấn đề chính trị hình thành hình ảnh chính trị,
uy tín chính trị...

- Tổ chức hoạt động của các tập thể trong lĩnh vực nghiên cứu khoa
học.

- Trong lĩnh vực giáo dục đại học, hầu hết các vấn đề cơ bản của Tâm
lý học xã hội đều hiện diện: từ việc tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục
sinh viên trong nhóm, tập thể đến việc thiết lập, vận hành các quan hệ xã hội
và liên nhân cách: giảng viên - sinh viên; từ những hiện tượng tâm lý xã hội
đơn giản như sự tương tác qua lại giữa các cá nhân đến những hiện tượng
tâm lý xã hội phức tạp như sự đồng nhất hóa, hay sự cố kết, đoàn kết trong
tập thể... Do vậy, những tri thức tâm lý học xã hội góp phần đáng kể trong
việc phát hiện, lý giải và hình thành các tác động đối với các hiện tượng tâm
lý xã hội, từ đó giúp việc tổ chức dạy học diễn ra thuận lợi và có hiệu quả
hơn.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

1. Phân biệt hiện tượng tâm lý xã hội với hiện tượng xã hội, hiện tượng
Tâm lý xã hội với tâm lý cá nhân.

2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội là gì? Mối quan hệ của
Tâm lý học xã hội nói các khoa học khác?

3. Có những phương pháp nào được sử dụng trong các nghiên cứu
Tâm lý học xã hội? Mô tả sơ lược các phương pháp đó.

Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI


Nội dung cơ bản:

Các quy luật chi phối các hiện tượng tâm lý xã hội như: quy luật kế
thừa; quy luật về sự quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với tâm
lý xã hội; quy luật bắt chước; quy luật tác động qua lại giữa con người với con
người.

Các cơ chế tâm lý xã hội: cơ chế lây lan; cơ chế đồng nhất hóa; cơ chế
ám thị; cơ chế thỏa hiệp.

I. CÁC QUY LUẬT TÂM LÝ XÃ HỘI


1. Quy luật kế thừa

Để tồn tại và phát triển, con người phải tiếp thu những yếu tố có sẵn, từ
đó cải biến chúng cho phù hợp với các điều kiện hiện tại. Nếu không có sự kế
thừa thì sẽ không có sự phát triển. Xã hội loài người cũng vậy, có được
những thành tựu như ngày nay, xã hội loài người phải “đứng trên vai” những
thành tựu của hàng ngàn năm phát triển khoa học, công nghệ, văn hóa và xã
hội. Sau này cũng vậy, những thành tựu của xã hội hiện tại lại được tiếp thu
cải biến cho các giai đoạn xã hội mai sau. Phản ánh đời sống xã hội, các hiện
tượng tâm lý xã hội cũng diễn ra theo quy luật này. Các hiện tượng tâm lý xã
hội không phát triển theo con đường sinh học, bằng di truyền sinh học mà
bằng con đường “di sản xã hội”. Đặc biệt, đối với các hiện tượng tâm lý xã hội

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

liên quan đến các nhóm lớn xã hội như dân tộc, giai tầng xã hội, cộng đồng
xã hội, quy luật kế thừa được vận hành một cách phổ biến.

Kế thừa được hiểu là sự chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác
các giá trị vật chất (công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt, công trình văn hóa
nghệ thuật...) và các giá trị tinh thần (kinh nghiệm sản xuất, truyền thống,
phong tục tập quán...).

Nhờ quy luật kế thừa, một cá nhân không cần phải trải qua toàn bộ các
giai đoạn phát triển của loài trong kinh nghiệm của bản thân mà chỉ cần kế
thừa cái đã có để có được sự phát triển tương ứng trong hiện tại. Một nhóm
xã hội không cần lặp lại toàn bộ các giai đoạn mà xã hội đã trải qua mà có thể
dựa trên nền tảng đã có để phát triển nhanh hơn, mạnh hơn. Một dân tộc với
các truyền thống của mình, có thể bảo tồn, duy trì và tiếp tục phát triển chúng
trong thời kì mới mà không cần phải xây dựng lại từ đầu. Trong quá trình phát
triển của dân tộc, các truyền thống khác lại dần được hình thành. Việc kế
thừa, một mặt giúp rút ngắn thời gian phát triển, mặt khác tạo điều kiện để
sàng lọc, loại bỏ các giá trị không phù hợp. Như vậy nó tạo ra sự phát triển ổn
định, không đứt quãng cho xã hội.

Kế thừa tâm lý xã hội diễn ra theo nhiều con đường khác nhau. Có thể
đó là con đường của “vô thức tập thể”, tức là cá nhân sống trong một môi
trường nhóm, cộng đồng xã hội nào đó với các đặc điểm tâm lý riêng, ở cá
nhân dần có sự kế thừa các đặc điểm tâm lý đó mà bản thân cá nhân không ý
thức được điều đó. Các thế hệ sau nối tiếp các thế hệ trước và tiếp tục duy trì
các nét tâm lý đó. Tính cách dân tộc, lòng tự hào dân tộc, cách thức ứng xử
với người khác, thậm chí cách thức nhìn nhận, đánh giá và tư duy của cả một
cộng đồng là minh chứng rõ ràng về con đường kế thừa này. Nói đến cách tư
duy của các dân tộc, các nhà nghiên cứu đều nhắc đến hai kiểu tu duy có sự
phân biệt tương đối rõ rệt. Mỗi kiểu tư duy gắn với các cộng đồng người ở
các khu vực và các nền văn hóa khác nhau. Đó là kiểu tư duy biện chứng
nhìn nhận sự vật luôn vận động và biến đổi liên tục thậm chí không thấy được
sự ổn định tương đối của nó trong các xã hội phương Đông mà thuyết “vô

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thường - sắc không” của Phật giáo là ví dụ. Ngược lại là kiểu tư duy lôgic chặt
chẽ coi trọng sự ổn định của sự vật đến mức siêu hình của phương Tây. Các
hiện tượng tâm lý xã hội đó được kế thừa một cách “tự nhiên”. Chúng ngấm
vào từng cá nhân trong cộng đồng xã hội thông qua giao tiếp tương tác của
cá nhân với các cá nhân khác trong các nhóm xã hội. Theo cách nói của Mác:
“sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc vào các cá nhân mà nó giao tiếp
trực tiếp hay gián tiếp". Bên cạnh con đường kế thừa tự nhiên là kế thừa một
cách có ý thức, thông qua các tác động giáo dục của xã hội. Bất kì một thể
chế xã hội nào cũng đề cao các giá trị truyền thống nào đó phù hợp với tính
chất và xu hướng phát triển của nó. Do vậy, việc giáo dục các giá trị, các
chuẩn mực trở thành công việc được tổ chức một cách có ý thức trong các
hoạt động của xã hội đó như giáo dục, truyền thông. Đồng thời, mỗi cá nhân
ở mức độ phát triển nhất định, có khả năng lựa chọn những giá trị phù hợp
với bản thân để kế thừa.

Sự kế thừa tâm lý xã hội diễn ra rất phức tạp. Nó là sự kế thừa những


nét tâm lý chung của cộng đồng xã hội nhưng lại tồn tại trong tâm lý riêng của
cá nhân và được thể hiện với màu sắc riêng của mỗi chủ thể. Biểu tượng dân
tộc “con Rồng cháu Tiên” của người Việt chẳng hạn. Đây là biểu tượng tâm lý
xã hội của cả dân tộc, được bảo lưu, gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác,
nhưng độ sắc nét và đặc biệt ý nghĩa của nó được các cá nhân cảm nhận ở
các mức độ và các tầng bậc khác nhau. Hơn nữa, từ biểu tượng chung đến
sự thống nhất các hành vi xã hội cùng còn những khoảng cách không nhỏ.

Quy luật kế thừa cũng quy định sự phát triển của các cá nhân phụ
thuộc vào sự tiếp xúc với các cá nhân khác. Trong quá trình tiếp xúc các giá
trị được chuyển giao và được tiếp nhận bởi các thế hệ mới. Các giá trị đó tạo
điều kiện cho thế hệ mới phát triển.

Có nhiều hình thức kế thừa khác nhau. Trong đó có hai loại kế thừa
được đề cập đến nhiều, đó là kế thừa có chọn lọc và kế thừa nguyên si. Kế
thừa có chọn lọc là loại kế thừa có phê phán, có tính đến sự phù hợp của các
yếu tố được kế thừa với điều kiện hiện tại. Hình thức kế thừa này được coi là

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

rất tích cực, nó tạo điều kiện cho cái được kế thừa có sức mạnh phát triển
mới, đồng thời tạo điều kiện cho cái mới có cơ sở vững chắc. Kế thừa nguyên
si là dạng kế thừa y nguyên không có sự thay đổi, là tiếp nhận cái cũ một
cách vô điều kiện. Dạng kế thừa này nhiều khi tạo ra sự trì trệ, kìm hãm sự
phát triển của cái mới và làm các yếu tố được kế thừa trở nên lạc lõng và suy
yếu đi. Truyền thống phong tục, tập quán là sự thể hiện sinh động của quy
luật này. Bên cạnh phong tục, tập quán có ý nghĩa tích cực với hiện tại, tồn tại
những hủ tục, những tập quán đóng vai trò cản trở, kìm hãm cái mới. Như
vậy, quy luật kế thừa cho thấy trong đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã
hội không tự chủ tiêu mà nó có thể được gìn giữ, bảo lưu từ giai đoạn này
sang giai đoạn khác. Vấn đề là lựa chọn con đường nào và làm thế nào để
các hiện tượng tâm lý xã hội tích cực có thể được kế thừa một cách hiệu quả.

2. Quy luật về sự quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối
với tâm lý xã hội.

Quy luật này là sự thể hiện của quy luật chung về sự quyết định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội. Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng
sự ra đời của các thiết chế xã hội, chính trị, tôn giáo, văn học, nghệ thuật...
đều xuất phát từ tồn tại xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội với tư các là các
hiện tượng tinh thần của xã hội cũng chịu sự chi phối của quy luật này. Biểu
hiện cụ thể của quy luật này trong các hiện tượng tâm lý xã hội có thể thấy
như sau:

Các nguyện vọng, tâm trạng, nhu cầu của xã hội bắt nguồn chính từ
các điều kiện xã hội, trong đó con người đang sống và hoạt động. Tâm trạng
xã hội tích cực, hưng phấn (được các nhà nghiên cứu đánh giá, ví dụ: chỉ số
lạc quan cao, chỉ số hạnh phúc cao...) bắt nguồn từ sự đi lên của kinh tế từ sự
đầy đủ hơn của các điều kiện sống. Sự xuất hiện và đặc biệt sự ý thức về các
nhu cầu xã hội (với tư cách là một hiện tượng tâm lý xã hội) ở bậc cao hơn
chỉ có thể diễn ra khi các điều kiện xã hội đã phần nào giúp thỏa mãn các nhu
cầu xã hội cấp thấp hơn. Ví dụ các vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc, vấn đề
thay đổi khí hậu các vấn đề môi trường...

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Như vậy, muốn nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội phải chỉ ra
được các điều kiện xã hội quy định nó. Ngược lại muốn tạo ra các hiện tượng
tâm lý xã hội nào đó, phải chuẩn bị các điều kiện xã hội tương ứng, nếu muốn
các hiện tượng tâm lý xã hội do diễn ra có hiệu quả.

Các quan hệ xã hội trong cộng đồng: trong nhóm xã hội quy định các
hiện tượng tâm lý xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trên cơ sở
tương tác giữa các cá nhân trong nhóm, trong cộng đồng, đồng thời các
tương tác đó diễn ra chính trong các quan hệ xã hội. Các mối quan hệ được
vận hành hợp lý: quan hệ lợi ích, quan hệ trách nhiệm... sẽ làm nảy sinh bầu
không khí xã hội tích cực cởi mở, ngược lại có thể làm nảy sinh xung đột, tạo
ra bầu không khí căng thẳng tiêu cực. Do vậy, muốn tác động đến các hiện
tượng tâm lý xã hội, một trong số các con đường cơ bản đó là cải tạo các
quan hệ xã hội cho hợp lý hơn.

Bên cạnh việc khẳng định tính quyết định của các điều kiện kinh tế - xã
hội đối với các hiện tượng tâm lý xã hội, cũng cần thấy được tính độc lập
tương đối và tác động ngược lại của các hiện tượng tâm lý xã hội đối với các
điều kiện kinh tế - xã hội. Sự tác động ngược lại cũng có thể tạo ra những
động lực làm biến đổi các điều kiện kinh tế - xã hội trong những thời điểm
nhất định đặc biệt khi sự tác động ngược đó được tổ chức và tập hợp một
cách hợp lý. Việc cởi bỏ nếp tư duy bao cấp, máy móc và giáo điều đã tạo ra
sự chuyển biến vô cùng mạnh mẽ trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước
ta những năm qua là một minh chứng rõ ràng cho tác động ngược lại đó.

3. Quy luật bắt chước

Quy luật bắt chước là quy luật được chỉ ra sớm nhất trong Tâm lý học
xã hội. Nó đã được đề cập đến trong tác phẩm Những quy luật của sự bắt
chước năm 1890 của G.Tarde. Ông đã dùng quy luật này để giải thích hành vi
của con người, đặc biệt là những hành vi giống nhau giữa các cá nhân trong
quá trình tác động qua lại.

Theo G.Tarde: Bắt chước là sự cụ thể hóa của “quy luật lặp lại của thế
giới”. Thế giới vận động và phát triển theo con đường lặp lại. Di truyền sinh

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

học là lặp lại, phủ định của phủ định là lặp lại. Trong xã hội loài người, sự lặp
lại chính là bắt chước. Đây là nền tảng để xã hội tồn tại và phát triển. Nhờ bắt
chước mà các phát minh, sáng chế, các hành vi có ích của xã hội được duy
trì, trên cơ sở đó được khai thác lại.

Bắt chước có tính chất vô thức. Do là sự sao chép máy móc các hành
vi bề ngoài của những người khác. Bắt chước người khác chính là “sao,
chụp” lại người khác.

G. Tarde cũng chỉ ra một số kiểu bắt chước khác nhau: bắt chước lôgic
(trí tuệ ý thức) - bắt chước phi lôgic (cảm tính, phi lý); bắt chước nhất thời và
bắt chước lâu dài; bắt chước hình thức và bắt chước bản chất; bắt chước
giữa các thế hệ, giữa các giai cấp.

Thực chất việc Tarde đề ra quy luật bắt chước chủ yếu dựa vào quan
sát chứ chưa có các nghiên cứu thực nghiệm cụ thể. Tuy vậy, sự bắt chước
rõ ràng diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội và tạo ra một loạt các hiện
tượng tâm lý xã hội như thị hiếu, mốt thời trang, trào lưu, xu hướng, làn sóng.

Việc đề cao thái quá quy luật bắt chước như là một quy luật tổng hợp
để giải thích các hiện tượng tâm lý xã hội đương nhiên là không hợp lý. Tuy
vậy những phát hiện của Tarde đã được các nhà nghiên cứu tâm lý học xã hội
tiếp thu - chính xác hóa và coi như một trong số các quy luật chi phối sự hình
thành các hiện tượng tâm lý xã hội.

Có thể hiểu bắt chước như là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại những hành
vi, cách suy nghĩ, các tâm trạng của các cá nhân khác trong đời sống xã hội.
Quy luật này có vai trò chính trong việc tạo ra sự đồng nhất giữa các cá nhân
trong các nhóm xã hội, nhờ đó nó có thể tạo ra các đặc trưng của các nhóm
xã hội khác nhau. Sự bắt chước trong cách ăn mặc, cách nói năng của nhóm
lứa tuổi như thiếu niên chẳng hạn, tạo ra sự khác biệt với các nhóm lứa tuổi
khác.

4. Quy luật tác động qua lại giữa con người với con người

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Tác động qua lại là quy luật phổ biến chi phối sự hình thành các hiện
tượng tâm lý xã hội. Tham gia vào các nhóm xã hội, các cá nhân liên tục tác
động ảnh hưởng đến các cá nhân khác và ngược lại chịu sự tác động của các
cá nhân khác. Sở dĩ các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh là do sự tác động
qua lại này. Sự tác động qua lại giữa các cá nhân diễn ra thông qua hoạt
động cùng nhau và giao tiếp. Tần suất hoạt động cùng nhau và giao tiếp là chỉ
báo cho mức độ tương tác giữa các cá nhân.

Sự tác động qua lại giữa các cá nhân có thể mang tính chất tích cực
hay tiêu cực. Sự tác động qua lại theo kiểu hợp tác là điều kiện cho sự phát
triển các mối quan hệ cá nhân. Ngược lại: sự tác động qua lại theo kiểu cạnh
tranh có thể trở thành nhân tố kìm hãm các mối quan hệ.

Sự tác động qua lại có thể dẫn tới sự thay đổi về thái độ, tình cảm hay
hành vi ở các cá nhân và tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm như
bầu không khí nhóm, tâm trạng nhóm. Sự thống nhất các ý kiến sự thống nhất
hành vi của các thành viên cũng có thể coi là kết quả của sự tác động qua lại.
Các mức độ tác động qua lại giữa các cá nhân phụ thuộc vào sự thống nhất,
đồng nhất giữa các cá nhân trong nhóm. Sự thống nhất càng cao, hiệu quả
của sự tác động qua lại càng lớn. Bên cạnh đó các đặc điểm chủ quan của cá
nhân, phương thức tổ chức thông tin cũng là những nhân tố quan trọng chi
phối mức độ tương tác giữa các cá nhân.

Sự tác động qua lại giữa các cá nhân, trong Tâm lý học xã hội còn
được biểu đạt bằng khái niệm tương tác. Khái niệm tương tác dùng để chỉ
không phải sự tương tác bất kì mà để chỉ “sự tác động qua lại xã hội”, tức là
sự tác động qua lại giữa con người trong giao tiếp, trong nhóm, trong xã hội.
Bản thân quá trình tương tác xã hội cần được phân tích để có thể hiểu được
các hành vi xã hội của cá nhân. Sự tác động qua lại được hiểu như là các
kích thích hai chiều để tạo ra các phản ứng từ các chủ thể tham gia vào quá
trình tương tác. Mặt khác các nhà nghiên cứu phải tìm kiếm câu trả lời cho
câu hỏi: quá trình tương tác xã hội được thực hiện và điều chỉnh bởi các
phương tiện đặc trưng nào? Các yếu tố nào? Từ đây xuất hiện mối quan tâm

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

đối với một loạt các vấn đề: giao tiếp với sự trợ giúp của các biểu tượng,
ngôn ngữ, việc diễn giải các tình huống; vấn đề cấu trúc của nhân cách, hành
vi của các vai trò xã hội, nhóm quy chiếu; các yếu tố nguồn gốc của sự hình
thành các chuẩn mực của sự tương tác xã hội và các thái độ xã hội.

Trong quá trình tương tác, các cá nhân diễn giải các cử chỉ điệu bộ của
nhau, các tình huống giao tiếp và hành động trên cơ sở các ý nghĩa nhận
được trong quá trình giao tiếp. Vì vậy để thực hiện hiệu quả việc giao tiếp, cá
nhân cần có khả năng đặt mình vào vị trí của người khác hay “tiếp nhận vai
trò của người khác” và nhìn nhận bản thân bằng con mắt của người khác. Chỉ
có như vậy, cá nhân mới trở thành nhân cách, thành thực thể xã hội có khả
năng ứng xử với bản thân như là với một đối tượng, tức là ý thức được các ý
nghĩa của lời nói hành vi của mình, như là người khác tri giác chúng. Trong
trường hợp tương tác phức tạp hơn, như trong một nhóm, để thực hiện một
cách có hiệu quả cần sự khái quát hóa lập trường của đa số các thành viên
trong nhóm. Hành vi của mỗi cá nhân trong nhóm là kết quả của sự chấp
nhận của cá nhân các thái độ của các cá nhân khác đối với bản thân và sự
thống nhất các thái độ đó vào một thái độ chung gọi là “thái độ khái quát”.

Trong tương tác, hành vi của cá nhân được xác định bởi ba biến số:
cấu trúc nhân cách, vai xã hội và nhóm tham chiếu. Cấu trúc nhân cách quy
định xu hướng ổn định của hành vi, vai xã hội quy định các hành vi được xã
hội yêu cầu và kì vọng, các nhóm tham chiếu lôi kéo và tạo ra cơ sở cho sự
so sánh đối chiếu các hệ vi. Tùy thuộc vào ý nghĩa của các biến số ở mỗi cá
nhân mà các hành vi xã hội trong tương tác diễn ra theo hướng này hay
hướng khác.

Sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm xã hội hết sức đa
dạng và phức tạp. Trên cơ sở của sự tương tác giữa các cá nhân nảy sinh
các hiện tượng tâm lý xã hội và các hiện tượng xã hội. Trong nhiều thời điểm,
sự tương tác đặc biệt giữa số đông các cá nhân có thể tạo ra những biến đổi
xã hội hết sức to lớn. Do vậy, nghiên cứu sự tương tác xã hội luôn được các
nhà nghiên cứu quan tâm.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

II. CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI


1. Cơ chế lây lan

Trong đời sống xã hội, không ít khi chúng ta gặp các hiện tượng tâm lý
xã hội như tâm trạng căng thẳng lo âu, thậm chí hoảng loạn hay ngược lại, sự
hưng phấn, quá khích của các nhóm người. Sở dĩ ở nhóm người cùng xuất
hiện một dạng xúc cảm nhất định là do sự lây lan của các cảm xúc từ một số
cá nhân này sang những cá nhân khác. Cơ chế hình thành các hiện tượng
xúc cảm chung đó gọi là cơ chế lây lan.

Lây lan được hiểu là sự lan truyền xúc cảm từ cá nhân này sang cá
nhân khác trong nhóm xã hội một cách mạnh mẽ ở cấp độ tâm sinh lý ngoài
những tác động ở cấp độ ý thức nhóm.

Sự lây lan đã từ lâu được nghiên cứu như là một phương thức đặc biệt
của sự tác động, bằng một cách nào đó tạo ra sự hòa nhập đông đảo của
đám đông, đặc biệt trong mối liên hệ với sự xuất hiện các hiện tượng như
xuất thần tôn giáo, loạn thần đại chúng và... Hiện tượng lây lan đã được biết
ngay trong những giai đoạn sơ khai của lịch sử loài người và có nhiều kiểu
biểu hiện như các trạng thái bột phát xúc cảm mang tính đại chúng xuất hiện
trong khi nhảy các điệu nhảy nghi lễ, sự hăng say thể thao, các tình huống
hoảng loạn. Trong hình thức chung nhất, sự lây lan có thể xác định như là
tính dễ bị nhiễm một cách vô thức trạng thái tâm lý nào đó. Nó được bộc lộ
không phải qua sự thừa nhận có ý thức một thông tin nào đó hay hình mẫu
hành vi mà qua việc lan truyền trạng thái xúc cảm hay trạng thái tâm lý. Khi
trạng thái xúc cảm đó xuất hiện trong đám đông cơ chế tăng cường nhiều lần
sự tác động xúc cảm lẫn nhau của những người giao tiếp bắt đầu hoạt động.
Cá nhân ở đây không chịu áp lực trước tổ chức mang tính chủ định mà đơn
giản lĩnh hội một cách vô thức hình mẫu của cách ứng xử nào đó bằng cách
tuân phục nó. Nhiều nhà nghiên cứu phân tích sự có mặt của một phản ứng
lây lan đặc biệt xuất hiện trong các nhóm khán giả mở và có số lượng lớn, khi
mà trạng thái xúc cảm được tăng cường bằng con đường phản ánh lặp lại
nhiều lần theo mô hình của phản ứng chuỗi thông thường. Hiệu ứng có thể

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

xảy ra trước hết trong tập hợp không được tổ chức, thường xuyên hơn cả là
trong đám đông, thể hiện như một dạng củng cố nhằm xua đuổi một trạng thái
xúc cảm khác nào đó.

Tình huống hoảng loạn là một tình huống đặc biệt trong quá trình tác
động qua lại, sự lây lan được tăng cường. Hoảng loạn xuất hiện trong đám
đông như một trạng thái xúc cảm xác định, là hậu quả của sự thiếu hụt thông
tin về điều gì đó đang đe doạ hoặc điều gì đó khó hiểu hay là ngược lại sự
thừa thãi của thông tin về sự đe doạ này. Bản thân thuật ngữ có nguồn gốc từ
tên của một vị thần Hi Lạp Pana - người che chở cho những người chăn súc
vật tránh được sự nổi giận phi lý của của bầy đàn. Nguyên cớ trực tiếp của
sự hoảng loạn là sự xuất hiện của tin tức nào đó có khả năng tạo ra một dạng
sốc nhất định. Sau đó sự hoảng loạn tăng thêm sức sức mạnh khi tham gia
vào hành động, do cơ chế phản ánh lặp lại. Sự lây lan xuất hiện khi có hoảng
loạn khó có thể đánh giá đúng ngay trong cả xã hội hiện đại. Ví dụ rất nổi
tiếng về sự xuất hiện sự hoảng loạn quần chúng ở Mỹ ngày 30/10/1938 sau
chương trình phát thanh của đài phát thanh ABC về quyển sách của H.Yell
Chiến tranh của các thế giới. Dân chúng - thính giả thuộc các lứa tuổi hoàn
toàn khác nhau và các tầng lớp học vấn khác nhau (theo số liệu chính thức
gần 1.000.000 người) đã trải qua trạng thái giống như loạn thần đại chúng, tin
vào sự tấn công của người sao Hỏa vào Trái Đất. Mặc dù nhiều người trong
số họ biết chính xác rằng đang truyền thanh một kịch bản của một tác phẩm
văn học (người phát thanh đã nhắc lại 3 lần) gần 400.000 người nói rằng đã
“tận mắt” chứng kiến sự xuất hiện của người sao hoả. Hiện tượng này đã
được các nhà tâm lý học Mỹ phân tích một cách chuyên biệt.

Sự hoảng loạn là hiện tượng vô cùng khó nghiên cứu. Không thể quan
sát được chúng một cách trực tiếp. Bởi vì: thứ nhất, không bao giờ biết được
thời điểm xuất hiện của nó; thứ hai, trong tình huống hoảng loạn khó có thể
vững vàng để trở thành người quan sát. Chính ở đó sự hoảng loạn thể hiện
sức mạnh của nó. Một người bất kì khi nằm trong trạng thái hoảng loạn dù ở
mức độ này hay mức độ khác đều bị nó khuất phục. Do vậy, các nghiên cứu

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

hoảng loạn vẫn chỉ ở trình độ mô tả sau khi hoảng loạn đã qua đỉnh điểm.
Các mô tả này cho phép chia ra các chu kì cơ bản đặc trưng cho toàn bộ quá
trình tổng thể. Hiểu các chu kì này rất quan trọng cho việc chấm dứt hoảng
loạn. Điều đó là có thể thực hiện với điều kiện có thể có các sức mạnh có khả
năng đưa đến các yếu tố của sự sáng suốt vào tình huống hoảng loạn, bằng
cách nhất định chiếm lĩnh được tình huống này. Ngoài việc hiểu biết về chu kì,
cần phải hiểu cả cơ chế tâm lý học của hoảng loạn.

Các đặc điểm của sự lây lan như là sự chấp nhận một cách vô thức
những hình mẫu nhất định của hành vi. Nếu con người trong tình huống
hoảng loạn này có thể đưa ra hình mẫu nhất định của hành vi, có khả năng
khôi phục lại trạng thái xúc cần bình thường của đám đông, sẽ có khả năng
chấm dứt hoảng loạn.

Vấn đề quan trọng trong nghiên cứu sự lây lan là vấn đề vai trò của
mức độ thống nhất trong đánh giá và tâm thế mà quần chúng (những người bị
lây lan tâm lý) có được. Mặc dù vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu đầy
đủ trong khoa học, nhưng trong thực tiễn người ta đã tìm ra các hình thức sử
dụng các đặc trưng này trong tình huống lây lan. Như trong các điều kiện lây
lan đại chúng bởi kích thích, bao gồm cả sự lây lan trước đó sự đồng nhất
các đánh giá ví như đối với một nghệ sĩ nổi tiếng là sự cổ vũ, chúng có thể
đóng vai các xung lực, tiếp sau đó tình huống sẽ phát triển theo các quy luật
của sự lây lan. Sự hiểu biết về cơ chế này được sử dụng trong việc tuyên
truyền, trong đó đã đưa ra một lý thuyết đặc biệt nâng cao tính hiệu quả của
tác động đến thính giả mở bằng con đường mang họ tới trạng thái hưng phấn
mở tới trạng thái xuất thần, không hiếm khi cả các thủ lĩnh chính trị khác cũng
dùng tới thủ thuật này.

Mức độ lây lan mà các thính giả khác nhau có thể bị rơi vào phụ thuộc
vào mức độ phát triển chung của các nhân cách tạo ra nhóm thính giả và cụ
thể hơn - vào mức độ phát triển tự ý thức của họ. Trong ý nghĩa này có thể
khẳng định xác đáng rằng: trong xã hội hiện đại, sự lây lan có vai trò ít hơn so
với những giai đoạn đầu trong lịch sử loài người. Có thể nhận thấy rằng trình

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

độ phát triển xã hội càng cao thì các thái độ phê phán của con người càng
cao hơn đối với các sức mạnh có tác động lôi kéo họ tới việc thực hiện hành
động hay trải nghiệm này khác, dẫn tới kết quả là hiệu quả của cơ chế lây lan
càng yếu hơn. (Porsnhiev, 1968).

Theo truyền thống đã hình thành trong Tâm lý học xã hội thường xem
xét hiện tượng lây lan trong các điều kiện của các hành vi chống đối xã hội và
không có tổ chức (các thảm hoạ thiên nhiên khác nhau). Tuy nhiên kiểu hành
vi này có thể thể hiện trong các hành động xã hội có ý thức đại chúng, ví dụ
trong tiến trình của các cuộc mít tinh khác nhau hay các cuộc biểu tình hoặc
trong các tình huống thảm hoạ khác nhau...

Như vậy không thể nói rằng trong các điều kiện hiện đại, vấn đề lây lan
đã tuyệt đối cũ kĩ. Không có sự trưởng thành nào của tự ý thức gỡ bỏ những
hình thức này của sự lây lan tâm lý xuất hiện trong các phong trào xã hội
quần chúng đặc biệt trong những thời gian không ổn định của xã hội ví như
trong điều kiện tái cơ cấu xã hội mạnh mẽ. Tâm lý học xã hội có trách nhiệm
to lớn trước xã hội khi nghiên cứu vấn đề này. Ở đây hiện tại chỉ tồn tại những
mô tả và quan sát rời rạc về bản chất, chưa có các nghiên cứu nghiêm túc.

Cơ chế lây lan được coi là có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên
kết số đông cá nhân ở phương diện xúc cảm. Nhờ có chế này, trong đời sống
xã hội có hiện tượng “cộng cảm”, là điều kiện thuận lợi cho sự gắn bó giữa
các cá nhân trong nhóm và cộng đồng.

Cơ chế này được các nhà nghiên cứu giải thích theo các cách khác
nhau. Mikhailôvxki cho rằng lây lan được truyền theo nguyên tắc cộng hưởng,
tỉ lệ thuận với đám đông và cường độ xúc cảm được truyền đi. G.Allport lại
cho rằng lây lan diễn ra theo “phản ứng vòng tròn”. Cá nhân này kích thích cá
nhân khác bằng các biểu hiện xúc cảm của mình, đến lượt họ khi thấy biểu
hiện của người khác sẽ tăng thêm phần hứng khởi.

Các xúc cảm tiêu cực và tích cực đều có thể được lây lan. Do vậy, có
thể chủ động tạo ra sự lây lan các xúc cảm tích cực và ngăn chặn sự lây lan
các xúc cảm tiêu cực trong nhóm, cộng đồng.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

2. Cơ chế đồng nhất hóa

- Có nhiều cách quan niệm khác nhau về sự đồng nhất hóa. Có quan
điểm coi đồng nhất hóa như một quá trình so sánh, đối chiếu một đối tượng
này với đối tượng khác theo một điểm hay tiêu chí nhất định, từ đó khái quát,
xác lập sự tương đồng giữa chúng. Ví dụ, khi cá nhân nhận biết các phẩm
chất của một số cá nhân khác sẽ tiến hành việc xếp các cá nhân đó theo các
kiểu loại khác nhau và sau đó có thể bắt chước, phỏng theo một kiểu nào đó.
Như vậy theo cách hiểu này, đồng hóa chính là việc cá nhân lựa chọn và
đồng nhất bản thân với các chủ thể khác hay với nhóm nào đó.

Cách hiểu chung trong tâm lý học hiện đại cho rằng: đồng nhất hóa là
quá trình chủ thể thống nhất bản thân với các cá nhân khác dựa trên các liên
hệ cảm xúc, đồng thời nội tâm hóa các chuẩn mực các giá trị của họ. Trong
khi đồng nhất hóa, chủ thể nhìn nhận người khác như là sự kéo dài của bản
thân, gán cho người khác những đặc điểm, tình cảm, mong muốn của bản
thân. Đồng thời cá nhân đặt mình vào vị trí của người khác, dịch chuyển bản
thân vào vị trí không gian, phạm vi của người khác và thậm chí đồng nhất hóa
ý nghĩ với người khác.

Trong Tâm lý học xã hội, đồng nhất hóa được coi là quá trình cá nhân
tiếp nhận vai trò xã hội khi gia nhập nhóm. Cá nhân ý thức được vai trò, vị trí
của mình trong nhóm và thực hiện tốt vai trò xã hội của mình. Nói cách khác,
đồng nhất hóa chính là quá trình cá nhân đồng nhất bản thân với một vai trò
xã hội nhất định.

Từ các cách hiểu rất rộng và nhiều khía cạnh như vậy, có thể hiểu một
cách chung nhất về cơ chế đồng nhất hóa như sau: Đồng nhất hóa là quá
trình cá nhân điều chỉnh bản thân nhằm thích ứng với các vai xã hội hay với
các cá nhân khác trong nhóm xã hội trên những phương diện nhất định của
đời sống tâm lý.

- Vai trò của cơ chế đồng nhất hóa như sau:

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Cá nhân có thể thực hiện tốt vai trò xã hội của bản thân, từ đó các quan
hệ xã hội được vận hành một cách có hiệu quả.

Các cá nhân trong nhóm có được những điểm chung: sự đồng nhất về
cảm xúc, sự đồng nhất về cách giải quyết nhìn nhận vấn đề. Trong các nhóm
lớn xã hội, cơ chế đồng nhất hóa có thể diễn ra một cách ẩn tàng để tạo ra
những hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm dân tộc, giai cấp như ý thức tự hào
dân tộc, nếp suy nghĩ dân tộc, tình cảm dân tộc...

Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế đồng nhất hóa sẽ xuất hiện khi các
cá nhân trong nhóm xã hội bị đồng nhất hóa quá mức. Các cá nhân sẽ trở
nên bị động, đánh mất cái riêng và bản sắc riêng.

3. Cơ chế ám thị

Trong quá trình giao tiếp, tương tác giữa các cá nhân, có trường hợp
cá nhân chịu sự tác động của cá nhân khác và có hành vi phục tùng yêu cầu
của cá nhân khác một cách không ý thức được gọi là hiện tượng ám thị.

Để hiểu hơn về ám thị, có thể đặt nó trong mối quan hệ với một hiện
tượng khác gọi là thôi miên. Trạng thái bị thôi miên là trạng thái “mất tỉnh táo”,
“mất khả năng ý thức” của chủ thể. Một người bị thôi miên sẽ không ý thức
được các hành vi của bản thân và rơi vào trạng thái bị người khác điều khiển.
Ám thị là mức độ nhẹ hơn so với thôi miên, người bị ám thị không mất ý thức
nhưng mất khả năng suy xét, phê phán do vậy dễ bị thuyết phục và dễ bị điều
khiển.

Ám thị là tác động tâm lý có mục tiêu nhưng vô căn cứ từ một người
đến người khác hoặc nhóm, dẫn tới sự thay đổi hành vi ứng xử của cá nhân
do phục tùng mệnh lệnh đến từ một uy quyền hợp pháp.

Quá trình diễn ra ám thị có một số đặc điểm: Sự chuyển giao thông tin
dựa vào việc tiếp nhận thông tin một cách không phê phán. Trong quá trình
đó, não chỉ giữ liên hệ với một nguồn kích thích, các nguồn kích thích khác bị
ngắt.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Ám thị là một kiểu tác động đặc biệt có mục đích, sự tác động phi luận
cứ của một người lên người khác hay lên một nhóm. Trong ám thị quá trình
truyền thông tin được thực hiện trên cơ sở tri giác chúng một cách không có
phê phán. Thông thường toàn bộ thông tin được truyền từ người này sang
người khác được phân loại căn cứ vào mức độ tính tích cực trong lập trường
của người truyền thông tin, phân biệt trong đó các thông báo, thuyết phục và
ám thị. Chính hình thức thông tin thứ ba này liên quan đến sự tri giác không
phê phán, cho rằng người tiếp nhận thông tin trong trường hợp ám thị không
có khả năng đánh giá chúng một cách phê phán. Một cách tự nhiên, trong các
tình huống khác nhau và đối với các nhóm người khác nhau mức độ phi luận
cứ, cho phép tiếp nhận không phê phán thông tin trở nên rất khác nhau.

Hiện tượng ám thị được nghiên cứu trong Tâm lý học từ trước đây rất
lâu trên thực tế: trong thực tiễn y học hay với một số các hình thức dạy học cụ
thể. Ám thị như một hiện tượng tâm lý học xã hội có đặc trưng rõ rệt: do vậy
có quyền nói về hiện tượng đặc biệt “ám thị xã hội”. Trong các nghiên cứu của
Tâm lý học xã hội vẫn duy trì hệ thống thuật ngữ, được sử dụng trong các
phần khác nhau của khoa học tâm lý nghiên cứu hiện tượng này: người thực
hiện việc ám thị gọi là nhà ám thị, đối tượng của ám thị gọi là “người bị ám
thị”. Hiện tượng chống đối lại ám thị gọi là “phản ám thị”. Trong tài liệu ở Nga,
lần đầu tiên vấn đề ý nghĩa của ám thị được đặt ra trong tác phẩm của
V.M.Becheriev Ám thị và vai trò của nó trong đời sống xã hội (1903).

Khi phân tích ám thị như là phương tiện tác động đặc biệt, vấn đề về
tương quan giữa ám thị và lây lan được đặt ra và vẫn chưa có câu trả lời
thống nhất. Đối với một số tác giả ám thị là một trong các loại lây lan bên
cạnh bắt chước, những người khác lại nhấn mạnh sự khác biệt của ám thị với
lây lan, có thể khái quát như sau: Trong lây lan diễn ra sự đồng cảm của trạng
thái tâm lý đám quần chúng lớn. Ám thị không có “sự bình đẳng” - ngược lại,
trong đó không có sự đồng cảm, và đồng nhất xúc cảm. Nhà ám thị không rơi
vào trạng thái của người bị ám thị. Quá trình ám thị có tính một chiều mà
không phải là sự tăng lên bột phát của trạng thái nhóm ám thị. Nó là sự tác

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

động tích cực của một người đến một người khác hoặc nhóm. Ám thị, thông
thường, mang tính ngôn ngữ, trong khi đó, trong lây lan ngoài tác động ngôn
ngữ còn sử dụng cả các phương tiện khác (nhịp điệu, cảm thán...).

Mặt khác ám thị khác với thuyết phục ở chỗ nó trực tiếp gây ra những
trạng thái tâm lý nhất định không cần có lôgic và chứng cứ. Thuyết phục,
ngược lại, được xây dựng trên cơ sở sự trợ giúp của các cấu tạo lôgic để đạt
tới sự đồng ý của người khác của người tiếp nhận thông tin. Trong ám thị
không đạt tới sự đồng ý mà còn phải là tiếp nhận thông tin dưới dạng kết luận
có sẵn. Trong khi đó, trường hợp thuyết phục, kết luận cần phải được đưa ra
một cách độc lập bởi người tiếp nhận. Do vậy thuyết phục là tác động chủ yếu
mang tính trí tuệ còn ám thị tác động chủ yếu mang tính xúc cảm ý chí.

Chính vì vậy khi nghiên cứu ám thị đã xác nhận một số quy luật liên
quan đến vấn đề: trong những tình huống nào và trong những tình trạng nào
hiệu quả ám thị được nâng cao. Những trường hợp ám thị xã hội đã chứng
minh sự phụ thuộc của hiệu ứng ám thị vào lứa tuổi: trẻ em nhìn chung dễ bị
ám thị hơn người lớn. Cũng đúng như vậy, trong đa số các thường hợp,
những người bị ám thị là những người mệt mỏi, yếu về mặt thể chất hơn là
những người khỏe mạnh. Nhưng điều quan trọng nhất là ở chỗ ám thị có các
nhân tố tâm lý xã hội đặc biệt tác động. Nhiều nghiên cứu cho thấy: điều kiện
quyết định tính hiệu quả của ám thị là uy tín của người ám thị, uy tín sẽ tạo ra
nhân tố bổ sung đặc biệt của tác động - sự tin tưởng vào nguồn thông tin.
“Hiệu ứng niềm tin” này được thể hiện trong quan hệ với nhân cách của
người ám thị cũng như trong thái độ đối với nhóm xã hội mà anh ta đại diện.
Uy tín của nhà ám thị cả trong trường hợp này và trong trường hợp khác thực
hiện chức năng được gọi là “luận cứ gián tiếp” một dạng bù trừ sự thiếu hụt
các chứng cứ trực tiếp - là nét đặc trưng của ám thị.

Trong ám thị, kết quả phụ thuộc vào cả tính cách cá nhân của người
ám thị. Hiện tượng phản ám thị minh chứng cho mức độ chống lại ám thị mà
cá nhân riêng biệt có được. Trong thực tế, ám thị xã hội đã nghiên cứu những
phương thức, nhờ đó có thể ở một mức độ nhất định cô lập sự “tự vệ tâm lý”

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

này. Tổ hợp các biện pháp như vậy được gọi là “chống phản ám thị”
(Porsnhiev.1968). Hiện tượng phản ám thị có thể được sử dụng không chỉ cho
việc bảo vệ cá nhân khỏi sự tác động ám thị mà còn cho việc loại bỏ sự tự vệ
này. Ví dụ, nếu với tư cách là một phương tiện phản ám thị - sự không tin
tưởng vào nhà ám thị, thì bằng cách đưa thêm các thông tin bổ sung về
người ám thị có thể đạt tới việc loại bỏ sự không tin tưởng này và tổ hợp các
biện pháp đó sẽ là chống phản ám thị. Một cách lôgic, có đề xuất đáp lại
những cố gắng bổ sung đó cá nhân cố gắng tạo ra một loạt những biện pháp
tự vệ mới. Nhưng đến nay các nghiên cứu thực tế chưa vượt qua được lớp
thứ nhất của chống phản ám thị. Trong phương diện nghiên cứu ứng dụng,
ám thị có ý nghĩa lớn đối với các lĩnh vực như tuyên truyền và quảng cáo. Vai
trò của ám thị được đưa vào hệ thống các phương tiện tác động tuyên truyền
là khác nhau, phụ thuộc vào loại tuyên truyền, mục đích và nội dung của
tuyên truyền. Dù nét cơ bản của tuyên truyền là dựa vào lôgic và có ý thức
còn phương tiện đang được nói đến chủ yếu là phương tiện thuyết phục. Tất
cả những điều đó không loại bỏ sự có mặt của một số nhân tố của ám thị.
Phương pháp ám thị thể hiện ở đây như là phương pháp dưới dạng chương
trình hóa tâm lý khán giả, tức là liên quan đến các phương pháp tác động
điều khiển, điều này đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực quảng cáo.

4. Cơ chế thỏa hiệp

Thỏa hiệp là sự nhân nhượng của cá nhân trước áp lực nhóm thể hiện
ở việc cá nhân thay đổi cách ứng xử và thái độ của mình cho phù hợp với đa
số.

Thỏa hiệp là một cơ chế tạo ra sự thống nhất giữa các cá nhân trong
nhóm mặc dù còn có sự khác biệt nhất định. Nó đảm bảo cho việc xác định
mục đích chung hay ra quyết định chung của nhóm, đồng thời tránh tạo ra sự
xung đột trong một khoảng thời gian. Như vậy, với tư cách là một cơ chế tâm
lý xã hội giúp giảm bớt xung đột trong một số tình huống, thỏa hiệp có vai trò
tích cực nhất định khác với hiểu đơn giản thiên về tiêu cực của hiện tượng
này. Trong nhóm xã hội, với các vị trí, lợi ích khác nhau khó có thể có sự

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thống nhất hoàn toàn. Cơ chế này có thể coi như một sự “tạm dừng” để có
thể tiến tới sự thống nhất hơn khi được trao đổi, thảo luận.

Có các loại thỏa hiệp như sau: Thỏa hiệp bên ngoài (thỏa hiệp hình
thức) là sự tiếp nhận ý kiến nhóm một cách hình thức; Thỏa hiệp bên trong
(thỏa hiệp thực tâm) là sự biến đổi thực sự thái độ của cá nhân cho phù hợp
với đa số và loại thứ ba là lập trường độc lập, thực chất là dạng phụ thuộc
ngược với ý kiến đa số.

Có một loạt các yếu tố ảnh hưởng tới sự thỏa hiệp. Các yếu tố đó thuộc
hai nhóm cơ bản: các yếu tố cá nhân và các yếu tố tâm lý xã hội. Các yếu tố
cá nhân như đặc trưng tâm lý của cá nhân phải chịu áp lực thỏa hiệp, giới
tính, lứa tuổi, trí tuệ, trình độ nhận thức. Các cá nhân có tính độc lập có xu
hướng ít thỏa hiệp hơn và ngược lại. Nữ giới có khả năng thỏa hiệp cao hơn
nam giới. Các yếu tố tâm lý xã hội như: quy mô nhóm, trình độ phát triển của
nhóm, tính chất của các mối quan hệ trong nhóm, vị trí của cá nhân, mức độ
phụ thuộc lẫn nhau trong nhóm, hoàn cảnh đặc thù như nội dung cần thỏa
hiệp, các nhiệm vụ chung. Thỏa hiệp cũng được coi là một cơ chế mang màu
sắc văn hóa, bởi lẽ trong một số nền văn hóa, cơ chế thỏa hiệp chi phối một
cách phổ biến các quan hệ xã hội, trong nền văn hóa khác cơ chế này lại ít
phát huy tác dụng.

NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:

Các quy luật nêu trên chi phối mạnh mẽ sự nảy sinh, hình thành và biến
đổi của các hiện tượng tâm lý xã hội trong đời sống của con người. Hoạt
động dạy học và giáo dục trong các nhà trường về bản chất là hoạt động xã
hội. Trong các hoạt động đó, các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh. Đến lượt
nó, các hiện tượng tâm lý xã hội lại chi phối chính hoạt động của các chủ thể:
giảng viên và sinh viên. Do vậy, việc nắm vững các quy luật cơ bản nêu trên
có thể giúp người giảng viên có được sự chủ động nhất định trong việc tổ
chức hoạt động dạy học, giáo dục và trong việc dự đoán các hiện tượng tâm
lý xã hội có thể xảy ra để có những cách xử lý khoa học. Từ đó tác động đến
sinh viên một cách có hiệu quả. Có thể có các hướng vận dụng như sau:

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Khai thác quy luật bắt chước trong việc hình thành nếp sống, lối sống,
thái độ, hành vi đúng đắn hay phổ biến những kinh nghiệm tích cực trong giáo
dục sinh viên bằng cách xây dựng các hình mẫu, các tấm gương điển hình,
những nhóm hạt nhân. Gắn nội dung cần phổ biến với các nhân vật có uy tín,
những người cùng thời... có ảnh hưởng đối với sinh viên. Các hình mẫu của
sự bắt chước phải có tính hấp dẫn đối với sinh viên. Ngược lại, có thể dự
đoán trước các xu hướng bắt chước để ngăn chặn sự phổ biến những hành
vi tiêu cực, bằng cách lôi cuốn sinh viên vào các hành vi tích cực hoặc làm
gián đoạn các kênh tiếp xúc với hình mẫu.

- Khai thác quy luật về sự tác động qua lại một cách triệt để trong việc
thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi. Sinh viên luôn tham gia vào các nhóm
nhất định. Không phải sự thuyết giáo mà sự tác động qua lại giữa các cá
nhân được định hướng có thể làm thay đổi mỗi cá nhân một cách tích cực.
Tăng cường giao tiếp, trao đổi thông tin, tiếp xúc giữa sinh viên với nhau,
giữa giảng viên với sinh viên để có được sự thấu hiểu lẫn nhau và tạo ra sự
đồng thuận trong việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc chung.

- Khuyến khích việc tìm hiểu các truyền thống, thành tựu của nhà
trường. Động viên sự phát triển một cách sáng tạo của sinh viên trên cơ sở
truyền thống, thành tựu của nhà trường.

- Sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra các trạng thái tâm lý nhóm, tâm lý
tập thể tích cực, ngược lại ngăn chặn các trạng thái tâm lý tiêu cực. Muốn tạo
ra sự lây lan cần chú ý tới “mồi xúc cảm”. Các xúc cảm tích cực như sự lạc
quan, phấn khởi, sự hăng hái... cần được tạo điều kiện để chúng lây lan làm
cho hoạt động của nhóm, tập thể có hiệu quả hơn. Đặc biệt lưu ý đến việc sử
dụng cơ chế lây lan để tạo ra sự thống nhất trong các trạng thái xúc cảm,
hình thành tình cảm “chúng ta”.

- Nhận biết, dự đoán ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lý xã hội trong
phạm vi vĩ mô đến các nhóm sinh viên.

- Trong các hoạt động với sinh viên, muốn sinh viên thực hiện tốt các
chức năng, nhiệm vụ của mình, một mặt khuyến khích sinh viên nhận thức về

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

các vai trò xã hội của mình: sinh viên - người học, người nghiên cứu, người
tiên phong trong các phong trào xã hội... tạo điều kiện để sinh viên đồng nhất
hóa thành công, mặt khác khuyến khích sự bộc lộ tính sáng tạo, cái riêng của
sinh viên trong công việc.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II

1. Vai trò và nội dung của quy luật kế thừa? Phân tích một hiện tượng
tâm lý xã hội để làm rõ sự thể hiện của quy luật kế thừa.

2. Vai trò của quy luật bắt chước trong xã hội? Có thể vận dụng quy luật
này như thế nào trong dạy học, giáo dục?

3. Các cơ chế lây lan, đồng nhất hóa, ám thị được thể hiện như thế nào
trong đời sống xã hội? Hướng vận dụng các cơ chế đó trong dạy học và giáo
dục?

Chương 3. NHÓM XÃ HỘI


Nội dung cơ bản:

- Khái niệm nhóm xã hội và phân loại nhóm xã hội: khái niệm, phân loại;
cấu trúc của nhóm xã hội: cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức,
chuẩn mực nhóm.

- Một số đặc điểm tâm lý của nhóm lớn: một số vấn đề chung về nhóm
lớn, đặc điểm tâm lý tộc người, đặc điểm tâm lý giai cấp.

- Những vấn đề tâm lý học nhóm nhỏ: khái niệm, phân loại, quy mô,
chức năng, quy trình ra quyết định nhóm, các lý thuyết về sự phát triển nhóm.

I. KHÁT NIỆM NHÓM XÃ HỘI VÀ PHÂN LOẠI NHÓM


1. Khái niệm nhóm

Vấn đề các nhóm, trong đó con người liên kết với nhau trong quá trình
sống của mình - vấn đề quan trọng nhất không chỉ của Tâm lý học xã hội mà

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

còn của xã hội học. Trong các khoa học xã hội: về nguyên tắc có thể có hai
cách sử dụng khái niệm “nhóm”.

Cách thứ nhất, trong thống kê thường đề cập đến các nhóm mang tính
điều kiện: sự phân nhóm có chủ định con người theo một dấu hiệu chung nào
đó cần thiết cho hệ thống phân tích cụ thể. Cách hiểu như vậy phổ biến trong
thống kê. Khi cần thiết các nhóm người được phân chia theo tiêu chí nào đó.
Ví dụ: nhóm người với một trình độ học vấn nhất định, nhóm người bị bệnh
tim mạch, nhóm người đang cần có nhà ở... Đôi khi với cách hiểu như vậy
thuật ngữ “nhóm” được sử dụng trong cả Tâm lý học. Ví dụ: trong trường hợp
phân tích kết quả của các trắc nghiệm của một nhóm nghiệm thể: nhóm này
cho các chỉ số này, còn nhóm khác cho chỉ số khác...

Cách thứ hai: trong một loạt các khoa học, xã hội nhóm được hiểu như
là một thực thể xã hội tồn tại hiện thực: trong đó con người tập hợp lại, được
liên kết lại bằng những dấu hiệu nhất định như bằng sự đa dạng của các hoạt
động cùng nhau hay bằng những điều kiện đồng nhất nào đó trong những
hoàn cảnh sống của họ. Những con người này ý thức được theo một cách
nhất định sự thâu thuộc của mình vào cơ cấu này mặc dù mức độ và trình độ
ý thức có thể rất khác nhau.

Chính trong phạm vi của cách hiệu thứ hai, Tâm lý học xã hội sẽ đề cập
tới vấn đề nhóm. Thực hiện các vai trò xã hội khác nhau, con người là thành
viên của nhiều nhóm xã hội, con người được hình thành dường như trong sự
giao cắt của các nhóm đó, như là một điểm bao hàm trong đó các ảnh hưởng
của các nhóm giao cắt nhau. Điều đó có hai hệ quả quan trọng đối với cá
nhân: một mặt, xác định vị trí khách quan của cá nhân trong hệ thông hoạt
động xã hội, mặt khác ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức cá nhân. Cá nhân
được tham gia vào hệ thống các quan điểm, các chuẩn mực của nhiều nhóm.
Do vậy một công việc vô cùng có ý nghĩa là xác định “sự tác động tổng lực”
của các ảnh hưởng của các nhóm khác nhau đến cá nhân sẽ như thế nào, sự
tác động đó sẽ quy định nội dung ý thức của cá nhân ra sao. Nhưng để thực
hiện nhiệm vụ này cũng cần phải xem xét nhóm không chỉ đơn giản là một tập

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

hợp mà như là một đơn vị hiện thực của xã hội, nhóm tham gia vào bối cảnh
rộng lớn hơn của hoạt động xã hội, với tư cách là nhân tố hội nhập cơ bản và
dấu hiệu cơ bản của nhóm xã hội. Sự tham gia chung của các thành viên
nhóm trong hoạt động cùng nhau của nhóm quy định sự hình thành chỉnh thể
tâm lý giữa họ và như vậy trong điều kiện đó nhóm thực sự trở thành hiện
tượng tâm lý xã hội, tức là đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội. Từ
đó có thể chỉ ra các dấu hiệu cơ bản của một nhóm xã hội: có hoạt động
chung của nhiều người được quy định bởi các mục đích, nhiệm vụ, quan hệ
(cộng đồng về lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực xã hội., chính kiến...), ý thức của
các thành viên và của nhóm về sự đồng nhất các dấu hiệu duy trì sự tồn tại
và phát triển của nhóm.

Với cách lý giải đó “nhóm” có thể được định nghĩa như là “cộng đồng
những cá nhân tác động qua lại vì mục đích đã được ý thức, cộng đồng như
là chủ thể của hành động” (Sercôvin, 1975. 50).

Hay J.P.Chaplin: “Nhóm là sự tập hợp các cá nhân mà ở đó họ có một


số đặc điểm chung hoặc cùng theo đuổi một số mục đích giống nhau”.

Hoặc “Nhóm là một tập hợp của hai hoặc nhiều người, giữa các thành
viên có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau về hành vi. Nhóm là một đơn vị
tồn tại một cách có tổ chức, các thành viên nhóm có cùng chung những lợi
ích và các mục đích” John.C. Bringham, R. Schlenker.

Như vậy, có nhiều khái niệm về nhóm, nhưng khái niệm sau đây là một
khái niệm tương đối phổ quát cho các nhóm xã hội (bao gồm cả nhóm xã hội
có quy mô lớn như dân tộc, giai cấp và cả các nhóm nhỏ như một nhóm học
tập, kinh doanh): Nhóm xã hội là những cộng đồng người được hình thành
trong quá trình phát triển lịch sự xã hội, giữ vị trí nhất định trong hệ thống các
quan hệ xã hội, do đó chúng ổn định trong những thời kì phát triển lâu dài
trong xã hội (dân tộc, nghề nghiệp, lứa tuổi...).

2. Phân loại nhóm

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có nhiều cố gắng xây dựng một
cách phân loại nhóm, đưa ra các nguyên tắc khác nhau, trên cơ sở đó đã xây
dựng các phân loại như: trình độ phát triển văn hóa, loại cấu trúc, nhiệm vụ và
chức năng, kiểu tiếp xúc chủ yếu trong nhóm... Thường bổ sung thêm các cơ
sở như thời gian tồn tại của nhóm, nguyên tắc hình thành nhóm, các nguyên
tắc trở thành thành viên nhóm vào việc phân loại nhóm. Tất cả các phân loại
đó đều có quyền tồn tại.

Tuy nhiên nét chung của chúng là chỉ xác định hình thức hoạt động
sống của nhóm. Nếu thừa nhận nguyên tắc xem xét các nhóm xã hội hiện
thực với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội thì ở đây đòi hỏi phải có
nguyên tắc phân loại khác. Sự phân loại xã hội học về nhóm tương ứng với vị
trí của chúng trong hệ thống các quan hệ xã hội cần phải là cơ sở. Nhưng
trước khi đưa ra sự phân loại cần phải đưa vào hệ thống những cách sử dụng
khái niệm nhóm đã được nói đến ở trên. Theo cách phân loại của Anđrêeva
có thể có sơ đồ như sau:

Cac nhom

Nhom uoc le Nhom thuc hien hiện hiện hiệnhiệhiện

Nhom trong phong thuc nghiem Nhom tu nhien

Nhom lon Nhom nho

Nhom tu phat Nhom tu phat Nhom tu phat Phat trien

Trước tiên đối với Tâm lý học xã hội, việc phân chia nhóm thành nhóm
ước lệ và nhóm hiện thực là có ý nghĩa. Cách phân chia này tập trung việc

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

nghiên cứu vào nhóm hiện thực. Nhưng trong số những nhóm hiện thực đó,
tồn tại cả những nhóm có hình hài trong nghiên cứu tâm lý học đại cương -
nhóm trong phòng thí nghiệm hiện thực. Khác với chúng là các nhóm tự nhiên
hiện thực. Sự phân tích Tâm lý học xã hội có thể có tương ứng với hình thức
này khác của nhóm hiện thực. Tuy nhiên các nhóm tự nhiên hiện thực được
tách ra trong các phân tích xã hội học có ý nghĩa lớn hơn. Đến lượt nó, các
nhóm tự nhiên này lại được chia thành các “nhóm lớn” và “nhóm nhỏ”. Các
nhóm nhỏ - trường sinh sống của Tâm lý học xã hội. Vấn đề liên quan đến
việc nghiên cứu nhóm lớn phức tạp hơn và đòi hỏi được xem xét riêng biệt.
Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng nhóm lớn hiện diện trong Tâm lý học
xã hội không giống nhau: một số nhóm lớn có được truyền thống nghiên cứu
lâu dài (các nhóm lớn xuất hiện không có tổ chức, tự phát, bản thân thuật ngữ
“nhóm” được dùng chỉ các nhóm này cũng mang tính tương đối), những
nhóm khác - những nhóm tồn tại lâu dài và có tổ chức như giai cấp, dân tộc, ít
hiện diện hơn trong tâm lý học với tư cách đối tượng nghiên cứu.

II. CẤU TRÚC CỦA NHÓM XÃ HỘI


1. Cấu trúc chính thức

Khi các cá nhân gia nhập nhóm và nhóm được hình thành, các cá nhân
sẽ tương tác qua lại để cùng thực hiện mục đích và hoạt động cùng nhau của
nhóm. Mỗi cá nhân có những năng lực riêng, có những nhu cầu và kì vọng
riêng. Các yếu tố này được thể hiện và ảnh hưởng đến quá trình tương tác.
Nhưng để nhóm có thể tồn tại và thực hiện được hoạt động của nó thì các cá
nhân phải nằm trong những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Mối quan hệ
tương đối ổn định, tương đối bền vững giữa các cá nhân để tạo thành một
nhóm toàn vẹn gọi là cấu trúc nhóm. Về nguyên tắc, các cá nhân có thể khác
nhau, có thể thay đổi, nhưng các liên hệ đó sẽ tương đối ổn định. Một khi cấu
trúc nhóm thay đổi nó sẽ làm nhóm biến đổi về chất và hình thành một loại
nhóm khác. Như vậy, các thành phần nằm ở “đầu mối” của mỗi quan hệ đó
gọi là các vị trí. Có thể hình dung: các liên hệ giữa các vị trí trong nhóm tạo ra

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

một cấu trúc - bộ xương của nhóm, trên cơ sở đó “con người” nhóm có được
hình dạng cụ thể và có những hoạt động cụ thể.

Từ cách hiểu đó, cấu trúc chính thức của nhóm là những mối quan hệ
mang tính chất công việc được quy định trước, phụ thuộc vào chức năng xã
hội mà nhóm phải thực hiện, trong đó các vị trí được quy định một cách rõ
ràng. Nhóm chỉ thực hiện tốt chức năng của nó khi các vị trí đó hoạt động một
cách hiệu quả và có sự liên hệ chặt chẽ với các vị trí khác.

Trong Tâm lý học xã hội, vị trí trong cấu trúc nhóm bao gồm hai thành
tố: vị thế và chức năng của vị trí (cá nhân) trong nhóm. Vị thế có thể coi như
quyền tự quyết của cá nhân khi cá nhân chiếm giữ một vị trí trong các quan
hệ trong nhóm từ khi bắt đầu và trong suốt quá trình duy trì vị trí đó. Như vậy,
giữa các cá nhân trong nhóm có mối quan hệ theo thứ bậc thì vị thế của họ
cùng khác nhau. Vị thế của cá nhân chỉ có thể được xác định trong mối quan
hệ với vị thế của cá nhân khác trong toàn bộ cấu trúc nhóm. Trong thực tế vị
thế thường được hiểu là biểu hiện các quyền lực, các quyền lợi, các đặc
quyền gắn với một vị trí.

Thành tố thứ hai của vị trí là chức năng của cá nhân khi chiếm giữ vị trí
đó đóng góp cho hoạt động của nhóm. Các vị trí có thể có các chức năng
khác nhau. Cá nhân chiếm giữ một vị trí cần thực hiện các chức năng tương
ứng. Các chức năng đó có thể là chức năng thực hiện, giám sát hay lên kế
hoạch...

Như vậy, cấu trúc chính thức của nhóm được xác định chủ yếu trên cơ
sở công việc của nhóm. Nó đảm bảo cho hoạt động của nhóm trong việc thực
hiện các chức năng xã hội của nhóm.

2. Cấu trúc không chính thức

Trong bất kì nhóm nào cũng tồn tại hai loại quan hệ cơ bản: quan hệ
công việc nhằm thực hiện các chức năng của nhóm và quan hệ liên nhân
cách giữa các thành viên. Quan hệ liên nhân cách là quan hệ dựa trên xúc
cảm giữa các thành viên. Cơ sở của quan hệ này không phải là vị trí (bao

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

gồm vị thế và chức năng như trình bày ở trên) mà là xúc cảm và sự gắn bó
xúc cảm giữa các cá nhân. Trong mỗi nhóm, một số cá nhân có sự liên hệ
chặt chẽ hơn về mặt xúc cảm so với các cá nhân khác. Đây là hiện tượng
mang tính quy luật. Bên trong bất kì một nhóm nào, sự gắn bó (về mặt xúc
cảm) cũng phân bố không đồng đều. Chính các mối liên hệ về mặt xúc cảm
giữa các thành viên trong nhóm tạo ra cấu trúc không chính thức của nhóm.
Từ đó có thể coi cấu trúc không chính thức của nhóm là những mối quan hệ
giữa các thành viên mang tính xúc cảm được quy định bởi các đặc điểm tâm
lý xã hội của các thành viên. Cấu trúc không chính thức góp phần quan trọng
trong việc tạo ra bầu không khí tâm lý của nhóm.

Do tính chất của hai loại quan hệ trong nhóm là khác nhau, nên cấu
trúc không chính thức và cấu trúc chính thức có nhiều điểm khác biệt. Cấu
trúc không chính thức không được quy định từ trước. Sự hình thành của cấu
trúc này chủ yếu dựa trên các tiếp xúc xúc cảm trực tiếp của các thành viên.
Nó hình thành một cách tự phát dựa trên sự thân thiện, thiện cảm hay không
thiện cảm giữa các thành viên. Do đó, cấu trúc không chính thức khó có thể
được mô tá một cách rõ ràng với các vị trí trong các mối quan hệ cụ thể giống
như ở cấu trúc chính thức. Đồng thời các cá nhân trong cấu trúc không chính
thức không có các thứ bậc rõ ràng, chức năng của các cá nhân cũng không
được quy định rõ. Vị trí tương đối nổi bật trong cấu trúc không chính thức là
thủ lĩnh. Cấu trúc không chính thức có thể không trùng với cấu trúc chính thức
và trong đa số trường hợp là như vậy. Để phát hiện được cấu trúc này cần sử
dụng phương pháp đặc trưng - đó là trắc đạc xã hội.

Tuy vậy, trong thực tế không tồn tại cấu trúc chính thức thuần túy mà nó
luôn tồn tại song hành với cấu trúc không chính thức. Cấu trúc không chính
thức xuất hiện một cách tự phát. Cấu trúc này thường được hình thành dựa
trên sự liên kết các thành viên bởi các hứng thú chung, các liên hệ thân tình
hay các mối quan tâm nào đó. Sự tồn tại của các cấu trúc không chính thức
trong lòng cấu trúc chính thức đặc biệt được quan tâm vì nó có tác động
mạnh đến nhóm.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

3. Chuẩn mực nhóm

Các chuẩn mực nhóm và sự hình thành các chuẩn mực nhóm là một
trong số các hiện tượng nhóm có được nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu.

- Chuẩn mực nhóm là hệ thống các quy tắc và đòi hỏi của cộng đồng
đối với mỗi một thành viên, đóng vai trò phương tiện quan trọng nhất điều
chỉnh hành vi của các thành viên trong quan hệ và tác động tương hỗ, trong
giao tiếp của nhóm. Chuẩn mực nhóm có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của nhóm: Chuẩn mực nhóm là cơ sở để thống nhất hành vi của
các cá nhân trong nhóm và hướng cá nhân tới việc thực hiện các mục tiêu
của nhóm.

- Chuẩn mực nhóm tạo ra sự ràng buộc giữa các thành viên với nhóm.

- Chuẩn mực nhóm đảm bảo cho sự ổn định của trật tự nhóm.

Sự hình thành của chuẩn mực nhóm có thể được coi là sản phẩm của
sự tác động xã hội qua lại giữa các cá nhân trong đời sống nhóm và phản ánh
những đòi hỏi từ cộng đồng xã hội lớn hơn đối với nhóm. Do vậy quá trình
hình thành các chuẩn mực nhóm không phải là quá trình thuần tuý nội nhóm.
Một vấn đề khác cũng cần được lưu ý là nhóm chỉ hình thành các chuẩn mực
liên quan đến các tình huống và hành động có ý nghĩa đối với nhóm chứ
không phải tất cả các chuẩn mực cho mọi tình huống. Các chuẩn mực nhóm
đã được hình thành có thể được chấp nhận và tuân thủ ở các mức độ khác
nhau.

Có các hướng nghiên cứu chuẩn mực nhóm khác nhau, mỗi hướng tạo
thành các nhánh trong nghiên cứu chuẩn mực nhóm. Hướng thứ nhất, nghiên
cứu việc tiếp nhận những chuẩn mực đang tồn tại trong nhóm của những cá
nhân mới tham gia vào nhóm. Đây không phải là vấn đề về sự gia nhập của
thành viên mới vào nhóm. Trong trường hợp này, có thể quy về việc nghiên
cứu hiện tượng áp lực nhóm đối với cá nhân, sự tuân thủ của cá nhân trước
nhóm. Hướng thứ hai nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

và các giá trị nhóm trong điều kiện cùng một lúc có nhiều cá nhân tham gia
vào nhóm và sự tiếp nhận đầy đủ hơn sau đó những chuẩn mực, sự chia sẻ
mục đích nhóm của toàn bộ các thành viên.

Hướng thứ nhất nổi bật với các nghiên cứu sự lệ thuộc, thực chất là
hiện tượng áp lực nhóm - trong Tâm lý học xã hội được gọi là hiện tượng lệ
thuộc (a dua). Bản thân từ “a dua” trong ngôn ngữ đời thường đã có một nội
dung hoàn toàn xác định: sự hùa theo người khác. Ở mức độ nhận thức
thông thường, hiện tượng a dua đã được xác định từ trước. Trong ngôn ngữ
thường ngày khái niệm này mang sắc thái tiêu cực. Điều này ảnh hưởng xấu
đến việc nghiên cứu, đặc biệt nếu nghiên cứu được tiến hành trong lĩnh vực
ứng dụng. Vấn đề còn ở chỗ khái niệm sự a dua có ý nghĩa đặc biệt xấu trong
chính trị như là biểu tượng của sự thỏa hiệp và dễ đãi. Để phân biệt rõ những
ý nghĩa này, trong các tài liệu Tâm lý học xã hội thường không nói đến sau a
dua mà nói tới tính lệ thuộc hay là các hành vi lệ thuộc (phụ thuộc) với ý
nghĩa đơn thuần là đặc trưng tâm lý về vị trí của cá nhân tương ứng với vị trí
của nhóm là mức độ tuân thủ của cá nhân trước các áp lực nhóm. Trong các
công trình nghiên cứu gần đây thường sử dụng thuật ngữ “ảnh hưởng xã
hội”.

Tính lệ thuộc xuất hiện khi có sự mâu thuẫn giữa ý kiến của cá nhân và
ý kiến của nhóm. Mâu thuẫn được giải quyết theo hướng vì lợi ích của nhóm.
Mức độ lệ thuộc - đó là mức độ tuân thủ nhóm trong trường hợp khi sự mâu
thuẫn ý kiến được cá nhân tiếp nhận như là một xung đột. Những khái niệm
như “đồng thuận”, “tính có điều kiện” có thể là những khái niệm tương đồng
mặc dù trong những khái niệm này có sắc thái khác. Ví dụ, sự đồng thuận
biểu thị việc chấp nhận những chuẩn mực nhất định nhưng sự chấp nhận các
chuẩn mực không phải là do áp lực. Khái niệm ngược với khái niệm lệ thuộc
là “độc lập”, “lập trường kiên định”, “vững vàng trước áp lực nhóm”... Đôi khi
khái niệm “tiêu cực” cũng được sử dụng như một khái niệm đối lập với sự lệ
thuộc - sự chống đối lại áp lực nhóm, phủ nhận các chuẩn mực nhóm thể hiện
sự độc lập thái quá. Tuy nhiên tính tiêu cực giống như một hình thức phủ

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

nhận sự lệ thuộc chỉ là vẻ bề ngoài. Thực tế, tính tiêu cực không phải là sự
độc lập thực sự. Ngược lại có thể cho rằng đó là một trường hợp đặc biệt của
sự lệ thuộc, một dạng “lệ thuộc ngây thơ”: nếu cá nhân đặt ra cho mình mục
đích chống đối lại ý kiến của nhóm bằng mọi cách thì thực tế cá nhân đó lại
phụ thuộc vào nhóm. Bởi lẽ mỗi cá nhân buộc phải xây dựng hành vi chống
đối nhóm của mình, phải xác lập một vị trí đối lập với nhóm hay với các chuẩn
mực tức là cá nhân đó bị phụ thuộc vào ý kiến nhóm chỉ có điều là với các
dấu hiệu ngược lại (Có nhiều ví dụ về tính tiêu cực, như cách ứng xử của
thiếu niên). Do vậy lập trường ngược lại với tính lệ thuộc không phải là tiêu
cực mà là độc lập và không phụ thuộc.

Sau này M.Douch và Djepard đưa ra “lý thuyết thông tin về tính lệ
thuộc” với 2 loại ảnh hưởng nhóm: chuẩn mực (khi mà áp lực từ đa số và các
thành viên tiếp nhận nó như là chuẩn mực) và thông tin (khi áp lực tạo ra từ
thiểu số và các thành viên tiếp nhận nó như là thông tin, trên cơ sở đó tự thực
hiện sự lựa chọn của mình).

Anh huong xa hoi

Thong tin (thieu so) Co so “quyen luc” Chuan muc (đa so)

Su giam đinh luat Khen thuong – Cuong che

Thay đoi trong hanh vi ca nhan

Thay đoi (ben trong) Đong thuan


Sơ đồ các kiểu ảnh hưởng xã hội

Cơ chế ảnh hưởng trong hai trường hợp này là khác nhau: đa số theo
nghĩa đầy đủ tạo ra “chuẩn mực”, chi phối ý kiến của cá nhân. Trong trường
hợp này cá nhân thay đổi hành vi của mình để thể hiện sự đồng ý, nhưng vẫn

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

giữ ý kiến riêng cho bản thân. Chính điều này là sự lệ thuộc bên ngoài. Thiểu
số chỉ đưa ra cho các cá nhân thông tin và nếu cá nhân tin tưởng vào thông
tin, anh ta sẽ thay đổi ý kiến của mình... tức là dường như diễn ra sự đổi
chiều, chấp nhận bằng một quan điểm khác. Trường hợp này thể hiện sự lệ
thuộc bên trong. Trong nhiều trường hợp khác nhau mức độ ảnh hưởng
tương ứng của hai loại này là khác nhau, nhưng từ góc độ hình thành nhóm,
cơ chế ảnh hưởng xã hội thể hiện như là áp lực của nhóm đối với việc tuân
thủ các chuẩn mực của nó.

III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA NHÓM LỚN


1. Những vấn đề chung về nhóm lớn

Việc nghiên cứu của Tâm lý học xã hội về các nhóm lớn gặp phải hàng
loạt các khó khăn. Do vậy, trong truyền thống nghiên cứu tâm lý học nhóm lớn
xã hội đã có một số phận tương đối phức tạp và kì lạ. Một mặt Tâm lý học xã
hội bắt đầu chính từ việc nghiên cứu các nhóm lớn xã hội, nhưng trong nửa
đầu thế kỉ thứ XX, Tâm lý học xã hội thực nghiệm phát triển mạnh mẽ và sự
tập trung chính lại là nghiên cứu nhóm nhỏ. Vấn đề nhóm lớn lại trở thành
“đứa con ghẻ” chủ yếu vì có sự suy yếu của mối quan tâm tới các nghiên cứu
lý luận trong Tâm lý học xã hội, cũng như vì tính phức tạp của việc nghiên
cứu các nhóm lớn bằng phương pháp thực nghiệm.

Có thể khẳng định một cách tự tin rằng vấn đề nhóm lớn đang được
sinh ra lần thứ hai. Về bản chất, nếu Tâm lý học xã hội không có phần về tâm
lý học nhóm lớn thì nói chung không thể trở thành Tâm lý học xã hội theo
đúng nghĩa của từ này. Theo khẳng định của G.Điligenxki, việc xem xét tâm lý
của nhóm lớn không phải là một trong số các vấn đề của Tâm lý học xã hội
mà là vấn đề quan trọng nhất của nó.

Có hàng loạt các vấn đề liên quan đến nhóm lớn. Trước tiên đó là vấn
đề: những nhóm nào cần được xem là nhóm lớn? Thứ hai, tâm lý của nhóm
lớn có cấu trúc như thế nào? Các yếu tố cơ bản và sự phụ thuộc lẫn nhau,
tính chất mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng ra sao? Thứ ba là vấn đề về mối
quan hệ lẫn nhau giữa tâm lý của các cá nhân riêng lẻ tham gia vào nhóm và

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

các yếu tố tâm lý nhóm. Cuối cùng, thứ tư, những phương pháp nào có thể
sử dụng trong việc nghiên cứu tất cả các hiện tượng đó?

- Vậy “nhóm lớn xã hội” là gì? Xuất phát từ những nguyên tắc chung
trong cách hiểu về nhóm, tất nhiên không thể đưa ra một định nghĩa đơn
thuần về số lượng cho khái niệm này. Theo sơ đồ được nêu ra ở phần trên đã
chỉ ra rằng: những tập hợp người lớn về số lượng được chia ra thành hai loại:
loại thứ nhất là các nhóm ngẫu nhiên và tự phát. Đó là các tập hợp tồn tại
trong khoảng thời gian tương đối ngắn như đám đông, thính giả (cử toạ),
công chúng và loại thứ hai là các nhóm xã hội - theo đúng nghĩa của từ này,
tức là những nhóm hình thành trong tiến trình xã hội lịch sử, chiếm một vị trí
nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội của mỗi kiểu xã hội cụ thể và do
vậy tồn tại lâu dài và bền vững. Loại thứ hai này bao gồm các nhóm như giai
cấp xã hội, tầng lớp xã hội và các nhóm tộc người (với hình thức chính là các
dân tộc), các nhóm nghề nghiệp, nhóm giới tính, lứa tuổi (theo quan điểm này
với tư cách là nhóm có thể xem xét các nhóm như: nhóm thanh niên, phụ nữ
những người trưởng thành và trung niên...).

- Tâm lý nhóm lớn có cấu trúc như thế nào? Hầu như tất cả các nhà
nghiên cứu (G.G.Điligenxki, A.I.Goriachieva, Iu.V.Brômlei...) đều phân chia
thành hai phần cấu thành trong nội dung của nó: 1. Nếp tâm lý như là cấu tạo
tâm lý ổn định hơn (bao gồm tính cách xã hội hay tính cách dân tộc, nếp
sống, truyền thống, thị hiếu...); 2. Phương diện xúc cảm như một cấu tạo
tương đối biến động hơn (nhu cầu, hứng thú, tâm trạng). Mỗi yếu tố cần trở
thành đối tượng phân tích Tâm lý học xã hội một cách đặc biệt.

- Vấn đề thứ ba - vấn đề mối quan hệ qua lại giữa các đặc trưng tâm lý
của nhóm lớn và ý thức của mỗi cá nhân tham gia vào nhóm. Trong dạng
chung nhất, vấn đề này được giải quyết như sau: Các đặc trưng tâm lý nhóm
là những gì mang tính đặc thù (cho nhóm) nhưng lại chung cho tất cả các cá
nhân và do vậy hoàn toàn không phải là tổng các nét có ở mỗi cá nhân: Rõ
ràng, cái phần tâm lý của các cá nhân tạo ra nhóm, thuộc về nhóm là cái có
thể gọi là “tâm lý nhóm”. Nói cách khác: tâm lý nhóm là cái có chung ở tất cả

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

các đại diện nhóm ở mức độ này hay mức độ khác, tức là đặc thù cho họ,
được sinh ra bởi các điều kiện tồn tại chung. Cái đặc thù đó không phải là
như nhau đối với tất cả các cá nhân mà chỉ là cái chung. Các nét chung của
các đại diện của một nhóm xã hội nào đó tồn tại một cách khách quan, bởi lẽ
chúng thể hiện trong hoạt động hiện thực của nhóm. Theo mối quan hệ với “ý
thức” riêng lẻ, tâm lý nhóm như là một hiện thực xã hội nào đó vượt ra khỏi
phạm vi ý thức của cá nhân riêng lẻ và tác động đến cá nhân cùng với các
điều kiện khách quan của cuộc sống, theo cách nói của Valông, dẫn tới “sự
nhân đôi môi trường” trong đó con người hoạt động.

Bằng các phương pháp nào có thể nghiên cứu tâm lý nhóm lớn xã hội?
Trong chừng mực các nét điển hình được củng cố trong đạo đức, truyền
thống và nếp sống, Tâm lý học xã hội - trong trường hợp này - cần sử dụng
các phương pháp của các khoa học khác, như Dân tộc học để phân tích các
sản phẩm văn hóa. W.Wundt đề xuất về việc nghiên cứu ngôn ngữ, huyền
thoại và nếp sống để tìm hiểu tâm lý dân tộc. Một trong các hình thức hiện đại
trong việc sử dụng các phương pháp đó là các nghiên cứu so sánh hay liên
văn hóa. Ở đây thuật ngữ “liên văn hóa” được sử dụng mang tính truyền
thống khi nói đến các nguồn gốc văn hóa khác nhau. Trong thực tế thì không
nhất thiết chỉ so sánh các văn hóa khác nhau mà còn so sánh các nhóm xã
hội khác nhau.

Trong việc nghiên cứu tâm lý nhóm lớn còn có thể áp dụng cả các
phương pháp truyền thống của xã hội học bao gồm cả các phương pháp
phân tích thống kê khác nhau. Các kết quả nghiên cứu được thực hiện nhờ
sự trợ giúp của các phương pháp đó không phải luôn phát hiện ra được các
liên hệ nhân quả; trong đó trước tiên mô tả một số những liên hệ phụ thuộc
chức năng nào đó cho phép có được các tương quan có ý nghĩa, điều chấp
nhận được đổi với nghiên cứu tương quan, phổ biến trong việc nghiên cứu
đặc trưng tâm lý của nhóm lớn. Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên,
trong khi nghiên cứu nhóm lớn, Tâm lý học xã hội sử dụng cả các phương
pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Lý thuyết “Biểu tượng xã hội” được đưa ra trong trường phái Tâm lý
học Pháp (X.Moscovisi) đã có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Tâm lý
học xã hội nhóm lớn. Lý thuyết này ở một mức độ có ý nghĩa đồng thời đề ra
phương pháp nghiên cứu nhóm lớn. Biểu tượng xã hội trong lý thuyết này
được hiểu là các biểu tượng đời thường của một nhóm nào đó về hiện tượng
xã hội này hay hiện tượng xã hội khác, tức là phương thức lý giải và thấu hiểu
hiện thực đời sống. Nhờ sự trợ giúp của các biểu tượng xã hội, mỗi nhóm xây
dựng hình ảnh thế giới xã hội, các thiết chế của nó, chính quyền, luật pháp,
chuẩn mực. Các biểu tượng xã hội - công cụ không phải của cá nhân mà của
chính nhận thức xã hội của nhóm. Bởi lẽ “biểu tượng” được hình thành trên
cơ sở kinh nghiệm, hoạt động của nhóm, hướng tới cách lý giải đời thường
được nhấn mạnh trong kinh nghiệm này. Về bản chất, thông qua sự phân tích
các biểu tượng xã hội của các nhóm lớn, bộ mặt tâm lý của chúng được nhận
thức. (Đônxôp, Emelianôva, 1987).

Các biểu tượng xã hội được nhóm tạo ra thể hiện dưới dạng: một mặt
nhóm định hình một số khía cạnh của hiện thực xã hội, tạo ra ảnh hưởng
trong việc đánh giá các khía cạnh đó, sau đó sử dụng biểu tượng của mình về
hiện tượng xã hội trong việc xác định thái độ đối với chúng. Mặt khác, biểu
tượng xã hội nhóm được đặt ra tạo khả năng hoà nhập nhóm, dường như
thực hiện chức năng “giáo dục” nhận thức cho các thành viên, mang đến cho
họ những cách lý giải đặc thù, quen thuộc (đối với nhóm) về các sự kiện, tức
là tạo khả năng hình thành sự đồng nhất nhóm (Anđrêeva, 2000). Như vậy
phân tích các biểu tượng xã hội là chìa khóa cho việc hiểu tâm lý nhóm. Lý
thuyết này giúp xác định khái niệm “khuôn mẫu xã hội” của nhóm lớn xã hội
chính xác hơn. Trong đó phản ánh “góc nhìn” và “cách hiểu” thế giới của các
thành viên của một nhóm, phản ánh câu trả lời đặc thù của họ đối với bức
tranh thế giới. Các thành viên của một nền văn hóa nhất định lĩnh hội các
phương thức tri giác giống nhau hình thành các hình ảnh giống nhau thể hiện
trong các hình mẫu ứng xử đặc thù. Tập hợp các biểu tượng xã hội độc đáo
của nhóm và tương ứng với nó là các hình mẫu hành vi nhất định xác định

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

khuôn mẫu của nhóm. Không phải ngẫu nhiên trong ngôn ngữ đời thường
nhắc tới “hình mẫu trí thức”, “hình mẫu doanh nhân”...

2. Đặc điểm Tâm lý dân tộc

Các nhóm tộc người là ví dụ về nhóm lớn xã hội có ý nghĩa trong quá
trình xã hội lịch sử. Khác với tâm lý học giai cấp, các đặc điểm của các nhóm
tộc người, trước hết là dân tộc được nghiên cứu nhiều hơn. Một nhánh đặc
biệt của khoa học giao thoa giữa Tâm lý học xã hội và Dân tộc học - Tâm lý
học tộc người, nghiên cứu riêng biệt những vấn đề nêu trên (Xtêphanhencô,
1999).

Truyền thống nghiên cứu Tâm lý học nhóm tộc người trong Tâm lý học
xã hội bắt đầu từ các công trình của W.Wundt trong “Tâm lý học dân tộc”. Sự
thâu thuộc về tộc người của cá nhân là nhân tố đặc biệt có ý nghĩa đối với
Tâm lý xã hội học. Bởi lẽ nó xác định những đặc trưng nhất định của môi
trường vi mô. Trong các điều kiện của môi trường đó, nhân cách được hình
thành. Đặc trưng tộc người ở một mức độ nhất định tập trung trong kinh
nghiệm lịch sử của mỗi tộc người và việc lĩnh hội các kinh nghiệm này là nội
dung quan trọng nhất của quá trình xã hội hóa. Thông qua môi trường xung
quanh gần gũi nhất trước tiên là gia đình, nhà trường, cá nhân theo từng mức
độ phát triển tiếp cận với đặc trưng văn hóa tộc người, tập quán truyền thống,
phương thức, ý thức về sự thâu thuộc vào tộc người phụ thuộc vào các điều
kiện xã hội lịch sử cụ thể của sự tồn tại của tộc người đó.

Tương ứng với truyền thống được hình thành trong Tâm lý học xã hội
nhóm lớn, trong tâm lý học cộng đồng tộc người phân biệt hai mặt: 1. Tính
cách dân tộc - phần ổn định hơn cả - nếp tâm lý (bao gồm, tính cách khí chất
và cả truyền thống, tập quán) của một tộc người hoặc cả một dân tộc; 2.
Phương diện xúc cảm (bao gồm tình cảm dân tộc, tộc người).

- Tính cách dân tộc: Đây là khái niệm phổ biến hơn cả để mô tả các đặc
điểm của nếp tâm lý tộc người (dân tộc). Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn vả
nhiều tranh luận liên quan đến nội dung của tính cách dân tộc nhưng trong
các nghiên cứu cụ thể vẫn có sự đồng thuận tương đối lớn khi mô tả các nét

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tính cách dân tộc ở nhiều nhóm dân tộc riêng lẻ (tính dũng cảm, yêu lao động,
khả năng kiềm chế...). Liên quan đến bản chất của tính cách dân tộc thì ở đây
xuất hiện nhiều vấn đề gây tranh cãi. Trước tiên là nét tính cách dân tộc có
quan hệ như thế nào với các nét tính cách của mỗi đại diện của nó. Liệu các
nét tính cách có phải hoàn toàn chỉ có ở một dân tộc mà hoàn toàn không có
ở các nhóm khác (tức là liệu có thể nói rằng một dân tộc nào đó yêu lao động,
còn dân tộc khác - cởi mở). Cuối cùng các nét tính cách dân tộc và tính cách
xã hội tác động qua lại như thế nào? Do vậy không chỉ đơn giản nói về tập
hợp các nét tính cách mà chủ yếu là về mức độ biểu hiện của nét này hay nét
khác trong tập hợp đó, về đặc trưng trong cách biểu hiện của nó: Không phải
ngẫu nhiên các tài liệu tập trung vào việc xác định một số đặc trưng nào đó.
Ví dụ, đặc trưng của người Anh là hài hước, mặc dù sự hài hước không chỉ
có ở người Anh. Giải thích sự hình thành tính cách tộc người cũng là công
việc được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các nhà nghiên cứu đã đi theo
nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề này. Từ cách tiếp cận dựa
trên các điều kiện tự nhiên, khí hậu đến tiếp cận dựa trên sự giao thoa và
khuyếch tán văn hóa; từ tiếp cận dựa trên các đặc điểm sinh học thể chất,
đến tiếp cận hoạt động sống của tộc người. Tuy vậy, câu hỏi này vẫn cần
những nghiên cứu tiếp theo.

Trong nghiên cứu tính cách dân tộc, ngoài việc tìm hiểu tập quán và
truyền thống, việc phân tích ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ,
việc truyền lại các nét tính cách dân tộc được thực hiện trong quá trình xã hội
hóa, trước tiên là trực tiếp qua ngôn ngữ. Tính ổn định tương đối của các nét
tính cách dân tộc, dù có sự thay đổi của môi trường được giải thích bằng sự
xuất hiện của sức ỳ nào đó, được đảm bảo bằng con đường chuyển giao kinh
nghiệm giữa các thế hệ.

- Phương diện xúc cảm của tộc người bao gồm sự đồng nhất tộc người
và ý thức tự giác tộc người. Các đặc trưng này liên quan đến ý thức của con
người về sự thâu thuộc của bản thân vào một nhóm tộc người nhất định và
sự trải nghiệm xúc cảm về việc đó, tức là tiếp nhận và trải nghiệm sự khác

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

biệt văn hóa của nhóm mình với nhóm khác. Cùng với quá trình đó là sự xuất
hiện của các khuôn mẫu tộc người.

Tính cộng đồng tâm lý có ở mọi nhóm tộc người được thể hiện trong sự
hình thành tình cảm “chúng ta” nào đó. Đối với nhóm tộc người “tình cảm
chúng ta” xác định ý thức về các đặc điểm của tộc người mình khác biệt với
tộc người khác. Hình ảnh của các nhóm khác, trong đó thường bị làm tầm
thường hóa, được hình thành dưới ảnh hưởng của các quan hệ liên nhóm,
các quan hệ tạo ra tâm thế đặc biệt cho các đại diện của nhóm khác. Trong
đó kinh nghiệm giao tiếp với nhóm tộc người khác có vai trò nhất định. Nếu
các quan hệ này trong quá khứ mang tính thù địch thì màu sắc đó được di
chuyển sang mỗi đại diện được gặp lại của nhóm đó và bằng cách đó hình
thành tâm thế tiêu cực. Thường xuyên hơn cả, khuôn mẫu tộc người xuất
hiện vì sự hạn chế của giao tiếp liên nhóm: các nét có ở những đại diện cá
biệt của nhóm tộc người (khác) lần lượt được phổ biến ra toàn bộ nhóm
(Stêphanhencô, 1999).

Khuôn mẫu được hình thành bằng cách đó sau này ảnh hưởng tới sự
xuất hiện của thái độ thiện cảm hay không thiện cảm của tộc người. Bản thân
sự ý thức về các đặc điểm của tộc người không chứa đựng định kiến trước
chống lại tộc người khác. Nhưng vấn đề vẫn xảy ra cho tới khi sự tương phản
của các khác biệt được nhận thức vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên rất dễ chuyển
từ sự tương phản sang việc đánh giá nhóm tộc người khác, sang sự thân
thiện hay không thiện cảm và khi đó có thể xảy ra sự hạ thấp hình ảnh của
nhóm khác. Trong các khuôn mẫu tộc người luôn luôn có sự va chạm mạnh
mẽ của những kiểu ảnh hưởng từ ngoài tộc người, trước hết là xã hội, lịch
sử, chính trị, cũng như những ảnh hưởng được quy định bởi nội dung văn
hóa... Cơ chế tiếp theo của việc biến khuôn mẫu tộc người thành định kiến và
sau đó là sự củng cố định kiến trong các học thuyết chinh trị, tư tưởng - vấn
đề không phải của Tâm lý học xã hội. Khuôn mẫu tộc người luôn được hình
thành trong một vài bối cảnh xã hội nào đó và khi đó chúng có được một hình
thức bền vững - định kiến, tức là một cấu tạo có màu sắc xúc cảm tiêu cực

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

mang tính quy chuẩn, chúng dễ dàng được sử dụng như là vũ khí của sự thù
hằn dân tộc. Cũng từ đó xuất hiện về phương diện tâm lý học hiện tượng
trung tâm tộc người (hay trung tâm luận tộc người, hay tự kì tộc người) - đề
cao nhóm tộc người mình, mong muốn tiếp nhận mọi hiện tượng cuộc sống
từ lập trường của nó, xác định một cách thống nhất các nét tính cách của tộc
người.

Tính tương đối của các khác biệt tâm lý giữa các nhóm là đặc trưng
quan trọng của TLH nhóm tộc người (Kon, 1970). Những khác biệt này không
thể tuyệt đối hóa và cần được xem như là cái phải sinh từ những điều kiện
lịch sử nhất định, được củng cố trong chiều dài của hàng loạt các thế hệ (“sự
chuyển giao văn hóa”). Dù cho có tính ổn định tương đối, các nét này có thể
thay đổi theo lịch sử. Tâm lý học tộc người đã tích luỹ được một số lượng
tương đối lớn những tư liệu thú vị liên quan đến những đặc điểm nếp tâm lý
và hành vi của con người, bị quy định bởi sự thâu thuộc của họ vào một tộc
người. Do vậy nhiệm vụ đặt ra cho Tâm lý học xã hội và Tâm lý học xã hội tộc
người ngày nay tương đối phức tạp. Tính nóng bỏng chính trị của vấn đề
trong thế giới hiện đại buộc phải giải quyết các vấn đề này với sự chính xác
đặc biệt. Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc, đặc trưng cho các chương trình
chính trị của các quốc gia dân chủ không biểu thị sự thừa nhận tính giống
nhau giữa các dân tộc. Từ đó chỉ ra các đặc điểm dân tộc, trong đó có sự
khác biệt trong tâm lý dân tộc vẫn còn là một nhiệm vụ cấp thiết.

3. Đặc điểm Tâm lý giai cấp

Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự
quan tâm đặc biệt. Trong nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey
và E.Aronson chủ biên đã chỉ ra rằng bản thân thuật ngữ giai cấp có nội dung
khác nhau đối với các nhà nghiên cứu châu âu và Mỹ. Đối với các nhà nghiên
cứu phương Tây, khái niệm “giai cấp” hiện thực hơn bởi lẽ sự đồng nhất với
giai cấp rõ ràng hơn, tương đối thường xuyên gắn với việc xác định sự thâu
thuộc về chính trị. Đối với văn hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm
“giai cấp công nhân”, “giai cấp tư bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

hơn với khái niệm “giai cấp trung lưu”, “giai cấp bần cùng”... Điều đó liên quan
tới việc trong các lý thuyết xã hội học cấu trúc xã hội được mô tả nhờ sự trợ
giúp của các khái niệm như “các thiết chế kinh tế - xã hội” chứ không phải
“giai cấp xã hội”. Một cách tự nhiên, điều đó không thể không ảnh hưởng tới
những sự khác biệt trong cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã hội về giai cấp.
Nói riêng, trong một mức độ lớn, thay vì phân tích tâm lý học về giai cấp,
người ta đề nghị phân tích tâm lý học các tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy vậy
trong mọi tình huống cần lưu ý rằng bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ
làm rõ liên hệ giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm và hình mẫu hành vi của
các thành viên nhóm.

Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội
học Nga) về giai cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai
cấp: Đó là chỉ ra các đặc điểm đặc thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong
lịch sử và đang tồn tại; chỉ ra đặc trưng của các giai cấp khác nhau trong các
thời đại nhất định; phân tích mối quan hệ giữa tâm lý giai cấp và tâm lý các
thành viên riêng lẻ của giai cấp như là những trường hợp riêng của vấn đề
mối quan hệ giữa tâm lý học nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền
thống này việc sử dụng thuật ngữ “tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không
loại trừ sự phân tích tâm lý học các tầng lớp riêng lẻ tham gia vào giai cấp
này hay giai cấp khác.

Phương diện động thái xúc cảm của tâm lý học giai cấp được nghiên
cứu đầy đủ hơn cả, bao gồm các nhu cầu giai cấp, các lợi ích giai cấp, tập
hợp các vai trò xã hội. Trong chừng mực vị trí xã hội nhất định, khối lượng và
thành phần của các quyền lợi tinh thần và vật chất mà mỗi thành viên nhóm
được phân bố chừng đó. Nó tạo ra cấu trúc nhất định của các nhu cầu, ý
nghĩa tâm lý và trọng lượng của mỗi nhân tố. Bên cạnh đó vẫn còn một loạt
các vấn đề đòi hỏi sự phân tích Tâm lý học xã hội. Lợi ích được hình thành
như là lợi ích của toàn nhóm, nhưng mỗi thành viên của giai cấp không chỉ
tham gia vào nhóm đó mà họ còn là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác:
Thứ nhất, ngay trong bản thân mỗi giai cấp có nhiều tiểu nhóm được phân

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

biệt bằng trình độ nghề nghiệp của nó theo các phương diện công việc… Thứ
hai, mỗi thành viên của một giai cấp có thể đồng thời là thành viên của một
nhóm nào đó trong phương diện học vấn (ví dụ trong trường đại học, trường
phổ thông), nơi thành viên đó tác động qua lại trực tiếp với những thành viên
của các giai cấp khác. Xuất hiện sự đan xen các lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích
trong số đó được xác định bởi sự thâu thuộc vào một nhóm có giá trị xã hội.
Trong hệ thống các lợi ích của cá nhân có những lợi ích bền vững hơn và
ngược lại trong một số những tình huống nào đó, các lợi ích ít sâu sắc hơn
bắt đầu đóng vai trò nổi bật - có ý nghĩa mang tính nguyên tắc.

Các yếu tố tham gia vào phần biến động của tâm lý học giai cấp như
tập hợp các vai trò xã hội và định hướng xã hội tương ứng của cá nhân...
cũng như tính chưa rõ ràng của các khái niệm này trong khi áp dụng vào việc
phân tích tâm lý học nhóm lớn trên thực tế chưa được nghiên cứu. Điều này
cũng đúng với một hiện tượng được gọi là “tình cảm xã hội”. Khái niệm tình
cảm xã hội không phải được thừa nhận chung trong các tài liệu. Ở một mức
độ nhất định, nhiều vấn đề về tình cảm xã hội còn tranh luận. Do vậy có thể
sử dụng nó như một định nghĩa mô tả trạng thái nào đó trong phương diện
xúc cảm của nhóm (Ví dụ: “căm thù giai cấp”, xúc cảm xuất hiện trong mối
liên hệ với mọi sự đồng nhất xã hội liên quan tới sự bất bình đẳng). Do vậy
tính không xác định của thuật ngữ không làm giảm ý nghĩa của bản thân vấn
đề. Nó chỉ chứng tỏ rằng trong Tâm lý học xã hội chưa có truyền thống nghiên
cứu lĩnh vực này với sự trợ giúp của một bộ máy khái niệm khoa học. Tâm lý
học xã hội buộc phải kết hợp hệ thống các thuật ngữ từ các khoa học khác
như văn học nhân văn, triết học và lịch sử.

Khi đề cập tới việc xác định các thành phần ổn định hơn trong tâm lý
học giai cấp thì có thể thấy vấn đề này ít được nghiên cứu hơn ở một mức độ
đáng kể. Liên quan tới giai cấp, nếp tâm lý thường được mô tả như là một
diện mạo tâm lý thể hiện trong một phương thức đặc biệt của hành vi và hoạt
động, trên cơ sở đó có thể tái thiết kế các chuẩn mực điều chỉnh nhóm xã hội.
Diện mạo đó thể hiện trong tính cách xã hội, những định nghĩa mang tính thao

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tác của cả khái niệm này cũng còn chưa được làm rõ trong các tài liệu riêng
của Tâm lý học xã hội.

Thuật ngữ “tính cách xã hội” thực tế được đưa ra trong các công trình
của trào lưu Phân tâm học mới, trong đó có các công trình của E.Fromm.
Theo ông, tính cách xã hội - đó là mắt xích kết nối giữa tâm lý cá nhân và cấu
trúc xã hội. Nhưng các loại tính cách xã hội ở Fromm không gắn với một giai
cấp xã hội nhất định mà tương ứng với các kiểu khác nhau của sự tự tách
biệt của con người trong các thời đại lịch sử khác nhau. Ông nêu ra các kiểu
như sau: con người thời đại tiền tư bản (loại “tích luỹ”), những năm 20 của thế
kỉ XX (“loại thị trường” gắn liền với xã hội “xa lánh hoàn toàn”). Do vậy tính
cách xã hội thường xuyên hơn cả được xác định bằng cách mô tả những cái
được thể hiện trong hình mẫu hành vi ứng xử ổn định đặc thù của các thành
viên của các giai cấp khác nhau trong các tình huống trong hoạt động sống
của họ và giúp phân biệt giai cấp này với giai cấp khác. Trong việc đưa ra các
tính cách xã hội, các mô tả được chứa đựng trong lịch sử văn hóa, lịch sử
quốc gia, trong các tài liệu văn học có thể được sử dụng (có thể nói đến các
tác phẩm của Banzắc, Gorki). Văn học thực chất đã tiến hành công việc của
tâm lý học trong việc thực hiện cái được gọi là chuyên khảo. Dù cho sản
phẩm của nghiên cứu loại này không tồn tại dưới dạng các lý thuyết khoa
học, không dưới dạng các khái niệm khoa học, mà dưới dạng các hình ảnh
nghệ thuật, tức là dưới dạng các tài liệu văn học phản ánh hiện thực vẫn
không làm mất đi giá trị của các nghiên cứu đó. Ngoài tính cách xã hội, khuôn
mẫu xã hội được tìm thấy trong các thói quen và tập quán, cũng như truyền
thống giai cấp. Tất cả các cấu tạo này đóng vai trò người điều chỉnh hành vi
và hoạt động của các thành viên trong nhóm xã hội, do vậy có ý nghĩa lớn đối
với việc hiểu tâm lý học nhóm. Chúng đưa ra đặc trưng quan trọng nhất của
dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối sống của nó. Khía cạnh
Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao cho trong
phạm vi vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được hình mẫu
hành vi nổi trội của đa số quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong các tình
huống độc đáo trong đời sống hàng ngày. Thói quen và tập quán được hình

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thành dưới ảnh hưởng của các điều kiện sống nhất định nhưng sau đó được
củng cố và đóng vai trò cái điều chỉnh hành vi. Phân tích thói quen và tập
quán chính là vấn đề riêng của Tâm lý học xã hội. Các phương pháp nghiên
cứu vấn đề này gần với các phương pháp nghiên cứu tâm lý học truyền
thống, trong một chừng mực nhất định ở đây có thể sử dụng phương pháp
quan sát.

Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó
Tâm lý học xã hội còn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm
lý của các tầng lớp xã hội khác nhau và các phương thức mà nhờ chúng, tâm
lý nhóm được “xây dựng”, đảm bảo cho “sự lãnh hội” hiện thực xã hội của mỗi
cá nhân. Ở đây điều quan trọng là phải hiểu bằng cách nào quần chúng với
số lượng tương đối lớn - với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ - trong những
tình huống có ý nghĩa nào đó của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các
biểu tượng như thị hiếu, hay thậm chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện
thực. Các tình huống này là các tình huống trong điều kiện sống đặc biệt,
được quy định trước hết bởi sự thâu thuộc vào một nhóm lớn xã hội cụ thể,
do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ qua sự kiện này khi xây dựng các mô
hình giải thích hành vi và hoạt động của con người.

IV. KHÁT NIỆM CHUNG VỀ NHÓM NHỎ


1. Khái niệm nhóm nhỏ

Trong suốt một thế kỉ nghiên cứu nhóm nhỏ, các nhà Tâm lý học xã hội
đã đưa ra rất nhiều những định nghĩa khác nhau về nhóm nhỏ. Mỗi định nghĩa
được dưa ra dựa trên góc độ riêng, quan niệm riêng của mỗi tác giả về nhóm.
Các định nghĩa nói chung hoặc chỉ xem xét một khía cạnh nào đó, hoặc chỉ
nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của nhóm được cho là bản chất.

Các định nghĩa nhóm nhỏ có thể xuất phát từ các góc độ sau:

- Từ góc độ tri giác của thành viên nhóm với các thành viên khác hay
với cả nhóm nói chung.

- Từ góc độ động cơ của các thành viên nhóm.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Từ góc độ mục đích nhóm.

- Từ góc độ các đặc trưng cấu trúc nhóm.

- Từ góc độ sự phụ thuộc lẫn nhau.

- Từ góc độ tác động qua lại giữa các thành viên nhóm.

Từ góc độ tri giác lẫn nhau giữa các thành viên, M.Smith đưa ra khái
niệm nhóm nhỏ “Nhóm xã hội là một đơn vị bao gồm nhiều cá nhân có sự tri
giác tập thể về tính thống nhất của nó, có khả năng hành động với cách hành
động thống nhất đối với môi trường” Theo quan niệm này, đặc trưng cơ bản
của nhóm nhỏ xã hội là sự tri giác thống nhất về sự tồn tại của nhóm, từ đó có
được hành động thống nhất. Thực tế cho thấy các thành viên trong nhóm ở
một mức độ nhất định tri giác sự tồn tại của nhóm và sự thâu thuộc của bản
thân vào nhóm, nhưng tri giác đó chỉ có được như là kết quả của một nhóm
đã hình thành. Một số tác giả khác lại dựa trên động cơ thúc đẩy các cá nhân
tham gia vào nhóm để định nghĩa nhóm. Họ cho rằng cá nhân tham gia vào
nhóm vì tin rằng nhu cầu của bản thân sẽ được thỏa mãn nhờ nhóm. Chẳng
hạn, theo R.Cattell: “Nhóm là một tập hợp các cá nhân, trong đó sự có mặt
của tất cả các thành viên cần thiết để thỏa mãn nhu cầu riêng nào đó của cá
nhân”. Theo quan niệm này, trước khi tham gia vào nhóm, cá nhân phải tự
xác định nhu cầu nào cần được thỏa mãn và phương thức thỏa mãn nó. Vấn
đề đặt ra là cùng một nhu cầu có thể được thỏa mãn ở nhiều nhóm khác
nhau. Vậy điều gì làm cá nhân lựa chọn nhóm này hay nhóm khác? Thực sự
khi tham gia vào nhóm cá nhân có thể và cần tính đến việc các nhu cầu của
mình là gì và nó có thể thỏa mãn nhờ nhóm hay không. Đây cũng chính là
điểm mà nhóm có thể lôi cuốn và hấp dẫn cá nhân. Nhưng xét trong các điều
kiện thực tế xã hội, việc cá nhân lựa chọn nhóm không phải chỉ đơn thuần
dựa trên động cơ đó.

Bản thân M.Shaw - người đã tiến hành phân tích các khái niệm nhóm
nhỏ khác nhau - coi nhóm nhỏ là: “Hai hoặc nhiều cá nhân tác động qua lại
với nhau, mỗi cá nhân ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của cá nhân khác”. Với

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

khái niệm này M.Shaw cũng chưa thoát khỏi việc định nghĩa theo một trong
các cách nói trên.

Tuy vậy ông đã lưu ý rằng sự tương tác qua lại là dấu hiệu bản chất
của nhóm nhỏ, dấu hiệu này làm nhóm nhỏ khác biệt với các đám đông đơn
thuần, nhưng bên cạnh đó cũng cần tính tới các dấu hiệu rất quan trọng của
nhóm nhỏ như: thời gian tồn tại lâu dài, có mục đích chung hoặc các mục
đích chung sự phát triển cấu trúc nhóm dù ở mức độ đơn giản (bao gồm các
thuộc tính nhóm như sự ý thức của các thành viên về cái “chúng ta” hay ý
thức về sự thâu thuộc của cá nhân vào một nhóm).

Xuất phát từ quan điểm khác, các nhà tâm lý học xã hội như
G.M.Andrêeva, A.V.Pêtrôvxki, P.L.Krichievxki, E.M.Dubrôvxkai dựa trên
nguyên tắc hoạt động để nghiên cứu các vấn đề của Tâm lý học xã hội nói
chung và nhóm nhỏ nói riêng. Pêtrôvxki cho rằng: “Nhóm xã hội là một tập
hợp các cá nhân được liên kết trên cơ sở một số các dấu hiệu chung liên
quan đến hoạt động cùng nhau của họ, trong đó có giao tiếp”. Khái niệm này
nhấn mạnh đến hoạt động cùng nhau của nhóm, nhưng chưa làm nổi bật và
khẳng định vị trí của nhóm trong các quan hệ xã hội.

Trong hàng loạt các khái niệm của Tâm lý học xã hội về nhóm nhỏ, khái
niệm của G.M.Anđrêeva về nhóm nhỏ được coi là phổ biến. Nó thể hiện rõ
nhất tư tưởng và phương pháp luận của Tâm lý học xã hội theo nguyên tắc
hoạt động: “Nhóm nhỏ là nhóm trong đó các quan hệ xã hội thể hiện dưới
hình thức các tiếp xúc cá nhân trực tiếp”. Theo đó nhóm nhỏ là một nhóm tồn
tại hiện thực không phải trong chân không mà trong một hệ thống các quan
hệ xã hội. Nhóm nhỏ là chủ thể của một hoạt động xã hội nhất định, thực hiện
một chức năng xã hội nhất định. Mỗi nhóm nhỏ là một đơn vị của cấu trúc xã
hội rộng lớn. Hoạt động xã hội chung của nhóm quy định các đặc trưng của
nhóm. Nhóm nhỏ xã hội bất kì là một hệ thống vi mô trọn vẹn trong các mối
quan hệ xã hội. Do vậy các mối quan hệ phải được phản ánh và cụ thể hóa
trong nhóm. Như vậy nhóm nhỏ được xem là một nhóm xã hội. Cách quan
niệm này nhấn mạnh vào bản chất xã hội của nhóm chứ không phải đơn

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thuần là một tập hợp các cá nhân thực hiện các mục đích riêng nào đó. Trong
hệ thống các quan hệ xã hội, mọi nhóm nhỏ đều là đơn vị nhỏ nhất không
phân chia được của hệ thống. Đây cũng chính là những nhóm nhỏ xã hội mà
xã hội hiện đại đang đặt ra yêu cầu nghiên cứu: các nhóm kinh doanh, các
nhóm lao động, nhóm nghiên cứu khoa học...

Một quan điểm, khác rất đáng lưu ý là quan điểm của A.I.Đônxôv. Ông
cho rằng nhóm nhỏ là tổ hợp hữu hạn các cá nhân tác động qua lại một cách
trực tiếp với các dấu hiệu:

1. Tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối dài và thường xuyên
tiếp xúc trực tiếp với nhau, không có trung gian, trong khoảng cách ngắn nhất.

2. Có các mục đích chung mà việc thực hiện chúng cho phép thỏa mãn
những nhu cầu cá nhân và các quyền lợi bền vững.

3. Tham gia vào hệ thống chung phân bổ các chức năng và vai trò
trong hoạt động sống cùng nhau...

4. Chia sẻ các các chuẩn mực và các quy định đối với các hành vi nội
nhóm và liên nhóm.

Điều quan trọng trong cách hiểu về nhóm xã hội ở đây là sự gắn kết
các cá nhân trong nhóm bằng các giá trị, các mục đích chung. Theo
A.I.Đônxôv một nhóm thực sự là một tổ hợp tương đối bền vững các cá nhân
có liên hệ mang tính lịch sử bởi các giá trị chung, các mục đích, các phương
tiện của đời sống xã hội. Một nhóm thực sự sẽ phải có các giá trị, các mục
đích chung.

Từ những dấu hiệu nêu trên, có thể đi đến một khái niệm nhóm nhỏ
như sau: Nhóm nhỏ là một cộng đồng với số lượng ít thành viên, giữa các
thành viên có mối quan hệ liên nhân cách trực tiếp, có sự tương tác chặt chẽ,
cùng hoạt động theo các giá trị chung và những mục đích chung.

Khái niệm này nhấn mạnh quan điểm của Tâm lý học hoạt động, coi
nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội. Do vậy nó được hình thành do yêu cầu xã hội,
thực hiện những chức năng xã hội nhất định và là một mắt xích trong hệ

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thống các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, khái niệm đã đề cập tới các thành tố
khác nhau tạo nên một nhóm chỉnh thể: các quan hệ tác động qua lại trực
tiếp, sự thống nhất giá trị và thống nhất mục đích nhóm. Khái niệm cũng đề
cập tới hoạt động cùng nhau của các thành viên nhóm, bằng hoạt động và
thông qua hoạt động nhóm mới trở thành một chỉnh thể tâm lý.

2. Quy mô nhóm

Quy mô nhóm là một khía cạnh gắn liền với định nghĩa nhóm nhỏ, bởi
lẽ tính chất “nhỏ” hay “lớn” về mặt số lượng phần nào thể hiện ở ngay quy mô
của nó. Đề cập tới quy mô nhóm, trong Tâm lý học nhóm nhỏ các tác giả
thường đề cập tới giới hạn trên và giới hạn dưới về số lượng các thành viên
của nhóm. Đến nay còn nhiều quan niệm khác nhau về quy mô nhóm.

Về giới hạn dưới: Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng với hai thành
viên là có thể tạo ra một nhóm. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng: nhóm hai
người chỉ có thể coi là một dạng đặc biệt của nhóm nhỏ xã hội nói chung chứ
không phải là một mô hình tiêu biểu của nhóm nhỏ xã hội. Nhóm hai người
không phản ánh được một cách đầy đủ sự phức tạp của các quan hệ liên
nhân cách, cũng như sự tác động qua lại đa chiều giữa các cá nhân trong
nhóm. Do vậy, tồn tại quan niệm khác khẳng định chỉ có thể nói đến một
nhóm nhỏ khi có từ ba thành viên trở lên. Đến nay giới hạn dưới của nhóm
nhỏ là bao nhiêu vẫn là câu hỏi còn chưa có được câu trả lời hoàn toàn thống
nhất. Tuy vậy một cách phổ biến, nhóm nhỏ vẫn được coi là bắt đầu với hai
thành viên.

Cũng giống như với giới hạn dưới, vấn đề giới hạn trên cũng có nhiều
quan điểm khác nhau: Có quan niệm cho rằng số lượng thành viên tối đa có
thể là 20 (M.Shaw), hay 30, 40 (J.Moreno). Các tác giả khác lại đưa ra con số
là 7 ± 2. Số lượng thành viên thuộc giới hạn trên do các tác giả nêu ra chưa
có được các cơ sở lý luận vững chắc.

Coi nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội, các nhà tâm lý học xã hội theo quan
điểm hoạt động cho rằng: số lượng các thành viên trong một nhóm được quy
định bởi chức năng mà nhóm thực hiện trong các mối quan hệ xã hội. Nói

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cách khác số lượng thành viên của nhóm nhỏ không phải được xác định một
cách chủ quan mà phải dựa vào sự tồn tại thực tế của nó trong đời sống hiện
thực xã hội. Nếu nhóm nhỏ được nghiên cứu, trước tiên, cần phải là nhóm
tồn tại hiện thực và nếu nó được xem xét như là chủ thể của hoạt động thì
một cách lôgic là không đưa ra một giới hạn cứng nhắc nào đó mà chấp nhận
nhóm như chính bản thân quy mô hiện thực của nó, được quy định bởi nhu
cầu hoạt động chung của nhóm. Nói cách khác, nếu nhóm được hình thành
trong một hệ thống nhất định các mối quan hệ xã hội với quy mô cụ thể nào
đó và nó đủ để thực hiện một hoạt động nhất định thì trong nghiên cứu có thể
thừa nhận chính giới hạn đó là giới hạn trên. Quan niệm này đảm bảo tính
linh hoạt khi tiếp cận với nhóm nhỏ tồn tại hiện thực trong đời sống xã hội.
Quan niệm này cũng nhấn mạnh đến tính chỉnh thể của nhóm chứ không khai
thác vào khía cạnh số lượng đơn thuần của các thành viên nhóm.

3. Phân loại nhóm nhỏ

Phân loại nhóm nhỏ là bước tiếp theo mang tính lôgic trong việc nghiên
cứu nhóm nhỏ. Với sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của các nhóm nhỏ xã
hội, việc có được một cách phân loại hợp lý để có thể nhận diện và phần nào
chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của các loại nhóm nhỏ là một công việc
vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Do vậy, vấn đề phân loại
nhóm nhỏ đã là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận trong Tâm lý học xã hội.
Để có được cái nhìn tổng quan có thể kể tới các loại nhóm nhỏ sau: nhóm
trong phòng thí nghiệm (thực nghiệm) và nhóm tự nhiên.

Nhóm trong phòng thí nghiệm là những nhóm được tập hợp từ nhiều cá
nhân khác nhau một cách ngẫu nhiên với mục đích thực hiện các nhiệm vụ
thực nghiệm đã được định trước. Thời gian tồn tại của nhóm này ngắn, kết
thúc khi thực nghiệm đã hoàn thành. Ngược lại, nhóm tự nhiên là nhóm tồn
tại thực trong cuộc sống, có lịch sử phát triển và thực hiện chức năng nhất
định. Loại nhóm này được hình thành trong điều kiện thực của cuộc sống và
có sự phát triển ở các mức độ khác nhau. Nhóm chính thức và nhóm không
chính thức (hay còn gọi là nhóm tự phát). Cách phân chia này được đưa ra

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

bởi E.Mayo, gắn liền với thực nghiệm Hawthorne. Cả hai loại nhóm này đều
là các nhóm tự nhiên. Nhóm chính thức là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội,
trong đó vị trí của các thành viên được xác định. Đồng thời vai trò của các
thành viên cũng được phân chia rõ ràng. Nhóm có cấu trúc chính thức (cấu
trúc chính quyền). Các mối quan hệ trong nhóm là quan hệ theo chiều dọc, do
hệ thống các vai và các vị trí quy định. Sự xuất hiện của nhóm chính thức
được quy định bởi sự cần thiết phải thực hiện một chức năng xã hội nào đó.
Do vậy, nhóm chính thức được thành lập để thực hiện một nhiệm vụ do tổ
chức xã hội giao cho. Đó cũng chính là đặc trưng cơ bản của nhóm chính
thức. Đặc trưng này cho thấy nhóm chính thức không phải được hình thành
hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người mà được hình thành bởi nhu
cầu của hệ thống xã hội.

Nhóm không chính thức là nhóm xuất hiện một cách tự phát, các vị trí
và các vai trò trong nhóm không được quy định trước. Nhóm không chính
thức có thể xuất hiện ngay trong lòng các nhóm chính thức hay bên ngoài các
nhóm chinh thức. Nhóm này thường được hình thành dựa trên sự liên kết các
thành viên bởi các hứng thú chung, các liên hệ thân tình hay các mối quan
tâm nào đó. Trong một số trường hợp nhất định, nhóm này có thể trở thành
nhóm có tổ chức. Thông thường các nhóm không chính thức trong lòng nhóm
chính thức được xác định bằng trắc đạc xã hội.

Tuy nhiên sự phân biệt này là tương đối vì hoàn toàn có khả năng
nhóm không chính thức có thể có những đặc điểm nhất định của nhóm chính
thức và ở một mức độ nhất định chuyển hóa thành nhóm chính thức. Trong
thực tế rất khó có thể phân chia một cách rõ ràng nhóm chính thức và nhóm
không chính thức, đặc biệt trong trường hợp nhóm không chính thức xuất
hiện trong lòng nhóm chính thức.

Với cách hiểu như vậy về nhóm chính thức và nhóm không chính thức,
trong hoạt động tô chức, quản lý xã hội, nhà quản lý trước tiên phải quan tâm
tới nhóm chính thức. Hệ quả tất yếu khi nhóm chính thức hình thành là nhóm
chính thức này ngay từ đầu chưa phải là một nhóm có được sự trùng khớp

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức, nói cách khác chưa có
sự cố kết cao. Chính vì vậy E.Mayo cho rằng cần làm cho cấu trúc chính thức
và không chính thức càng trùng khớp nhau càng tốt. Đây cũng là nguyên
nhân của việc xuất hiện các xu hướng nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc
tăng cường sự trùng khớp giữa cấu trúc của nhóm không chính thức với cấu
trúc nhóm chính thức hay tạo ra sự cố kết nhóm trong nhóm chính thức.

Một cách phân loại khác là cách phân loại của H.Hyman: phân chia các
nhóm thành nhóm thành viên và nhóm tham chiếu. Cơ sở của cách phân chia
này là mức độ có ý nghĩa của các giá trị, các chuẩn mực nhóm đối với các
định hướng của cá nhân. Nhóm thành viên là nhóm mà cá nhân tham gia
thực tế nhưng các giá trị và mục đích nhóm không được cá nhân chia sẻ. Cá
nhân tồn tại trong một nhóm này nhưng nhóm không tạo ra được ảnh hưởng
đến thái độ, đến các định hướng giá trị của cá nhân. Trong khi đó, nhóm mà
cá nhân không tham gia thực tế nhưng các chuẩn mực, giá trị của nó lại được
cá nhân tiếp nhận gọi là nhóm tham chiếu. Theo quan điểm ban đầu của
H.Hyman, nhóm tham chiếu bắt buộc nằm bên ngoài nhóm thành viên. Sau
này các dữ kiện thực nghiệm đã cho thấy đôi khi có trùng hợp nhóm tham
chiếu với nhóm thành viên. Đồng thời trong số nhiều nhóm khác nhau, chỉ có
một nhóm nào đó có vai trò là nhóm tham chiếu đối với cá nhân mà thôi. Lý
thuyết nhóm tham chiếu gắn bó chặt chẽ với 2 hướng nêu trên của định
hướng tương tác. Nhóm tham chiếu được hiểu là nhóm mà các giá trị và
chuẩn mực của nó được cá nhân hướng tới. Nhóm tham chiếu như là tiêu
chí, hệ thống các cơ sở để cá nhân đánh giá bản thân và người khác cũng là
nguồn gốc để hình thành các thái độ xã hội, các định hướng giá trị của cá
nhân. Các tác giả của lý thuyết này là H.Hyman, T.Newcomb, M.Sherif,
G.Kem, R.Merton.

Nhờ các công trình của các tác giả nêu trên, vấn đề nhóm tham chiếu
trở thành một vấn đề phổ biến trong Tâm lý học xã hội. Các nhà Tâm lý học
xã hội tìm thấy trong vấn đề này chìa khóa để giải thích quá trình hình thành
các thái độ xã hội (tâm thế xã hội) và sự tự đánh giá, còn các nhà xã hội học

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

xem là công cụ để phân tích chức năng các cấu trúc xã hội. Khái niệm nhóm
tham chiếu cũng được sử dụng một cách rộng rãi để giải thích các hiện tượng
như: tính không thống nhất trong hành vi của cá nhân trong các điều kiện một
ngữ cảnh xã hội mới, hiện tượng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên, các
xung đột liên quan đến nhóm, phản ứng khác nhau của công chúng trước
cùng một thông tin từ thông tin đại chúng... Cơ sở của lý thuyết nhóm tham
chiếu là ý tưởng của G.Mead về “người khác khái quát”. Theo quan điểm của
G.Mead, ý nghĩa của “người khái quát” là tương tác xã hội được thực hiện
thông qua đó, cũng qua đó diễn ra sự tác động xã hội đến cá nhân. “Cá nhân
nhận thức về bản thân không phải trực tiếp mà là gián tiếp, từ những góc độ
riêng của những thành viên nhóm xã hội mà cá nhân thuộc về” (Mead, 1934,
138). Nhóm trở thành hệ thống các thái độ khái quát đối với các cá nhân tham
gia vào nhóm.

Khái niệm này được Hyman đưa ra vào năm 1942 khi nghiên cứu biểu
tượng của cá nhân về vị trí của mình trong sự so sánh với các cá nhân khác.
Ông không đưa ra định nghĩa về nhóm tham chiếu, mà sử dụng khái niệm này
để chỉ nhóm mà nghiệm thể dùng để so sánh với bản thân để xác định vị trí
của mình. Kết quả của việc so sánh với nhóm tham chiếu là sự tự đánh giá
của nghiệm thể về vị trí của mình. Sự tự đánh giá này được Hyman xem như
là biến số phụ thuộc bởi vì nó có quan hệ đối với nhóm tham chiếu.

Sau này khái niệm nhóm tham chiếu được Newcomb sử dụng để chỉ
nhóm mà cá nhân hướng tới trên phương diện tâm lý và do vậy chia sẻ các
chuẩn mực các giá trị của nó cũng như dựa vào đó để định hướng các hành
vi của bản thân. Theo ông, sự hình thành các thái độ là chức năng của quan
hệ tích cực hay tiêu cực của cá nhân đối với nhóm nảy hay nhóm khác. Từ đó
Newcomb chia thành các nhóm tham chiếu tích cực hay tiêu cực. Nhóm tham
chiếu tích cực là nhóm mà các chuẩn mực và giá trị của nó được cá nhân
chấp nhận và tạo ra mong muốn được nhóm chấp nhận. Nhóm tham chiếu
tiêu cực là nhóm tạo ra mong muốn chống lại ở cá nhân và cá nhân không
muốn trở thành thành viên của nhóm. Theo Newcomb, “sự nổi loạn” của thiếu

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

niên chính là biểu hiện của việc trẻ coi cha mẹ là nhóm tham chiếu tiêu cực
của chúng.

Khái niệm này được xác nhận cuối cùng bởi M.Sherif và R.Merton.
Theo Sherif, các chuẩn mực của nhóm tham chiếu trở thành các thái độ xã
hội của cá nhân và cơ sở của sự tự đánh giá và cơ sở để giải thích các hiện
tượng của đời sống xã hội và để hình thành “bức tranh của bản thân về thế
giới”. Sự đa dạng của các nhóm tác động đến cá nhân, đặt cá nhân vào một
tình thế khó khăn khi phải lựa chọn các chuẩn mực khác nhau của các nhóm
khác nhau. Ông đề nghị phân biệt nhóm hiện tại mà cá nhân đang là thành
viên và nhóm tham chiếu - nhóm cá nhân coi là mình thuộc về một cách có ý
thức hay vô thức.

Hiện vẫn chưa có được sự phân chia rõ ràng các loại nhóm tham chiếu
nhưng có sự thừa nhận chung đối với các loại sau: nhóm bên ngoài, nhóm
thành viên, nhóm hiện thực, nhóm lý tưởng, nhóm lớn và nhóm nhỏ.

Các chức năng của nhóm tham chiếu: có hai chức năng chính: chuẩn
mực và đánh giá - so sánh. G.Kem sau khi phân tích các công trình trước đó
về nhóm tham chiếu đã nhận thấy khái niệm nhóm tham chiếu đề cập đến hai
loại quan hệ khác nhau giữa cá nhân và nhóm. Đó là quan hệ ở phương diện
động cơ và phương diện các quá trình tri giác. Từ đó ông chia thành 2 chức
năng: chức năng chuẩn mực và chức năng so sánh đánh giá.

- Chức năng thứ nhất: tạo lập các tiêu chuẩn nhất định cho hành vi và
buộc cá nhân tuân theo. Các chuẩn mực hành vi thường được gọi là các
chuẩn mực nhóm. Do vậy ông gọi chức năng này của nhóm tham chiếu là
chức năng chuẩn mực. Theo Kelley, nhóm tham chiếu có thể thực hiện chức
năng này nếu nó có khả năng ban thưởng cho cá nhân khi tuân theo và trừng
phạt khi cá nhân không tuân theo.

- Chức năng thứ hai của nhóm tham chiếu thể hiện ở chỗ nó là cơ sở
để cá nhân so sánh và đánh giá bản thân và người khác. Hai chức năng trên
có thể được thực hiện bởi cùng một nhóm, có thể là nhóm thành viên hay
nhóm bên ngoài mà cá nhân muốn trở thành thành viên hay gắn bó về mặt

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tâm lý. Sự khác biệt của chức năng chuẩn mực và so sánh có thể được hiểu
như sau: Với chức năng chuẩn mực, đối với cá nhân điều quan trọng là biết
được thái độ của nhóm đối với bản thân, nhóm chấp nhận hay từ chối cá
nhân. Dường như cá nhân bị theo dõi bởi nhóm, bị đánh giá từ góc độ các
chuẩn mực của nhóm, do vậy cá nhân xây dựng các hành vi của mình theo
các chuẩn mực đó; còn đối với chức năng so sánh thì ý kiến của nhóm đối với
cá nhân lại ít có ý nghĩa. Cá nhân tự đánh giá bản thân bằng cách so sánh
với các tiêu chí đã biết.

Vấn đề khác cũng được quan tâm là những nhóm nào được cá nhân
chọn làm nhóm tham chiếu. Merton đi sâu nghiên cứu vấn đề này, ông đã đề
xuất một số các điều kiện, theo đó cá nhân lựa chọn nhóm bên ngoài làm
nhóm tham chiếu:

- Nếu nhóm không có đủ uy tín đối với cá nhân, cá nhân có xu hướng


lựa chọn nhóm bên ngoài có uy tín hơn làm nhóm tham chiếu.

- Cá nhân càng bị cô lập, vị thế của cá nhân càng thấp trong nhóm,
càng có khả năng cá nhân lựa chọn nhóm tham chiếu bên ngoài, ở đó cá
nhân có được vị thế cao hơn.

- Sự biến động xã hội càng cao, cá nhân càng có nhiều cơ hội thay đổi
vị thế của mình thì càng có khả năng cá nhân lựu chọn các nhóm tham chiếu
ở đó cá nhân có được vị thế xã hội cao hơn.

- Sự lựa chọn nhóm tham chiếu cũng phụ thuộc vào tính cách cá nhân.

H. Kelley chỉ ra hai chức năng của nhóm tham chiếu: chức năng so
sánh và chức năng tiêu chuẩn. Các chuẩn mực hành vi, thái độ được thừa
nhận trong nhóm trở thành “hình mẫu” để cá nhân thực hiện các hành vi - đây
là chức năng so sánh. Chức năng thứ hai - chức năng tiêu chuẩn cho phép cá
nhân đánh giá sự tương ứng của các hành vi của mình đối với các chuẩn
mực nhóm. Chức năng tiêu chuẩn góp phần điều chỉnh các hành vi của các
cá nhân, đặc biệt trong trường hợp có các hành vi lệch chuẩn.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Ngoài những cách phân chia cơ bản nêu trên, một số tác giả phân chia
thành nhóm thứ cấp và nhóm sơ cấp (Tr.Kuli). Nhóm thứ cấp là nhóm có sự
tiếp xúc gián tiếp thông qua các trung gian. Nhóm sơ cấp là nhóm có sự tiếp
xúc trực tiếp.

Một loại nhóm nhỏ đặc biệt hay được đề cập đến trong Tâm lý học xã
hội Xô viết là tập thể. Loại nhóm này không được nói đến trong Tâm lý học xã
hội phương Tây. Trong Tâm lý học xã hội Việt Nam, khái niệm này được sử
dựng rộng rãi. Trong lý thuyết về tập thể của A.V.Petrôvxki và sau này các tác
giả khác như G.M.Anđrêeva, A.I.Đôxôv, R.L.Krichievxki đều cho rằng tập thể
là một trạng thái chất lượng đặc biệt của nhóm nhỏ, là nhóm nhỏ đạt tới “sự
trưởng thành” tâm lý xã hội. Xét về quá trình phát triển nhóm, nhóm nhỏ phải
trải qua nhiều giai đoạn, nhiều mức độ, chỉ khi đạt tới mức độ phát triển cao
nhất nhóm mới trở thành tập thể. Đặc trưng cơ bản của nhóm khi nó trở thành
tập thể là có mục đích phù hợp với mục đích xã hội, có sự liên kết chặt chẽ và
có thể tạo ra và đảm bảo những điều kiện lợi cho sự phát triển của mỗi nhân
cách.

4. Chức năng nhóm

Vấn đề chức năng của nhóm cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận
từ nhiều góc độ khác nhau. Giải quyết vấn đề này góp phần lý giải các
nguyên nhân thúc đẩy một cá nhân tham gia vào nhóm cũng như chỉ ra chiều
hướng vận động và phát triển của nhóm. Trong nhiều cách tiếp cận vấn đề
này đáng chú ý là cách tiếp cận sinh học xã hội, tiếp cận nhu cầu tâm lý và
quan hệ xã hội, tiếp cận chức năng và tiếp cận mô hình 5 chức năng lớn (Big
five model).

Ngay trong công trình đầu tiên - Nhập môn Tâm lý học xã hội (1908)
Mc.Dougall đã đưa ra cách tiếp cận sinh học xã hội để lý giải sự hình thành
nhóm. Ông cho rằng: Bản năng bầy đàn dẫn dắt con người tham gia vào
nhóm. “Chúng ta thường nói rằng sự buồn chán của nông thôn thúc đẩy con
người vào thành phố. Nhưng cách hiểu như vậy không đúng với sự thật.
Chính đám đông trong thành phố - bầy đàn người khổng lồ lôi kéo, hấp dẫn

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

những người đứng ngoài nó” (Allport, 1994). Cộng đồng xã hội được coi là
bầy đàn mặc dù đó là cộng đồng xã hội. Những cái lôi cuốn cá nhân tham gia
vào nhóm không có tính chất xã hội của cộng đồng đó mà là tính chất tự
nhiên, bản năng có ở mỗi cá thể. Rõ ràng cách tiếp cận này đề cao bản năng
sinh học của con người. Nó chưa chỉ ra được bản chất xã hội của nhóm xã
hội, cũng như chưa chỉ ra được chức năng của nhóm.

Cách tiếp cận thứ hai tương đối phổ biến. Đó là tiếp cận nhu cầu tâm lý
và quan hệ xã hội. Cơ sở của cách tiếp cận này là các nhu cầu tâm lý của cá
nhân và phương thức thỏa mãn xã hội của nó. H.Murray (1938) với thuyết
nhu cầu tâm lý cho rằng tham gia vào hệ thống hai người giúp các cá nhân có
thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của mình. A.Maslow trong tháp nhu cầu
nổi tiếng của mình có đưa ra “nhu cầu thuộc về một nhóm xã hội”. Theo cách
tiếp cận này, chức năng của nhóm nhỏ xã hội là tạo điều kiện cho sự thỏa
mãn các nhu cầu tâm lý của cá nhân. Cách tiếp cận này đã chỉ ra được một
khía cạnh trong các chức năng của nhóm nhỏ, một khía cạnh tương đối nổi
bật. Tuy vậy nhìn nhận nhóm xã hội chỉ từ góc độ cá nhân riêng lẻ đồng nghĩa
với việc đánh mất ngữ cảnh xã hội của nhóm. Phân tích chức năng của nhóm
không chỉ tập trung vào chức năng của nhóm đối với cá nhân mà còn cần
phải chú ý đến chức năng của nhóm như là một chủ thể xã hội.

Tiếp cận chức năng nhìn nhận vấn đề một cách khái quát hơn: nhóm là
nguồn cho sự tồn tại xã hội của con người. Nó cung cấp các nguồn lực cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển con người xã hội. Trong cách tiếp cận này mô
hình 5 chức năng lớn (Big five Function) của nhóm do Donelson R. đề xuất rất
đáng được lưu ý:

1. Nhóm tạo điều kiện cho các cá nhân có cơ hội tiếp xúc và tạo lập
quan hệ với các cá nhân khác trong một mạng lưới xã hội có tổ chức.
(Belonging)

2. Nhóm tạo cơ hội cho những mối quan hệ thân thiện, gắn bó, tạo điều
kiện cho sự phát triển nhóm làm việc gắn bó. (Intimacy)

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

3. Nhóm tạo điều kiện cho tính hiệu quả, thành công, kiểm soát nguồn
lực và định hướng công việc. (Generativity)

4. Nhóm tạo ra sự ổn định về Tâm lý, giảm lo hãi, tạo cảm giác an toàn,
tăng cường lòng tự trọng... (Stability)

5. Nhóm tạo điều kiện cho sự sáng tạo, sàng lọc các ý tưởng, tự phát
triển bản thân, hiểu bản thân và người khác, tăng cường liên hệ liên nhân
cách (Adaptability) (Myer D.G. 1996).

Mô hình 5 chức năng lớn của nhóm có một số ưu điểm:

- Chỉ ra vị trí của nhóm trong mạng lưới các quan hệ xã hội, coi nhóm là
một mắt xích trong mạng lưới đó. Cá nhân tham gia vào nhóm cũng chính là
tham gia vào mạng lưới các quan hệ xã hội.

- Bên cạnh chức năng tạo ra những mối quan hệ xúc cảm quan hệ tâm
lý liên nhân cách - như xu hướng chung của Tâm lý học xã hội phương Tây
nhấn mạnh đến các quan hệ xúc cảm trong nhóm - mô hình này đã đề cập tới
chức năng tổ chức hoạt động của nhóm.

- Chỉ ra sự gắn kết nhóm nằm trong bản chất nhóm, xuất hiện trong
cuộc sống nhóm chứ không phải sự gắn kết có từ ban đầu, bên ngoài. Sự cố
kết trong nhóm là kết quả của quá trình hoạt động nhóm.

Tuy vậy hạn chế ở đây cũng chính là việc chưa xem nhóm là một đơn
vị xã hội thực hiện một chức năng xã hội nhất định, trên cơ sở đó nhóm thực
hiện các chức năng khác của mình.

5. Quá trình ra quyết định nhóm

Quá trình ra quyết định nhóm là một trong những dấu hiệu cơ bản của
nhóm nhỏ. Quá trình này cho thấy nhóm nhỏ như là một chủ thể của hoạt
động nhóm. Cũng giống như các hiện tượng tâm lý xã hội khác của nhóm
nhỏ, quá trình ra quyết định nhóm cũng được xem xét như một quá trình
được tạo bởi các thành phần cụ thể. Trong đó thành phần thứ nhất là nhiệm
vụ của nhóm. Nhiệm vụ của nhóm được xem như là nguồn gốc và đối tượng
của quá trình ra quyết định nhóm.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

M.Shaw khi nghiên cứu các nhiệm vụ của nhóm tập trung vào 4 vấn đề:
mô tả các nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm, xây dựng các phân loại
nhiệm vụ của nhóm, phân tích các chiều kích của nhiệm vụ nhóm và chỉ ra
ảnh hưởng của các nhiệm vụ nhóm có các tính chất khác nhau đến quá trình
nhóm.

Theo M.Shaw, các nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm được
hiểu là những nhiệm vụ có tính chất rõ ràng, giúp nghiên cứu các khía cạnh
của hành vi nhóm thuận lợi. Các nhiệm vụ này có thể ghi lại các điều kiện
xuất phát, sản phẩm cuối cùng và các hành động nhất định mà các thành viên
cần thực hiện để đạt tới mục đích mong muốn. Loại nhiệm vụ này có lợi thế là
giúp người nghiên cứu dễ dàng theo dõi hành vi của các cá nhân và của
nhóm một cách chính xác, loại trừ bớt các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau do tính
chất rõ ràng của nhiệm vụ quy định. Tuy nhiên hạn chế cơ bản là loại nhiệm
vụ này chỉ cho phép nghiên cứu những hành động mang tính cơ học chứ
không cho thấy hành vi phức tạp của nhóm và các hiện tượng như thảo luận
nhóm hay quá trình phân tích trí tuệ của nhóm.

* Phân loại các nhiệm vụ nhóm là một trong các công việc phức tạp.
Hiện nay có một số phân loại như sau: nhiệm vụ phức tạp hay đơn giản;
nhiệm vụ hợp tác hay cạnh tranh. Tackman đề xuất một số loại: sáng tạo, thảo
luận, vấn đề. M.Shaw đề xuất phân loại các nhiệm vụ nhóm theo các tính chất
của chúng: độ khó của nhiệm vụ, tính đa phương án của nhiệm vụ, độ quan
tâm bên trong của mỗi thành viên nhóm, yêu cầu phối hợp hành động, mức
độ yêu cầu về trí tuệ đối với nhiệm vụ và tính mới mẻ của nhiệm vụ (Shaw M.
1976).

* Ảnh hưởng của tính chất nhiệm vụ nhóm tới quá trình nhóm: Các
nhiệm vụ với các tính chất khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau tới các
quá trình nhóm, tới các phương diện khác nhau của hành vi nhóm như: sự
định hướng tới hành vi của người khác; sự lạc quan, tính mới mẻ của các
quyết định; sự tham gia vào quá trình cũng như sự bền vững và chất lượng
của hành vi. Đặc biệt tính rõ ràng của mục đích cần đạt được có ảnh hưởng

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

lớn tới sự cố kết của các thành viên. Các thành viên thể hiện sự cố kết cao
hơn và có động cơ hoạt động mạnh hơn đối với các nhiệm vụ rõ ràng và có
hành vi ngược lại đối với các nhiệm vụ không rõ ràng.

* Quá trình ra quyết định nhóm: Quá trình ra quyết định nhóm luôn phải
đối mặt với một vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng: tính hiệu quả của quyết
định cá nhân và quyết định nhóm có tương đồng hay không? Sự dịch chuyển
rủi ro từ cá nhân sang nhóm và sự phân cực nhóm như thế nào?

Để ra quyết định nhóm, thảo luận nhóm có vai trò quan trọng. Trong
quá trình thảo luận nhóm diễn ra các cơ chế sau:

- Thảo luận nhóm cho phép các lập trường các quan điểm được va
chạm, bằng cách đó giúp các thành viên có thể nhìn thấy các khía cạnh khác
nhau của vấn đề.

- Các kết luận được rút ra từ thảo luận nhóm sẽ có ý nghĩa hơn đối với
mỗi thành viên, nó có thể trở thành chuẩn mực nhóm và do vậy có ảnh hưởng
lớn đến hành vi của các thành viên.

Thảo luận nhóm cũng được xem xét như là một giai đoạn của quá trình
ra quyết định nhóm. Đặc biệt ở lĩnh vực ứng dụng, các nhà nghiên cứu đang
tìm cách đưa ra các hình thức thảo luận nhóm khác nhau, một trong số đó là
“brainstorming” do A.Osbom đề xuất hay phương pháp “liên kết các khác biệt”
của U.Golden.

* Sự dịch chuyển rủi ro: Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khi ra
quyết định, nhóm có xu hướng dung hòa các quyết định thái quá cả về 2 phía
của các cá nhân để đi đến một quyết định “trung bình”. Hiện tượng này được
gọi là “cân bằng hóa nhóm”. Tuy nhiên, trong các trường hợp các quyết định
có nhiều rủi ro thì diễn ra “sự dịch chuyển rủi ro”: có thể có hiện tượng dịch
chuyển về phía rủi ro khi có sự phân tán trách nhiệm và dịch chuyển về phía
thận trọng hơn. Các giả thuyết chưa được khẳng định.

* Sự phân cực các ý kiến trong nhóm (cũng được gọi là sự chuyển dịch
ý kiến): Trong tiến trình thảo luận nhóm, các ý kiến đối lập không chỉ xuất hiện

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

mà chúng còn tạo ra sự chấp nhận hay phản đối của phần lớn các thành viên.
Các ý kiến trung gian dịch chuyển dần về phía này hay phía khác làm các ý
kiến thuộc 2 cực ngày một rõ ràng hơn. Có 2 cách giải thích sự phân cực:
chuẩn mực và thông tin. Chuẩn mực tức là cá nhân so sánh mình với người
khác và để khẳng định cái tôi của bản thân “người khác cũng nghĩ như tôi”.
Điều này giúp cá nhân củng cố ý kiến của bản thân. Thông tin tức là nếu thảo
luận nhóm được điều khiển bởi các chứng cứ và các chứng cứ đó có lợi cho
cá nhân thì cá nhân đó càng mạnh mẽ hơn với ý kiến của mình (tức là phân
cực thay vì trung gian). Ngược lại nếu chứng cứ mâu thuẫn với ý kiến trước
đây, cá nhân đó sẽ dứt khoát dịch chuyển về phái đối lập (tức là cũng phân
cực).

6. Lý thuyết về sự phát triển nhóm

Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ. Ý tưởng
về sự phát triển nhóm đã được đưa ra trong lý thuyết Phân tâm học, trong
công trình của Freud “Tâm lý học nhóm và phân tích cái tôi”. Trong định
hướng Phân tâm học của Tâm lý học xã hội xuất hiện lý thuyết phát triển
nhóm của V.Bennis và G.Shepard, được hình thành trên cơ sở phân tích thực
tiễn tâm lý trị liệu nhóm. Lý thuyết này được hình thành từ giữa những năm
1950. Nó không hoàn toàn nằm trong định hướng phân tâm học mà còn chịu
ảnh hưởng của nhiều định hướng khác. Tuy vậy theo Shaw và Costanzo, lý
thuyết này có tư tưởng cơ bản liên quan đến Phân tâm học. Lý thuyết này
được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu những quá trình nhóm diễn ra trong các
nhóm T hay còn gọi là các nhóm huấn luyện quan hệ con người hay nhóm tự
phân tích. Các nhóm này là một hiện tượng trong đời sống xã hội phương Tây
những năm 60, 70 của thế kỉ XX. Thực hành Nhóm T - với các hình thức đa
dạng của nó diễn ra dưới ảnh hưởng của Phân tâm học. Nhóm T chính là một
phương pháp huấn luyện xã hội. Huấn luyện xã hội được hiểu theo nghĩa
rộng là dạy các hiểu biết, kĩ năng, kỹ xảo giao tiếp liên nhân cách. Hoạt động
cơ bản của nhóm T là thảo luận nhóm. Chủ đề thảo luận là các mối quan hệ
liên nhân cách hiện thực của các thành viên nhóm và nhiệm vụ là tìm hiểu

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

chính động thái nhóm qua việc phân tích các quá trình diễn ra trong nhóm.
Các quá trình đó được nghiên cứu bởi chính các thành viên nhóm. Sự tăng
lên trong hiểu biết của cá nhân về chính các động cơ của bản thân; sự hụt
hẫng, ý định, các khả năng có thể trong giao tiếp liên nhân cách của bản thân
cũng như của người khác... được gọi chung là sự thành thục xã hội. Mục đích
cuối cùng của huấn luyện xã hội là giúp những người tham gia nâng cao sự
thành thục xã hội. Để đạt được mục đích cuối cùng, cần thực biện các mục
đích cụ thể được đặt ra một cách rõ ràng hay ngầm định. Ở cấp độ nhóm,
mục đích đó là tạo ra sự giao tiếp có hiệu lực, tức là: đạt được một trạng thái
nhóm mà mỗi thành viên có khả năng thể hiện các tình cảm, xúc cảm, động
cơ, ý định của mình một cách chính xác, tự do. Ở đó tri giác của mỗi thành
viên về vị trí của mình trong nhóm phù hợp với sự tri giác của các thành viên
khác, mục đích được thống nhất của nhóm và sự nỗ lực của các thành viên là
tương ứng và các thành viên nhóm có khả năng chia sẻ nhiều mức độ giao
tiếp. Quy mô nhóm có thể từ 7 - 15 người. Đó có thể là nhóm hiện thực
nhưng thường xuyên hơn cả là các nhóm được hình thành từ những người
không quen biết nhau từ trước. Các thành viên chủ yếu là những người thuộc
các nghề nghiệp khác nhau nhưng có điểm chung là cần có khả năng giao
tiếp. Thời hạn của các nhóm T có thể từ 2 ngày đến 2 tháng. Mỗi nhóm có
một người huấn luyện. Vai trò của người này có thể thay đổi tùy nhiệm vụ cụ
thể. Nhưng trong mọi trường hợp vai trò chính của người đó là tạo ra bầu
không khí tin tưởng, sự cởi mở trong nhóm. Người huấn luyện phải thể hiện
hình mẫu của các hành vi mong muốn, tức là bộc lộ một cách chân thành và
rõ ràng các tình cảm của mình, thể hiện sự gắn bó và ủng hộ sự chân thành
của người khác. Người huấn luyện khác với vai trò của người bác sĩ trị liệu,
không tập trung vào các kinh nghiệm của các thành viên mà chỉ tập trung vào
các quá trình diễn ra “ở đây” và “bây giờ” trong nhóm. Hệ thống các liên hệ
ngược cho phép mỗi cá nhân có thể hiểu được người khác và diễn giải điều
mình làm và nói, qua đó tạo ra những tiền đề cho việc suy nghĩ về hậu quả có
thể có của các hành động của mình trong nhóm. Kết quả của huấn luyện phụ
thuộc vào hệ thống các liên hệ ngược được thiết lập như thế nào. Những tiền

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

đề đảm bảo cho nhóm có hiệu quả là tạo ra bầu không khí tin tưởng, an toàn
tâm lý trong nhóm và sự sẵn sàng thay đổi những phương thức tri giác và tác
động qua lại khi thấy được những hạn chế của chúng.

Về phương diện lý luận nhóm, T chịu ảnh hưởng của Phân tâm học
truyền thống ở chỗ: cá nhân có thể mở rộng kinh nghiệm của mình bằng cách
đưa các cơ chế tự vệ của hành vi mà cá nhân chịu chi phối mà không ý thức
được đến với ý thức và đặt dưới sự kiểm soát của ý thức. Đây chính là
nguyên tắc trị liệu của Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên việc
nghiên cứu các quá trình diễn ra trong nhóm gọi là nhóm T - các nhóm luyện
tập (training group): sự tồn tại của nhóm luyện tập chia thành 2 pha. Trong
mỗi pha, nhóm giải quyết một tập hợp nhất định các vấn đề để đạt được mục
tiêu cơ bản của nó - thiết lập giao tiếp có hiệu lực (tức là giao tiếp, trong đó
loại bỏ các trở ngại đối với người tham gia giao tiếp). Con đường để đạt tới
mục đích đó chính là sự phát triển nhóm: trong pha đầu tiên giải quyết vấn đề
về thủ lĩnh và các mối quan hệ qua lại giữa mỗi thành viên nhóm và thủ lĩnh;
trong pha thứ 2, mối quan hệ giữa các thành viên ngang hàng được xác lập.
Trong mỗi pha, sự khó khăn trong các mối quan hệ thường xuyên được dỡ bỏ
và sự giao lưu đầy đủ hơn được phát triển.

Lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng dựa trên các quá trình
thay đổi trong nhóm để đạt tới mục đích giao tiếp hiệu lực với 2 vấn đề cơ
bản: phân tích những khía cạnh của giao tiếp hiệu lực và xác định các giai
đoạn phát triển nhóm.

Một trong những điều kiện cơ bản để thiết lập giao tiếp hiệu lực theo
các tác giả là tình huống không xác định trong đó mỗi thành viên của nhóm
rơi vào tại thời điểm bắt đầu của nhóm T. Các thành viên có xu hướng giấu
các thái độ thật của mình, các phản ứng, các xúc cảm bởi vì họ không biết họ
sẽ chờ đợi điều gì từ những người khác. Do vậy, sự không xác định liên quan
đến 2 mặt của sự thực hiện chức năng nhóm: vấn đề quyền lực và vấn đề
phụ thuộc lẫn nhau.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Vấn đề quyền lực - đó là vấn đề về thủ lĩnh, ai sẽ là người dẫn dắt và ai


là người chịu sự điều khiển. Lĩnh vực quan hệ liên nhân cách giữa các thành
viên nhóm cũng không rõ ràng. Ở đây sự không xác định liên quan đến vấn
đề bền chặt của các liên hệ xúc cảm. Các tác giả cho rằng vấn đề thủ lĩnh là
vấn đề mang tính thứ nhất và định hướng mối quan hệ với thủ lĩnh là thứ 2, ở
mức độ nhất định quyết định hướng quan hệ của các thành viên với những
thành viên khác. Do vậy, trong quá trình phát triển nhóm, trước hết phải giải
quyết vấn đề quyền lực, thủ lĩnh và chỉ trên cơ sở giải quyết vấn đề đó mới
giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa các thành viên nhóm. Điểm cơ bản
trong việc phân tích các “hành vi nhóm” là phân chia 2 loại mối quan hệ trong
nhóm: quan hệ thành viên với thủ lĩnh và quan hệ giữa các thành viên. Trong
đó quan hệ giữa thành viên với thủ lĩnh mang tính thứ nhất vừa ở phương
diện phát triển nhóm, vừa ở phương diện quy định các quan hệ giữa các
thành viên nhóm. Theo đó có thể chia thành 2 pha trong sự phát triển nhóm.
Nội dung của pha thứ nhất giải quyết vấn đề thủ lĩnh nhóm; trong pha thứ hai
là vấn đề quan hệ qua lại giữa các thành viên nhóm. Trong mỗi pha lại có 3
tiểu pha, tức là có 6 giai đoạn.

Trong pha đầu, nhóm gặp phải những tình huống sau: Những người
tham gia chờ đợi người huấn luyện nhận trách nhiệm nắm giữa quyền lực.
Tuy nhiên với nhóm T, người huấn luyện được chỉ định trước không nhận
trách nhiệm đó và phải thông báo trước về vấn đề đó. Thông thường trong
thời điểm đó có sự căng thẳng nhất định, xuất hiện sự không hài lòng với tình
huống, tranh luận về mục đích và các nhiệm vụ của nhóm. Sự bắt đầu của
tiểu pha thứ 2 liên quan đến yêu cầu đối với người huấn luyện để bỏ lại
nhóm. Xuất hiện 2 ý kiến đối lập nhau: một số thành viên ủng hộ cấu trúc thủ
lĩnh mạnh còn số khác đề nghị một bầu không khí nhóm ít mang tính cấu trúc
hơn, chống lại thủ lĩnh mạnh và những hình thức quản lý nhóm nghiêm khắc.
Tiểu pha thứ 3 liên quan đến việc giải quyết vấn đề thủ lĩnh. Việc này có thể
nhanh chóng được giải quyết hay ngược lại, khi đó nhóm nằm trong trạng thái
lung lay. Cuối cùng, nếu nhóm không tan rã thì nó sẽ chuyển sang một pha

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

mới: pha thiết lập các mối quan hệ liên nhân cách hay giải quyết vấn đề sự
phụ thuộc lẫn nhau.

Các tiểu pha của pha thứ 2 có thể có những lệch pha nhất định: nhóm
có thể không đạt được mục đích cuối cùng hoặc là trong một thời gian dài
không xác định dừng lại ở một pha nào đó hoặc tan rã.

Như vậy, rõ ràng lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng hoàn
toàn dựa vào việc quan sát hoạt động của nhóm T. Các tác giả của nó không
có tham vọng đối với tính khái quát của lý thuyết này nhưng đôi khi có xu
hướng vận dụng lý thuyết này một cách không có chỉnh sửa vào việc giải
thích sự phát triển nhóm ở phạm vi các nhóm nói chung. Lý thuyết này chưa
chỉ ra thời gian kéo dài của mỗi pha. Nó chỉ đề cập đến sự tiếp nối giữa các
pha chưa chỉ ra các biến số ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhóm cũng
như đến việc giải quyết vấn đề sự phụ thuộc qua lại. Tính dự báo của lý
thuyết này còn hạn chế.

Lý thuyết thứ 2 về sự phát triển nhóm có được cơ sở tương đối rộng rãi
hơn là lý thuyết “xã hội hóa nhóm” của R.Morlend và J.Livan. Quá trình phát
triển nhóm được xem xét tương tự với quá trình xã hội hóa cá nhân, phân tích
sự tồn tại không gian, thời gian của nhóm. Mỗi giai đoạn trong sự phát triển
nhóm được đặc trưng bởi một loại quan hệ giữa nhóm với mỗi cá nhân khi cá
nhân trở thành thành viên nhóm. Các giai đoạn có thê được so sánh với nhau
dựa trên 3 tiêu chí:

- Sự đánh giá (mục đích nhóm, vị trí của nhóm giữa các nhóm khác, ý
nghĩa của mục đích nhóm đối với mỗi cá nhân thành viên).

- Trách nhiệm (của nhóm trong quan hệ đối với các thành viên và của
mỗi cá nhân đối với nhóm, trong tiến trình đó bộc lộ mức độ hài lòng đối với
các kì vọng lẫn nhau. Nâng cao sự đồng thuận, các tiếp xúc xúc cảm, động
cơ duy trì nhóm là kết quả của việc thực hiện các trách nhiệm qua lại...

- Cấu trúc lại các vai của các thành viên nhóm (Mức độ tham gia nhiều
hơn hay ít hơn của các thành viên, mức độ đồng nhất với nhóm. Với mục đích

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

này chia ra 5 loại vai trò có thể có của thành viên nhóm: Thành viên tiềm
năng, thành viên mới, thành viên đầy đủ, thành viên cận biên, cựu thành
viên).

Trên cơ sở các tiêu chí kể trên, các giai đoạn trong đời sống nhóm
được xác định tương ứng với các vị trí (vai) của các thành viên. Sự kết hợp
các giai đoạn và vai được thể hiện trong “Mô hình hệ thống quá trình” của
M.Tremerse. Sự tương ứng các giai đoạn và vai trò có thể biểu diễn như sau:

Vai trò Giai đoạn


Thành viên tiềm năng Tìm hiểu (thành viên tìm hiểu nhóm).

Thành viên mới Xã hội hóa thành viên (trong nhóm).

Thành viên đầy đủ Hỗ trợ (nhóm hỗ trợ thành viên).

Thành viên cận biên Tái xã hội hóa (có khả năng thành viên rời bỏ
nhóm).

Cựu thành viên Nhớ lại (về nhóm mà người đó không còn là thành
viên).

Như vậy trong mô hình nêu trên, điểm nhấn mạnh là ở chỗ kết hợp các
giai đoạn phát triển nhóm với quá trình xã hội hóa cá nhân trong nhóm. Rõ
ràng mô hình này cho phép nhóm ngừng tồn tại trong trường hợp nếu như
việc ở trong nhóm không cần thiết đối với các thành viên nhóm. Khái niệm
“giai đoạn” phát triển nhóm được hiểu là các thời kì khác nhau với các đặc
điểm về vai trò và mức độ tham gia của các thành viên vào nhóm, các giai
đoạn này được phân biệt bởi 1 tập hợp các tiêu chí. Mỗi giai đoạn liên quan
đến sự thay đổi thành phần của nhóm: các thành viên mới tham gia vào
nhóm, một số thành viên cũ rời bỏ, diễn ra quá trình chuyển hóa thành viên
tiềm năng thành thành viên đầy đủ và sau đó đôi khi thành “thành viên cận
biên” nếu như nhóm không còn thỏa mãn được nhu cầu của thành viên đó và
có thể có sự chia tay với nhóm. Mức độ chấp nhận của nhóm đối với mỗi
thành viên và ngược lại của mỗi thành viên đối với thực tế nhóm là những

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

nhân tố của sự thay đổi các vai của các thành viên nhóm. Quá trình xã hội
hóa nhóm diễn ra không phải trong chân không: đặc trưng văn hóa và các
quan hệ xã hội mà trong phạm vi đó nhóm tồn tại ảnh hưởng đến sự thay đổi
trong nhóm.

Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ:

- Ober Nir đưa ra mô hình phát triển nhóm nhỏ theo bốn giai đoạn: 1)
Thời kì thứ bậc dửng dưng của nhóm trên cơ sở tiêu chí biểu cảm và các vai
đa năng; 2) Thời kì nhiễu loạn: phá hủy cấu trúc phân vai và xuất hiện các bất
hòa trong nhóm; 3) Thời kì hình thành các tiêu chuẩn công cụ, 4) Thời kì thực
hiện - hình thành chức năng, sự sắp đặt các tác dụng phụ thuộc trong mối liên
hệ qua lại.

- Trên phương diễn giải quyết nhiệm vụ E.A.Marby chia thành các giai
đoạn: Giai đoạn tiềm ẩn (tìm kiếm nhiệm vụ), giai đoạn thích nghi, giai đoạn
liên kết giai đoạn giải quyết nhiệm vụ, đạt kết quả chung.

- B.Tacmen: Giai đoạn kiểm tra và phụ thuộc, giai đoạn xung đột nội bộ,
giai đoạn phát triển sự cố kết nhóm nhờ sự hài hòa dần các quan hệ và biến
mất của xung đột nhóm giai đoạn tương ứng chức năng vai trò, cùng với sự
hình thành cấu trúc phân vai của nhóm.

- Quan điểm của A.V.Petrovxki: Nếu căn cứ vào tính tích cực của nhóm
nhỏ vào ý nghĩa xã hội của hoạt động chung, sự phát triển của nhóm nhỏ có
thể coi là quá trình vận động giữa hai cực: coi sự phát triển cao nhất của
nhóm nhỏ là tập thể - tập thể là cực phát triển cao của nhóm nhỏ, cực đối lập
với tập thể là nhóm hỗn độn. Các nhóm ở giữa hai cực này là các nhóm phân
tán, trong đó thiếu vắng hoạt động cùng nhau. Có các giai đoạn khác nhau
trong quá trình phát triển đó: giai đoạn tổng hợp sơ cấp - phân hóa - hợp nhất
- tập thể.

Các lý thuyết phát triển nhóm vẫn tiếp tục được xây dựng trong phạm vi
nghiên cứu các định hướng văn hóa xã hội khác nhau, cụ thể như định
hướng quan hệ tập thể - cá nhân. Các nghiên cứu chủ yếu chỉ ra thái độ của

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

nhân cách đối với định hướng này hay định hướng khác trong mối quan hệ
tập thể cá nhân ở các môi trường văn hóa khác nhau. Các nghiên cứu được
thực hiện như là các nghiên cứu xuyên văn hóa (so sánh văn hóa).

Định hướng nghiên cứu mới liên hệ chặt chẽ với quá trình phát triển
của nhóm: chuyển từ một pha sang pha khác một phần lớn phụ thuộc vào
việc phong cách nổi trội của sự định hướng, có nghĩa là hành vi nào “chiến
thắng” trong nhóm và nhờ đó tạo điều kiện hay cản trở sự chuyển hóa sang
một pha mới. Trong văn hóa cá nhân, sự phát triển nhóm đòi hỏi sự vận động
tới đỉnh cao của quyền cá nhân của nhân cách, trong văn hóa tập thể - tới sự
quan tâm về lợi ích chung. Cũng như trong các cách tiếp cận đã được phân
tích ban đầu, một tư tưởng quan trọng ngày càng được củng cố là sự phát
triển nhóm phụ thuộc vào tính chất xã hội trong đó nhóm tồn tại.

HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:

Những vấn đề liên quan đến nhóm xã hội là những vấn đề có được sự
quan tâm lớn trong giai đoạn hiện nay, trong dạy học và giáo dục mối quan
tâm chủ yếu hướng tới các nhóm nhỏ. Cụ thể:

- Chú ý đầy đủ đến việc tổ chức các nhóm sinh viên trong quá trình dạy
học và giáo dục. Nên coi các nhóm sinh viên là đơn vị cơ sở của hoạt động
dạy học và giáo dục. Hầu hết các hoạt động của sinh viên diễn ra trong môi
trường nhóm nhỏ, các cơ chế tâm lý xã hội cũng phát huy tác dụng trong
nhóm. Đặc biệt, nhóm nhỏ là môi trường thuận lợi cho việc phát huy tính tích
cực chủ động trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, là môi trường cho
việc rèn luyện các “kĩ năng mềm”.

- Hình thành nhóm nhỏ trong dạy học, giáo dục bằng nhóm và thông
qua nhóm. Để thực hiện điều đó cần ý thức rõ việc tổ chức nhóm và tác động
để hình thành các hiện tượng tâm lý nhóm, từ việc lựa chọn quy mô nhóm,
đến việc giúp nhóm hình thành các mục tiêu, các nguyên tắc, khuyến khích
sự chủ động trong hoạt động của nhóm, quan tâm đến sự phát triển của
nhóm.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Cần đưa ra những yêu cầu chính thức khi hình thành các nhóm: đánh
giá kết quả của nhóm, của cá nhân trong nhóm trong sự tương quan với kết
quả của nhóm, sự luân chuyển các vai trò xã hội trong cấu trúc chính thức
của nhóm.

- Quan tâm đến quá trình ra quyết định nhóm sự hình thành các chuẩn
mực nhóm.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III

1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc
nghiên cứu các nhóm xã hội?

2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không
chính thức của nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không
chính thức? Tại sao?

3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào
để hình thành các chuẩn mực nhóm?

4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo
dục theo anh (chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao?

Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ


Nội dung cơ bản:

- Tập thể và cấu trúc các quan hệ cá nhân trong tập thể: khái niệm, cấu
trúc các quan hệ cá nhân trong tập thể, các giai đoạn phát triển của tập thể.

- Sự cố kết trong tập thể: khái niệm, sự cố kết trong tập thể, tinh thần
tập thể.

- Một số hiện tượng tâm lý xã hội cơ bản trong tập thể: thủ lĩnh, sự
tương hợp tâm lý, bầu không khí tâm lý tập thể, dư luận tập thể, xung đột
trong tập thể.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

I. TẬP THỂ VÀ CẤU TRÚC QUAN HỆ CÁ NHÂN TRONG TẬP THỂ


1. Khái niệm tập thể

Tập thể là một loại nhóm nhỏ phát triển cao. Nhóm nhỏ có thể phát triển
qua 3 mức độ:

a) Nhóm phân tán: Là loại nhóm các thành viên mới tập hợp lại với
nhau, các thành viên có chung một mục đích chưa thống nhất giá trị chung,
do đó chưa liên kết gắn bó với nhau. Ví dụ: tập hợp người trong một đám
cưới, chờ tàu chở xe... loại nhóm này có thể phát triển nếu có thời gian bình
thường thì rất dễ tan rã do chưa có giá trị chung đáng kể.

b) Tổ hợp tác: Là loại nhóm trong đó các thành viên đã tập hợp trong
một thơi gian đủ để có sự thống nhất những giá trị chung, mà giá trị chung đó
có ý nghĩa với từng cá nhân. Do đó các thành viên gắn bó với nhau chặt chẽ.
Ví dụ: phường buôn, tổ đổi công...

Trong loại nhóm này các thành viên tồn tại phải dựa vào nhau. Loại
nhóm này có thể phát triển cao trở thành tập thể khi giá trị chung mà họ theo
đuổi có ý nghĩa đối với xã hội. Nhóm này có thể phát triển theo hướng phi xã
hội. Ví dụ: nhóm làm ăn phi pháp buôn lậu...

c) Tập thể: Là tập hợp người có tổ chức, các thành viên gắn chặt với
nhau bởi những giá trị chung, giá trị này vừa có ý nghĩa với các thành viên
vừa có ý nghĩa xã hội. Đó là tiêu chuẩn cơ bản phân biệt tập thể với các loại
phường hội.

Như vậy, có thể hiểu tập thể là một loại nhóm có tổ chức, có mục đích
và nhiệm vụ chung, mục đích và nhiệm vụ chung đó vừa có ý nghĩa đối với
từng cá nhân vừa có giá trị đối với xã hội.

Thực chất tập thể là một loại nhóm phát triển cao mà ở đó các thành
viên được tổ chức chặt chẽ. Mỗi thành viên giữ một vị trí nhất định trong tập
thể nhưng đều hướng tới mục đích, nhiệm vụ chung của tập thể. Các thành
viên đều nhận thức được ý nghĩa của mục đích và nhiệm vụ chung đối với cá
nhân mình, coi đó là một giá trị và phấn đấu để đạt giá trị đó, bảo vệ giá trị đó.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Đồng thời mục đích, nhiệm vụ chung của tập thể có ý nghĩa với xã hội, hay
nói khác đi, giá trị mà tập thể theo đuổi không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi cá
nhân mà còn có ý nghĩa với cả xã hội. Chính những giá trị đó đã thu hút, hấp
dẫn cá nhân vào tập thể, gắn bó với tập thể.

2. Cấu trúc quan hệ cá nhân trong tập thể

Theo nghiên cứu của A.V.Pêtrôvxki trong tập thể có ba lớp quan hệ cá
nhân như sau:

* Lớp thứ nhất: là lớp trên bề mặt, dễ nhận thấy khi nhìn vào một tập
thể. Lớp quan hệ này bao gồm toàn bộ những quan hệ liên cá nhân có tính
chất chủ quan, tùy tiện, xuất phát từ sự thiện cảm với nhau. Đây chính là các
nhóm tự phát trong tập thể. Đặc điểm của lớp quan hệ này là:

- Sự hấp dẫn về mặt cảm xúc giữa các cá nhân định hướng cho sự lựa
chọn quan hệ. Sự hoà hợp nhóm được xem như sự phối hợp và ăn khớp các
hành động.

- Quan hệ này xuất hiện khi các thành viên của tập thể ở vào những
tình huống không động chạm đến các giá trị chung của tập thể, không có ý
nghĩa đối với hoạt động chung.

- Đây là lớp quan hệ dễ thấy nhưng không cơ bản, không đặc trưng cho
tập thể đích thực.

* Lớp quan hệ thú hai; Lớp này “chìm” dưới lớp một, gồm toàn bộ
những qua hệ liên nhân cách có tính chất gián tiếp - tạo nên những đặc điểm
riêng của tập thể. Các thành viên quan hệ với nhau thông qua mục đích và
nhiệm vụ hoạt động chung. Đặc điểm:

- Sự trội hẳn của các hiện tượng: tự xác định theo tinh thần tập thể của
cá nhân thừa nhận giá trị chung của tập thể phải bảo vệ giá trị chung của tập
thể.

- Quan hệ này xuất hiện khi phải bảo vệ giá trị chung của tập thể hoặc
phải thực hiện các hoạt động chung.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Đây là quan hệ biểu hiện sự đoàn kết đích thực của tập thể.

* Lớp quan hệ thứ ba: Là lớp “chìm” nhất gồm các mối quan hệ liên cá
nhân dựa trên cơ sở có cùng thái độ tích cực đối với mục đích nhiệm vụ
chung của tập thể. Nhóm này bao gồm các phân tử trung kiên nhất của tập
thể - dù tập thể có khó khăn thế nào lớp này cũng vẫn vững vàng. Ngược lại
nếu lớp này hỏng là tập thể dễ dàng tan rã.

3. Các giai đoạn phát triển tập thể

Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu về tập thể thì tập thể có
thể được hình thành qua 4 giai đoạn.

a) Giai đoạn tổng hợp sơ bộ

Giai đoạn này bắt đầu khi các cá nhận mới tập hợp lại với nhau vì một
mục đích chung hay yêu cầu nào đó của hoạt động chung như một lớp học,
một cơ quan mới thành lập. Các cá nhân đến từ nhiều nơi khác nhau nên họ
chưa hiểu nhau, chưa hiểu và chưa thừa nhận giá trị chung của tập thể.

Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là các cá nhân chưa hiểu nhau họ
không thể thống nhất ý kiến với nhau. Mỗi người đều giữ gìn, chưa dám bộc
lộ bản thân. Điều này làm cho các cá nhân có sức hấp dẫn lẫn nhau, các
quan hệ cá nhân chủ yếu để thăm dò nhau.

Do mới tập hợp lại, chưa hiểu nhau nên trong tập thể chưa hình thành
được dư luận. Khi có một sự kiện nào đó xảy ra thì mỗi người có ý kiến khác
nhau và cũng ngại bộc lộ nên các ý kiến đánh giá về sự kiện khó thống nhất.

Thời gian tồn tại của giai đoạn này tùy thuộc vào tính chất của tập thể
và đặc điểm của hoạt động chung của tập thể. Nếu là tập thể sinh viên thì giai
đoạn này có thể tồn tại một học kì. Nhưng nếu là tập thể công an, bộ đội thì
giai đoạn này ngắn hơn rất nhiều. Có khi chỉ một vài tuần.

b) Giai đoạn phân hóa

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Khi tập thể tồn tại một thời gian, một số cá nhân đã hiểu nhau phần nào
do hoạt động chung và do giao tiếp. Họ tìm thấy những điểm chung và hình
thành nên các nhóm nhỏ.

Căn cứ vào thái độ của các nhóm với yêu cầu của tập thể, có thể chia
thành ba nhóm:

- Nhóm tích cực, gồm những người tích cực trong hoạt động, tự giác
chấp hành các yêu cầu của tập thể. Những người này đã thừa nhận giá trị
chung của tập thể và tích cực bảo vệ các giá trị đó.

- Nhóm tiêu cực, gồm những người thiếu tích cực trong hoạt động
chung, làm việc thiếu tích cực, không tự giác chấp hành các yêu cầu của tập
thể. Những người này không hẳn chống đối tập thể nhưng họ chưa thừa nhận
giá trị chung của tập thể nên vẫn giữ khoảng cách với mọi người.

- Nhóm trung gian thỏa hiệp, gồm những người không hẳn tích cực,
cũng không hẳn tiêu cực. Họ đứng ở giữa, bên nào mạnh thì họ theo. Nếu
thấy xu thế tập thể nhiều người tích cực thì họ tích cực, không thì ngược lại.

Tỉ lệ thành viên của ba nhóm này tùy thuộc vào mức độ phát triển của
tập thể. Lúc đầu có thể nhóm tích cực ít người, nhưng sau đó số lượng các
thành viên sẽ tăng dần. Số người ở nhóm trung gian và nhóm tiêu cực sẽ
giảm dần. Do chia thành các nhóm với những thái độ khác nhau như vậy nên
tập thể khó có sự thống nhất trong đánh giá các sự kiện, dư luận khó hình
thành. Khi có một sự kiện xảy ra, mỗi nhóm sẽ có cách đánh giá khác nhau,
khó hình thành đánh giá chung.

Thời gian tồn tại của giai đoạn này cũng tùy thuộc vào tính chất và đặc
điểm hoạt động của tập thể như giai đoạn một.

c) Giai đoạn tổng hợp thực sự

Tập thể tồn tại một thời gian dài, do cùng hoạt động và sự tiếp xúc
thường xuyên làm cho các thành viên hiểu nhau. Họ thừa nhận giá trị chung
và cùng có ý thức bảo vệ giá trị đó. Không phải 100% số thành viên đều có ý

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

kiến giống nhau nhưng đa số đều có thái độ tích cực trong hoạt động, đều
nhận thấy trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ chung.

Đặc điểm của giai đoạn này là các thành viên gắn bó với nhau trên cơ
sở thừa nhận giá trị chung. Dư luận tập thể được hình thành nhanh và có vai
trò điều chỉnh hành vi cá nhân rất mạnh mẽ. Tập thể đoàn kết thành một khối
và rất dễ thống nhất ý kiến khi có vấn đề gì đó cần bàn bạc.

d) Giai đoạn phát triển cao

Đến giai đoạn này, các cá nhân trong tập thể đã hoàn toàn hiểu nhau
và có thể chia sẻ với nhau, dám bộc lộ bản thân và được người khác thừa
nhận. Tập thể thực sự đoàn kết, gắn bó. Các thành viên tự giác và có ý thức
trách nhiệm cao với tập thể. Tập thể đã có truyền thống và mọi người tự hào
về truyền thống đó. Giá trị chung của tập thể được đề cao và được bảo vệ.

Mỗi khi có sự kiện gì đó xảy ra, mọi người rất nhanh chóng có tiếng nói
chung. Cũng khó phân biệt rạch ròi giữa giai đoạn này với giai đoạn thứ ba.
Hai giai đoạn này có thể tồn tại vài ba năm. Đối với một cơ quan, đơn vị sự
nghiệp giai đoạn này có thể tồn tại 4 - 5 năm. Nhưng đối với tập thể sinh viên
thì giai đoạn này chỉ tồn tại đến trước khi sinh viên bước vào học kì cuối.

Theo các nhà nghiên cứu và thực tế cho thấy, sau giai đoạn này thì tập
thể không còn được như giai đoạn ba và bốn nữa. Sau thời gian làm việc với
nhau, các cá nhận hiểu khá rõ, khá kĩ về nhau nên không còn nhu cầu tìm
hiểu thêm về nhau nữa. Mọi người định hình những đánh giá về nhau nên sự
lựa chọn quan hệ cũng trở nên khá ổn định. Các nhóm không chính thức định
hình khá rõ nét nên các quan hệ có biểu hiện “lì”, các cá nhân giảm sức hấp
dẫn do người khác không còn phải “tò mò” để tìm hiểu nữa.

Giai đoạn này có thể xem là giai đoạn suy thoái của tập thể theo một
cách hiểu nào đó. Sự suy thoái này không biểu hiện rõ nét nên khó nhận ra.
Tuy nhiên, các cá nhân có thể được phân hóa thành các nhóm khác nhau với
những thái độ khác nhau với giá trị chung. Một số người cho rằng, muốn tập
thể có sức sống mới nên thay đổi khoảng một phần ba số thành viên của tập

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thể. Khi có những cá nhân mới, tập thể sẽ lại quay về giai đoạn tổng hợp sơ
bộ và phát triển tuần tự theo bốn giai đoạn.

II. SỰ CỐ KẾT TRONG TẬP THỂ


1. Khái niệm và vai trò của sự cố kết

a) Khái niệm sự cố kết

Trong Tâm lý học xã hội có nhiều cách tiếp cận và nhiều quan niệm
khác nhau về sự cố kết nhóm. Tuy nhiên có thể khái quát thành 3 cách tiếp
cận chính như sau:

* Cách tiếp cận thứ nhất: Coi nhóm là một hệ thống các quan hệ liên
nhân cách được hình thành trên cơ sở xúc cảm. Do vậy, sự cố kết được hiểu
là sự cố kết về mặt xúc cảm. Những xúc cảm tích cực giữa các thành viên
trong nhóm có tác dụng liên kết, ràng buộc họ với nhau. Ngược lại, những
xúc cảm tiêu cực là rào chăn cản trở các quan hệ liên nhân cách và thậm chí
phá hủy các mối quan hệ đó. Đây là quan điểm phổ biến trong Tâm lý học xã
hội phương Tây. Từ cách tiếp cận này có một loạt các phương án định nghĩa
sự cố kết nhóm khác nhau:

Phương án thứ nhất - quan điểm trắc đạc xã hội - coi sự cố kết đồng
nhất với các quan hệ xúc cảm, thể hiện sự ở thân thiện hay không thân thiện
giữa thành viên. Để xác định mức độ cố kết, các nhà nghiên cứu thuộc
trường phái này sử dụng trắc đạc xã hội và từ đó tính chỉ số cố kết nhóm.
Hạn chế lớn nhất trong phương pháp này là nội dung và động cơ của sự lựa
chọn giữa các thành viên trong nhóm bị bỏ qua.

Phương án thứ hai, coi sự cố kết nhóm đồng nhất với sự hấp dẫn giữa
các cá nhân và được quy định bởi sự hấp dẫn giữa các thành viên. A.Lot &
B.Lot định nghĩa sự cố kết nhóm: “Là thuộc tính của nhóm, là kết quả của số
lượng và chất lượng của các thái độ đối xử tích cực lẫn nhau giữa các thành
viên nhóm” (Lot & Lot, 1976). Bên cạnh đó, một loạt các biến số tạo nên tổ
hợp các nguyên nhân của sự cố kết được xác định bao gồm: tần suất tác
động qua lại giữa các cá nhân, tính chất hợp tác trong sự tác động qua lại,

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

phong cách lãnh đạo nhóm, sự hụt hẫng và nguy cơ từ các nhóm khác... Bản
thân tác giả của cách định nghĩa này cũng thừa nhận định nghĩa chỉ đề cập
tới một khía cạnh của sự cố kết nhóm. Rõ ràng, định nghĩa sự cố kết nhóm
chỉ dựa vào sự hấp dẫn liên nhân cách là chưa dầy đủ và chưa chỉ ra được
bản chất thực sự của nó. Sự cố kết nhóm theo cách lý giải này chỉ đơn thuần
là một hiện tượng xúc cảm. Nó không đủ để lý giải sự thống nhất của một
nhóm xã hội.

Phương án thứ ba do L.Festinger đề xuất. L.Festinger cho rằng: “Sự cố


kết nhóm là tổ hợp các lực tác động đến các thành viên để giữ họ lại trong
nhóm” (Myer D.G. 1996). Các lực được hiểu là sự hấp dẫn của nhóm đối với
cá nhân hay là sự hài lòng của cá nhân đối với nhóm. Tất cả các nhân tố tạo
ra sự hấp dẫn cá nhân đều đóng góp cho sự cố kết nhóm. Sự cố kết nhóm là
sức mạnh của sự hấp dẫn nội nhóm. Trong cách hiểu này sự cố kết nhóm
cũng chủ yếu được khai thác ở khía cạnh xúc cảm.

* Cách tiếp cận thứ hai: Coi sự cố kết nhóm đồng nhất với sự hấp dẫn
giữa các thành viên nhưng lý giải sự hấp dẫn đó không phải dựa trên các xúc
cảm giữa các cá nhân đơn thuần mà dựa trên tổ hợp các động cơ thúc đẩy
cá nhân tiếp tục duy trì là một thành viên của nhóm. Quan điểm này do
D.Cartwright đưa ra, được gọi là cách tiếp cận nhu cầu động cơ đối với nhóm.
Trong mô hình của D.Cartwright sự cố kết nhóm được quy định bởi một tổ
hợp các biến số như: các nhu cầu và giá trị của chủ thể, sự kì vọng hay chờ
đợi của chủ thể về những điều kiện thuận lợi hay khó khăn mà nhóm đem lại,
đánh giá chủ quan về hệ quả của việc tham gia vào nhóm, các tính chất của
nhóm có ý nghĩa đối với nhu cầu và động cơ của chủ thể (Zaden J.V. 1994).

Theo mô hình nêu trên, động cơ trở thành thành viên nhóm chủ yếu
được quy định bởi các đặc điểm nhân cách của cá nhân chứ không phải
được quy định bởi các thuộc tính của nhóm. Các đặc trưng của nhóm chỉ có
thể có tác dụng lôi cuốn, thúc đẩy cá nhân ở lại với nhóm khi các đặc trưng
đó đáp ứng được các nhu cầu tương ứng của cá nhân. Một gợi ý rất quan
trọng cho việc nghiên cứu sự cố kết nhóm từ ý tưởng này của D.Cartwring là

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cần nghiên cứu sự tương ứng giữa 2 dãy biến số: đặc trưng của nhóm và đặc
trưng nhu cầu của cá nhân.

Tiếp tục phát triển quan điểm này, M.Robert và F.Tilman cho rằng: một
thành viên tham gia tương tác với các thành viên khác khi họ có được sự
thỏa mãn từ sự tương tác đó. Sức mạnh lôi cuốn của nhóm chính là ở chỗ
nhóm có thể giúp cá nhân thỏa mãn cả những nhu cầu riêng và các nhu cầu
chung.

Từ đó có thể hiểu như sau: Sự cố kết là sự bền chặt của các mối quan
hệ giữa các thành viên nhóm như một chính thể được tạo thành bởi sự hấp
dẫn xúc cảm lẫn nhau sự thống nhất các giá trị, mục đích nhóm, được quy
định bởi hoạt động cùng nhau của nhóm.

Khái niệm này coi sự cố kết như là một chỉnh thể. Sự cố kết không phải
là sự cố kết theo một loại quan hệ riêng lẻ, độc lập tách rời với các quan hệ
khác trong tập thể. Trong tập thể đồng thời tồn tại các quan hệ công việc và
quan hệ liên nhân cách. Mỗi kiểu quan hệ đều có sự bền chặt (hoặc ít bền
chặt hơn) của nó. Các quan hệ đó trong tập thể không tồn tại tách biệt, song
song mà đan xen vào nhau, thâm nhập vào nhau. Trong quan hệ công việc có
quan hệ liên nhân cách, trong quan hệ liên nhân cách không loại trừ yếu tố
công việc. Chính sự đan xen các quan hệ khác nhau này tạo nên một nhóm
nhỏ với tư cách là một chỉnh thể Tâm lý sống động. Do vậy, sự cố kết nhóm
phải được coi là một chỉnh thể, là sự bền chặt của các quan hệ trong nhóm
nhỏ. Đồng thời chính sự bền chặt của các loại quan hệ khác nhau tạo ra sự
tương tác, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên nhóm. Điều này tạo ra
một “ranh giới” nhóm nhỏ - như là 1 hệ thống - tương đối độc lập với các
nhóm nhỏ khác. Cách hiểu này không quy sự cố kết nhóm nhỏ về một loại
quan hệ cụ thể, cho nên nó tạo điều kiện để có thể thấy được “tính trồi” của
sự cố kết nhóm mà sự cố kết của các loại quan hệ riêng lẻ trong nhóm không
có được.

Bên cạnh đó, khái niệm này cũng đã đề cập đến các phần tử (các yếu
tố) tạo ra sự cố kết chỉnh thể. Có thể gọi đó là các thành tố của sự cố kết, bao

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

gồm: sự hấp dẫn xúc cảm giữa các thành viên, sự thống nhất các giá trị và sự
thống nhất mục đích. Mỗi thành tố này tạo ra một sức mạnh riêng để lôi cuốn,
duy trì, giữ các thành viên lại với nhóm. Với tư cách là các cố kết thành phần,
chúng có tính chất, vai trò không giống nhau trong việc tạo ra sự cố kết chỉnh
thể. Nhưng điều quan trọng cần nhấn mạnh là chúng tác động qua lại, chuyển
hóa và bổ sung cho nhau để tạo ra chất lượng mới mà từng cố kết thành
phần không thể có.

Khái niệm này cũng được xây dựng trên nguyên tắc hoạt động, coi
nhóm là một chủ thể hoạt động và là một chỉnh thể tâm lý. Trong Tâm lý học
xã hội, nhóm cũng như nhân cách, được xem xét với tư cách là chủ thể lựa
chọn các mục đích, các giá trị. Sự cố kết nhóm nhỏ được hình thành và phát
triển cùng với hoạt động của nhóm. Điều này phù hợp với quan niệm của tâm
lý học hoạt động về sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý.
Nếu coi nhóm là một chủ thể hoạt động rõ ràng cố kết nhóm là một hiện
tượng tâm lý nhóm chứ không phải là các hiện tượng tâm lý cá nhân và hiện
tượng tâm lý đó sẽ được hình thành và phát triển trong hoạt động của chủ thể
- nhóm nhỏ. Cách hiểu này giúp hạn chế được sự phụ thuộc thái quá vào trắc
đạc xã hội như một cách thức duy nhất để có được sự cố kết cao trong nhóm.
Đồng thời nó gợi ý một hướng tác động đến nhóm để có được sự cố kết thực
sự bền vững - tác động thông qua hoạt động nhóm.

b) Vai trò của sự cố kết

* Cố kết nhóm và cấu trúc nhóm: Nếu coi cấu trúc nhóm là mối liên hệ
giữa các thành phần để tạo ra một nhóm thống nhất, bền vững và cấu trúc
nhóm có thể có nhiều thành tố khác nhau thì rõ ràng không thể thiếu sự cố kết
nhóm. Nếu không có sự cố kết, nhóm không thể có một cấu trúc ổn định và
bền vững, sự cố kết giúp gắn các cá nhân vào các cấu trúc quan hệ. Ngược
lại sự cố kết chính là cố kết theo các mối quan hệ liên nhân cách, không có cố
kết nằm ngoài các mối quan hệ liên nhân cách. Điều cần nhấn mạnh ở đây là
sự thống nhất giữa cố kết nhóm và cấu trúc nhóm. Cố kết nhóm làm cấu trúc
nhóm trở lên chặt chẽ, biến cấu trúc đó thành một chỉnh thể sống động.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

* Sự cố kết và các chuẩn mực nhóm: Các nghiên cứu cho thấy những
đặc trưng của nhóm như tính thân thiện, sự hấp dẫn giữa các thành viên có
ảnh hưởng đến các hành vi tuân theo chuẩn mực nhóm của cá nhân. Sự cố
kết nhóm làm tăng ảnh hưởng xã hội của nhóm đối với cá nhân (tăng tính lệ
thuộc nhóm) (Festinger, Gerard, Kelley. 1952). Ngược lại một trong những
nguyên nhân tạo ra những hành vi lệch chuẩn là sự thiếu hấp dẫn của nhóm
đối với cá nhân. Đề cập tới mối quan hệ giữa chuẩn mực nhóm và sự cố kết
nhóm, G.M.Anđrêeva cho rằng nghiên cứu quá trình một tập hợp các cá nhân
biến thành một nhóm, cần phải nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn
mực nhóm, quá trình các cá nhân chia sẻ các mục đích chung của nhóm. Sự
phân tích đó lại dẫn tới việc nghiên cứu sự hình thành cố kết nhóm. Như vậy
sự cố kết nhóm không tách rời với các quá trình hình thành chuẩn mực nhóm
và việc thực hiện chức năng của hệ thống chuẩn mực nhóm. Một mặt nó cùng
với quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm và hệ thống chuẩn mực nhóm
đảm bảo cho sự thống nhất, ổn định của nhóm. Mặt khác nó thúc đẩy sự tuân
thủ chuẩn mực nhóm của các thành viên.

* Mối quan hệ giữa sự cố kết nhóm và tính hiệu qua của nhóm dường
như rất rõ ràng. Ngay trong những nghiên cứu của trường phái “Động thái
nhóm” đã chỉ ra những đặc trưng chung của tính hiệu quả của hoạt động
nhóm: tính hiệu quả của hoạt động nhóm phụ thuộc vào sự cố kết nhóm, vào
phong cách lãnh đạo, vào phương thức ra quyết định nhóm... Tính hiệu quả ở
đây, liên quan đến các thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, chủ yếu được
xem xét ở phương diện giải quyết nhiệm vụ đặt ra trước nhóm và do vậy sau
này tính hiệu quả của nhóm bị quy về hiệu quả hoạt động. Một số tác giả khác
coi một nhóm là hiệu quả khi: “Các thành viên trong nhóm cùng thảo luận các
mục tiêu, đánh giá các ý tưởng đưa ra các quyết định và làm việc theo những
mục tiêu đã định”. Cách hiểu như vậy là chưa đầy đủ nếu coi nhóm là một chủ
thể hoạt động. Tính hiệu quả của nhóm cần được xem xét cả hai ở hai
phương diện: kết quả của công việc cùng nhau (kết quả của hoạt động) và sự
hài lòng của các thành viên nhóm đối với hoạt động chung của nhóm
(phương diện liên nhân cách).

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Như vậy theo cách nhìn nhận coi cố kết nhóm là một quá trình chứ
không chỉ là kết quả thì tính hiệu quả nhóm (thể hiện ở kết quả) là kết quả
cuối cùng của toàn bộ các quá trình nhóm đó, trong đó có sự đóng góp của cố
kết nhóm. Việc sử dụng trắc đạc xã hội để hình thành các nhóm cố kết cao
với mong muốn có được một nhóm hoạt động có hiệu quả cao trong hoạt
động của nhóm (thể hiện ở kết quả cụ thể của hoạt động cùng nhau) là một
minh chứng cho mối quan hệ giữa cố kết nhóm và tính hiệu quả nhóm.

Trên phương diện quan hệ liên nhân cách, E.Shaw cho rằng thành viên
của các nhóm cố kết cao nhìn chung thỏa mãn cao hơn với hoạt động chung
của nhóm so với thành viên của nhóm cố kết thấp. Các tác giả khác khẳng
định cố kết nhóm làm tăng tương tác và giao tiếp giữa các thành viên nhóm,
đặc biệt là tăng chất lượng các tương tác (Lot & Lot. 1951, Moran 1966).
Theo quan điểm hoạt động, sự hài lòng với hoạt động cùng nhau không chỉ là
biểu hiện của tính hiệu quả mà ý nghĩa quan trọng hơn của nó là ở vai trò gắn
kết các thành viên và thúc đẩy sự phát triển nhóm. Sự cố kết nhóm do vậy
làm tăng tính hiệu quả nhóm ở 2 khía cạnh: 1) Tăng sự hài lòng trong công
việc chung; 2) Tăng hiệu quả lao động.

2. Sự cố kết trong tập thể

Tuy sự cố kết nhóm (biểu hiện rõ nhất là sự đoàn kết, sự nhất trí, sự
phối hợp hành động là một chỉ số quan trọng đánh giá sự phát triển của
nhóm) không phải là chỉ số quyết định sự khác nhau giữa nhóm và tập thể.
Nhưng là một chỉ số quan trọng đánh giá sự phát triển của nhóm.

Nhóm càng phát triển cao thì sự liên kết càng chặt chẽ, hiệu quả của
hoạt động chung càng cao. Biểu hiện quan trọng nhất của sự liên kết nhóm là
sự đoàn kết nhóm.

a) Khái niệm sự cố kết với tư cách là sự thống nhất giao tiếp nhóm

Cố kết là một thông số quan trọng phân biệt nhóm phát triển thấp và tập
thể - quan điểm này được thể hiện rõ trong Tâm lý học xã hội Mỹ.

* Quan niệm về sự cố kết trong Tâm lý học Mỹ.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Đây là vấn đề được các nhà tâm lý học xã hội phương Tây chú ý nhiều.
Các tác giả Mỹ quan niệm “cố kết” với hai biểu hiện cơ bản sau:

- “Cố kết” là hiệu quả của sự tác động của nhóm tới các thành viên, sức
lôi cuốn của nhóm với các thành viên trong nhóm củng cố mối liên hệ giữa
các thành viên làm cho các thành viên có ý thức về nhóm của mình.

- “Cố kết” biểu hiện trong hiệu quả công việc, trong tính “cộng đồng”
trong hoạt động, lôi cuốn mọi người vào hoạt động chung.

Từ đó, các chỉ số của sự cố kết được xác định bởi:

- Mức độ giao tiếp trong nhóm, tần số (số lần giao tiếp trong một đơn vị
thời gian và cường độ giao tiếp trong nhóm).

- Số lượng và tính chất qua lại của sự lựa chọn lẫn nhau kể cả tích cực
và tiêu cực.

Ví như, G.Hoffman cho rằng phải xác định sự cố kết bằng tần số giao
tiếp, số lần tiếp xúc và cả thời hạn của giao tiếp. Vì ông cho đó là kết quả của
sự thống nhất bên trong nhóm, tăng số lần giao tiếp (một cách nhân tạo cũng
được) sẽ làm cho nhóm từ ít cố kết đến chỗ cố kết. Theo ông, có tiếp xúc
thường xuyên sẽ dẫn đến sự thống nhất chuẩn mực nhóm.

Trong khi đó J.Moreno thì cho rằng: muốn cho nhóm có sự cố kết tốt thì
phải loại bỏ những thành viên bị từ chối trong nhóm, bổ sung bằng những
người được nhóm lựa chọn.

Như vậy sự cố kết được xem là một cộng đồng xúc cảm tâm lý. Các tác
giả đưa ra hai thành phần của sự cố kết đó là: sự “đồng thuận” và “sự hấp
dẫn”: T.Newcomb đưa ra thuật ngữ “đồng thuận” nhưng làm thế nào để đo
được sự hài lòng thì lại đo bằng tần số những tác động qua lại. Ông đã đồng
nhất sự đoàn kết với những đặc điểm xúc cảm tâm lý: “Một hình thái giao tiếp
bất kì có kết quả của nó là sự tăng cường mức độ “đồng thuận”. Ông cho
rằng “đồng thuận” là kết quả của sự giao tiếp trước đó và quy định sự giao
tiếp sau đó.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Sự “đồng thuận” là một trong những cơ chế hình thành chuẩn mực
nhóm, là một trong những phương thức truyền lại những phong tục, tập quán
của thế hệ này cho thế hệ khác.

Thành phần thứ hai là “sức hấp dẫn” của nhóm với các thành viên. Biểu
hiện của nó là ở sự thỏa mãn các nhu cầu cá nhân khi nhu cầu này chỉ có thể
thỏa mãn trong giao tiếp trong nhóm.

Chỉ số để đo sức hấp dẫn của nhóm đối với các thành viên cũng được
đo bằng sự lựa chọn lẫn nhau: “Sức hấp dẫn” gắn chặt với “sự đồng thuận”.
Mức độ “đồng thuận” cao sẽ dẫn đến “sức hấp dẫn” lớn.

Tóm lại: Sự cố kết trong tập thể đặc trưng bằng sự gắn bó qua lại giữa
các thành viên - bằng mức độ cao hay sức mạnh của sự hấp dẫn lẫn nhau và
sức hấp dẫn của nhóm với các thành viên, bằng sự đồng thuận trong thái độ
đối với người xung quanh và ý thức về sự đồng thuận đó.

* Quan điểm trong tâm lý học Xô viết:

Những đặc trưng về cố kết do các nhà tâm lý học xã hội Mỹ đưa ra có
vẻ đúng và khó bác bỏ. Nhưng các tác giả này đã không chỉ rõ được mặt chất
lượng của các đặc trưng giao tiếp nhằm mục đích gì, do động cơ nào chi
phối. Nếu chỉ xét về tần số giao tiếp và sự đồng thuận là chưa đủ.

Nhưng nó có hạt nhân hợp lý là trong giao tiếp bao giờ cũng có màu
sắc xúc cảm: từ ác cảm đến thờ ơ và đến thiện cảm. Nhưng đó chỉ là cơ chế
là con đường dẫn đến cố kết. Sự cố kết trong tập thể phải tính đến: Mức độ
thống nhất của tập thể về mục đích, nhiệm vụ, lý tưởng chung, có ý nghĩa thế
nào. Trong quan hệ liên nhân cách thể hiện tình đồng chí và sự giúp đỡ lẫn
nhau.

Đến nay, nhiều tác giả khẳng định rằng giao tiếp trong tập thể là tiền đề
cho sự cố kết, là cơ chế hình thành sự cố kết. Nhưng bản chất cố kết trong
tập thể là gì vẫn là vấn đề chưa được chỉ rõ.

b) Đoàn kết với tư cách là sự thống nhất định hướng giá trị

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Nói đến sự cố kết trong nhóm là phải nói đến biểu hiện của nó về mặt
chất lượng trong hoạt động chung: sự thống nhất định hướng giá trị. Đây là
một chỉ số của sự cố kết nhóm.

Sự thống nhất định hướng giá trị biểu hiện như là những đặc trưng liên
kết của hệ thống các mối liên hệ bên trong nhóm. Sự liên kết này chỉ rõ trình
độ và mức độ trùng hợp những ý kiến, sự đánh giá, tâm thế trong quan hệ và
quan điểm của nhóm về các đối tượng có ý nghĩa đối với nhóm.

Chỉ số của sự cố kết tập thể là tần số trùng hợp có ý kiến hay quan
điểm của các thành viên với quan điểm chung, ý nghĩa của chỉ số này là ở
chỗ:

- Chỉ số này có thể cho phép so sánh mức độ tính có tổ chức của các
loại nhóm hoặc mức độ phát triển chính nhóm đó trong các thời kì khác nhau.

- Khi hiểu được các chỉ số này chúng ta hiểu sâu sắc hơn tính chất các
mối quan hệ qua lại trong nhóm, tập thể.

Mức độ trùng hợp (thống nhất) ý kiến, đánh giá quan điểm của các cá
nhân không chỉ do giao tiếp trong nhóm, tập thể, mà là kết quả của hoạt động
cùng nhau một cách tích cực - hoạt động cùng nhau đòi hỏi hợp tác, thống
nhất tâm thế, định hướng giá trị, động cơ hoạt động.

Nhưng sự thống nhất định hướng giá trị với tư cách là chỉ số của sự cố
kết hoàn toàn không có nghĩa là các thành viên phải có sự đánh giá, có quan
điểm giống nhau trong tất cả mọi lĩnh vực, mà trong đó mỗi cá nhân vẫn còn
những quan điểm, có cách đánh giá riêng. Đặc biệt trong những vấn đề không
đụng chạm đến các giá trị chung của tập thể. Thống nhất định hướng giá trị
trước hết là sự gần gũi trong cách đánh giá về lĩnh vực đạo đức, về công
việc, về quan điểm đối với mục đích và nhiệm vụ của hoạt động chung.

Sự thống nhất định hướng giá trị chỉ bắt đầu có ở tầng thứ hai trong
cấu trúc theo tầng của tập thể và chỉ thật chắc chắn ở tầng thứ ba. Đó là tầng
cá nhân có cùng một thái độ đối với đối tượng của hoạt động. Có thể nói tầng
thứ ba là hạt nhân của tập thể.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

c) Những quá trình đồng nhất hóa trong tập thể

Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của sự cố kết trong tập
thể là sự giao lưu tình cảm của cá nhân với tập thể. Sống trong tập thể, cá
nhân hoặc có ý thức, hoặc không có ý thức đồng nhất mình với tập thể.

Đồng nhất với tập thể là thái độ đồng cảm với mọi người trong mọi biến
cố thành công hay thất bại trạng thái tình cảm chung của tập thể nhằm hoàn
thành nhiệm vụ đã đặt ra. Biểu hiện của đồng nhất với tập thể là: hoà mình
với trạng thái chung của tập thể, biến thái độ thành động cơ hành động. Đây
là một tiêu chuẩn nói lên mức độ phát triển quan hệ cá nhân trong tập thể và
mức độ đoàn kết trong tập thể.

Sự phát triển của sự đồng nhất này từ chỗ lây lan xúc cảm bình thường
đến mức có nhu cầu cùng thể nghiệm các xúc cảm (đồng cảm) và nó phát
triển trong quá trình sống của cá nhân trong tập thể.

Tập thể là nơi có các quan hệ gần gũi nên là điều kiện thuận lợi cho
việc nảy sinh sự đồng nhất xúc cảm mà trong nhóm phân tán không có. Vì
thế, hiện tượng đồng nhất xúc cảm là một thông số đặc biệt của mức độ phát
triển quan hệ liên nhân cách trong tập thể. Đồng nhất xúc cảm bắt đầu có ở
lớp thứ hai của cấu trúc quan hệ liên nhân cách trong tập thể.

Như vậy, cùng với các chỉ số khác như: đồng nhất xúc cảm, thống nhất
định hướng giá trị cho phép phân biệt mức độ phát triển nhóm để xác định
xem nhóm đã là một tập thể thực sự chưa.

3. Tinh thần tập thể

a) Hiện tượng xu thời (theo đuôi, a dua) và áp lực nhóm

Một trong các phương pháp giải quyết xung đột giữa cá nhân và nhóm
là xu hướng xu thời. Xu thời là sự nương theo áp lực nhóm, là sự đồng nhất
bắt buộc theo hành vi nhóm.

Những nghiên cứu nổi bật trong vấn đề này thuộc về: L.Festinger. Theo
tác giả này có khoảng 1/3 (33%) người Mỹ không có tính tự lập khi giải quyết
các vấn đề mà phải theo ý kiến của nhóm (tập thể) có cách xử sự theo đuôi

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

số đông (có 2/3 giữ được ý kiến riêng). Tức là trong nhận thức của số này có
mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa ý kiến riêng và ý kiến của nhóm nhưng phải theo
ý kiến của nhóm.

Các thí nghiệm khác cũng cho thấy: trong các thành viên thí nghiệm,
nhiều người thấy trong nhận thức của mình có mâu thuẫn nhưng vẫn theo
quyết định như vậy là do nhóm. Như vậy nhóm đã tạo ra áp lực - áp lực này
buộc các cá nhân tuân theo. Bên cạnh đó, áp lực của nhóm phụ thuộc vào số
lượng các cá nhân có sự tương đồng ý kiến. Các nghiên cứu cho thấy: nếu
nhóm gồm 1 - 2 người thì không có hiệu quả, nhưng 3 - 4 người thì hiệu quả.
Tuy nhiên tăng số lượng cá nhân liên kết với ý kiến do thì kết quả cũng vẫn
dừng lại. Chứng tỏ có một số người rất kiên định. Thông thường người ta chỉ
sắp xếp từ 6 đến 8 người trong nhóm là vừa. Nghiên cứu của các tác giả Xô
viết cho thấy: Dạng a dua chung nhất có thể thấy đó là hành vi phù hợp
những tiêu chuẩn nhất định của nhóm hoặc phù hợp với sự mong đợi của
nhóm.

Theo các nhà Tâm lý học xã hội Mỹ, mức độ phù hợp hành vi của cá
nhân với sự mong đợi của nhóm là tiêu chuẩn cho tính a dua.

Nhưng cần lưu ý rằng a dua có những tính chất khác nhau. Sự bắt
buộc thực hiện hành vi của cá nhân theo ý kiến và áp lực nhóm có thể do bên
trong và bên ngoài. Nếu do bên ngoài thì cá nhân lại vẫn giữ lại ý kiến của
mình sau khi rời khỏi nhóm - áp lực nhóm mất hiệu lực.

Nếu do bên trong thì cá nhân vẫn bảo vệ ý kiến của nhóm khi nhóm thôi
không gây áp lực nữa.

Như vậy sự “theo đuôi, a dua” trong nhóm mà không có sự mâu thuẫn
giữa quan điểm của cá nhân với áp lực bên ngoài (áp lực nhóm) thì có thể gọi
là sự ám thị nhóm (tin chắc nhóm đúng). Trong khi hành vi theo đuôi có bản
chất tâm lý là sự sợ hãi bị tách khỏi tập thể, theo đuôi một cách có ý thức hẳn
hoi (biết là mình nghĩ khác) và do vậy, theo đuôi vì ý kiến của tập thể để xu
thời, từ bỏ lợi ích cá nhân. Nói cách khác, cơ chế tâm lý của sự ám thị nhóm

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

khác với cơ chế hành vi “theo đuôi” ở bản chất tâm lý bên trong của nó. Mặc
dù bên ngoài là có sự giống nhau: đều tuân theo hành vi của nhóm.

Trường hợp “ám thị nhóm” thì diễn ra sự tự điều chỉnh hoạt động của
cá nhân dưới ảnh hưởng của quan điểm và ý kiến nhóm một cách vô ý thức,
không cần phê phán (vì luôn luôn tâm niệm nó đứng rồi, không nghĩ đến nó
nữa).

Vấn đề áp lực nhóm trong những công trình về “theo đuôi” đã cho ta
hiểu thêm một số đặc điểm về sự tác động qua lại giữa cá nhân và nhóm. Sự
tác động đó làm nảy sinh trong hiện tượng xu thời.

Ngược lại với tính a dua, theo đuôi, là “tính kiên định” của nhân cách
(trong tình huống nào cũng giữ vững ý kiến, không theo đuôi). Tính kiên định
thể hiện sự độc lập, chắc chắn của cá nhân trong việc phải đưa ra quyết định
cho một sự lựa chọn, bị sự tự xác định của cá nhân trong tập thể.

b) Sự tự xác định của cá nhân trong tập thể

Sự tự xác định ở đây khác với theo đuôi và cũng khác với ám thị nhóm
(cứ tin nhóm là đúng). Tự xác định là sự suy nghĩ (và hành động) theo những
tư tưởng chung của tập thể, theo những mục đích và giá trị chung của tập thể
và hành động phù hợp với ích chung của tập thể.

Nói khác đi đó là giác ngộ mục đích của tập thể và tự nguyện hành
động để đạt mục đích đó. Như vậy ở đây có sự trùng hợp quan điểm của cá
nhân với quan điểm chung, với yêu cầu của tập thể chứ không hề có áp lực
với cá nhân.

Vì cá nhân hướng tới giá trị chung mà mọi người cũng cùng thừa nhận.
Các giá trị đã được nội tâm hóa và trở thành chân lý cho chính bản thân cá
nhân. Sự tự giác của cá nhân biểu hiện rõ nhất khi có sự mâu thuẫn giữa các
giá trị của nhóm với áp lực của nhóm. Khi hướng vào giá trị chung của tập thể
có thể xảy ra tình trạng cá nhân mâu thuẫn với áp lực của nhóm. Đó là lúc cá
nhân nhận thức được áp lực nhóm đi ngược lại giá trị chung của tập thể và

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

trong trường hợp đó cá nhân đã tỏ rõ bản lĩnh và tính độc lập của mình. Còn
kẻ theo đuôi (xu thời) sẽ thỏa hiệp với áp lực của nhóm.

Sự tự giác có tính chất tập thể nảy sinh khi các hành vi của cá nhân
được xác định không bị ảnh hưởng trực tiếp của áp lực nhóm hay phẩm chất
tâm lý của người khác mà bị ảnh hưởng của mục đích nhiệm vụ chung.

Đây là chỗ khác giữa tập thể và nhóm phân tán, nhóm phân tán có thể
có mâu thuẫn giữa các nhóm nhỏ trong đó. Còn tập thể thì khi đã tự xác định
tính tập thể thì thống nhất cá nhân - nhóm - tập thể.

Trong lĩnh vực niềm tin đạo đức, các thực nghiệm đã được tiến hành
cho thấy: Dưới áp lực của nhóm gài vẫn nhiều người giữ vững niềm tin của
mình. Điều đó chứng tỏ là cá nhân có sự tự xác định theo yêu cầu tập thể.

III. MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI CƠ BẢN TRONG ĐỜI


SỐNG TẬP THỂ
1. Thủ lĩnh trong tập thể

* Khái niệm: Trong một tập thể bao giờ cũng xuất hiện những người
cầm đầu các nhóm không chính thức (nhóm tự phát). Những người đó được
coi là thủ lĩnh. Đây là hiện tượng bình thường trong quá trình phát triển của
tập thể như là kết quả của sự tác động qua lại mang tính chất liên nhân cách.
Thủ lĩnh và thủ trưởng có gì khác nhau?

- Thủ trưởng: là người đứng đầu một nhóm chính thức đảm nhiệm việc
lãnh đạo quản lý nhóm. Thủ trưởng xuất hiện do yêu cầu từ bên ngoài. Do
yêu cầu của hoạt động chung người ta phải bổ nhiệm hoặc cho bầu thủ
trưởng.

- Thủ lĩnh: là người cầm đầu một nhóm không chính thức. Thủ lĩnh xuất
hiện do yêu cầu của nội bộ nhóm tự phát - mọi người tự nguyện thừa nhận
người cầm đầu chứ không phải do bên ngoài áp đặt vào.

Thủ lĩnh và thủ trưởng đều có chức năng điều khiển hoạt động chung
của nhóm và điều chỉnh các mối quan hệ trong nhóm nhưng bằng các
phương thức khác nhau. Một bên là bắt buộc còn một bên là tự giác.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

* Có nhiều loại thủ lĩnh:

- Căn cứ vào phong cách có ba loại:

+ Thủ lĩnh độc đoán: tự quyết mọi vấn đề, không cần ý kiến của người
xung quanh.

+ Thủ lĩnh dân chủ: quyết định dựa trên căn cứ của những người xung
quanh.

+ Thủ lĩnh pha trộn: pha trộn giữa độc đoán và dân chủ.

- Căn cứ vào đặc điểm hoạt động có hai loại thủ lĩnh:

+ Thủ lĩnh vạn năng: tình huống nào cũng cầm đầu.

+ Thủ lĩnh tình huống: chỉ cầm đầu trong từng tình huống.

- Căn cứ vào nội dung hoạt động có ba loại:

+ Thủ lĩnh đề xuất: loại này chỉ nghĩ ra việc, không làm.

+ Thủ lĩnh thực hiện: chỉ thực hiện các quyết định của nhóm.

+ Thủ lĩnh vừa đề xuất vừa thực hiện: nghĩ được mà tổ chức làm cũng
được.

- Căn cứ vào mức độ công khai làm thủ lĩnh trong tập thể có hai loại:

+ Thủ lĩnh công khai: công khai làm thủ lĩnh ai cũng biết.

+ Thủ lĩnh ngầm: không công khai làm thủ lĩnh nhưng ai cũng tín nhiệm
nghe theo khi phát biểu. Loại này chỉ xuất hiện tùy từng tình huống.

* Vai trò của thủ lĩnh trong tập thể.

Thủ lĩnh và thủ trưởng có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp. Trường
hợp lý tưởng là hai vai trò này trùng hợp với nhau. Trong trường hợp không
trùng hợp vai trò của thủ lĩnh có thể có hai mặt:

- Vai trò tích cực nếu muốn giúp tập thể.

- Vai trò tiêu cực khi không muốn giúp tập thể. Đặc biệt nếu thủ lĩnh bất
đồng quan điểm với thủ trưởng, không ủng hộ thủ trưởng thì tập thể sẽ khó

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

đoàn kết. Nếu thủ trưởng không mạnh mẽ, cứng rắn thì thủ lĩnh dễ lấn át thủ
trưởng. Một tập thể sẽ là tập thể lý tưởng khi thủ trưởng và thủ lĩnh là một.

Trong trường hợp không trùng hợp, thủ trưởng cần khéo léo lôi kéo tận
dụng vai trò của thủ lĩnh đối với công việc chung.

2. Sự tương hợp Tâm lý trong nhóm

Sự tương hợp tâm lý là một khía cạnh của mối quan hệ liên nhân cách
hình thành giữa các cá nhân trong nhóm. Nó biểu hiện sự hài hòa của quan
hệ giữa các cá nhân. Theo ý nghĩa này, sự tương hợp ngược lại với sự xung
đột liên nhân cách.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về sự tương hợp tâm lý.

Theo N.N.Ôbôzôv, tương hợp là sự kết hợp và tác động lẫn nhau thể
hiện sự hài lòng cao giữa các cá nhân. Quan điểm khác lại nhấn mạnh tương
hợp ở khía cạnh sự thích ứng lẫn nhau của các cá nhân trong hoạt động
chung. Theo tác giả này, có 3 cách tiếp cận đối với với hiện tượng tương hợp
tâm lý: cấu trúc (xem xét sự giống nhau hay khác biệt của các đặc điểm cá
nhân của các thành viên); chức năng (kết quả của sự thống nhất chức năng
nội nhóm và vai trò của các thành viên) và thích nghi.

Một cách phổ biến có thể hiểu: sự tương hợp tâm lý là sự kết hợp
thuận lợi nhất các đặc điểm tâm lý cá nhân của các thành viên trong nhóm
đảm bảo cho công việc chung cũng như sự hài lòng cá nhân đều đạt ở mức
độ cao.

Như vậy, sự tương hợp có hai dấu hiệu cơ bản:

- Tương hợp là sự kết hợp thuận lợi các đặc điểm tâm lý cá nhân.

- Đảm bảo cho công việc đạt kết quả cao đồng thời đảm bảo cho sự hài
lòng giữa các cá nhân cũng ở mức độ cao.

Nếu thiếu một trong hai điều kiện này sẽ không phải là tương hợp.

Sự kết hợp các đặc điểm tâm lý cá nhân có thể theo hai hướng khác
nhau: bù trừ cho nhau hoặc tương đương nhau. Có sự tương hợp dựa trên

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cơ sở bù trừ những khiếm khuyết của các cá nhân để tạo ra sự hoàn thiện
hơn. Sự bù trừ đó giúp các cá nhân đạt được kết quả cao hơn trong công
việc cũng như đem lại cảm giác an toàn về tâm lý cho các cá nhân. Loại
tương hợp dựa trên sự tương đồng của các đặc điểm tâm lý giúp các cá nhân
dễ dàng thống nhất mục đích, hành vi.

Có ba mặt tương hợp:

- Tương hợp sinh lý: gồm sự tương hợp về sức khỏe, một số chỉ số
sinh lý... mặt này cần sự tương đương.

- Tương hợp tâm sinh lý.

- Tương hợp tâm lý: gồm sự tương hợp về nhận thức, khả năng nhận
thức, tính cách của cá nhân, định hướng giá trị và một số vấn đề khác.

Trong đó tương hợp tâm lý là quan trọng nhất.

Mặt này đòi hỏi sự tương hợp tương đương. Đòi hỏi về sự tương hợp
cả ba mặt này thể hiện rõ nhất trong quan hệ vợ chồng.

Trong nhóm, sự tương hợp có vai trò quan trọng:

- Tạo ra bầu không khí tâm lý thoải mái, lành mạnh, đoàn kết trong tập
thể, do đó nâng cao được năng suất lao động, chất lượng học tập, thành tích
thi đấu thể thao... Tinh thần các thành viên nhóm luôn thỏai mái.

- Tập thể gồm toàn những người tương hợp với nhau gọi là tập thể
đồng tâm - luôn đạt hiệu quả công việc cao, lại tránh được xung đột trong tập
thể.

3. Bầu không khí tập thể

* Khái niệm: Là trạng thái tâm lý chung của tập thể, phản ánh tính chất,
nội dung và xu hướng tâm lý thực tế của các thành viên trong tập thể đó.

- Trạng thái tập thể ở đây chủ yếu là tâm trạng của các thành viên trong
tập thể.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Trạng thái này cho biết là mức độ thỏa mãn các nhu cầu của tập thể,
mức độ thỏa mãn các nguyện vọng của các thành viên và kể cả mức độ
tương hợp của các thành viên trong tập thể.

- Cơ chế sinh ra bầu không khí tâm lý là sự lây lan tâm lý từ người này
sang người khác.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý.

- Hoàn cảnh sống và hoạt động của các thành viên chi phối quan hệ
giữa các cá nhân dẫn đến chi phối bầu không khí tâm lý.

- Lề lối và phong cách làm việc của người lãnh đạo.

- Tính chất của các mối quan hệ trong tập thể.

- Những biến cố lớn của xã hội - gây một tâm trạng chung nên có ảnh
hưởng đến bầu không khí trong tâm lý.

- Bản thân tính chất lao động.

- Mức lương.

- Uy tín nghề nghiệp.

- Vị trí công tác, khả năng quan hệ với người khác.

- Khả năng phát triển của nghề nghiệp.

- Những đặc điểm và điều kiện cụ thể của nghề nghiệp, địa điểm công
tác, địa điểm cơ quan, chế độ làm việc, tính chất các mối quan hệ ở cơ quan.

Các yếu tố này chi phối đến sự thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân, từ
đó ảnh hưởng đến các mối quan hệ và ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý.

* Điều kiện để xây dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh:

- Chú ý thích đáng đến mối quan hệ giữa các cá nhân trong tập thể, tạo
điều kiện cho mọi người hiểu và thông cảm với nhau.

- Phân công trách nhiệm rõ ràng, có sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.

- Lãnh đạo có phong cách phù hợp và lưu ý:

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

+ Quan tâm đến tập thể, có phương pháp lãnh đạo phù hợp với tính
chất và mức độ phát triển của tập thể.

+ Thận trọng khi nhận xét đánh giá cấp dưới.

+ Phối hợp với các cơ quan tập thể bạn để giải quyết các vướng mắc,
các nguyên nhân gây ra căng thẳng tâm lý trong tập thể khi các nguyên nhân
này nằm ngoài tập thể mình phụ trách.

4. Dư luận xã hội (tập thể)

a) Khái niệm

- Dư luận xã hội là tổng thể những nhận xét đánh giá của nhiều người
về một sự kiện, hiện tượng nào đó ít nhiều liên quan đến quyền lợi của họ.

- Dư luận là ý kiến của nhiều người.

- Ý kiến về những sự kiện ít nhiều liên quan đến quyền lợi, sở thích,
mối quan tâm... của những người đó.

- Đây là nhận xét đánh giá của nhiều người có kèm với sự biểu thị thái
độ và gắn với hành động xã hội của một cộng đồng.

Lưu ý: Có một hiện tượng gần gũi với dư luận xã hội - đó là tin đồn. Tin
đồn là một phát ngôn thông tin bình thường. Tin đồn cũng được nhiều người
chú ý và truyền đạt cho nhau và nhanh chóng lan ra một diện rộng.

- Dư luận xã hội là một chỉ báo chính xác nhận về thực trạng tinh thần
tư tưởng của một cộng đồng.

b) Phân biệt dư luận xã hội (DLXH) và tin đồn

* Giống nhau:

- Đều là hiện tượng tinh thần, tâm lý của mỗi nhóm người.

- Có nguồn gốc từ một sự kiện nào đó.

- Đều lan truyền nhanh và dễ biến dạng  từ một sự thật có thể cấu
trúc lại và có thể khác đi.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Đều chịu sự chi phối của nhu cầu, lợi ích cá nhân, nhóm xã hội, giai
cấp.

* Khác nhau:

- Về mức độ tham gia của các thành tố tinh thần trong cấu trúc của tin
đồn và dư luận xã hội:

+ Mức độ của sự thận trọng DLXH lớn hơn ở tin đồn. DLXH hình thành
từ các thông tin chính thức, khá đầy đủ còn tin đồn thì ngược lại.

+ Thành phần DLXH là trí tuệ cùng với cảm xúc và ý chí còn tin đồn chủ
yếu diễn ra trên nền cảm xúc chủ quan.

+ DLXH có tranh luận trao đổi dẫn đến đánh giá chung - từ tâm lý cá
nhân hình thành tâm lý xã hội, do đó mang tính khách quan cao hơn. Tin đồn
đề cao chính kiến cá nhân nên dễ bị xuyên tạc.

+ DLXH phản ánh một sự kiện rõ ràng có liên quan đến số đông. Tin
đồn đề cập một vấn đề chưa rõ ràng, liên quan đến ít người.

- Sự khác nhau về sự thể hiện trong xã hội:

+ DLXH lan truyền bằng nhiều hình thức, cả chính thức và không chính
thức, tin đồn truyền bằng con đường không chinh thức.

+ DLXH là nhận xét, đánh giá, biểu thị thái độ của cộng đồng, còn tin
đồn chỉ là thông tin bình thường về sự kiện theo kiểu mô tả lại, có cải biến
thêm thắt.

+ DLXH có vai trò tích cực hơn tin đồn, đánh giá, điều chỉnh hành vi, tư
vấn giáo dục. Tin đồn chỉ truyền tin không có các chức năng trên.

+ DLXH gắn bó với hành động xã hội tiếp theo sự đánh giá nhận xét.
Tin đồn không có hành động hoặc đôi khi có thể có hành động bột phát thiếu
cơ sở.

c) Bản chất của dư luận xã hội

- Dư luận là một quá trình trí tuệ, là quá trình lý trí của quần chúng
nhưng có mang màu sắc cảm xúc.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Dư luận chịu sự chi phối của hệ tư tưởng, luồng dư luận chính thống,
vào luồng dư luận phù hợp với hệ tư tưởng chính thống của xã hội. Do đó
trong xã hội có giai cấp thì dư luận của các giai cấp khác nhau về cùng một
sự kiện có thể khác nhau do mức độ đụng chạm đến quyền lợi của các giai
cấp có sự khác nhau.

- Lưu ý thêm về ý nghĩa của DLXH:

+ DLXH là công cụ mở rộng quyền làm chủ của nhân dân.

+ Là nhân tố tăng cường mối quan hệ giữa quần chúng và lãnh đạo.

+ Giúp cho các nhà quản lý xã hội trên cơ sở khoa học.

d) Chức năng của dư luận xã hội

- Dư luận xã hội điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên cộng đồng. Dư
luận xã hội có thể đánh giá hành vi, do đó có chức năng khuyến khích hoặc
ngăn chặn hành vi. Dư luận đúng sẽ khuyến khích làm hành vi phù hợp với
chuẩn mực chung, ngăn chặn những hành vi sai trái. Dư luận sai có thể dẫn
đến những hành vi tiêu cực.

- Chức năng này có thể chia làm ba chức năng cụ thể như:

+ Điều tiết các quan hệ trong xã hội.

+ Giáo dục các thành viên trong xã hội.

+ Kiểm soát giám sát hành vi của mọi người.

Dư luận xã hội có chức năng tư vấn giúp cho các nhà quản lý các giải
pháp phù hợp với ý chí nguyện vọng của quần chúng.

e) Các giai đoạn hình thành dư luận

- Giai đoạn tri giác sự kiện: có một sự kiện, hiện tượng xảy ra nhiều
người chứng kiến hoặc được cung cấp thông tin về sự kiện - mỗi người có
những suy nghĩ đánh giá riêng khi biết về sự kiện.

- Trao đổi những suy nghĩ, đánh giá của mình về sự kiện với nhau. Các
suy nghĩ đánh giá của cá nhân chuyển lĩnh vực ý thức cá nhân sang ý thức

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cộng đồng. Các ý kiến có thể khác nhau, có khi đối lập nhau họ trao đổi tranh
luận với nhau.

- Thống nhất ý kiến: Những ý kiến khác nhau sẽ có thể thống nhất lại
xung quanh các quan điểm cơ bản, dư luận hình thành, nếu không thống nhất
dư luận không thành.

- Cuối cùng là các phán xét kiến nghị của tập thể cộng đồng với cấp
trên.

Người lãnh đạo lưu ý: Dùng biện pháp tích cực để mọi người hiểu đúng
đắn bản chất của sự kiện không nên ép quần chúng hiểu theo ý kiến cá nhân
lãnh đạo. Dư luận nào lành mạnh thì duy trì, dư luận thiếu lành mạnh thì
không duy trì.

g) Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành dư luận

- Tính chất của sự kiện gây nên dư luận ảnh hưởng đến tốc độ và
cường độ dư luận:

+ Động chạm đến quyền lợi nhiều người: dư luận hình thành nhanh.

+ Động chạm đến những quyền lợi thiết thân, những chuẩn mực được
tôn trọng thì dư luận hình thành nhanh, mạnh.

- Chất lượng và số lượng thông tin về sự kiện ảnh hưởng đến tốc độ
hình thành và mức độ đúng đắn phù hợp của dư luận.

+ Thông tin đầy đủ thì dư luận hình thành nhanh.

+ Thông tin chính xác thì dư luận hình thành đúng với bản chất của sự
kiện và chuẩn mực chung.

Nếu thông tin thiếu, không rõ ràng, không chính xác dẫn đến sự phán
đoán mơ hồ, kéo dài thì dư luận chưa chắc đã hình thành lúc đó người ta gọi
là “tin đồn”.

- Mức độ chuẩn bị của tập thể đối với sự kiện xảy ra ảnh hưởng đến tốc
độ hình thành dư luận. Nên tập thể được chuẩn bị trước về thái độ, tư tưởng,
được hướng dẫn thì những sự kiện xảy ra dư luận hình thành nhanh chóng

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

và đúng đắn. Nếu tập thể bị bất ngờ dư luận khó hình thành, ý kiến dễ bị phân
tán. Do đó nếu đoán trước được luồng tư tưởng trong tập thể sẽ điều khiển
được quá trình hình thành dư luận.

- Mức độ phát triển của tập thể ảnh hưởng đến cường độ và tốc độ
hình thành dư luận: Tập thể phát triển cao, đoàn kết, dư luận hình thành
nhanh mạnh và ngược lại tập thể mới hình thành, thiếu đoàn kết thì khó có dư
luận đúng đắn.

- Nếp nghĩ của mọi người trong tập thể ảnh hưởng đến tính chất của
dư luận.

- Nếp nghĩ chủ quan phiến diện, định kiến sẽ dẫn đến phán đoán sai
lệch - dư luận không đúng. Nếp nghĩ toàn diện, không định kiến dư luận sẽ
đúng đắn hơn.

- Không khí đạo đức thói quen và tâm trạng chung của cộng đồng cũng
có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành DLXH.

5. Xung đột trong tập thể

a) Khái niệm xung đột

Thực tế hiện nay cho thấy: quá trình vận động và phát triển của các
nhóm xã hội không thể tránh được xung đột. Các cuộc xung đột luôn luôn
diễn ra ở tất cả các nhóm xã hội, bất kể quy mô của nhóm lớn hay nhỏ. Do
đó, việc nghiên cứu xung đột của nhóm trở thành nội dung quan trọng của
Tâm lý học xã hội hiện nay. Vậy chúng ta hiểu thế nào là xung đột?

Quá trình hình thành và phát triển các nhóm xã hội tự nó đã chứa đựng
các mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn về quan điểm, về cá tính, về lợi ích của các
thành viên và nhóm nhỏ hơn trong đó. Nhưng không phải mâu thuẫn nào
cũng biến thành xung đột, mà chỉ khi mâu thuẫn đó bùng nổ thì xung đột mới
xuất hiện. Theo các tác giả Severy, Bngham và Schlenker, xung đột là hoàn
cảnh mà ở đó mục đích của hai hoặc nhiều người không thống nhất nhau ở
một số mức độ nào đó. Các xung đột cũng có thể xảy ra khi các thành viên
của nhóm thống nhất nhau về các mục đích cơ bản, nhưng lại không thống

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

nhất về các mục đích thứ yếu hoặc về mục đích có thể thống nhất nhau
nhưng lại khác biệt về các phương thức thực hiện mục đích đó. Ví dụ trong
gia đình, hai vợ chồng đều thống nhất với nhau cần phải nghiêm khắc với con
cái nhưng lại không thống nhất với nhau trong phương pháp và mức độ thể
hiện sự nghiệm khắc đó. Một nhà tâm lý học Mỹ là J.P.Chaplin lại cho rằng:
xung đột là hai hoặc nhiều xung lực hay động cơ có tính đối kháng lẫn nhau
xay ra một cách đồng thời.

Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về xung đột. Tác giả Vũ
Dũng cho rằng: Xung đột là sự khác biệt (về quan điểm, mục đích, động cơ)
giữa các thành viên trong quá trình thực hiện hoạt động của nhóm.

Như vậy, dù xem xét ở các góc độ khác nhau nhưng các tác giả đều có
sự thống nhất nhất định trong việc xác định nội hàm của khái niệm xung đột.
Từ các quan niệm khác nhau nêu trên, chúng ta có thể quan niệm xung đột là:
sự bùng nổ các mâu thuẫn giữa các thành viên trong nhóm khi thực hiện hoạt
động chung của nhóm.

Như vậy, mâu thuẫn thì lúc nào cũng tồn tại nhưng xung đột có thể xảy
ra hoặc không xảy ra. Chỉ khi nào mâu thuẫn bùng nổ người ta không thể hòa
giải nó từ xung đột xảy ra. Những xung đột lớn hoặc mâu thuẫn ở mức độ sâu
sắc có thể dẫn đến bạo lực. Những xung đột nhỏ thường ít được các thành
viên của nhóm quan tâm, nhưng khi các xung đột nhỏ này cứ tích tụ dần và
đến mức độ nào đó nó sẽ xảy ra xung đột lớn, có thể tạo nên sự bất hòa
nghiêm trọng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm.

b) Bản chất và tác hại của xung đột

Có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của xung đột. Parker Follet
cho rằng, xung đột cần phải được hiểu như sự khác biệt - khác biệt về quan
điểm và lợi ích.

C Mác viết: Suy cho cùng, mọi mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn lợi
ích. Chính lợi ích mới là nguồn gốc sâu xa của xung đột. Khi con người có
mâu thuẫn lợi ích (có thể là vật chất hoặc tinh thần) thì rất dễ xảy ra xung đột.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Mức độ lợi ích của mỗi bên trong mâu thuẫn sẽ chi phối mức độ xung đột.
Nếu lợi ích đối kháng nhau thì xung đột sẽ rất mạnh mẽ và có thể loại trừ
nhau. Trong xung đột, mọi người nhận diện ra sự khác biệt giữa mình và với
người khác. Tùy mức độ mâu thuẫn lợi ích mà họ nhìn người khác như đối
thủ hoặc như kẻ thù.

Tác giả Vũ Dũng cũng cho rằng xung đột là sự khác biệt về quan điểm
mục đích, động cơ... khi thực hiện hoạt động nhóm.

Như vậy theo các tác giả, xung đột là do khác biệt về một điều gì đó.
Nhưng thực tế, nhiều sự khác biệt không dẫn đến xung đột. Sự khác biệt là
tất yếu trong cuộc sống. Mặc dù có sự khác biệt nhưng con người vẫn có thể
dung hòa với nhau, nhường nhịn nhau và xử lý các mâu thuẫn bằng hòa giải
hoặc một bên chấp nhận sự thua thiệt để giữ lấy sự cân bằng.

Khi có xung đột xảy ra, người ta phải tìm hiểu ngay lợi ích mỗi bên để
xác định mức độ xung đột. Nhìn hình thức bên ngoài, có khi chỉ là vấn đề
quan điểm về một vấn đề gì đó. Nhưng bên trong có thể là sự khẳng định bản
thân của mỗi người (lợi ích tinh thần).

Từ các phân tích trên có thể thấy, bản chất của xung đột là các mâu
thuẫn lợi ích giữa các thành viên của nhóm hoặc của các bộ phận trong
nhóm. Điều hòa các lợi ích cho phù hợp là một biện pháp quan trọng để
phòng ngừa xung đột xảy ra.

Xung đột có tác hại rất lớn đến nhóm và mỗi cá nhân. Khi nhóm có
xung đột, bầu không khí của nhóm bị phá vỡ. Môi trường sống yên bình của
cá nhân bị đảo lộn làm người ta sống trong trạng thái căng thẳng, không có
lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Sau mỗi lần xung đột cá
nhân phải mất thời gian thể nghiệm lại bản thân nên vừa mất thời gian vừa bị
phân tán tư tưởng trong công việc. Do đó, những người bị lôi kéo vào xung
đột sẽ làm việc kém hiệu quả và dễ gây tai nạn vì không tập trung.

Đối với toàn nhóm, khi có xung đột, nhóm không thể thống nhất ý kiến
và hành động nên năng suất lao động sẽ giảm đi, mọi người dễ nghi kị nhau.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng có những xung đột mang tính tích
cực, thông thường đó là xung đột đơn thuần về ý kiến, phương thức hoạt
động, không phải là các xung đột lợi ích. Các xung đột được gọi là tích cực có
thể đem lại một động lực mới cho sự phát triển của một nhóm. Dạng xung đột
này có thể giúp nhóm thoát khỏi trạng thái ỳ, khi các cá nhân đồng thuận đến
mức bị động.

c) Các loại hình xung đột và vấn đề giải quyết xung đột

* Các loại hình xung đột:

Căn cứ vào chủ thể tham gia vào xung đột, người ta có thể chia xung
đột thành các loại hình sau:

- Xung đột trong mỗi cá nhân (còn gọi là xung đột nội tâm): Loại xung
đột này xuất hiện khi cá nhân tham gia vào những nhóm xã hội có những lợi
ích khác nhau. Họ lúng túng không biết chọn theo lợi ích nào. Lợi ích của mỗi
nhóm đều có sức hấp dẫn với cá nhân nhưng không cho phép cá nhân chọn
cả hai, mà chỉ được phép chọn một.

- Xung đột cá nhân với cá nhân: Loại xung đột này diễn ra khi cá nhân
này cho rằng cá nhân kia cản trở hoặc phá hoại lợi ích của mình.

- Xung đột cá nhân với tập thể: Đây là loại xung đột xuất hiện khi cá
nhân cho rằng tập thể ngăn cản lợi ích của họ và họ không chấp nhận ý kiến,
quyết định của tập thể.

- Xung đột tập thể với tập thể: Loại xung đột này vẫn thường xảy ra khi
tập thể này cho rằng tập thể kia ngăn cản hoặc phá hoại lợi ích của tập thể
mình.

* Phòng ngừa và giải quyết xung đột:

- Về cơ bản phải phòng ngừa xung đột; không nên để xung đột xảy ra
rồi mới giải quyết. Muốn phòng ngừa xung đột cần xác định rõ bản chất của
xung đột và có biện pháp phòng ngừa.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Trước hết, người lãnh đạo nhóm phải điều hòa lợi ích trong nhóm sao
cho thỏa đáng, không nên để có sự chênh lệch quá lớn về lợi ích giữa các
thành viên hoặc giữa các bộ phận.

- Cần có phương pháp lãnh đạo khoa học và phù hợp với tính chất và
đặc điểm của đơn vị mình phụ trách.

- Giải toả các mâu thuẫn nhỏ, không để cho thâu thuẫn nhỏ tích tụ sẽ
dẫn đến mâu thuẫn lớn đến mức bùng nổ không thể ngăn chặn.

- Khi xung đột xảy ra thì phải nhanh chóng xác định mâu thuẫn của mỗi
bên và tác động để giảm mâu thuẫn đó. Có thể trong nhóm có kẻ phá hoại
gây mất ổn định trong nhóm hoặc có người cố tình không chấp nhận những
chuẩn mực của nhóm.

Phương pháp giải quyết là thuyết phục các bên ngồi lại và hòa giải với
nhau. Khi không làm được việc đó thì có thể dùng các biện pháp hành chính
như: chuyển cá nhân xung đột sang đơn vị khác, hoặc kỉ luật kẻ gây rối...

HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:

Các vấn đề liên quan đến tâm lý học tập thể là cơ sở quan trọng cho
việc tổ chức và quản lý tập thể sinh viên và tập thể giảng viên (lĩnh vực quản
lý và phát triển tổ chức, tập thể). Hướng ứng dụng này có mục đích là tạo ra
sự vận hành thuận lợi và có hiệu quả của tập thể, tổ chức. Cụ thể:

- Điều chỉnh sự vận động và phát triển của tập thể thông qua các giai
đoạn, trong đó có thể nhận biết được tính chất của tập thể trong từng giai
đoạn và dự báo được xu hướng vận động và phát triển của tập thể.

- Có cách tiếp đầy đủ toàn diện đối với tập thể theo các lớp cấu trúc của
nó.

- Tác động hình thành các lớp cấu trúc của tập thể sinh viên, giảng
viên. Tận dụng vai trò của từng lớp cấu trúc trong việc tổ chức hoạt động của
tập thể, đánh giá mức độ gắn kết và tính chất của sự gắn kết trong tập thể.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Tạo ra những sự tương đồng trong hoạt động, thể hiện ở mục đích
chung, tạo ra sự tương hợp trong thái độ và hành vi đối với tập thể.

- Có các cách ứng xử phù hợp với các hiện tượng thủ lĩnh, lãnh đạo
các dư luận tập thể: tạo dư luận hay ngăn ngừa dư luận, nhận biết các xung
đột tập thể và đề ra cách thức giải quyết các xung đột đó.

- Quan tâm tới việc nhận biết các đặc trưng của tập thể trong lĩnh vực
hoạt động khoa học.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG IV

1. Tập thể là gì? Nêu sự khác biệt giữa nhóm nhỏ và tập thể. Có những
giai đoạn phát triển nào trong tập thể?

2. Sự khác biệt và mối quan hệ giữa thủ lĩnh và thủ trưởng? Cần có
cách ửng xử như thế nào nếu thủ lĩnh và thủ trưởng không phải là một trong
nhóm? Tại sao?

3. Sự tương hợp Tâm lý là gì? Vai trò của sự tương hợp Tâm lý? Có
thể tạo ra sự tương hợp tâm lý như thế nào?

4. Thế nào là bầu không khí Tâm lý của tập thể? Làm thế nào để có bầu
không khí tập thể tích cực?

5. Dư luận xã hội là gì? Sự hình thành dư luận có những giai đoạn


nào? Muốn hình thành dư luận cần làm gì?

6. Xung đột là gì? Bản chất của xung đột? Làm thế nào để phòng tránh
xung đột?

Chương 5. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM


KÍCH
Nội dung cơ bản:

- Ảnh hưởng xã hội: khái niệm, ảnh hưởng của môi trường văn hóa đến
hành vi của cá nhân, ảnh hưởng của nhóm tới cá nhân;

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Định kiến xã hội: khái niệm, nguồn gốc của định kiến xã hội, điều
chỉnh định kiến xã hội;

- Sự xâm kích: khái niệm, những yếu tố ảnh hưởng đến sự xâm kích,
xâm kích có tổ chức.

I. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI


1. Khái niệm ảnh hưởng xã hội

Khi nghiên cứu ảnh hưởng của xã hội đến cá nhân, người ta đã thấy
hành vi của cá nhân khi họ ở trong nhóm và khi họ chỉ có một mình là khác
nhau. Rõ ràng, khi ở một mình họ có thể tự do hơn trong việc lựa chọn hành
vi ứng xử với một đối tượng nào đó. Nhưng khi ở trong nhóm, họ phải căn cứ
vào hoàn cảnh thực tế, vào chuẩn mực của nhóm, vào ý kiến của những
người xung quanh để hành động. Rõ ràng, con người không thể hoàn toàn tự
quyết định hành động của mình khi có những người xung quanh, ít nhiều họ
phải chịu ảnh hưởng, tác động từ những người xung quanh. Ví dụ: “nhập gia
tùy tục”. Đó chính là ảnh hưởng xã hội.

Vậy ảnh hưởng xã hội thực chất là tác động của những người xung
quanh lên hành vi và cách ứng xử của cá nhân khi họ ở trong một nhóm xã
hội nào đó. Khi có những người xung quanh, hành vi của cá nhân khác rất
nhiều khi họ chỉ có một mình. Họ phải tính đến đặc điểm của những người
xung quanh và có hành vi phù hợp với mong đợi của những người xung
quanh. Để thấy rõ ảnh hưởng của nhóm lên hành vi của cá nhân các nhà
Tâm lý học xã hội đã tiến hành những thí nghiệm so sánh kết quả công việc
của cá nhân khi họ làm việc riêng biệt một mình và khi họ làm việc ở trong
môi trường nhóm. Các kiểu nhóm khác nhau ảnh hưởng lên hành vi cá nhân
cũng khác nhau. Kết quả cho thấy nhóm là một tác nhân quan trọng ảnh
hưởng đến hành vi của cá nhân khi họ ở trong nhóm.

Ảnh hưởng của nhóm làm cho hành vi của cá nhân thay đổi so với điều
kiện họ ở một mình bằng một số cơ chế cụ thể. Đó là các cơ chế: giải thích
duy lý đồng nhất, đổ lỗi...

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Giải thích duy lý là đưa ra những lý do hợp lý, dễ được nhóm chấp
nhận để giải thích cho hành vi, cách ứng xử của mình. Khi con người có một
hành động nào đó, bao giờ họ cũng giải thích bằng những nguyên nhân nào
đó. Nguyên nhân họ đưa ra thường có hai loại: nguyên nhân hợp lý và
nguyên nhân thực tế. Khi một người hành động hoàn toàn đúng đắn thì hai
nguyên nhân này là một. Nhưng khi hai nguyên nhân đó không trùng nhau thì
phải có cách giải thích khác nhưng phải “có lý”. Chẳng hạn khi công việc đang
rất bận rộn, có người rủ bạn ra quán uống cà phê. Bạn nhận lời và bỏ việc để
ra quán ngồi. Mặc dù bạn biết việc đó là không nên, nhưng để biện minh cho
hành động của mình, bạn bạn tự lý giải rằng: “Công việc thì bao giờ mới hết,
uống ly cà phê cho tỉnh táo, người thoải mái sẽ làm việc tốt hơn để bù lại”...

Giải thích duy lý không bị cho là xấu mà là một hiện tượng thực tế, rất
phổ biến.

Nhờ cơ chế này mà con người thấy thanh thản hơn khi làm một việc gì
đó mà lúc đầu chính mình thấy chưa thật đúng.

- Cơ chế thứ hai là đồng nhất. Đồng nhất là quá trình con người hòa
vào với người khác, làm cho mình có những hành vi và cách ứng xử giống
những người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, cơ chế đồng nhất thể hiện rất
rõ. Khi nhiều người trong cộng đồng có cách nói, cách ăn mặc giống nhau thì
những người còn lại cũng không muốn mình khác mọi người nên cũng có
cách nói, cách ăn mặc giống số đông. Sự đồng nhất có cơ sở là tính cộng
đồng, tính xã hội trong mỗi con người. Chính con người phải dựa vào nhau,
liên kết với nhau đề tồn tại nên con người luôn có xu hướng hòa mình vào với
người khác.

Sự đồng nhất cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự dễ rung động của tình
cảm con người đối với người khác trước một tình huống nào đó. Đây là cơ sở
tâm lý xã hội cho những người hoạt động từ thiện dùng để tác động vào lòng
trắc ẩn của con người, khơi dậy tình cảm của mọi người đối với những người
đang gặp khó khăn, bất hạnh...

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Cơ chế đồng nhất giúp cho con người sống gần gũi, gắn bó với nhau
hơn. Khi đồng nhất mình với người khác, con người dễ hiểu và thông cảm
cho nhau vì thế có những hành động và ứng xử phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể.

- Một cơ chế phổ biến của sự ảnh hưởng xã hội là đổ lỗi. Đổ lỗi là một
liệu pháp tâm lý để con người “đẩy ra” hoặc “trút bớt” lỗi lầm, khuyết điểm của
chính mình. Nhiều trường hợp con người không dám nhận sai lầm của mình
mà thường đổ lỗi cho khách quan. Các nhà tâm lý học xã hội đã nghiên cứu
và đưa ra nhận xét rằng: khi thành công, con người thường nghĩ ngay rằng
kết quả đó trước hết nhờ sự đóng góp của bản thân họ. Nhưng khi thất bại
người ta lại nghĩ ngay đến những yếu tố khách quan gây ra. Chẳng hạn hôm
nay ta đi làm muộn là vì đường phố đông người, giao thông tắc nghẽn, trời
mưa lụt lội. Một số nhà tâm lý học xã hội Mỹ làm việc ở các trường phổ thông
cho biết, ít nhất họ cũng đã một lần gặp các bà mẹ có con làm test trí tuệ mà
đạt điểm số thấp thì họ cho rằng người hướng dẫn làm test không đúng hoặc
test không chính xác.

Cơ chế “đổ lỗi” có lợi về mặt tâm lý ở chỗ nó làm giảm bớt trạng thái
nặng nề của cảm giác thất bại.

2. Ảnh hưởng của môi trường văn hóa đến hành vi cá nhân

Sống trong môi trường xã hội, con người chịu ảnh hưởng rất lớn của
môi trường văn hóa. Hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa là tất cả các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Môi trường văn hóa có thể được
hiểu là toàn bộ yêu cầu về các mối quan hệ, các chuẩn mực xã hội tác động
đến con người. Trong môi trường văn hóa, quan trọng nhất là các chuẩn mực
trong quan hệ, trong ứng xử điều tiết hành vi của con người. Chính các chuẩn
mực đó là khuôn mẫu hành vi mà con người phải tuân theo. Sống trong môi
trường văn hóa nào, con người chịu ảnh hưởng của môi trường đó. Ví dụ,
người châu Âu thường không hỏi tuổi phụ nữ, vì họ quan niệm, phụ nữ là
phái đẹp, phái đẹp không có tuổi. Ngược lại, ở châu Á, mới gặp người ta hay
hỏi tuổi tác để thể hiện sự quan tâm và để dễ xác định quan hệ trên dưới. Vì

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thế, khi tiếp xúc với người châu Âu chúng ta phải hiểu những đặc điểm văn
hóa của họ để cư xử cho phù hợp. Ngược lại, khi người châu Âu sang châu Á
làm việc, họ cũng phải tìm hiểu đặc điểm văn hóa của phương Đông để có
thể hòa đồng với nơi họ tới. Dân gian Việt Nam có câu: Đáo giang tùy khúc,
nhập gia tùy tục nghĩa là đến một nơi mới người ta phải hòa nhập với văn hóa
ở nơi đó. Nếu thời gian sống ở một nơi nào đó kéo dài, người ta sẽ tuân theo
phong tục tập quán, sử dụng ngôn ngữ ở nơi đó. Như vậy những đặc trưng
văn hóa của nơi đó đã được phản ánh vào hành vi, cách ứng xử và ngôn ngữ
của một con người. Hay nói khác đi môi trường văn hóa đã để dấu ấn của
mình lên hành vi của con người.

3. Ảnh hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân

Ảnh hưởng của nhóm đối với hành vi của cá nhân đã được phân tích
nhiều ở các phần khác nhau của tài liệu này. Mỗi nhóm đều theo đuổi những
giá trị nhất định, có những chuẩn mực nhất định. Các cá nhân tham gia vào
nhóm đều phải tuân theo các chuẩn mực và bảo vệ các giá trị chung đó. Vì
thế, cũng giống như sống trong một môi trường văn hóa, con người phải có
hành vi phù hợp với chuẩn mực chung. Có thể xem xét ảnh hưởng của nhóm
đối với hành vi của cá nhân trong hai lĩnh vực: trong công việc và trong thảo
luận nhóm.

- Trong công việc thực nghiệm của các nhà tâm lý học mà cho thấy: khi
cá nhân làm việc trong điều kiện có mặt của nhóm, tốc độ công việc tăng cao
hơn. Các cá nhân đều chịu sự tác động của nhóm nhưng có sự khác biệt về
mức độ ảnh hưởng của nhóm với từng cá nhân. Những cá nhân làm chậm
chịu ảnh hưởng nhiều hơn những cá nhân làm nhanh ít chịu ảnh hưởng của
nhóm hơn.

Nhà Tâm lý học xã hội Dashiel làm thí nghiệm so sánh hành vi của con
người trong các điều kiện làm việc khác nhau như: 1) Một mình; 2) Trong
nhóm không có thi đua; 3) Trong nhóm có sự thi đua; 4) Trước sự có mặt của
cổ động viên. Ở hai trường hợp đầu không thấy có sự thay đổi rõ nét về tốc
độ cũng như tính chính xác của công việc. Nhưng trong hai trường hợp sau

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

thì tốc độ của công việc tăng lên rõ rệt, còn tính chính xác thì thay đổi không
đáng kể. Trong một thí nghiệm khác: nghiệm thể làm việc trong các phòng
riêng biệt nhưng có tín hiệu thời gian chung do một trung tâm thông báo và
các cá nhân làm việc trong các phòng riêng với tín hiệu thời gian do đồng hồ
tự động báo riêng cho từng phòng. Trong điều kiện thứ nhất tốc độ công việc
nhanh hơn còn độ chính xác thì ngược lại. Điều đó chứng tỏ rằng mặc dầu cá
nhân làm việc riêng biệt nhưng vẫn có mối liên hệ với xã hội thì vẫn chịu ảnh
hưởng của nhóm mang tính chất tưởng tượng.

Từ các nghiên cứu, các nhà tâm lý học xã hội đưa ra kết luận: khi làm
việc trong nhóm cùng với những đồng nghiệp thì trong đa số các trường hợp
tốc độ công việc có tăng lên, còn tính chính xác, chất lượng công việc nói
chung không có sự thay đổi đáng kể.

- Tình huống thứ hai là thảo luận nhóm. Trong thảo luận nhóm, cá nhân
cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều ý kiến của nhóm. Có nhiều nghiên cứu cho
thấy: ý kiến đánh giá của cá nhân được củng cố và hoàn thiện hơn nhờ thảo
luận của nhóm. Trong các nghiên cứu thì đáng chú ý nhất là công trình của
Jenness. Ông cho học sinh đoán số hạt đậu trong một chai thủy tinh. Ông
nhận thấy khi các em có bàn nhau về số lượng hạt và biết được các ý kiến
của những bạn khác thì dự đoán của các em sẽ chính xác gấp ba lần so với
những bạn không tham gia thảo luận.

Một số nghiên cứu khác cũng đánh giá cao vai trò của thảo luận nhóm
đối với hành vi cá nhân. Có ý kiến cho rằng, khi cần đưa ra nhiều giả thiết thì
nhóm đông người tốt hơn, nhưng khi cần đưa ra những ý kiến chính xác thì
nhóm ít người có lợi hơn. Điều đó có thể thấy rất rõ qua thực tế của lĩnh vực
chính trị và quản lý hành chính.

Dashiel cũng đã chứng minh rằng, hội đồng thẩm vấn thường đưa ra số
lượng các tình tiết đầy đủ và chính xác hơn thột cá nhân hội thẩm. Theo các
nhà nghiên cứu sở dĩ tư duy của nhóm được xem là ưu việt hơn tư duy của
cá nhận bởi vì nó có nhiều cách tiếp cận với vấn đề hơn. Nhóm đưa ra được
nhiều giải pháp, sự nhận xét đối với từng ý kiến có hiệu quả hơn; hơn nữa tư

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

duy của nhóm thì ít có tính độc đoán. Do vậy, trong quá trình ra quyết định
nhóm, cần tạo điều kiện để mọi cá nhân đưa ra ý kiến của mình. Ý kiến đó có
thể đóng góp cho quyết định chung, cũng có thể ý nghĩa của ý kiến đó không
lớn, tuy nhiên điều quan trọng là đưa ra ý kiến giúp cá nhân dễ dàng chấp
nhận ý kiến của nhóm hơn.

II. ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI


1. Khái niệm định kiến xã hội

Định kiến là một vấn đề trọng tâm trong các nghiên cứu về nhóm của
Tâm lý học xã hội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Đây là
một trong những khía cạnh tâm lý xã hội đặc trưng của nhóm, phản ánh đời
sống tâm lý phức tạp trong ứng xử và quan hệ của con người trong phạm vi
nhóm và phạm vi xã hội. Các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều quan niệm khác
nhau về định kiến.

Theo cách hiểu đơn giản, định kiến là ý kiến đánh giá có trước về một
vấn đề nào đó. Thường người ta dùng từ định kiến để chỉ một sự nhìn nhận
không đúng sự thật nhưng người có định kiến không chịu thay đổi ý kiến của
mình. Như vậy, định kiến được hiểu theo nghĩa tiêu cực. Người ta thường
không chấp nhận những người có định kiến về một vấn đề nào đó.

Các nhà tâm lý học Xô viết quan niệm: định kiến là quan niệm đơn giản,
máy móc, thường không đúng sự thật về một vấn đề xã hội, về một cá nhân
hay nhóm xã hội nào đó. Như vậy, theo các nhà tâm lý học Xô viết thì định
kiến mang tính tiêu cực trong ứng xử đối với thế giới xung quanh.

Theo J.P.Chaplin, định kiến : 1) Là thái độ có thể tích cực hoặc tiêu cực
được hình thành trước trên cơ sở những dấu hiệu rõ ràng trong đó đặc biệt là
yếu tố cảm xúc; 2) Là lòng tin hoặc cách nhìn, thường là không thiện cảm làm
cho chủ thể có cách ứng xử hoặc cách nghĩ như vậy đối với những người
khác.

G.W. Allport cho rằng, định kiến được xem như thái độ có tính ác cảm
và thù địch đối với các thành viên của nhóm (Allport, 1954).

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Có thể có nhiều quan niệm nữa về định kiến, nhưng chỉ cần qua các
quan niệm đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy, các nhà nghiên cứu đều thống
nhất cho rằng: định kiến là một kiểu thái độ có trước, mang tính tiêu cực. Có
thể là thái độ tiêu cực đối với nhóm hoặc các thành viên của nhóm. Người ta
có thể có những thái độ tiêu cực đối với các cá nhân hoặc các nhóm. Không
phải tất cả các thái độ tiêu cực đều trở thành định kiến, nhưng định kiến có
nguồn gốc từ các thái đô tiêu cực đó.

Có thể hiểu định kiến là thái độ có trước mang tính tiêu cực, bất hợp lý
đối với một hiện tượng, một cá nhân hoặc một nhóm.

Khi nói định kiến là nói tới sự phán xét, là thái độ đã có sẵn từ trước khi
hiện tượng xảy ra hoặc trước khi biết một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó
của cá nhân hay của một nhóm. Định kiến mang tính bất hợp lý, tiêu cực.
Điều này thể hiện qua một số khía cạnh sau: Thứ nhất, thái độ này được dựa
trên nguyên nhân sai lầm hoặc thiếu lôgic. Chẳng hạn, khi có chuyện quan hệ
ngoài hôn nhân của một cặp trai gái nào đó thì thường người ta lên án phụ
nữ. Đó chính là định kiến đối với nữ giới. Mặc dù, thực tế chuyện đó là có lỗi
thì không phải chỉ là lỗi của phụ nữ. Tuy mọi người thấy là vô lý nhưng rất khó
thay đổi ý kiến và thái độ của họ.

2. Nguồn gốc của định kiến xã hội

Định kiến được hình thành qua một quá trình lâu đài và có thể được
truyền lại cho thế hệ sau thông qua các tập tục của cộng đồng. Lúc đầu có thể
muốn giữ vị thế có lợi cho mình nên người ta đặt ra các luật lệ, quy tắc và có
thái độ cảnh giác với một nhóm hoặc cộng đồng khác. Ví dụ, đàn ông luôn
muốn giữ vị thế thống trị trong gia đình và xã hội nên đặt ra các quy tắc khắt
khe với phụ nữ và tạo ra thái độ không tôn trọng phụ nữ. Từ đó hình thành
định kiến giới và cứ thế định kiến giới tồn tại cho đến bây giờ thông qua các
tục lệ và các quy tắc xã hội. Đôi khi, người ta thấy nó vô lý nhưng do nó tồn
tại quá lâu đời nên đã ăn vào tiềm thức con người. Thậm chí ăn vào tiềm thức
của chính người bị định kiến. Muốn xoá bỏ định kiến này phải có thời gian.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Quan niệm không đúng về một vấn đề xã hội hoặc về một nhóm người
nào đó cũng là nguồn gốc dẫn đến định kiến xã hội. Ví dụ, người ta quan
niệm rằng: Giọt máu đào hơn ao nước lã, nên không thể hi vọng con dâu
thương bố mẹ chồng, con rể thương bố mẹ vợ. Quan niệm như vậy nên dẫn
đến họ định kiến với con dâu, con rể (những người khác máu tanh lòng), họ
cho rằng con dâu, con rể không bao giờ thương mình nên cũng không dại gì
mà thương họ. Nhưng thực tế lại khác, nhiều cô con dâu rất có tình cảm và
trách nhiệm với bố mẹ chồng. Nhưng do những câu ca dao, tục ngữ, những
câu chuyện truyền miệng làm cho người đời hiểu sai, dần dần hình thành
những quan niệm không đúng dẫn đến định kiến về những người làm dâu,
làm rể.

Trong các định kiến xã hội thì định kiến giới và định kiến dân tộc là biểu
hiện rõ nét. Các định kiến này có nguồn gốc từ các chuẩn mực của xã hội do
các giai cấp thống trị xã hội đặt ra từ trước và khuyến khích, cổ vũ cho các
định kiến dân tộc đó. Hầu hết các thành viên trong xã hội chấp nhận các
chuẩn mực đó và định kiến càng phát triển và càng được được thể hiện nhiều
hơn. Sự hình thành định kiến này có thể ở ngay trong đời sống gia đình. Như
trước đây, con trai được học cao đến khi không thể học được nữa thì mới
thôi. Còn con gái chỉ được bố mẹ cho học đến một mức độ nào đó thì phải
dừng để nhường cho anh trai, em trai ăn học. Trong trường hợp này, sự phân
biệt đối xử thường xuyên xảy ra và trở thành cách ứng xử của mọi người. Mọi
người cho rằng như thế là hợp lý. Ai tuân theo các chuẩn mực đó thì được
chấp nhận, ai không tuân theo sẽ bị tẩy chay. Điều đáng quan tâm hơn là
ngay trong các chuẩn mực của xã hội trước đây đã cổ vũ cho thái độ coi
thường phụ nữ nên định kiến càng sâu sắc hơn.

Ngoài các nguồn gốc nêu trên có thể có một số nguyên nhân khác dẫn
đến định kiến xã hội. Đó là sự xây dựng các biểu tượng xã hội. Ví dụ, một
thời gian dài, chúng ta có những tấm pa nô, áp phích vẽ hình ảnh người
nhiễm HIV/AIDS gầy guộc, siêu vẹo. Từ đó, dưới con mắt của mọi người,
người nhiễm HIV/AIDS rất đáng sợ và người ta hình thành một định kiến rất

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

xấu về họ. Mọi người sợ nên xa lánh những người nhiễm căn bệnh thế kỷ
này. Mặc dù, trên thực tế họ là người bình thường và HIV không thể lây
truyền sang người khác qua đường giao tiếp thông thường.

Có thể có một số nguyên nhân xã hội khác dẫn đến định kiến xã hội. Có
thể do sự phát triển xã hội chưa đạt đến một trình độ xóa bớt được khoảng
cách giữa các tầng lớp xã hội về dân trí và về địa vị kinh tế dẫn dấn có sự
chênh lệch trong mức sống và điều kiện sinh hoạt của các cộng đồng. Điều
này có thể tạo nên cách nhìn nhận vấn đề có sự khác nhau dẫn đến ít nhiều
có sự kì thị và định kiến về nhau. Tuy đây không phải là nguyên nhân quan
trọng nhưng nếu xóa bớt đi được khoảng cách về giàu nghèo giữa các vùng
miền, giữa các tầng lớp xã hội thì cũng bớt đi được một nguyên nhân tạo ra
định kiến xã hội

3. Điều chỉnh các định kiến xã hội

Khi nghiên cứu về định kiến, các nhà nghiên cứu vừa chỉ ra nguyên
nhân của định kiến, vừa đưa ra những cách thức để làm giảm bớt định kiến
xã hội. Có thể nêu ra một số biện pháp làm giảm bớt định kiến xã hội dưới
đây:

- Tuyên truyền vận động làm thay đổi thái độ của các bộ phận dân cư
về một vấn đề nào đó. Ví dụ, tuyên truyền để người dân thay đổi thái độ đối
với người nhiễm HIV, thay đổi thái độ đối với phụ nữ trong xã hội chúng ta.
Ngày nay, thông tin đại chúng hết sức phát triển, có thể sử dụng sức mạnh
của nó để tác động đến tâm lý con người. Qua phương tiện thông tin người ta
đã tổ chức hoạt động truyền thông nhằm làm giảm bớt sự kì thị với người
nhiễm HIV. Đề cao vai trò phụ nữ để mọi người có quan niệm đúng hơn vai
trò quan trọng của phụ nữ.

- Đối với một số cá nhân có tầm ảnh hưởng lớn tới mọi người có thể
tác động trực tiếp đến cá nhân họ. Bằng cách đưa họ vào các hoạt động
nhằm giúp họ nhận thức đúng các vấn đề mà họ thành kiến để họ thay đổi
nhận thức và có thái độ phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Một số vấn đề xã hội hiện nay có thể đưa vào giáo dục gia đình. Từ
trong gia đình, đứa trẻ đã được giáo dục một cách đúng đắn về các vấn đề xã
hội thì các em sẽ có nhận thức đúng, thái độ phù hợp. Lớn lên các em sẽ là
người truyền lại sự thay đổi đó cho thế hệ sau và xóa đi được những định
kiến đã hình thành lâu đời.

- Những chuẩn mực xã hội (tập tục) có thể hình thành định kiến cần
được thay đổi. Ví dụ, các tục lệ cho con cái lấy chồng sớm ở các vùng đồng
bào dân tộc hoặc vùng sâu vùng xa, cần được xóa bỏ. Một số phong tục lạc
hậu nên thay đổi. Ví dụ, một số nơi khi nhà có khách, vợ con không được
ngồi ăn chung với khách, khi nào khách và người bố ăn xong cả nhà mới
được ăn. Điều đó đề cao ông chủ gia đình nhưng đã gieo vào lòng đứa trẻ
quan niệm là đàn ông có quyền ngồi ăn uống còn phụ nữ thì phải phục vụ.

Nói tóm lại, nếu quan niệm định kiến là thái độ tiêu cực có trước về hiện
tượng hay cá nhân, nhóm xã hội nào đó thì việc điều chỉnh định kiến trước
hết phải tác động vào nhận thức. Trên cơ sở đó làm thay đổi thái độ và hành
vi của mọi người kể cả người bị định kiến. Việc điều chỉnh các định kiến xã
hội không dễ nên cần kiên trì và có những biện pháp tuyên truyền vận động
mạnh mẽ, sâu rộng mới có thể có kết quả.

III. SỰ XÂM KÍCH


1. Khái niệm xâm kích

Khái niệm xâm kích được đưa ra gắn liền với giả thuyết ban đầu: sự có
mặt của hành vi xâm kích luôn đi kèm với sự hụt hẫng và ngược lại sự tồn tại
của sự hụt hẫng luôn dẫn đến một hình thức xâm kích nào đó. Giả thuyết này
được triển khai với bốn khái niệm cơ bản:

- Sự hụt hẫng: đó là các điều kiện bất kì ngăn cản việc cá nhân đạt đến
mục đích mong muốn.

- Sự xâm kích: hành vi có mục đích là xóa bỏ hay làm giảm đi những
cản trở hụt hẫng.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- Sự kiềm chế: xu hướng hạn chế hành động để giảm bớt những hậu
quả có thể có trong chính bản thân hành động. Đồng thời nó lại có thể trở
thành một sự hụt hẫng mới.

- Sự xâm kích pha trộn: sự xâm kích không hướng tới nguồn gốc trực
tiếp của sự hụt hẫng mà hướng tới một đối tượng khác. Đặc trưng này được
phân tích trong mô hình xung đột của Miller. Sự pha trộn hay “dịch chuyển”
theo thuật ngữ của Phân tâm học được Miller hiểu như một trường hợp khái
quát hóa các kích thích. Nhiều hành vi xã hội khác như các hành vi đạo đức
cũng được giải thích theo cách này.

Sau này, cùng với các kết quả nghiên cứu mới, các tác giả chỉnh sửa lý
thuyết này và cho rằng xâm kích là một hiện tượng tự nhiên không nhất thiết
là hệ quả của sự hụt hẫng. Nhờ kết quả của sự học có thể có được các đáp
ứng phi xâm kích với các hụt hẫng. (Ví dụ: trẻ được dạy cách kiềm chế bản
thân). Tuy nhiên, sự xâm kích vẫn được coi như là một phản ứng nổi trội đối
với hụt hẫng và hụt hẫng vẫn được xem xét như là nhân tố diễn ra trước sự
xâm kích.

Lý thuyết về xâm kích và hụt hẫng bị phê phán từ nhiều hướng: với các
thực nghiệm động thái nhóm, K.Lewin, Zimbardo cho thấy có thể có các phản
ứng khác đối với hụt hẫng chứ không chỉ sự xâm kích. A.Maslow, Rozenweig
thì cho rằng sự hụt hẫng không phải là nhân tố duy nhất dân tới sự xâm kích.
Có nhiều nhân tố dẫn tới sự xâm kích, ví như sự nhục mạ hay đe dọa có thể
gây ra sự xâm kích chứ không chỉ sự hụt hẫng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra
tính chất phức tạp trong mối quan hệ giữa sự trừng phạt và sự xâm kích.
“Phụ thuộc vào tính chất và sự tác động qua lại với các yếu tố khác, sự trừng
phạt có thể làm tăng cường hoặc làm giảm thiểu, thậm chí không tạo ra tác
động nào đến hành vi của cá nhân”. (Bandura, 1973, p34).

Từ những góc độ xem xét khác, các nhà tâm lý học đưa ra những quan
niệm khác nữa về xâm kích. Có thể dẫn ra một số quan niệm:

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

J.P.Chaplin cho rằng: xâm kích là sự tấn công (attack); là hành động
không thân thiện chống lại một cách trực tiếp con người hoặc một đối tượng
nào đó.

S.Freud cho rằng xâm kích là sự biểu hiện hoặc phóng chiếu một cách
có ý thức của bản năng về cái chết. Còn theo A.Adler, xâm kích là sự biểu
hiện của ý chí về quyền lực đối với người khác. Nhà tâm lý học Mỹ
A.H.Murray cho rằng xâm kích là nhu cầu tấn công hoặc xúc phạm đến người
khác để hạ thấp, làm tổn thương, nhạo báng hoặc buộc tội người đó.

Albert Bandura đưa ra quan niệm về xâm kích rất ngắn gọn. Theo tác
giả xâm kích là hành vi mang lại hậu quả tiêu cực. Vì thế, những hành vi tiêu
cực được xem là sự xâm kích. Hai nhà Tâm lý học xã hội Berkowitz (1965) và
Fesbach (1971), đã phân chia hai hình thức của xâm kích: Xâm kích phương
tiện và xâm kích thù địch. Xâm kích phương tiện có mục đích là tìm cách thu
lấy lợi ích ở người khác hơn là gây tổn thương cho họ. Xâm kích thù địch có
mục đích là gây ra sự tổn thương hoặc sự đau khổ một cách có chủ tâm đối
với người khác. Như vậy xâm kích là một hành vi có tính chất làm hại con
người hoặc phá hủy một đối tượng nào đó thuộc quyền người khác.

Từ các quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu xâm kích là hành vi tấn
công người khác hoặc những tài sản thuộc quyền người khác với mục đích
làm hại họ.

Người có hành vi xâm kích có thể tấn công trực tiếp hoặc có thể gián
tiếp người khác có thể dùng lời lẽ hoặc hành động để làm hại người khác.
Hành vi xâm kích có thể mang lại lợi ích cho chủ thể hành vi, hoặc có thể để
thỏa mãn một nhu cầu, động cơ nào đó. Dù xem xét dưới góc độ nào thì xâm
kích cũng được xem là hành vi gây hại cho người khác. Đôi khi người ta có
thể ngụy biện cho hành vi xâm kích của mình nhưng về cơ bản, so với các
chuẩn mực xã hội nói chung, hành vi xâm kích bị lên án và phê phán.

2. Những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hành vi xâm kích

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Từ những năm 40 của thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu đã xem xét xâm
kích với tư cách là một vấn đề rất đơn giản. Họ coi xâm kích là sản phẩm của
sự chán nản, thất vọng. Song, thực tế không hề đơn giản như vậy. Nếu coi
xâm kích là một hiện tượng tâm lý xã hội thì việc nghiên cứu xâm kích đòi hỏi
chúng ta phải tiếp cận ở góc độ rộng hơn. Những phản ứng xâm kích của con
người hiện nay được xem xét là một vấn đề phức tạp có nhiều yếu tố ảnh
hưởng mà yếu tố xã hội phải được tính đến đầu tiên.

Những yếu tố xã hội trước tiên là những cảm xúc khác nhau của con
người. Theo Leonard Berkowitz và các cộng sự: phim ảnh bạo lực có ảnh
hưởng lớn đến hành động xâm kích của con người. Ông cho rằng đối với
những cá nhân có tính tình nóng nảy thì dễ bị kích thích bởi các phim bạo lực
hơn những người khác. Một yếu tố khác làm cho cá nhân dễ có hành động
xâm kích bằng hành vi bạo lực đó là những người không muốn bộc lộ bản
thân, họ thường giấu tên, mạo danh hoặc nặc danh.

Nghiên cứu của Epstein, Taylor (1967); Shortell, Epstein và Taylor


(1970), cho thấy những cá nhân trong trạng thái tinh thần mệt mỏi, tinh thần
không sáng suốt thì hành động xâm kích mạnh mẽ hơn những cá nhân có
tinh thần ở trạng thái tích cực, hoặc khi hành vi của cá nhân có chủ ý thì tính
xâm kích thể hiện rõ hơn là khi hành động của chủ thể mang tính ngẫu nhiên.

3. Xâm kích có tổ chức

Một điều kiện tốt của xâm kích là nó được thực hiện trong bối cảnh có
tổ chức. Những con người bình thường phạm phải sự xâm kích và thậm chí
cả hành vi bạo lực cho rằng đó là sự thực hiện các hành động cũng giống
như một phần của “công việc của họ” (Vander Zanden, James Wilfrid, 1977).
Đó chính là sự xâm kích có tổ chức. Stanley Milgram đã tiến hành một số thí
nghiệm và đã phát hiện ra rằng, nhiều người có hành động xâm kích và bạo
lực lại là những người ngoan ngoãn vâng theo quyền lực. Khi hành động
trong một tổ chức, con người dám làm những việc mà một mình họ không
dám làm. Họ cảm thấy mình được quyền tha thứ cho hành động của mình.
Họ cảm thấy mình như là một “con tốt” nhiều hơn là “người sáng tạo ra hành

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

vi”. Họ nghĩ “Nếu tôi không làm việc đó (hành động xâm kích) thì ai đó sẽ thực
hiện” (De Charms, 1968, Kipnis, 1974).

Bạo lực là dẫn chứng điển hình của hành động xâm kích. Hai nhà tâm
lý học Mỹ Vander Zanden và James Wilfnd đã thống kê một số liệu về hành vi
bạo lực ở Mỹ trên cơ sở phỏng vấn 1.176 người dân Mỹ đã trưởng thành cho
thấy:

- Có 13% những người Mỹ trưởng thành đã chống lại hoặc dùng tay
đánh những người khác. 18% người Mỹ đã bị nhắc nhở về hành vi chống lại
hoặc dùng tay đánh người nào đó.

- Có 1/5 người Mỹ tán thành việc tát vợ (hoặc chồng) trong trường hợp
được phép: 16% trẻ em Mỹ ở tuổi dưới 16, đang học trong trường phổ thông
và 25% sinh viên đại học đồng ý việc này.

- Có 41% người Mỹ trưởng thành nói rằng họ có một khẩu súng của
mình (một số có vài khẩu).

- 43% người da trắng và 27% người da đen có súng ngắn.

- 50% người dân Mỹ ủng hộ việc giáo viên trong trường phổ thông sử
dụng các biện pháp trừng phạt (về thể xác) khi có nguyên nhân chính đáng.

- Cứ 10 người Mỹ thì có 9 người nói rằng họ đã sử dụng hình thức phát


vào đít đứa trẻ.

- Chỉ có 18% người da trắng quả quyết rằng họ không có hành vi bạo
lực, 9% cho rằng mình có thể có những hành vi bạo lực. 43% người da đen
cho rằng mình là những viên chức không vâng lời, 25% cố gắng để không có
hành vi bạo lực.

- 28% người dân Mỹ cho rằng cảnh sát thường sử dụng vũ lực nhiều
hơn là thuyết phục.

- 58% đồng ý với quan điểm: Bản chất của con người là thường xuyên
tạo nên chiến tranh và xung đột.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

- 62% người dân Mỹ biện minh rằng chiến tranh là sự hợp pháp hóa
công cụ của đường lối chính trị. Rõ ràng, khi đứng trong tổ chức và được tổ
chức “bảo lãnh” hành vi xâm kích sẽ phát triển và mức độ bạo lực sẽ gia tăng.

HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:

Tri thức tâm lý học xã hội về ảnh hưởng xã hội, định kiến và xâm kích
xã hội có thể được xếp chung vào những hiện tượng tâm lý xã hội chi phối
quá trình hình thành, vận hành các quan hệ xã hội. Do vậy, hướng vận dụng
chủ yếu là giúp giảng viên có thể xây dựng và vận hành các quan hệ xã hội
với sinh viên một cách thuận lợi hơn (lĩnh vực can thiệp tâm lý xã hội, hình
thành kĩ năng xã hội).

- Trong việc đánh giá sinh viên, cần quan tâm đến môi trường sinh viên,
môi trường văn hóa sinh viên đang hoạt động để đánh giá một cách khách
quan, không quy chụp chủ quan rút ngắn khoảng cách thế hệ.

- Tránh các định kiến xã hội trong quan hệ với sinh viên, đồng nghiệp;
chủ động điều chỉnh, phá bỏ các định kiến xã hội đối với sinh viên và đồng
nghiệp. Một khi cá nhân nhận biết mình bị điều khiển bởi các định kiến xã hội,
cá nhân có thể thay đổi định kiến một cách có ý thức.

- Hình thành khả năng tự chủ, điều khiển các hành vi của bản thân.
Trong quan hệ với sinh viên tránh sắc thái bạo lực trong ngôn ngữ, thái độ và
hành vi. Đồng thời cũng lưu ý uốn nắn các hành vi từ phía sinh viên.

- Thông qua các hoạt động làm việc nhóm. Thảo luận, các nhóm T -
training để hình thành các kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng tương tác xã hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG V

1. Ảnh hưởng xã hội là gì? Môi trường văn hóa và nhóm có thể ảnh
hưởng như thế nào đến hành vi của cá nhân? Có thể vận dụng các tri thức
này vào việc dạy học như thế nào?

2. Phân tích một số định kiến xã hội để làm rõ bản chất của nó. Đưa ra
các biện pháp cụ thể cho việc điều chỉnh 1 định kiến xã hội mà anh, (chị) cho
là cần thay đổi.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

3. Xâm kích là gì? Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự xâm kích?
Cần làm gì để giảm các hành vi xâm kích?

Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI


Nội dung cơ bản:

- Khái niệm nhân cách trong Tâm lý học xã hội;

- Cấu trúc của nhân cách: cái tôi vai trò xã hội;

- Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách: di truyền,
môi trường, hoạt động;

- Sự suy thoái nhân cách: khái niệm, nguyên nhân, các mức độ;

- Các kiểu nhân cách trong Tâm lý học xã hội;

- Quan hệ liên nhân cách.

I. KHÁT NIỆM NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI


Nhân cách là khái niệm được phổ biến rộng rãi trong đời sống xã hội.
Khái niệm nhân cách được nhắc đến nhiều trong cuộc sống hàng ngày, trên
các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trong sinh hoạt cộng đồng. Lúc
đó người ta thường nói đến nhân cách với nghĩa là cốt cách làm người. Còn
hiểu đúng nghĩa khái niệm nhân cách với nhãn quan của nhà khoa học thì
khác với cách hiểu theo nghĩa đời thường.

Nhân cách là đối tương nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau như: Triết học, Xã hội học, Đạo đức học, Giáo dục học Tâm lý học... Bất
cứ khoa học nào nghiên cứu về con người đều quan tâm đến nhân cách.
Dưới góc độ của mỗi khoa học khác nhau, nhân cách được quan niệm khác
nhau.

Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về con người, vì vậy nhân cách là
một phạm trù cơ bản của tâm lý học. Tâm lý học bao gồm nhiều chuyên
ngành khác nhau. Các chuyên ngành của tâm lý học đều xem xét nhân cách

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

từ các phương diện khác nhau. Cho nên, phân biệt một cách rạch ròi sự khác
nhau về khái niệm nhân cách trong tâm lý học đại cương hay Tâm lý học xã
hội, tâm lý học nhân cách là rất khó. Nhưng nhân cách thuộc về Tâm lý học
xã hội hơn là nhân cách thuộc về tâm lý học nói chung. Về khía cạnh nào đó,
nhân cách trong Tâm lý học xã hội bao trùm rộng hơn nhân cách trong tâm lý
học. Cho đến giờ phút này, sự tranh luận về khái niệm nhân cách vẫn còn
đang tiếp diễn. Có thể nêu một số quan điểm cơ bản dưới đây.

1. Quan điểm của các tác giả nước ngoài

a) Quan niệm của các nhà tâm lý học phương Tây

Những người theo trường phái Phân tâm học mà đại diện là S.Freud
cho rằng, bản chất của nhân cách phát sinh từ các quá trình tâm lý nội tại. Sự
xung đột này xảy ra giữa sự thúc đẩy của cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Động
lực của sự phát triển nhân cách nằm trong vô thức. Hầu hết các đặc trưng cơ
bản của nhân cách được hình thành khi con người ở độ tuổi lên năm, lên sáu.
Sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi này diễn ra mạnh mẽ hơn ở tuổi thanh
niên. Nhân cách có thể thay đổi ở độ tuổi lớn với quan điểm như vậy, những
người theo trường phái Phân tâm học đã coi nhân cách là cái có sẵn, như
một yếu tố bẩm sinh di truyền.

Những người theo quan niệm của chủ nghĩa nhân văn, đại diện là Carl
Rogers và Abraham Maslow, xem xét con người trong sự mâu thuẫn. Theo
họ, nhân cách được phát sinh từ sự mâu thuẫn giữa cái tôi nội tâm và sự ép
buộc của xã hội. Con người có thể nhận biết được cái tôi bên trong của mình,
mặc dù cái tôi có thể bị che đậy khi cá nhân chấp nhận các cá nhân khác và
biến nó thành sự nhận biết bản thân. Cũng giống như quan điểm của các nhà
phân tâm học, những người theo chủ nghĩa nhân văn cũng thừa nhận giai
đoạn tuổi thơ là rất quan trọng trong quá trình phát triển nhân cách. Nhưng
theo họ, ở giai đoạn tuổi thơ, cha mẹ hoặc người lớn có thể làm méo mó cách
nhìn nhận của trẻ. Cha mẹ có thể đồng ý với suy nghĩ này của trẻ nhưng lại
cản trở những suy nghĩ khác của chúng. Cái tôi nội tâm luôn bị chèn ép bởi
những yêu cầu của xã hội, như vậy sự biến đổi nhân cách là luôn xảy ra.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Một số nhà tâm lý học Mỹ xem xét nhân cách trong mối quan hệ tác
động qua lại giữa bốn yếu tố:

1. Yếu tố sinh học: Giống nòi, vóc dáng, sức khỏe, giới tính...

2. Yếu tố môi trường: Môi trường tự nhiên (điều kiện địa lý, khí hậu...)
và môi trường xã hội (văn hóa, lối sống, phong tục tập quán...).

3. Quá trình Tâm lý xã hội như: Thái độ, sự giao tiếp, sự đồng nhất...

4. Thuộc tính Tâm lý cá nhân.

Có thể biểu diễn mối quan hệ của 4 yếu tố như sau:

Yeu to di truyen Yeu to moi truong

Qua trinh tam ly xa hoi

Thuoc tinh tam ly ca nhan

Như vậy nhân cách là sự tổng hợp của bốn yếu tố nêu trên. Khi xem
xét nhân cách phải xem xét nó trong sự tác động qua lại giữa 4 yếu tố, trong
đó nhân cách là yếu tố trung tâm của sự tác động qua lại đó.

b) Quan điểm của các nhà tâm lý học Xô viết

Các tác giả Xô viết có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách với
những tên tuổi nổi tiếng như: B.G.Ananiev, A.N.Lêonchiev, K.K.Platonov...

A.N.Lêonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới được hình
thành trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả của hoạt động cải tạo

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

của người đó. Theo ông, nhân cách là sản phẩm của quá trình tiến hóa. Ông
phân biệt giữa hai khái niệm cá nhân và nhân cách.

Cá nhân là một chỉnh thể, một sản phẩm của sự tiến hóa chủng loài và
tiến hóa cá thể.

Nhân cách là một cấu tạo tâm lý đặc biệt có tính trọn vẹn, là kết quả
của quá trình chín muồi những yếu tố bẩm sinh dưới tác động của môi trường
xã hội. Sự phát triển nhân cách diễn ra theo quá trình phát triển của cá nhân.
Đối với đứa trẻ sự hình thành nhân cách được bắt đầu từ sự hình thành mối
quan hệ giữa trẻ em với người lớn, trẻ em với thế giới xung quanh. Nhân
cách được hình thành theo một quá trình từ nhỏ đến lớn. Đặc biệt ông nhấn
mạnh đến vai trò của hoạt động, đặc biệt là hoạt động chủ đạo của mỗi giai
đoạn lứa tuổi.

Muốn hiểu nhân cách một con người, phải dựa vào hoạt động của họ
và đồng thời phải đề cập đến các yếu tố động cơ, nhu cầu, mục đích...

B.G.Ananhiev coi nhân cách là một cá thể mang tính xã hội lịch sử.
Nhân cách tồn tại trong một xã hội nhất định. Vì vậy phải nghiên cứu nhân
cách cùng với tính chất lịch sử xã hội và tâm lý xã hội của nó. Đồng thời dựa
trên cơ sở của các khái niệm cá thể, cá nhân, hoạt động, chủ thể, khách thể
để lý giải các vấn đề về nhân cách. Ông cho rằng chủ thể và nhân cách không
có sự tương đồng. Chủ thể là sản phẩm của hoạt động, là thái độ tích cực
của hoạt động. Nhân cách là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, xác định vị thế
của con người trong xã hội. Vì vậy phải nghiên cứu nhân cách gắn liền với
hoàn cảnh xã hội nhất định, nghiên cứu vị trí của cá nhân trong xã hội và
chức năng xã hội gắn liền với vị trí đó.

K.K.Platonov coi nhân cách là con người có ý thức. Bàn về sự hình


thành nhân cách, ông cho rằng sẽ là không biện chứng khi xác định lúc nào
nhân cách được hình thành ở trẻ. Khi đứa trẻ biết nói “tôi” thì đó chính là một
nhân cách rồi. Nhân cách được hình thành trong giao tiếp. Vì vậy, không thể
nói một cách chỉnh xác nhân cách hình thành từ khi nào.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

2. Quan niệm của các nhà Tâm lý học Việt Nam

Các tác giả Việt Nam đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về nhân cách.
Có thể nêu một số quan niệm như sau:

- Theo Nguyên Quang Uẩn: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm,
những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá
nhân đó.

- Theo Nguyễn Ánh Tuyết: Nhân cách là bộ mặt xã hội tâm lý của một
người, là tổ hợp những thuộc tính tâm lý vừa đặc trưng cho cá nhân vừa
mang ý nghĩa xã hội. Người có nhân cách được coi là một thành viên của xã
hội, chịu sự chi phối của xã hội, đồng thời là chủ thể có ý thức của sự phát
triển xã hội...

Hai quan niệm trên cho thấy: muốn đánh giá một nhân cách của một
con người phải đánh giá giá trị xã hội con người đó.

- Theo Nguyễn Khắc Viện: Nhân cách là toàn bộ những gì hợp thành
một con người, một cá nhân với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm
thể chất (tạng), tài năng, phong cách, ý chí, đạo đức, vai trò xã hội. Nhân
cách là một cá nhân có ý thức về bản thân đã tự khẳng định được, giữ được
một phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi.

Ông cũng cho rằng, trong con người có ba mặt: tạng, tâm và phận.
Tạng là thể tạng của con người, tâm là tâm lý, đời sống tinh thần của con
người, phận là bổn phận con người phải đảm nhiệm (vai trò xã hội mà các
nhân phải đóng).

Với tính chất giao thoa giữa Tâm lý học và Xã hội học, Tâm lý học xã
hội không thể xem xét cá nhân một cách riêng rẽ mà luôn đặt cá nhân trong
mối quan hệ qua lại với cá nhân khác, với nhóm và với cộng đồng xã hội. Mỗi
cá nhân là một thành viên của một nhóm xã hội. Cá nhân chịu tác động của
các chuẩn mực nhóm, chuẩn mực xã hội. Tâm lý học xã hội nghiên cứu nhân
cách bao gồm toàn bộ các đặc điểm tâm lý của cá nhân được thể hiện trong
các mối quan hệ xã hội thông qua hoạt đông và giao tiếp của mỗi cá nhân đó.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

II. CẤU TRÚC CỦA NHÂN CÁCH


Dưới góc độ Tâm lý học xã hội, người ta thấy nhân cách bao gồm hai
thành phần cơ bản: Lõi bên trong và các biểu hiện bên ngoài. Lõi bên trong
của nhân cách là cái tôi biểu hiện bên ngoài là vai trò xã hội mà cá nhân đảm
niệm. Có thể lần lượt phân tích từng thành phần như sau.

1. Cái tôi

Cái tôi là chủ đề nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau
như triết học, xã hội học, tâm lý học... Ngay trong Tâm lý học xã hội cũng có
nhiều công trình nghiên cứu về cái tôi và có nhiều ý kiến khác nhau về cái tôi.
Tuy nhiên, mọi ý kiến đều có điểm thống nhất cho rằng: cái tôi là sự cảm nhận
về chính bản thân mình. Cụ thể hơn, cái tôi là sự nhận nhận xét, đánh giá về
chính mình.

Người đưa ra khái niệm cái tôi được nhiều người thừa nhận là nhà tâm
lý học Mỹ William James. Theo ông, cái tôi là một thể phức hợp của các yếu
tố: cá nhân đó là người như thế nào, cá nhân đó muốn gì và người khác
muốn gì ở anh ta. Theo quan niệm đó thì cái tôi chính là sự hiểu biết về chính
mình, biết mình là ai, biết mong muốn điều gì và có thể làm gì. Trong đó bao
gồm cả sự cảm nhận và tỏ thái độ với chính mình. Cái tôi có thể có hai thành
phần chính: Cái tôi chủ quan và cái tôi được phản ánh.

a) Cái tôi chủ quan

Cái tôi chủ quan là quan niệm về bản chất thực sự bên trong của cá
nhân. Nó có nguồn gốc xã hội sâu xa chứ không hoàn toàn chủ quan.

Trước hết nó do ảnh hưởng của cha mẹ, người thân quen, hàng xóm
láng giềng... Đó chính là cái tôi chủ thể. Lúc này được hình thành sớm và
thường có 2 tình trạng:

Cái tôi chủ quan hình thành sớm nên ít bị thay đổi ở giai đoạn sau này
của lứa tuổi. Đối với mỗi cá nhân sự hiện diện của cái tôi là khá ổn định. Nó
không hề thay đổi khi con người thay đổi vai trò xã hội. Tuy nhiên, người ta
thấy rằng cái tôi phát triển theo sự phát triển lứa tuổi. Cá nhân nhận thức về

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cái tôi linh hoạt và chững chạc hơn khi họ trưởng thành. Người lớn cũng có
một số thay đổi về cá tính khi họ tham gia vào một vai trò mới. Nhưng sự thay
đổi này là không đáng kể. Cái tôi chủ quan là cái gì rất vững chắc xét về mặt
tâm lý rất khó phân biệt và thường có tình trạng quá cao hoặc quá thấp.
Thường trong xã hội, người ta hay đánh giá mình cao vì nếu đánh giá thấp
mình sẽ không có sinh lực, sẽ chết dần. Đó là năng lượng của sức sống tâm
lý.

Cái tôi chủ quan là hạt nhân của nhân cách kể cả khi xã hội đánh giá
không đúng về mình, người ta vẫn sự tự tin vào bản thân. Nhưng đôi khi cái
tôi chủ quan có thể mang sắc thái tượng tượng, bệnh hoạn không hợp lý do
con người không hiểu đúng về mình, đánh giá về mình thiếu khách quan.

b) Cái tôi được phản ánh

Đó là toàn bộ nhưng quan điểm của cá nhân về bản thân dựa trên
những điều suy nghĩ và đánh giá của người khác. Cũng giống như chúng ta
nhìn mình qua gương. Tấm gương đây là những người khác. Sự khác nhau
giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phán ánh: cái tôi chủ quan thường có
màu sắc tích cực lạc quan hơn cái tôi được phản ánh. Cái tôi được phản ánh
có thể điều chỉnh cái tôi chủ quan. Điều chỉnh này có thể tích cực, có thể tiêu
cực.

Sự đánh giá của người khác đối với cá nhân rất quan trọng. Phương
châm động viên khích lệ có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển cái tôi chủ quan.
Đôi khi sự động viên và khích lệ làm cho một con người luôn hổ thẹn về bản
thân thay đổi thành một người hoàn toàn khác lạ.

Giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phản ánh có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Cái tôi chủ quan thường là những nhu cầu tiềm ẩn trong mỗi cá
nhân. Nhiều khi chủ thể không đánh giá đúng về bản thân và thường theo xu
hướng đề cao bản thân. Cái tôi khách quan giúp cho chủ thể tìm ra cách xử
sự đúng đắn. Cái tôi khách quan là đạo lý xã hội của cái tôi, là cái tổng quan,
chỉ đạo sự tự phát của cái tôi chủ quan theo những hành vi mang tính đạo lý
xã hội.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Cũng giống như sự phát triển của nhân cách, sự phát triển của cái tôi
chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường nhà trường gia đình và xã hội.
Mỗi cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác nhau nên
các nhóm xã hội này đều có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành cái tôi.

2. Vai (vai trò) xã hội của cá nhân

a) Khái niệm vai xã hội

Khi tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội, cá nhân phải thực hiện
các vai xã hội. Quan hệ xã hội thực chất là quan hệ giữa các vai xã hội.

Việc phân tích tâm lý xã hội về vai xã hội có ý nghĩa quan trọng trong
việc hiểu hành vi xã hội của con người. Do vậy, vấn đề này được cả các nhà
tâm lý học xã hội rất quan tâm. Đến cuối những năm 60 của thế kỉ XX, trong
Tâm lý học xã hội có đến hàng trăm các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết
về vấn đề này.

G.Mead đề cập đến vai xã hội trong tương tác xã hội như là một điều
kiện: tiếp nhận vai của người khác, tức là nhìn nhận bản thân từ vị trí của
người khác trong quá trình giao tiếp. Sau này các nhà tâm lý học xã hội theo
định hướng tương tác tiếp tục sử dụng khái niệm này. Trong tâm lý học
phương tây khái niệm này cũng được sử dụng phổ biến.

Linton là nhà nhân học xã hội có đóng góp lớn cho sự phát triển lý
thuyết vai. Theo ông cần đề cập đến 2 khái niệm “vị trí” và “vai”. Vị trí là vị trí
mà cá nhân chiếm giữ trong hệ thống, còn vai dùng để chỉ tất cả các hình
mẫu hành vi văn hóa liên quan đến vị trí đó. Như vậy, vai bao hàm các thái
độ, giá trị và các hành vi được xã hội yêu cầu (định trước) cho tất cả các cá
nhân ở vị trí đó. Vai chính là mặt năng động của vị trí.

Vai xã hội là khái niệm phức tạp. Có thể có 2 mặt: mặt xã hội học của
nó như là mặt nội dung hoạt động và chuẩn mực hành vi không bao hàm tính
chủ thể do xã hội quy định để thực hiện chức năng xã hội; mặt khác là mặt
tâm lý xã hội liên quan đến các nhân tố của chủ thể trong việc thực hiện các

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

vai xã hội như cơ chế tâm lý xã hội và các quy luật của việc tiếp nhận và thực
hiện vai xã hội.

Bên cạnh đó còn tồn tại một số quan điểm sau:

* Quan điểm thứ nhất: Những người theo quan điểm này cho rằng vai
trò như cái mặt nạ đeo cho các thành viên của xã hội. Vai trò xã hội có tính
chất bề ngoài nên về cơ bản mọi thành viên trong xã hội đều là con rối. Khi
đóng vai trò xã hội thì không nói lên bản chất thật của con người.

Các thành viên không thực, thay đổi luôn và trong từng giai đoạn cuộc
đời ta đóng nhiều vai trò nên con người không cố định. Vai trò xã hội là hời
hợt bên ngoài, ngụy trang nên chỉ gây tác hại cho con người.

Đây là quan điểm quá nhấn mạnh đến tính thụ động của con người. Tất
nhiên vai trò chi phối con người nhưng con người là người tổ chức xã hội là
chủ thể của các vai trò. Trong thực tế có nhiều người do không toại nguyện
nên đóng vai một cách hời hợt nhưng cơ bản là con người còn là chủ thể của
các vai trò nên con người có tính chủ động trong đó.

* Quan điểm thứ hai: Đây là quan điểm phi lịch sử, duy tâm về vai trò,
cho là vai trò ở thời đại nào, xã hội nào cũng như nhau (giáo viên thời đại nào
cũng thế). Nam Cao: “Tây mặc Tây, ta mặc ta, thuốc cứ thuốc”.

Quan điểm này sai ở chỗ đây chỉ là bề ngoài. Đúng là chức năng người
thầy vẫn là giảng dạy và giáo dục nhưng mỗi chế độ sẽ có nội dung khác
nhau do mục đích và phương tiện khác nhau chưa nói đến chức năng của
người thầy ngày nay khác với người thầy trước kia. Do đó vai trò có tính lịch
sử và giai cấp.

Từ những những phân tích nêu trên, có thể đi đến một cách hiểu như
sau:

Vai xã hội của cá nhân là toàn bộ những hành động mà xã hội đòi hỏi
và mong nơi ở mỗi cá nhân khi người đó giữ một vị trí nhất định trong hệ
thống quan hệ xã hội để thực hiện những quyền lợi và nghĩa vụ của mình.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Ví dụ: Giáo viên, bác sĩ, cha mẹ - con, thủ trưởng - nhân viên là vai xã
hội.

Có thể chỉ ra các khía cạnh của vai xã hội như sau: (từ các công trình
của nhiều tác giả).

- Vai xã hội như là hệ thống các kì vọng của các cá nhân khác đối với
các hành vi của cá nhân chiếm giữ một vị trí trong xã hội, trong quan hệ với
những người khác.

- Vai xã hội như hệ thống các kì vọng đặc trưng trong quan hệ đối với
chính bản thân của cá nhân chiếm giữ một vị trí nhất định trong xã hội, tức là
chính cá nhân hình dung về mô hình hành vi của bản thân trong sự tương tác
với người khác.

- Vai xã hội như hành vi của cá nhân chiếm giữ một vị trí xã hội có thể
quan sát thấy.

Như vậy, vai trò xã hội là sự xác nhận về vị trí của cá nhân trong hệ
thống quan hệ xã hội. Vai trò xã hội còn được hiểu là chức năng, hình ảnh
chuẩn mực của hành vi mà qua đó thể hiện sự mong muốn của xã hội đối với
cá nhân, khi cá nhân đảm nhận vị trí nhất định trong hệ thống các quan hệ xã
hội. Những mong muốn này không phụ thuộc vào ý thức và hành vi của cá
nhân cụ thể. Với cách hiểu về vai trò xã hội như vậy chúng ta thấy rằng, bản
chất ở đây không những chỉ là việc ghi nhận quyền lợi và nghĩa vụ của vai trò
xã hội mà còn là sự liên hệ của vai trò xã hội với các loại hoạt động xã hội của
nhân cách. Có thể nói rằng, vai trò xã hội là một loại hình hoạt động cần thiết
và phản ánh phương thức hành vi của nhân cách tương ứng với những tiêu
chuẩn được quy định bởi vị trí hay chỗ đứng của cá nhân ấy trong xã hội.
Ngoài ra, trên vai trò xã hội còn in đậm những dấu ấn của xã hội: xã hội có
thể tán thành hay không tán thành một số vai trò xã hội (ví dụ xã hội không
tán thành vai trò “tội phạm”). Đôi khi sự tán thành hay không tán thành đó có
thể được phân hóa ở các nhóm xã hội khác nhau, bởi vì trong sự đánh giá đó
còn tùy thuộc vào quan điểm và kinh nghiệm xã hội của từng nhóm xã hội.
Điểm cần nhấn mạnh ở đây là xã hội tán thành hay không tan thành không

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

phải một khuôn mặt cụ thể mà trước hết là sự tán thành hay không tán thành
một loại hình hoạt động xã hội. Tóm lại, khi nói đến vai xã hội, chúng ta đã
“xếp” con người vào một nhóm xã hội nhất định, đồng nhất nó với nhóm.

b) Đặc điểm của vai xã hội

Vai xã hội vừa có tính chất lịch sử vừa có tính chất khách quan:

- Tính khách quan của vai xã hội: Khi con người sinh ra, họ đã được xã
hội phân cho (dù muốn hay không) phải đóng những vai khác nhau: làm học
sinh phải thực hiện những hoạt động của học sinh; làm giáo viên phải thực
hiện nhiệm vụ của người thầy giáo; làm bác sĩ phải thực hiện nhiệm vụ của
người thầy thuốc. Đây là những yếu tố mới có thể điều khiển được mọi người
do nó quy định chặt chẽ.

- Vai trò xã hội là một dạng hoạt động được thể chế hóa hay là một đơn
vị hoạt động của xã hội. Chức năng, nội dung, cấu trúc bên trong đã quy định
rõ cá nhân làm sai sẽ bị lên án thậm chí bị đào thải và có thể bị trừng trị.

- Vai trò có tính lịch sử: mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển xã hội, đặc
điểm, tính chất... của các vai trò cũng khác nhau.

c) Phân loại vai xã hội

Không có sự phân biệt rạch ròi về các loại vai xã hội, tuy nhiên có thể
phân thành các loại như sau:

- Vai chính thức: có các biểu tượng rõ ràng và thống nhất về quyền và
nghĩa vụ của người mang vai này. Mức độ thống nhất và rõ ràng của vai này
có lý do là gắn liền với các hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội mang tính
khách quan.

- Vai không chính thức : không có được sự rõ ràng như vai chính thức
vì nó mang đặc trưng tâm lý cá nhân với sự đa dạng và ít xác định của chúng.

Theo Sibutanhi (1999), có thể có vai công cộng - với các biểu tượng
thống nhất rộng rãi về hành vi của các vai này và vai liên nhân cách - không
có biểu tượng thống nhất. Theo Thibau và Kelley, có thể phân chia thành các

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

vai “được quy trước – prescribed” tức là được quy định từ bên ngoài và
không phụ thuộc vào sự nỗ lực của chủ thể và các vai “đạt được – achieved”
tức là các vai có thể thực hiện được nhờ sự nỗ lực cá nhân của người mang
vai đó.

P. Linton chia thành các vai tích cực và tiềm ẩn bởi vì cùng lúc cá nhân
tham gia vào nhiều mối quan hệ khác nhau và cùng lúc mang nhiều vai khác
nhau nhưng tại mỗi thời điểm cá nhân chỉ thực hiện được một vai. Vai đó gọi
là vai tích cực các vai còn lại gọi là vai tiềm ẩn. Một vai có thể trở thành tích
cực phụ thuộc vào điều kiện, cũng như loại hoạt động của cá nhân.

c) Ý nghĩa của việc đóng các vai xã hội

Toàn bộ nhân cách của cá nhân không thể hiện ra hết trong các vai trò
mà chỉ thể hiện một phần (mặc dù là phần quan trọng). Nhưng mỗi vai trò đòi
hỏi con người phải tuân theo các yêu cầu khách quan của nó nên nhập vai
nào, con người sẽ hình thành các đặc điểm tâm lý tương ứng với vai trò đó.
Con người càng tham gia nhiều vai trò thì nhân cách con người càng phong
phú.

Vai trò chỉ là mảng hành động của con người chứ chưa bao quát toàn
bộ con người. Tuy nhiên, khi con người hành động theo vai trò, chưa chắc
con người đã nhập vai nên nếu chỉ qua hành động bên ngoài không thể thấy
hết nội tâm bên trong con người. Mỗi lần tiếp xúc, chúng ta chỉ tiếp xúc với
con người trong một vai trò nào đó nên cũng không thể thấy hết sự phong
phú của con người. Họ chỉ thể hiện một phần con người theo vai trò họ đang
đóng.

Nếu đóng vai trò một cách thành thạo (vai trò chủ yếu như lao động,
nghề nghiệp...) là yếu tố rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách. Con người sẽ tuân thủ hoàn toàn các yêu cầu của vai trò và hình
thành các phẩm chất năng lực theo vai trò đòi hỏi.

Cùng một lúc con người đóng nhiều vai trò nên cũng rất khó thuần thục
tất cả các vai trò. Do đó, có thể họ đóng tốt vai trò này nhưng lại đóng không

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tốt vai trò khác. Thậm chí có những vai trò trái ngược nhau hoặc không bị
trùng nhau về thời điểm làm cho con người lúng túng và không hoàn thành
được vai trò của mình. Ví dụ, vào cùng một thời điểm, một người vừa đảm
nhiệm việc cơ quan đã rất bận rộn, nhưng yêu cầu công việc gia đình cũng rất
cần họ. Vì thế, họ rất khó làm tốt cả hai vì thời gian không cho phép

Do đó, vấn đề của mỗi cá nhân là sắp xếp các vai trò theo thứ bậc ưu
tiên và đóng tốt các vai trò theo mức độ quan trọng của nó. Ví dụ, người công
chức mới đi làm thì công việc cơ quan là quan trọng hơn công việc gia đình.
Nhưng khi có gia đình có con thì cả hai việc đều quan trọng. Nhưng lưu ý nếu
nhập vai một cách quá đáng (quá sự cần thiết) có thể dẫn tới sự méo mó
nghề nghiệp.

Vì tính đa dạng của các vai xã hội mà cá nhân phải thực hiện cũng như
sự phù hợp hay không phù hợp của cá nhân với các vai xã hội khác nhau làm
nảy sinh hiện tượng “xung đột vai”.

Xung đột vai được hiểu là tình huống trong đó cá nhân đối mặt với các
kì vọng không tương ứng. Nói cách khác cá nhân không đủ khả năng để thực
hiện các yêu cầu đặt ra đối với vai đó.

Có 2 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ sâu sắc và cường độ của xung
đột vai:

- Một là: mức độ khác biệt giữa các vai. Các vai mà cá nhân đồng thời
phải thực hiện càng có nhiều yêu cầu chung thì xung đột vai càng ít xảy ra.

- Hai là: Các yêu cầu đối với vai. Các yêu cầu đối với vai càng chặt chẽ,
tính nghiêm khắc của yêu cầu đối với vai càng cao càng dễ tạo ra các xung
đột vai nghiêm trọng.

Trong các lý thuyết về vai, thường được chia thành 2 loại xung đột vai:
xung đột giữa các vai và xung đột bên trong vai. Xung đột giữa các vai diễn ra
khi cá nhân phải thực hiện đồng thời nhiều vai. Do vậy không thể thực hiện tất
cả các yêu cầu của các vai đó do thiếu thời gian, sức lực hay do các vai đó có
các yêu cầu không tương thích.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Mâu thuẫn bên trong vai xuất hiện khi có những yêu cầu mâu thuẫn của
các nhóm xã hội đối với một vai. Các nhóm xã hội khác nhau có thể có sự kì
vọng và yêu cầu khác nhau với cùng một vai. Chẳng hạn phụ huynh đánh giá
và kì vọng vào kết quả của sinh viên, trong khi đó với chính bản thân sinh viên
lại xem nhẹ điều đó.

Xung đột vai nói chung ảnh hưởng tiêu cực đến sự tương tác cho nên
các tác giả có xu hướng tìm kiếm các phương thức giải quyết xung đột vai.
Có 3 nhóm nhân tố được coi là có thể làm giảm xung đột vai:

- Nhóm thứ nhất: liên quan đến thái độ của chủ thể đối với vai (các yêu
cầu của vai có ý nghĩa đến mức nào đối với cá nhân, cá nhân cho rằng các
yêu cầu đó chính đáng đến mức nào).

- Nhóm thứ hai: bao hàm sự thưởng phạt có thể có đối với việc thực
hiện hay không thực hiện vai.

- Nhóm thứ 3 : các định hướng giá trị của các cá nhân (định hướng giá
trị đạo đức hay định hướng giá trị thực tế).

III. CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN
CÁCH
Sự hình thành và phát triển nhân cách theo quan điểm của Tâm lý học
hoạt động được hiểu là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó
một người thể hiện mình vừa với tư cách là đối tượng của sự tác động, vừa
với tư cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp. Như thế, nhân cách không
bẩm sinh, không phải có sẵn trong các gen di truyền mà được hình thành
trong suốt quá trình sống. Nếu như việc đưa ra một khái niệm thống nhất về
nhân cách là một vấn đề khó khăn đối với các nhà tâm lý học, thì việc đưa ra
các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách lại
đạt được sự thống nhất cao. Đó là các yếu tố:

1/ Yếu tố sinh học.

2/ Yếu tố môi trường.

3/ Yếu tố giáo dục.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

4/ Yếu tố hoạt động của cá nhân.

1. Ảnh hưởng của yếu tố sinh học

Nhóm yếu tố sinh học bao gồm: Não bộ và hệ thần kinh, gen, di truyền,
khí chất, năng khiếu. Những người theo trường phái sinh học cho rằng yếu tố
bẩm sinh di truyền có sẵn trong mỗi cá nhân từ khi cá nhân còn là một thai nhi
là nguồn gốc, động lực hình thành nhân cách của cá nhân. Sự phát triển nhân
cách chẳng qua là sự bộc lộ dần những thuộc tính ấy. Tính tích cực cá nhân,
sự giáo dục và ảnh hưởng của môi trường chỉ làm tăng thêm hay giảm đi
những yếu tố tiền định trước đó mà thôi. Quan điểm này là cơ sở lý luận cho
sự giáo dục tự phát. Nó là chỗ dựa cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phân
biệt giai cấp, coi thường, khinh rẻ những người lao động đã tồn tại nhiều năm
liền trong lịch sử loài người.

Theo quan điểm của Tâm lý học khoa học, tâm lý được coi là chức
năng của não, não bộ là cơ sở vật chất của tâm lý. Tất cả các hiện tượng tâm
lý đều có cơ sở sinh lý là các phản xạ có điều kiện. “Sự vận hành của hệ thần
kinh tạo thành một tiền đề không thể thiếu đối với sự phát triển nhân cách”
(Leonchiev, Hoạt động - Ý thức - Nhân cách - NXB Giáo dục, 1989). Ở đây
cũng cần nhấn mạnh tới mối quan hệ mật thiết giữa sinh lý và tâm lý: Hệ
thống tín hiệu thứ nhất là cơ sở của nhận thức cảm tính, tư duy cụ thể, cảm
xúc cơ thể và hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở của nhận thức lý tính, tư duy
ngôn ngữ, ý thức, tình cảm, các chức năng tâm lý cấp cao. Sự kết hợp chặt
chẽ giữa hai hệ thống tín hiệu và tương ứng là các hiện tượng sinh - tâm lý
cho thấy sự hình thành và phát triển của nhân cách trên cơ sở tiền đề sinh
học. Bên cạnh đó, khí chất - thuộc tính phức hợp của nhân cách quy định sắc
thái và mức độ sự thể hiện ra bên ngoài các hoạt động tâm lý bên trong của
nhân cách cũng có cơ sở sinh lý là các kiểu hoạt động của hệ thần kinh.

Ngày nay, người ta chứng minh được rằng sinh học là yếu tố cơ sở nền
tảng và không thể thiếu được trong quá trình hình thành nhân cách. Yếu tố
bẩm sinh di truyền cùng những đặc điểm về thể chất sẽ tạo điều kiện thuận
lợi hoặc gây những khó khăn nào đó trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn,

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

một người có thính giác nhanh nhạy sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc hình
thành năng lực chơi âm nhạc hoặc hưởng thụ âm nhạc. Các cơ quan của cơ
thể và chức năng của nó đôi khi cũng hoạt động theo nguyên tắc bù trừ. Ví
dụ: một người bị mù bẩm sinh thì cảm giác xúc giác hoặc thính giác của họ
rất phát triển.

Tuy nhiên, vai trò của các yếu tố sinh học được nhấn mạnh ở tính chất
tiền đề của chúng. Các yếu tố tự nhiên không quy định sẵn sự phát triển nhân
cách. Luận điểm này được chứng minh bằng một số các nghiên cứu: Những
trẻ sinh đôi cùng trứng với các phương pháp dạy học khác nhau có kết quả
khác nhau trong một số hoạt động sáng tạo (A.R.Luria, V.N.Konhanovsky,
A.N.Mirenova). Sự khác biệt về tính cách của trẻ do vị trí nhất định của chúng
trong quan hệ xã hội quy định.

2. Ảnh hưởng của môi trường

Đánh giá về ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển
nhân cách có ba loại quan điểm khác nhau:

Thứ nhất: Phủ nhận vai trò của môi trường (những người theo trường
phái sinh vật học).

Thứ hai: Thổi phồng vai trò của môi trường xã hội (quan điểm của
thuyết nguồn gốc xã hội của sự phát triển). Quan điểm này cho rằng, môi
trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách. Họ
coi đứa trẻ như tờ giấy trắng, muốn vẽ gì lên đó cũng được. Theo họ, môi
trường xung quanh như thế nào thì nhân cách cá nhân như thế. Bởi thế, khi
nghiên cứu nhân cách cá nhân chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường xã hội
xung quanh là có thể hiểu được.

Thứ ba: Thừa nhận vai trò quan trọng, không thể thiếu của môi trường
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, nhưng không thừa nhận nó là
yếu tố quyết định.

Theo quan điểm của Tâm lý học khoa học, nhóm yếu tố môi trường
đóng vai trò là nguồn gốc và điều kiện cho sự hình thành nhân cách. Trong

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

đó, môi trường vĩ mô là toàn bộ những sự kiện, hiện tượng và đời sống xã hội
trong phạm vi rộng: giai đoạn lịch sử, các di sản văn hóa, các điều kiện xã hội
quá khứ, hiện tại và tương lai... Các điều kiện lịch sử này quy định sự hình
thành nhân cách, chiều hướng phát triển, hình mẫu nhân cách mà xã hội yêu
cầu. Những dấu ấn của một thời kì xã hội in đậm lên nhân cách của một cá
nhân nhiều khi vượt ra ngoài sự nhận biết đơn thuần của cá nhân đó. Chính
môi trường vĩ mô quy định bản chất xã hội và tính lịch sử của nhân cách.

Môi trường vi mô được giới hạn trong phạm vi hẹp gần gũi với cuộc
sống thường ngày: gia đình, trường lớp, bạn bè, cộng đồng dân cư (các
nhóm nhỏ xã hội). Trong môi trường vĩ mô, các quan hệ xã hội được cụ thể
hóa, các giá trị và chuẩn mực xã hội ảnh hưởng trực tiếp lên hành vi của cá
nhân. Mỗi yếu tố trong môi trường vi mô có vai trò nhất định trong sự hình
thành nhân cách. Gia đình là nhóm nhỏ xã hội đặc biệt, có ảnh hưởng thường
xuyên, liên tục và trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Nhà
trường có vai trò chủ đạo, định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách. Đây được coi là nơi tổ chức chuyên biệt quá trình hình thành và phát
triển nhân cách.

Một cách khác, có thể phân chia thành hai loại: Môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách. Môi
trường tự nhiên bao gồm: điều kiện địa lý, khí hậu, sông ngòi, miền, vùng...
Môi trường xã hội bao gồm: các hệ thống, thiết chế xã hội như gia đình, nhà
trường, cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội... cùng với các phong tục tập
quán, lối sống, đạo đức, chuẩn mực...

Môi trường có ảnh hưởng nhất định đến nhân cách cá nhân. Chúng ta
có thể nhận thấy con người ở mỗi nước khác nhau có tính cách khác nhau:
người Nhật cần cù, yêu lao động; người Đức ưa chính xác, tiết kiệm; người
Trung Quốc thâm trầm và kín đáo; người Việt Nam thông minh, cần cù, chịu
khó và rất dũng cảm... Điều kiện địa lý, khí hậu, hoàn cảnh xã hội, lịch sử của
mỗi nước cũng như văn hóa, phong tục tập quán đã tạo nên nét đặc trưng về
tính cách cho mỗi dân tộc. Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến nhân

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cách. Sự phát triển nhân cách tăng dần về mặt số lượng cũng như chất lượng
theo sự phát triển của lứa tuổi. Sự gia nhập vào các nhóm, các tổ chức xã hội
giúp cho cá nhân ngày một trưởng thành. Những chuẩn mực, quy tắc phương
thức giao tiếp dần dần hình thành nhân cách sống cho mỗi cá nhân sao cho
phù hợp với xã hội.

3. Giáo dục và nhân cách

Giáo dục tác động đến sự hình thành và phát triển của nhân cách một
cách có chủ định và có hệ thống. Giáo dục trước khi tiến hành các tác động
để hình thành nhân cách đã xác định một cách rõ ràng hình mẫu nhân cách
cần đạt đến theo các yêu cầu của xã hội. Các hình thức và phương pháp tác
động cũng được vạch ra từ trước dựa trên các cơ sở khoa học. Từ đó, quá
trình tác động để hình thành và phát triển nhân cách là quá trình có kế hoạch
được điều chỉnh, điều khiển. Do vậy, giáo dục được coi là đóng vai trò chủ
đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách, đặc biệt trong việc quy định
xu hướng hình thành và phát triển nhân cách.

4. Ảnh hưởng của hoạt động cá nhân

Môi trường được coi là nguồn gốc, là điều kiện cho sự hình thành và
phát triển nhân cách chứ không quyết định trực tiếp. Trung tâm của môi
trường đó, đồng thời là người mang các tiền đề sinh học chính là chủ thể.
Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người cải tạo hoàn cảnh.
Do vậy nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển của nhân cách
chính là hoạt động của chủ thể. C.Mác cho rằng sự tiếp thị một tổng thể các
công cụ sản xuất cũng là sự phát triển một cách tổng thể các năng lực trong
bản thân. Trong hoạt động, nhờ quá trình chủ thể hóa mà chủ thể lĩnh hội
được nền văn hóa nhân loại, biến chúng thành nhân cách và cũng trong hoạt
động, nhân cách bộc lộ năng lực của bản thân với tư cách là một chủ thể cải
tạo hoàn cảnh. Nếu hoạt động với đối tượng chủ yếu giúp con người hình
thành và phát triển các năng lực của bản thân thì giao tiếp với tư cách là một
dạng đặc biệt của hoạt động lại giúp con người lãnh hội các chuẩn mực, các
giá trị xã hội, các kinh nghiệm xã hội để hình thành các phẩm chất nhân cách.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

A.N.Leonchiev chỉ rõ: Quá trình đứa trẻ lĩnh hội những hành động đặc thù của
con người diễn ra trong giao tiếp. Thực tế hoạt động có đối tượng và giao tiếp
quyện chặt với nhau không tách biệt. Như vậy có thể coi hoạt động nói chung
bao gồm hoạt động với đối tượng và hoạt động với người khác (giao tiếp)
đóng vai trò quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách.

Những nghiên cứu về trẻ em sinh đôi cùng trứng và sinh đôi khác trứng
được tiến hành vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX đã chứng minh một điều
rằng: Sự phát triển nhân cách còn phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động bản
thân mỗi cá nhân.

Với phương pháp nghiên cứu trẻ em sinh đôi trong nhiều năm qua của
các nhà tâm lý học và sinh lý học như T.Gardner, H.Newman, I.I.Caraep... đã
chỉ ra rằng ngay những trẻ em sinh đôi cùng trứng có đặc điểm di truyền
giống nhau, môi trường sống giống nhau nhưng chiều hướng phát triển nhân
cách ở mỗi em lại hoàn toàn khác nhau. Điều đó chỉ có thể giải thích được
rằng hoạt động ở mỗi cá nhân khác nhau quy định chiều hướng phát triển
nhân cách khác nhau của các cá nhân đó.

Tâm lý học mác xít đã khẳng định tính quyết định của hoạt động cá
nhân đến sự hình thành và phát triển nhân cách.

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đặc biệt là phép
biện chứng tự nhiên trong quá trình biến đổi từ vượn thành người nhờ lao
động, các nhà tâm lý học mác xít đã khẳng định hoạt động và phương thức
tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển nhân cách.

Khác với các động vật khác, hoạt động của con người là hoạt động có
mục đích, mang tính xã hội tính cộng đồng và được thực hiện bằng những
thao tác nhất định với những công cụ nhất định.

Sự hình thành và nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động
chủ đạo của họ ở lứa tuổi đó. Việc lựa chọn hình thức hoạt động nào cho phù
hợp cần phải tính đến hoạt động chủ đạo. Ví dụ đối với trẻ mẫu giáo, hoạt

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

động chủ đạo là trò chơi đóng vai, còn đối với học sinh phổ thông lại là hoạt
động học tập. Trong quá trình giáo dục chúng ta nên chọn lựa, tổ chức và
hướng dẫn hoạt động sao cho phù hợp và có hiệu quả. Vai trò của người
hướng dẫn, tổ chức, điều khiển là rất quan trọng. Nó giúp định hướng cho sự
phát triển nhân cách.

Như vậy trong ba yếu tố kể trên, chúng ta không thể xem nhẹ hay bỏ
qua ảnh hưởng của bất kì một yếu tố nào. Tuy nhiên mỗi yếu tố có những vai
trò khác nhau đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Yếu tố sinh học
là cơ sở vật chất, là tiền đề, là nền tảng; môi trường giữ vai trò quan trọng
không thể thiếu; còn hoạt động là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát
triển nhân cách.

IV. SỰ SUY THOÁI NHÂN CÁCH


1. Khái niệm

Nhân cách được hiểu là giá trị xã hội của cá nhân do cá nhân lĩnh hội
các giá trị xã hội tạo nên. Tuy nhiên không phải mọi nhân cách đều là những
nhân cách phù hợp hoàn toàn với hình mẫu nhân cách mà xã hội mong
muốn. Hiện tượng nhân cách có hành vi phi xã hội không phù hợp với các
chuẩn mực xã hội trong mối quan hệ với người khác hoặc với xã hội được gọi
là sự suy thoái nhân cách. Sự biến thái nhân cách và phá vỡ cấu trúc tâm lý
của nhân cách thường có lịch sử lâu dài bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
Có quan điểm cho rằng sự biến thái nhân cách có nguồn gốc từ thời kì thơ
ấu. Ngay trong những thời kì đầu của sự hình thành nhân cách, cá nhân đã
chịu ảnh hưởng của những nhân tố không thuận lợi cho sự phát triển nhân
cách sau này. Đặc biệt trong một số thời kì nhạy cảm trong quá trình phát
triển nhân cách.

Trong sự hình thành nhân cách một cách thuận lợi, môi trường xã hội
xung quanh được tiếp nhận một cách phù hợp. Cá nhân có thể lĩnh hội các
chuẩn mực xã hội và tuân thủ chúng với tư cách là một chủ thể tích cực trong
các quan hệ xã hội.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Ngược lại, với những nhân cách mà các cấu tạo tâm lý mới mang tính
tiêu cực dần được hình thành và được củng cố ngày một vững chắc hơn.
Chúng dần làm suy thoái nhân cách, cản trở sự điều chỉnh hành vi của cá
nhân một cách lành mạnh. Các cấu tạo tâm lý này ngày một phát triển một
cách độc lập, hình thành xu hướng vận động riêng của chúng. Hình thành các
cấu trúc nhân cách bất bình thường và những hình thức sai lệch của các mặt
khác của nhân cách. Càng ngày, sự sai lệch càng rõ rệt. Các thuộc tính bất
bình thường ngày càng bắt rễ vào hệ thống nhân cách và tiếp tục phát triển
ngay cả khi các điều kiện tạo ra chúng không còn tiếp tục tác động nữa.

2. Các mức độ suy thoái nhân cách

Có nhiều mức độ suy thoái nhân cách khác nhau với các biểu hiện ở
các thuộc tính của nhân cách như xu hướng nhân cách, tính cách. Căn cứ
vào tính chất không phù hợp với các chuẩn mực xã hội có thể có một số mức
độ như sau:

- Mức độ thấp nhất là ở nhân cách hình thành một số các nét tính cách
không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, các giá trị xã hội như: tính tham
lam, tính lừa dối, tính độc ác. Các loại tính cách đó đi ngược lại mong muốn
của xã hội làm giảm giá trị của nhân cách. Tuy vậy, mức độ này thường
không được nhắc đến như là sự suy thoái nhân cách mà chỉ được hiểu đơn
giản là các nét tính cách tiêu cực. Cũng chính vì lẽ đó, dạng suy thoái nhân
cách này không được chú ý nhiều trong đời sống, thậm chí có những quan
niệm cho rằng những nét tính cách như vậy là những điều vốn có ở cá nhân
và có thể chấp nhận ở một mức độ nhất định. Sự hình thành và bộc lộ những
nét tính cách đó không chỉ đơn giản có từ thơ ấu mà nó còn có thể xuất hiện
trong quá trình sống, khi một nhân cách đã tương đối ổn định. Trong sự thay
đổi có tính bước ngoặt của điều kiện sống, hoàn cảnh sống các nét tính cách
này có thể xuất hiện và bộc lộ rõ ràng.

- Mức độ thứ hai của sự suy thoái nhân cách là các nhân cách có các
hành vi lệch chuẩn mang tính hệ thống và thường xuyên: lừa đảo, hành vi tội
phạm, tệ nạn xã hội... Các nhân cách này có các hành vi đi ngược lại các

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

chuẩn mực xã hội. Mặc dù cá nhân vẫn nhận thức được tính phi đạo đức của
các hành vi của bản thân nhưng lại coi các hành vi đó là hợp lý.

- Mức độ thứ ba: rối nhiễu nhân cách. Đây là hiện tượng kết hợp một
số nét nhân cách lệch lạc rõ rệt với chuẩn mực văn hóa ảnh hưởng đến toàn
bộ đời sống và hoạt động của nhân cách. Có thể đề cập đến nhiều loại rối
nhiễu nhân cách như rối nhiễu chống đối xã hội - Cá nhân đặt bản thân trong
sự đối lập với xã hội và có các hành vi chống đối xã hội một cách có ý thức.
Mức độ suy thoái này thực chất đã làm mất nhân cách, các giá trị xã hội được
nhập tâm hóa chuyển thành các phản giá trị. Sự tồn tại của cá nhân được
khẳng định bằng cách đi ngược lại các yêu cầu của xã hội, rối nhiễu dạng
hoang tưởng, rối nhiễu ái kỷ, rối nhiễu xa lánh xã hội, rối nhiễu đóng kịch...
Các rối nhiễu này có thể được xác định dựa trên các tiêu chí đánh giá của bộ
tiêu chí ICD của Tổ chức Y tế Thế giới hoặc bộ tiêu chí DSM của Hiệp hội
Tâm thần Mỹ.

3. Các nguyên nhân suy thoái nhân cách

Có nhiều nguyên nhân làm nhân cách suy thoái. Song chủ yếu là các
nguyên nhân về mặt xã hội. Trong đó có 3 nguyên nhân chủ yếu sau:

Đó là khi cá nhân tham gia vào một nhóm xã hội, trong đó các giá trị mà
cá nhân đã chấp nhận và tuân thủ trở nên ít có giá trị. Hệ thống các giá trị,
các chuẩn mực không được tôn trọng. Thậm chí các giá trị được thừa nhận
chung trong xã hội không còn ý nghĩa. Môi trường sống trực tiếp tạo điều kiện
cho các nét tính cách tiêu cực hình thành hoặc bộc lộ rõ hơn. Đặc biệt, khi có
điều kiện để củng cố, nó ngày càng trở nên chi phối hành động của cá nhân.

Cá nhân có thể rơi vào mâu thuẫn giữa những nhu cầu, mong muốn cá
nhân với các vai trò của xã hội mà cá nhân phải đảm nhiệm hay với sự hạn
chế của các điều kiện có thể giúp cá nhân thỏa mãn các nhu cầu đó. Do
không thực hiện được các vai trò của mình, hoặc không thỏa mãn được nhu
cầu, cá nhân có thái độ chống đối và có các hành vi lệch chuẩn. Đối với các
cá nhân này, các giá trị đã lĩnh hội chưa đủ mạnh để ngăn chặn những hành

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

vi lệch chuẩn. Bên cạnh đó các tác động từ bên ngoài có các tác động theo xu
hướng xô đẩy cá nhân thực hiện các hành vi lệch lạc.

Nguyên nhân thứ ba của sự suy thoái nhân cách là do cá nhân bị hủy
hoại các chức năng tâm lý. Nhân cách bị suy thoái do nguyên nhân bệnh lý.
Cá nhân bị bệnh tâm thần và không còn ý thức nên cũng không còn nhân
cách. Trường hợp này phải có sự can thiệp của các chuyên gia y tế.

V. KIỂU NHÂN CÁCH XÃ HỘI


1. Khái niệm kiểu nhân cách

Kiểu nhân cách là một mẫu người bao gồm những đặc điểm điển hình
về mặt xã hội chung cho một lớp hay một loại người. Việc phân kiểu nhân
cách mang tính mô tả. Nó cho phép hình dung một cách chung nhất về một
nhóm nhân cách trong xã hội giữa nhiều kiểu nhân cách khác nhau.

- Đây là một mô hình bao gồm các đặc điểm xã hội của con người do
các nhà nghiên cứu phác họa lên để nghiên cứu. Trong thực tế, con người
không hoàn toàn trùng khớp lên các mô hình này mà mô hình này có tính đại
diện cho một số người trong cộng đồng.

- Các đặc điểm (hay tiêu chuẩn) được lấy làm căn cứ phân kiểu người
thường là các đặc điểm xã hội như: thái độ đối với công việc, với những giá trị
trong xã hội. Các kiểu nhân cách này, trong một xã hội thường không đối lập
mà có nét tương đồng khác nhau ở thái độ ưu thế nổi bật đối với một giá trị
nào đó: ham địa vị, ham tiền tài.

Ngoài ra vẫn còn những nét theo đuổi những giá trị chung của xã hội
song không như nhau.

Điều lưu ý phải phân biệt hai loại kiểu nhân cách: kiểu nhân cách cơ
bản và kiểu nhân cách lý tưởng:

+ Kiểu nhân cách cơ bản: là kiểu nhân cách có tính chất đại diện cho
cùng tầng xét về mặt thống kê. Nó thường xuất hiện, vốn có ở phần lớn các
thành viên trong cộng đồng.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

+ Kiểu nhân cách lý tưởng là mẫu người cần xây đựng cho một giai
đoạn lịch sử nhất định.

Giữa hai loại này bao giờ cũng có khoảng cách, thậm chí có khi đối lập
nhau. Nhưng cũng có thể kiểu nhân cách cơ bản đang tiến tới kiểu nhân cách
lý tưởng.

2. Sự khác nhau giữa hai khái niệm “nhân cách” và “kiểu nhân
cách”.

- Khái niệm “nhân cách” ngoài những nét đặc điểm, đặc tính điển hình
về mặt xã hội (có ý nghĩa xã hội) còn bao hàm cả những nét, đặc điểm, đặc
tính cá biệt nữa. Do đó nói tới nhân cách là nói tới cái chung và cả cái riêng
cá biệt của một con người cụ thể. Nói khác đi tâm lý không phải của bất kì cá
nhân nào cũng đều là kiểu tâm lý là kiểu nhân cách xét về mặt giai cấp - xã
hội.

Ta hiểu rằng nhân cách tất nhiên mang bản chất xã hội lịch sử nhưng
Tâm lý học nhân cách coi nhân cách có tính chất chung hơn, trừu tượng hơn
về mặt cấu trúc nhưng không bỏ qua những nét đặc điểm cá biệt.

Còn nói đến kiểu nhân cách là nói các điển hình phi cá tính, phi cá
nhân, xem các điển hình không phải là cái đơn nhất mà là một cái gì chung
cho một giai cấp, một tầng lớp, một xã hội. Đó là hình ảnh thực, “tập trung
hóa” của các cộng đồng người.

3. Phân biệt kiểu nhân cách xã hội và nhân vật điển hình của nghệ
thuật

Nhân vật điển hình của nghệ thuật là nhân vật được điển hình hóa, có
những đặc điểm điển hình được mô tả dưới hình thức cảm tính trực quan.
Khái quát từ nhiều người có thực trong thực tế nhưng nó còn là một cá tính
nữa với nghĩa là một cái đơn nhất không có người thứ hai như vậy.

Như vậy kiểu nhân cách không có nét chung với nhân vật điển hình mà
nó có những nét tiêu biểu cho một kiểu nhân cách xã hội nhưng hai khái niệm
này khác nhau.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Vì Tâm lý học xã hội làm việc với các kiểu có tính chất đại diện ít nhất
có tính chất phổ biến, trung bình xét về mặt thống kê toán học theo quy luật
số lớn.

Tóm lại, điển hình nghệ thuật bao giờ cũng hiện lên với vẻ đơn nhất
của một nhân vật, có xương, nhưng không có tính chất đại diện xét về số lớn
mà nó có tính chất cá biệt nhiều hơn.

Song Tâm lý học xã hội phải khai thác nhiều ở chỗ nhân vật điển hình
trong nghệ thuật vì chính nó phản ánh phần nào các kiểu nhân cách của một
giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là nguồn tài liệu phong phú của những công
trình nghiên cứu vấn đề này.

4. Ví dụ về nghiên cứu kiểu nhân cách xã hội

Từ những năm 70 của thế kỉ XX, Olsanxki đưa ra 8 kiểu nhân cách trên
cơ sở xác định thái độ ưu thế của mỗi kiểu đối với một giá trị nào đó trong xã
hội Nga hồi bấy giờ. Kết quả nghiên cứu như sau:

1. Vlađimir: tiến nhanh từ một công nhân bình thường thành một cán bộ
phụ trách cỡ lớn. Chưa đầy 40 tuổi mà Vlađimir đã chỉ huy hàng mấy trăm
người đang sản xuất một loại sản phẩm quan trọng. Cấp lãnh đạo thừa nhận
năng lực của anh ta, có cơ sở để chờ đón anh ta sẽ tiếp tục lên cấp.

Đặc trưng của người này là địa vị, chức vụ.

2. Mátvây: công việc anh làm không mang lại tiếng tăm và cơ hội thăng
chức nhưng tiền lương khá. Mátvây không từ chối việc gì, không tiếc thời gian
làm việc nên có nguồn thu nhập chắc chắn. Anh đã mua được ôtô con và
đang giành tiền mua biệt thự ở ngoại ô.

Đặc trưng của người này là giá trị tiền, của cải.

3. Vaxily: không chú ý tính toán đến lương bổng và những tiện nghi sinh
hoạt, được làm việc ở những nơi nào khó khăn nhất có lợi ích nhất và cần
thiết nhất là thấy thích nhất, đẹp nhất, tự hào nhất. Vaxily và những đồng chí
của mình đã cùng nhau vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Đặc trưng của người này là ham việc, tinh thần công tác cao.

4. Nicolai: công việc của anh ta chẳng có gì là anh hùng và cũng chẳng
hứa hẹn tăng thêm thu nhập công việc nhàn hạ, không có gì là đột xuất, vất
vả song điều độ và bình lặng có một căn hộ riêng xinh xắn, trang trí bày biện
đẹp mắt.

Đặc trưng của người này là an phận, bình lặng.

5. Paven: sống quan tâm nhiều đến số phận của người khác, giúp đỡ
nhiều khi người họ gặp khó khăn có lương tâm, tốt bụng ân cần, hồ hởi. Khi
đấu tranh với những khuyết điểm của người khác có lúc vấp váp với một vài
cán bộ lãnh đạo khiến cho anh ta chậm được đề bạt, tăng lương.

Đặc trưng của người này là đấu tranh cho chân lý, lẽ phải.

6. Anđrây: còn trẻ nhưng đã nổi tiếng, ai cũng biết đến tên tuổi của anh
ta. Anh ta thường xuyên xuất hiện trên báo chí, vô tuyến truyền hình. Anh ta
không ham tiền, thích biểu hiện (khoe) tài năng của mình trước mọi người.

Đặc trưng của người này là ham tiếng tăm, danh vọng.

7. Kirin: có công việc lý thú nên dồn hết sức mình vào đó, không có thời
gian cho cuộc sống cá nhân và tiêu khiển; thích nghiên cứu một cách tự do,
suy nghĩ độc đáo và táo bạo; ít người biết đến nhưng được thừa nhận là một
chuyên gia cỡ lớn.

Đặc trưng của người này là thích sáng tạo, thích ứng với khoa học.

8. Côngxtăngtin: không gắn bó với một nghề nghiệp nhất định nào, làm
ăn thu nhập thất thường, có khi không còn đồng tiền nào. Côngxtăngtin tự
đánh giá mình cao, có xu hướng thích đi lang thang, phiêu bạt nay đây mai đó
có nhiều thời gian rảnh rỗi để tiêu khiển; thích đàn đúm “vui vẻ, trẻ trung”. Khi
người ta hỏi bao giờ thì ổn định cuộc sống, anh ta trả lời rằng: “về già cũng
chưa muộn”.

Đặc trưng của người này là ham chơi, không có chí hướng

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Khi nghiên cứu hơn 200 người gồm có công nhân, sinh viên, nghiên
cứu sinh nhân viên hàng không... thì được kết quả như sau:

- Kiểu Paven là kiểu được đánh giá cao nhất, sau đó đến kiểu Vaxili, rồi
đến Kirin - đến Vlađimir, bị lên án nhiều nhất là kiểu Côngxtăngtin, rồi đến
Matvây, Nicôlai và Anđrây.

Thái độ đối với các kiểu nhân cách nêu trên ở Nam và Nữ có sự khác
biệt.

- Nữ thích kiểu Vaxili nhưng cũng kém cương quyết hơn trong việc phủ
định và bác bỏ kiểu Mátvây.

- Đặc biệt số nữ được nghiên cứu tỏ ra lo lắng thương hại số phận


Paven và cần lưu ý một số phụ nữ tỏ ra không hiểu, không thông cảm với
kiểu Kirin: không thể tưởng tượng được rằng có người quên gia đình, quên
cuộc sống cá nhân: những mặt khác thì Vaxili vẫn được đánh giá cao nhất.

Kết luận: Nhìn chung đối với nữ, vấn đề gia đình và xây dựng quan hệ
gia đình là vấn đề hết sức thiết yếu và điều đó không phải chỉ do nguyên nhân
sinh vật mà chủ yếu do nguyên nhân xã hội.

Lòng yêu đời về cơ bản giữa nam và nữ không khác nhau nhưng
nghiên cứu cho thấy tính năng động (kể cả việc mình tin rằng sẽ đạt được
mục đích này), nữ thấp hơn nam tới gần 2 lần (vấn đề có tính chất lịch sử).

Các kiểu nhân cách này là ở Liên Xô trong những năm 1960 đặt ra cho
ta suy nghĩ: Cần và nên nghiên cứu một số kiểu người hiện nay trong xã hội
ta và nên tham khảo tài liệu của Nga nhưng phải nghiên cứu trên thực tế Việt
Nam.

VI. QUAN HỆ LIÊN NHÂN CÁCH


1. Khái niệm quan hệ liên nhân cách

a) Quan hệ xã hội

Nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, cũng có nghĩa là nghiên cứu
cá nhân trong các nhóm, trong các quan hệ xã hội. Nói cách khác là nghiên

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

cứu cá nhân trong hệ thống chung các mối quan hệ xã hội, trong một số “ngữ
cảnh xã hội”. “Ngữ cảnh” này bao gồm hệ thống các mối quan hệ thực của
nhân cách với thế giới khách quan. Xác nhận các mối quan hệ có nghĩa là
thực hiện nguyên tắc chung về phương pháp luận - nghiên cứu con người
trong sự liên hệ với môi trường xung quanh. Nhưng nội dung, mức độ các
mối quan hệ của con người với thế giới khách quan lại rất khác nhau bởi vì
mỗi cá nhân lại là chủ thể của rất nhiều mối quan hệ khác nhau. Trong sự đa
dạng đó có thể có thể chia ra làm hai loại mối quan hệ: quan hệ xã hội và
quan hệ “tâm lý” của nhân cách - quan hệ liên nhân cách.

Cấu trúc quan hệ xã hội được bộ môn Xã hội học nghiên cứu. Trong lý
thuyết của khoa học, Xã hội học đã đưa ra rất nhiều loại quan hệ xã hội: quan
hệ kinh tế, quan hệ pháp quyền, quan hệ chính trị... Tổng hoà các mối quan
hệ này tạo nên quan hệ xã hội. Đặc trưng của quan hệ xã hội được biểu hiện
ở chỗ, trong các mối quan hệ này không chỉ đơn giản là cá nhân “gặp gỡ” với
cá nhân hay cá nhân “quan hệ” với cá nhân khác mà những cá nhân này với
tư cách là những người đại diện cho các nhóm xã hội nhất định (đại diện cho
giai cấp nghề nghiệp, các tổ chức chính trị, đảng phái...). Do vậy, có thể hiểu:
quan hệ xã hội là quan hệ giữa các cá nhân với tư cách đại diện cho một
nhóm xã hội, do xã hội quy định một cách khách quan vai trò của mỗi cá nhân
trong nhóm. Ví dụ: thầy - trò; người mua - người bán; thủ trưởng - nhân viên.

Đặc trưng cơ bản của quan hệ xã hội là các mối quan hệ này được
thiết lập không phải dựa trên nền tảng có thiện cảm hay không thiện cảm của
các cá nhân mà dựa trên cơ sở về vị trí nhất định của mỗi cá nhân trong xã
hội, trên cơ sở những chức năng, hành vi mà cá nhân phải thực hiện khi
đứng ở vị trí đó (gọi là vai xã hội). Bởi vậy, các mối quan hệ này được xã hội
quy định một cách khách quan. Đây là mối quan hệ giữa các nhóm xã hội hay
giữa các cá nhân với tư cách là những đại diện các nhóm xã hội đó. Điều này
nói lên rằng quan hệ xã hội không có tính bản sắc. Bản chất của các mối
quan hệ này không nằm trong sự tác động qua lại giữa các nhân cách mà
nằm trong sự tác động qua lại giữa các vai trò xã hội.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Trong thực tế, mỗi cá nhân đảm nhiệm không chỉ một vai trò mà là
nhiều vai xã hội: Họ có thể là một giáo viên, một người bố, là một thành viên
một câu lạc bộ, là một trưởng họ... Có những vai xã hội được quy định trước
cho con người từ khi mới sinh ra (ví dụ là nam hay nữ), những vai xã hội khác
được hình thành trong cuộc sống. Mặc dù vậy, bản thân vai xã hội không
quyết định hoạt động và hành vi của mỗi người mà tất cả những điều đó phụ
thuộc vào nhận thức của cá nhân và sự nhập vai của cá nhân đó. Sự nhập
vai mang màu sắc cá nhân rõ rệt vì được xác định bằng hàng loạt các đặc
điểm tâm lý cá nhân của người mang vai đó. Bởi vậy các quan hệ xã hội, mặc
dù thực chất là các quan hệ theo vai, không phải là quan hệ nhân cách,
nhưng trong thực tế, trong mỗi sự biểu hiện cụ thể vẫn có “sắc thái nhân
cách”. Trở thành nhân cách trong hệ thống các quan hệ xã hội, con người
nhất định phải tham gia vào quá trình tác động qua lại, vào quá trình giao tiếp
vì thông qua các quá trình đó những đặc tính cá nhân nhất định được biểu
hiện. Bởi vậy mỗi vai trò xã hội không có nghĩa là sự định trước tuyệt đối của
hành vi, mà nó thường xuyên giữ lại một vài “phạm vi cơ hội” cho người thực
hiện. Ta có thể ước lệ gọi đó là “phong cách nhập vai”. Chính phạm vi này trở
thành nền tảng để xây dựng các quan hệ khác bên trong của hệ thống quan
hệ xã hội - quan hệ liên nhân cách.

b) Khái niệm, vai trò và bản chất của quan hệ liên nhân cách

Khi tham gia vào các quan hệ với người khác, cá nhân, một mặt có thể
thực hiện vai xã hội do mối quan hệ đó quy định. Khi đó cá nhân đang tiến
hành mối quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân có thể quan hệ với người khác
không phải trên cơ sở của vai xã hội mà chủ yếu dựa trên cơ sở của tình
cảm, xúc cảm của quan hệ mang tính tâm lý. Khi đó cá nhân đang thực hiện
quan hệ liên nhân cách.

Quan hệ liên nhân cách là quan hệ cá nhân với cá nhân trên cơ sở tâm
lý, tình cảm và sự đồng nhất với nhau ở mức độ nhất định.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Như vậy, nói đến quan hệ liên nhân cách là nói đến quan hệ mang tính
người - người, nói đến nội dung tâm lý của quan hệ đó chứ không nói đến nội
dung “công việc” của quan hệ đó.

c) Quan hệ giữa quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách

Quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách gắn bó rất chặt chẽ với
nhau. Trong Tâm lý học xã hội có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
xác định vị trí của quan hệ liên nhân cách với hệ thống quan hệ xã hội. Đôi khi
quan hệ liên nhân cách được coi như ngang hàng với quan hệ xã hội, một
thành phần tạo nên các quan hệ xã hội, hoặc ngược lại quan hệ liên nhân
cách ở mức độ cao hơn quan hệ xã hội, hay quan hệ liên nhân cách là sự
phản ánh trong ý thức của quan hệ xã hội...Theo quan điểm khác, bản chất
của quan hệ liên nhân cách có thể được hiểu đúng nếu như chúng không đặt
ngang hàng với quan hệ xã hội mà được nhìn nhận như một hàng quan hệ
đặc biệt xuất hiện bên trong mỗi loại quan hệ xã hội và nó không thể nằm
ngoài các quan hệ này (ví dụ như “thấp hơn”, “cao hơn” hay “bên cạnh”).

Có thể có sơ đồ biểu diễn hai loại quan hệ này như sau:

Xã hội

Các quan hệ xã hội - chính trị Các quan hệ liên nhân cách

Xã hội

Kinh tế

Quan hệ giữa các nhóm


Quan hệ liên nhân cách nằm trong quan hệ xã hội, chúng đan xen vào
nhau. Bất kì một quan hệ xã hội nào cũng bao hàm quan hệ liên nhân cách ở

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

một mức độ nhất định. Ngược lại bất kì một quan hệ liên nhân cách nào cũng
bao hàm một quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ, trong quan hệ tình yêu, thoạt
nhìn đây là quan hệ có vẻ như là quan hệ liên nhân cách đơn thuần nhưng
thực tế nó cũng không thể thoát khỏi một kiểu quan hệ xã hội (một vai trò xã
hội là nam giới và vai kia là nữ giới). Sự tồn tại quan hệ liên nhân cách bên
trong các hình thức khác nhau của quan hệ xã hội như là sự thực hiện các
quan hệ trong hoạt động của các nhân cách cụ thể, trong các hoạt động giao
tiếp và sự tác động qua lại. Trong quá trình thực hiện đó, mối quan hệ giữa
con người với con người (trong đó có môi quan hệ xã hội) một lần nữa được
tái tạo lại. Hay nói một cách khác, trong toàn bộ tiến trình vận hành hệ thống
khách quan các quan hệ xã hội có sự hiện diện của các yếu tố thuộc về các
cá nhân. Chính vì vậy ở đây có sự giao thoa giữa quan hệ xã hội và quan hệ
liên nhân cách.

Bản chất quan hệ liên nhân cách khác với bản chất quan hệ xã hội
được thể hiện ở nét đặc trưng quan trọng: quan hệ liên nhân cách được thiết
lập trên nền tảng xúc cảm, tình cảm. Điều đó có nghĩa là những quan hệ liên
cách đó xuất hiện và hình thành trên nền tảng những tình cảm nhất định nảy
sinh ở con người trong mối quan hệ giữa con người với con người. Chính vì
vậy quan hệ liên nhân cách được xem như là nhân tố của bầu “không khí tâm
lý” trong nhóm.

2. Các yếu tố chi phối quan hệ liên nhân cách

a) Giao tiếp trong hệ thống quan hệ liên nhân cách

Không thể có quan hệ người - người (bao hàm cả quan hệ xã hội và


quan hệ liên nhân cách) nói chung nếu thiếu giao tiếp. Giao tiếp là phương
tiện là công cụ để thực hiện các quan hệ đó. Do vậy, giao tiếp có một vị trí
trung tâm trong hệ thống phức tạp các quan hệ của con người. Hiểu chung
nhất, giao tiếp như là sự tác động qua lại giữa hai hay nhiều người để trao đổi
thông tin, nhận thức hay tình cảm. Trong cấu trúc của giao tiếp có những
phương diện sau: 1) Sự gắn kết, thành lập cộng đồng; 2) Sự trao đổi thông

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

tin; 3) Sự hiểu biết lẫn nhau. Cả ba phương diện này của giao tiếp đều tác
động mạnh mẽ đến quan hệ liên nhân cách.

Giao tiếp là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Nó vừa là phương thức phát triển cá nhân vừa là phương thức để thống nhất
các cá nhân. Cần đặc biệt nhấn mạnh ý tưởng rằng, trong giao tiếp, cá nhân
lĩnh hội các chuẩn mực, các giá trị xã hội, đồng thời biểu hiện sự gắn bó tình
cảm, sự ghét bỏ, chối từ hay đơn giản là thờ ơ, lãnh đạm đối với các cá nhân
khác. Cũng trong giao tiếp, các định hướng giá trị của cá nhân có thể xích
gần lại với định hướng giá trị của cá nhân khác hay theo chiều ngược lại là
phân hóa rõ ràng hơn. Chính điều này tác động đến quan hệ liên nhân cách.

Hai hàng quan hệ của con người - quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân
cách được bộc lộ và thực hiện chính trong giao tiếp. Vì vậy có thể nói, nguồn
gốc khởi thủy của giao tiếp được bắt nguồn từ hoạt động trong cuộc sống của
cá nhận. Giao tiếp là thực hiện toàn bộ hệ thống các quan hệ của con người.
Các mối quan hệ đa dạng của con người chỉ có thế thực hiện trong giao tiếp.
Xã hội loài người không thể tồn tại nếu không có giao tiếp. Nó vừa như một
phương thức thống nhất các cá nhân vừa như là một phương thức phát triển
các cá nhân đó. Chính vì vậy giao tiếp cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ:
vừa thực hiện quan hệ xã hội và vừa thực hiện quan hệ liên nhân cách.

Mỗi loại quan hệ vận hành trong các hình thức đặc trưng của giao tiếp.
Giao tiếp với tư cách thực hiện quan hệ liên nhân cách được nghiên cứu rất
nhiều trong Tâm lý học xã hội. Giao tiếp liên nhân cách được nảy sinh từ hoạt
động cùng nhau của con người. Vì vậy, nó được thực hiện trong các quan hệ
liên nhân cách đa dạng, có nghĩa là nó được hình thành trong trường hợp khi
quan hệ giữa con người với con người mang tính tích cực và ngay cả khi
quan hệ đó mang tính tiêu cực.

Giao tiếp khi thực hiện các quan hệ xã hội là giao tiếp giữa các nhóm
hay các cá nhân như là đại diện của các nhóm xã hội. Trong trường hợp này
hoạt động giao tiếp cần thiết phải được diễn ra thậm chí ngay cả khi có sự đối
kháng giữa các nhóm. Trong tác phẩm của mình, Mác đã viết rằng: giao tiếp

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

là người bạn đồng hành tuyệt đối của lịch sử nhân loại. Theo Lêônchiev, giao
tiếp cũng là người bạn đồng hành tuyệt đối trong hoạt động hàng ngày, trong
sự tiếp xúc hàng ngày của con người. Như vậy, chúng ta có thể nghiên cứu
lịch sử thay đổi các hình thức của giao tiếp trong phạm vi phát triển xã hội
cùng với sự phát triển các quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị và các quan hệ
xã hội khác. Với tư cách là người đại diện cho một số nhóm xã hội, con người
giao tiếp với đại diện của nhóm xã hội khác và cùng một lúc đã thực hiện
được hai loại quan hệ: quan hệ xã hội và quan hệ nhân cách. Ví dụ, người
nông dân khi bán sản phẩm của mình ngoài chợ và nhận được một số tiền,
số tiền này như một công cụ cần thiết của giao tiếp trong hệ thống quan hệ xã
hội. Mặt khác, người nông dân này khi bán hàng đã bộc lộ những đặc điểm
tâm lý riêng của mình, tác động qua lại với khách hàng hay nói cách khác là
chính bằng nhân cách của mình để giao tiếp với khách hàng.

b) Những yếu tố tâm lý xã hội

Với tư cách là quan hệ tâm lý giữa các cá nhân, quan hệ liên nhân cách
chịu sự tác động của một loạt các yếu tố tâm lý xã hội. Đó là sự gần gũi giữa
các cá nhân, sự tương tác và hình ảnh “cái tôi” của các cá nhân.

Sự gần gũi giữa các cá nhân bao hàm sự gần gũi về địa lý và về tâm lý.
Sự gần gũi về địa lý thường tạo cơ hội cho sự giao tiếp thường xuyên giữa
các cá nhân, từ đó làm nảy sinh sự hiểu biết lẫn nhau, sự gắn bó và đồng
nhất lẫn nhau ở mức độ nhất định, đặc biệt trong các trường hợp các cá nhân
đó cùng ở trong môi trường lạ, không quen thuộc. Sự gần gũi về địa lý càng
gần thì càng tạo điều kiện cho việc hình thành nhiều quan hệ liên nhân cách.
Sự gần gũi về địa lý còn tạo ra những sự tương đồng nhất định về tâm lý giữa
các cá nhân trong cùng một cộng đồng.

Sự gần gũi giữa các cá nhân về tâm lý trong Tâm lý học xã hội thường
được gọi là sự tương hợp tâm lý. Sự tương hợp tâm lý có thể hiểu là sự
giống nhau của các đặc điểm tâm lý của các cá nhân và sự thích ứng lẫn
nhau dễ dàng giữa các cá nhân. Sự tương hợp tâm lý về thái độ, sở thích, về
quan điểm, về cách thức ứng xử... là điều kiện thuận lợi cho sự hình thành

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

các quan hệ liên nhân cách. Các yếu tố đó có thể giúp quan hệ liên nhân cách
trở nên gắn bó chặt chẽ hơn. Sự tương hợp tâm lý tạo ra sự hài hòa trong
quan hệ mà các cá nhân không cần phải điều chỉnh nhiều để thích ứng với cá
nhân khác. Đây được coi là tiền đề tốt cho một quan hệ liên nhân cách bền
chặt. Các cá nhân có xu hướng tìm kiếm và thiết lập quan hệ với các cá nhân
khác giống mình. Điều này lại được giải thích bằng cơ chế đồng nhất hóa và
nhu cầu được khẳng định bản thân của cá nhân trong đời sống xã hội. Sự
giống nhau giữa một số cá nhân tạo điều kiện cho cá nhân cảm thấy sự tự tin,
tôn trọng vào bản thân, thúc đẩy cá nhân quan hệ tích cực hơn với các cá
nhân giống mình. Tuy nhiên, trong Tâm lý học xã hội cũng có những ý kiến
ngược lại cho rằng không chỉ sự tương hợp tâm lý giúp quan hệ liên nhân
cách có thể tạo ra và làm tăng cường quan hệ liên nhân cách mà ngay cả sự
khác biệt cũng có vai trò nhất định trong việc tạo ra quan hệ liên nhân cách.
Không ít khi, sự khác biệt lại tạo ra sự cuốn hút các đối tượng khác trong
quan hệ liên nhân cách.

Quan hệ liên nhân cách diễn ra trên cơ sở sự tương tác giữa các cá
nhân. Tương tác được hiểu là sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân nhằm
thực hiện những mục đích nhất định nào đó. Trong quá trình tương tác, các
cá nhân nằm trong sự tác động qua lại trực tiếp, trao đổi thông tin, điều chỉnh,
phối hợp hành động với nhau, nhận thức lẫn nhau. Chính trong quá trình này,
các đặc điểm tâm lý của cá nhân được bộc lộ, biểu hiện ra bên ngoài và được
các cá nhân khác nhận biết. Tính chất của sự tương tác có thể ảnh hưởng
đến quan hệ liên nhân cách. Có hai loại tương tác chính: hợp tác và cạnh
tranh. Mỗi loại có tính chất riêng. Hợp tác là sự tương tác theo chiều hướng
phối hợp hành động, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động. Hợp tác có thể tạo
quan hệ liên nhân cách tốt khi các cá nhân tham gia vào quan hệ đó tích cực
và thiện chí. Ngược lại, nếu các cá nhân ỷ lại, bị động, sự tương tác sẽ không
đem lại hiệu quả mong muốn. Cạnh tranh là loại tương tác giúp cá nhân phát
huy tốt nhất tiềm năng của mình, bộc lộ rõ rệt bản thân. Tuy nhiên cạnh tranh
với mục đích tiêu cực có thể làm hủy hoại quan hệ liên nhân cách.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Hình ảnh “cái tôi” của mỗi cá nhân là một cấu trúc tâm lý, là biểu tượng
của cá nhân về chính bản thân, hình thành nhờ quá trình tự nhận thức, tự
đánh giá bản thân. Cái tôi là hạt nhân của hệ thống điều khiển của nhân cách.
Nó chi phối thái độ, hành vi của con người trong các quan hệ xã hội. Trong
quá trình hoạt động với người khác cái tôi được thể hiện ở 5 phương diện:
tính đồng nhất, tính ổn định, quá trình tự ý thức, tự đánh giá về bản thân và ý
thức xã hội (theo Shibutani). Tính đồng nhất thể hiện ở hành vi, ứng xử của
một cá nhân. Trong cùng một tình huống, một thời điểm, một cá nhân không
có những cách ứng xử trái ngược nhau. Cá nhân lựa chọn và hành động theo
một lập trường nhất định. Bên cạnh đó, cái tôi tương đối ổn định, nó không dễ
dàng thay đổi khi cá nhân thay đổi vai xã hội của mình. Do vậy, xác định được
vị trí của bản thân trong các quan hệ với người khác đóng vai trò to lớn đối
với việc điều chỉnh quan hệ liên nhân cách. Bên cạnh đó, chính nhờ các quan
hệ với người khác, cá nhân có thể hình thành cái tôi ngày càng chính xác
hơn.

HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:

Các tri thức tâm lý học xã hội về nhân cách giúp nhận biết các yếu tố
chi phối sự phát triển nhân cách, từ đó tác động nhằm phát triển nhân cách
của sinh viên trong hoạt động giáo dục. Đồng thời, dựa trên các kiểu nhân
cách để có những cách thức ứng xử phù hợp trong quan hệ với sinh viên.
Trong hoạt động dạy học và giáo dục cần chú ý:

- Tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách lành mạnh ở sinh viên, giúp
sinh viên có được sự thích ứng tốt nhất với hoạt động học tập hình thành
nghề nghiệp thông qua việc tổ chức nhóm, tổ chức môi trường hoạt động tích
cực, phát huy những điểm mạnh, tính chủ động của sinh viên.

- Phân loại và nhận biết các kiểu nhân cách khác nhau ở sinh viên. Việc
đó giúp giảng viên có thể dự đoán được các chiều hướng hành vi ở sinh viên,
đồng thời có khả năng dự kiến các tác động hay cách thức ứng xử phù hợp
với các kiểu nhân cách. Bên cạnh đó, việc chỉ ra các hình mẫu của các kiểu

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

loại nhân cách xã hội giúp dự đoán và tác động đến sự thích ứng của sinh
viên với các tình huống xã hội.

- Chú ý đến sự tác động và các yếu tố chi phối sự hình thành quan hệ
liên nhân cách trong quá trình tiến hành các quan hệ xã hội với sinh viên. Một
mặt có thể xây dựng quan hệ liên nhân cách tích cực, mặt khác có ý thức
thoát khỏi sự chi phối của các quan hệ liên nhân cách trong quá trình vận
hành các quan hệ xã hôi.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG VI

1. Nhân cách là gì? Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách? Vai trò của các yếu tố đó?

2. Có các thành phần nào tạo nên cấu trúc của nhân cách?

3. Thế nào là kiểu nhân cách xã hội? Ý nghĩa của việc nghiên cứu kiểu
nhân cách xã hội? Anh/Chị cho biết có những kiểu nhân cách xã hội nào? Mô
tả kiểu nhân cách đó.

4. Phân biệt quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách. Làm cách nào
để điều chỉnh các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ liên nhân cách?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tiếng Việt

1. Vũ Dũng (chủ biên), Từ điển Tâm lý học, NXB Khoa học Xã hội,
2000.

2. Fisher, Những khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội, NXB Thế
giới, Hà Nội.

3. Freud.S, Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2000.

4. Trần Hiệp (chủ biên), Tâm lý học xã hội - một số vấn đề luận. NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

5. Hipxơ.H và M.Phorvec, Nhập môn Tâm lý học xã hội mácxít, NXB


Khoa học Xã hội, 1984.

6. Ngô Công Hoàn, Tâm lý học xã hội trong quản lý, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, 1997

7. Lêônchiev.A.N, Hoạt động - Ý thức - Nhân cách, NXB Giáo dục, Hà


Nội, 1989.

8. Lômôv.B.Pa, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận Tâm lý học,


NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998.

9. J.Surowiecki, Trí tuệ đám đông NXB Tri thức, 2007.

10. Toeffler.A, Làn sóng thứ ba, NXB Khoa học Xã hội 2007.

11. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), Tâm lý học đại cương, NXB Giáo
dục, 2005.

Tiếng Anh

12. Allport, F.H, Socialpsychology, Routledge/Thoemes press, 1994.

13. Burger, J.M, Personality, Wadworth Publishing, Califomia, 1990.

14. Keley.H, The two functions of reference group / reading in social


psychology, New York, 1952.

15. Lott.A.J, Lot.B.E, Group cohesivness as interpersonal atrraction: A


review of relationships with antecedent and consequent variable.
Psychological bulettin, 64, 259, 309, 1976.

16. Lewin.K, Field theory in social science, New York, 1964.

17. Myer.D.G (1996), Social psychology Intemational edition,


McGrawhill

18. Shaw.E, Group dynamic. The psychology of small group behavior,


Mc Graw-hill book, 1976.

19. Zaden, J.V, Social psychology, New York, Mc Graw-hill, 1994.

Tiếng Nga

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC

I. Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội.

II. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.

III. Lịch sử hình thành Tâm lý học xã hội.

IV. Tâm lý học xã hội trong các hệ thống các khoa học.

V. Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý xã hội học.

Câu hỏi ôn tập chương I.

Chương II. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI

I. Các quy luật tâm lý xã hội.

II. Cơ chế tâm lý xã hội.

Câu hỏi ôn tập chương II

Chương III. NHÓM XÃ HỘI

I. Khái niệm nhóm xã hội và phân loại nhóm.

II. Cấu trúc của nhóm xã hội.

III. Một số đặc điểm tâm lý của nhóm lớn.

IV. Khái niệm chung về nhóm nhỏ.

Câu hỏi ôn tập chương III.

Chương IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ

I. Tập thể và cấu trúc quan hệ cá nhân trong tập thể.

II. Sự cố kết trong tập thể.

III. Một số hiện tượng tâm lý xã hội cơ bản trong đời sống tập thể.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Câu hỏi ôn tập chương IV.

Chương V. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM KÍCH

I. Ảnh hưởng xã hội

II. Định kiến xã hội

III. Sự xâm kích

Câu hỏi ôn tập chương V

Chương VI. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ XÃ HỘI.

I. Khái niệm nhân cách trong Tâm lý học xã hội.

II. Cấu trúc nhân cách.

III. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách.

IV. Sự suy thoái và nhân cách.

V. Kiểu nhân cách xã hội.

VI. Quan hệ liên nhân cách.

Câu hỏi ôn tập chương VI

---//---

TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

Tác giả:
TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


Địa chỉ: 136 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 04.37547735 - Fax: 04 - 3754791
Email: hanhchinh@nxbdhsp.edu.vn
Website: www.nxbdhsp.edu.vn

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Giám đốc: ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập: ĐINH VĂN VANG

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)


lOMoARcPSD|16835821

Người nhận xét:


GS.TS. VŨ DŨNG - PGS.TS. MẠC VĂN TRANG
GVCC.TS. ĐỖ MỘNG TUẤN

Biên tập nội dung: LÊ THỊ BÍCH

Bià và trình bày: TIÊU VĂN ANH

Mã số: 01.01.54/159. ĐH2011.294

In 1.000 cuốn, khổ 17 x 24 cm, tại Công ty cổ phần in Phúc Yên. Đăng kí
KHXB số: 267-2011/CXB/54-13/ĐHSP ngày 14/3/2011. In xong và nộp lưu
chiểu tháng 12 năm 2011.

Downloaded by CHU NG?C MINH CHÂU (stu715614014@hnue.edu.vn)

You might also like