You are on page 1of 78

TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

Tác giả: TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN

LỜI NÓI ĐẦU

Tâm lý học xã hội là một ngành của Tâm lý học và mang đậm hơi thở của đời sống
xã hội. Lịch sử Tâm lý học xã hội cho thấy, những vấn đề nổi bật của các giai đoạn xã hội
lịch sử đều được phản ánh trong Tâm lý học xã hội ở các mức độ khác nhau. Không ít
những vấn đề mang tính cấp thiết của xã hội được tiến hành nghiên cứu trong Tâm lý học
xã hội ngay từ khi chúng bắt đầu xuất hiện. Những nghiên cứu về phong cách lãnh đạo và
công bằng xã hội những năm 1930 - 1940; về sự a dua vào những năm 1950, về sự xâm
kích những năm 1960; về giới tính, về dân tộc những năm 1960 - 1970; về chủng tộc
những năm 1980 và về những vấn đề Tâm lý xã hội xuyên văn hóa vào những năm 1990
đến nay là sự phản ánh sắc nét những diễn biến và sự kiện lịch sử xã hội. Đồng thời với
tính thời sự, những vấn đề mang tính cơ bản và ổn định của Tâm lý học xã hội như vấn đề
nguồn gốc của các hành vi xã hội, các quy luật và các cơ chế của sự hình thành các hiện
tượng tâm lý xã hội, bản thân các hiện tượng tâm lý xã hội với các đặc điểm và diễn biến
của nó ngày càng được quan tâm. Như một quy luật, xã hội ngày càng phát triển, nhận
thức của con người ngày càng được mở rộng và nâng cao thì nhu cầu tìm hiểu bản chất
của các quá trình xã hội mà con người tham gia vừa là chủ thể và khách thể càng lớn.
Chính vì những lý do như vậy mà sự quan tâm đến Tâm lý học xã hội ngày càng nhiều
hơn.

Đối với những người làm công tác giảng dạy, việc tiếp cận những vấn đề của Tâm
lý học xã hội là hết sức có ý nghĩa. Bởi vì, dù là có ý thức hay không có ý thức, công việc
của họ gắn liền với các hiện tượng tâm lý xã hội, chịu sự chi phối của các quy luật tâm lý
xã hội. Hơn nữa, nhiều khi chính người làm công tác giảng dạy lại phải chủ động để tạo ra
một số hiện tượng tâm lý xã hội trong công việc của mình như làm việc với nhóm sinh
viên, đồng nghiệp hay phải đối diện với các hiện tượng tâm lý xã hội cần giải quyết như
dư luận xã hội, bầu không khí tập thể...

Tuy vậy, đây là công việc khó khăn vì chính sự đa dạng và da chiều của các hiện
tượng tâm lý xã hội không cho phép có được các khái quát khoa học dễ dàng. Bên cạnh
đó, việc thiếu vắng các nghiên cứu trong lĩnh vực này ở Việt Nam, cũng như sự non trẻ
của bộ môn khoa học này ở nước ta chắc chắn làm cho việc biên soạn khó đáp ứng được
đòi hỏi của người đọc. Tài liệu khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Vì vậy,
các tác giả rất mong được sự đóng góp ý kiến để có thể chỉnh sửa, bổ sung giúp tài liệu trở
nên có ích và đầy đủ hơn.

Các tác giả

Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC


Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
Chương 3. NHÓM XÃ HỘI
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ
Chương 5. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM KÍCH
Chương 6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC

Nội dung cơ bản:

- Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội: hiện tượng tâm lý xã hội, bản chất,
chức năng, phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội;

- Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội: các quan điểm về đối tượng của Tâm
lý học xã hội, đối tượng của Tâm lý học xã hội, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội; Lịch sử
hình thành của Tâm lý học xã hội: các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội, Tâm lý
học xã hội ra đời như là khoa học độc lập, các hình thái đầu tiên của Tâm lý học xã hội;
Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học: quan hệ của Tâm lý học xã hội với các
khoa học khác;

- Phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.

I. BẢN CHẤT CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI

1. Các hiện tượng tâm lý xã hội là gì?

Khi nói tới đời sống tâm lý của con người, người ta thường đề cập đến các hiện
tượng xúc cảm, tình cảm, đến các quá trình nhận thức như tư duy, tưởng tượng đến ý chí,
nhu cầu, động cơ thúc đẩy con người thực hiện các hoạt động này hay hoạt động khác. Các
hiện tượng tâm lý đó gọi là tâm lý cá nhân, tức là các hiện tượng tâm lý thuộc về từng cá
nhân, mang sắc thái riêng của mỗi cá nhân. Các hiện tượng tâm lý đó là sự phản ánh nội
dung đời sống xã hội, là sự phản ánh mang tính chất cá nhân riêng lẻ. Các hiện tượng tâm
lý cá nhân đó được nghiên cứu một cách tương đối độc lập với nhóm xã hội có cá nhân đó.
Tuy vậy, trong đời sống, con người liên tục tham gia vào các nhóm xã hội: gia đình,
trường học, bạn bè, đồng nghiệp... Trong quá trình đó, cá nhân tác động qua lại với những
cá nhân khác, biểu lộ thái độ đánh giá, mong muốn của bản thân và của người khác, nhận
biết người khác, ảnh hưởng và bị ảnh hưởng của người khác. Tâm lý của cá nhân khi đó
một mặt chịu sự quy định của nhóm xã hội và sự tương tác xã hội, mặt khác điều chỉnh
hành vi của bản thân cho phù hợp với yêu cầu và tình huống tương tác. Hệ quả tất yếu là
làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý chung ở nhiều cá nhân trong một nhóm trong một cộng
đồng, trong cả một dân tộc, thậm chí trong nhiều dân tộc. Đó là các hiện tượng tâm lý xã
hội.

Như vậy, tâm lý xã hội không phải là tổng đơn giản, cơ học của các hiện tượng tâm
lý cá nhân. Nó là các hiện tượng tâm lý chung của nhiều người diễn ra trong các nhóm xã
hội, khi con người hoạt động, giao tiếp, tác động qua lại với nhau, được quy định bởi sự
tác động qua lại và nhóm xã hội. Tâm lý học xã hội là khoa học nghiên cứu các hiện tượng
tâm lý xã hội đó.

Một cách đơn giản, có thể hình dung các hiện tượng tâm lý xã hội là các hiện tượng
tâm lý nảy sinh khi cá nhân tác động qua lại với các đối tượng xã hội khác:

Cá nhân <-> Nhóm xã hội.

Cá nhân <-> Cá nhân (trong nhóm xã hội).

Nhóm <-> Nhóm.

Trong các quá trình tương tác đó, cá nhân nhận biết, đánh giá hành vi của mình và
người khác như thế nào, cá nhân chịu sự chi phối và chi phối các cá nhân khác ra sao, các
mối quan hệ như quan hệ liên nhân cách, sự hấp dẫn lẫn nhau và sự xung đột diễn ra như
thế nào trong các nhóm... Các hiện tượng tâm lý xã hội đó diễn ra không phải một cách
ngẫu nhiên mà theo các quy luật nhất định. Tâm lý học xã hội chịu trách nhiệm phát hiện
các quy luật chi phối hành vi và hoạt động của con người khi con người tham gia vào
nhóm xã hội cũng như các đặc trưng tâm lý của chính các nhóm xã hội đó.
Như vậy, Tâm lý học xã hội nghiên cứu các quy luật và cơ chế của các hiện tượng
tâm lý xã hội nảy sinh trong các tương tác xã hội.

2. Bản chất và chức năng của các hiện tượng Tâm lý xã hội

Trước khi đề cập đến bản chất của hiện tượng tâm lý xã hội, điều đầu tiên chúng ta
phải khẳng định rằng: cá nhân không tồn tại tự nó, tách rời với những cá nhân khác. Cá
nhân tồn tại phát triển trong các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mỗi cá nhân là “tổng
hòa của các mối quan hệ xã hội” (C. Mác). Tham gia vào hệ thống các mối quan hệ xã hội
khác nhau tức là cá nhân tham gia vào các nhóm xã hội. Các nhóm đó hiện diện mọi nơi
và chính là môi trường xã hội của cá nhân. Đó có thể là gia đình - một dạng nhóm đặc biệt,
lớp học, cơ quan, bạn bè... Tâm lý học xã hội gọi chung đó là các nhóm xã hội. Hoạt động
trong các nhóm xã hội đó cá nhân tác động đến các cá nhân khác đồng thời chịu sự tác
động của các cá nhân khác. Sự tác động qua lại đó ảnh hưởng đến hành vi cá nhân và làm
nảy sinh những hiện tượng tâm lý chung. Đó là các hiện tượng tâm lý nhóm, rộng hơn gọi
là các hiện tượng tâm lý xã hội. Nói như vậy để thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội nảy
sinh trong môi trường xã hội, trong sự tác động qua lại giữa các thành viên. Do vậy bản
chất của các hiện tượng tâm lý xã hội phải gắn liền với sự tác động qua lại này.

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng tâm lý xã hội là những hiện tượng tâm lý
chung của một nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình tác động qua lại, giao tiếp và
hoạt động cùng nhau của các cá nhân trong nhóm. Các hiện tượng tâm lý xã hội đó điều
chỉnh, điều khiển hoạt động cùng nhau của các thành viên và của nhóm xã hội. Mặt khác
cũng phải thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có quan hệ đặc biệt và khó có thể tách rời
với các hiện tượng tâm lý cá nhân. Các hiện tượng tâm lý xã hội không tồn tại lơ lửng đâu
đó ngoài cá nhân mà chúng hiện diện ở cá nhân, thúc đẩy cá nhân hành động, ví dụ sự a
dua, sự hoảng loạn, các trào lưu, thị hiếu... Việc nhận biết các hiện tượng tâm lý xã hội
cũng chỉ có thể diễn ra trên cơ sở của nhiều cá nhân. Tuy vậy các hiện tượng tâm lý đó
không hoàn toàn là các hiện tượng tâm lý cá nhân có thể kiểm soát mà nó từ “bên ngoài”
thâm nhập vào cá nhân, vừa được biểu hiện với sắc thái của cá nhân vừa có tính tương
đồng với các cá nhân khác trong cùng mối quan hệ tương tác. Có thể coi mối quan hệ giữa
các hiện tượng tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội là mối quan hệ giữa cái chung và riêng.

Các hiện tượng tâm lý xã hội hiện diện trong đời sống hàng ngày của chúng ta
nhưng không phải lúc nào chúng cũng được nhận biết. Cá nhân có thể bị chi phối bởi các
hiện tượng tâm lý xã hội một cách vô thức hay có ý thức. Học tập, rèn luyện để phát huy
truyền thống đó là hành động có ý thức, nhưng bắt chước hành vi của người khác, theo
trào lưu nhiều khi lại là vô thức. Bị ảnh hưởng của định kiến xã hội trong khi nhìn nhận
đánh giá người khác, dân tộc khác mà nhiều khi cá nhân không nhận biết, trong khi hoàn
toàn có ý thức thuyết phục người khác làm theo điều mình mong muốn. Nói cách khác,
các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối tâm lý của cá nhân và qua đó chi phối hoạt động
sống của cá nhân.

Ở phạm vi lớn hơn, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối các mối quan hệ xã hội
trong các nhóm, các cộng đồng hay các dân tộc và cả xã hội loài người. Từ sự thân thiện
hay xung đột giữa các cá nhân trong một nhóm xã hội, từ sự định kiến hay đồng nhất hóa
với một dân tộc hay một cộng đồng, cá nhân thiết lập quan hệ với các cá nhân khác, nhóm
thiết lập quan hệ với nhóm khác. Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu tập trung nghiên
cứu khía cạnh tâm lý xã hội của các tầng lớp, các dân tộc nhằm tạo ra các cơ sở cho việc
thiết lập và vận hành các mối quan hệ giữa các nhóm đó một cách hiệu quả. Rõ ràng, các
hiện tượng tâm lý xã hội đóng vai trò chi phối, ảnh hưởng đến các mối quan hệ đó.

Như vậy, có thể thấy các hiện tượng tâm lý xã hội có chức năng định hướng, thúc
đẩy và điều khiển, điều chỉnh hoạt động của cá nhân. Hoạt động của các nhóm xã hội,
thông qua đó tác động đến các quá trình xã hội.

3. Phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội

Các hiện tượng xã hội và các hiện tượng tâm lý xã hội không đồng nhất, nhưng
cũng không tồn tại độc lập, tách rời.

Hiện tượng xã hội: bất kì hiện tượng nào nảy sinh trong đời sống xã hội của con
người, liên quan đến đời sống xã hội của con người đều được gọi là các hiện tượng xã hội.
Đó có thể là các hiện tượng tôn giáo, giáo dục, văn hóa, khoa học, đạo đức, chính trị, giai
cấp, giới tính... Có những hiện tượng xã hội có ở mọi thời kì trong lịch sử của loài người,
cũng có những hiện tượng xã hội chỉ có ở một giai đoạn xã hội nhất định. Các hiện tượng
xã hội nảy sinh, biến đổi và chuyển hóa theo những quy luật nhất định. Có những quy luật
phổ quát cho nhiều hiện tượng xã hội, nhưng cũng có những quy luật mang tính đặc thù
cho một lĩnh vực xã hội nào đó. Do vậy nghiên cứu các hiện tượng xã hội đòi hỏi sự tham
gia của nhiều khoa học khác nhau. Mỗi khoa học tập trung nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể
nhưng sự giao thoa là điều tất yếu Tâm lý xã hội chính là minh chứng cho sự giao thoa của
các hiện tượng xã hội và tâm lý xã hội.

Các hiện tượng xã hội chính là nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội, ví dụ
chiến tranh, khủng hoảng, khủng bố... sẽ tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nhất định như
tâm trạng lo lắng của xã hội, tâm trạng phản đối chiến tranh. Như vậy, các hiện tượng tâm
lý xã hội là sự phản ánh các hiện tượng xã hội. Các hiện tượng xã hội diễn ra theo các quy
luật xã hội, nhưng bất kì một hiện tượng xã hội nào cũng có mặt tâm lý xã hội của nó, bởi
lẽ chủ thể của các hiện tượng xã hội chính là con người với ý thức, tinh thần của mình. Đó
cũng là điều mà V.Wundt trong tác phẩm Tâm lý học dân tộc - một tác phẩm sớm trong
lịch sử của Tâm lý học xã hội đã khẳng định: Một góc nhìn quan trọng mà nhờ đó có thể
xem xét tất cả các hiện tượng liên quan đến đời sống cùng nhau của con người đó là góc
nhìn Tâm lý học.

Cũng cần thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có tính độc lập tương đối với các
hiện tượng xã hội. Với tư cách là các hiện tượng thứ phát, các hiện tượng tâm lý xã hội có
thể tồn tại lâu hơn và tương đối bền vững, trong khi các hiện tượng xã hội lại dễ thay đổi.
Các hiện tượng tâm lý xã hội diễn ra trong cộng đồng lại có tác động điều chỉnh hành vi
của các cá nhân trong cộng đồng đó và thông qua đó tác động ngược trở lại đến các hiện
tượng xã hội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

1. Các quan điểm về đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội

Giống như mọi khoa học. Tâm lý học xã hội cần phải xác định rõ đối tượng nghiên
cứu của mình. Cũng không phải là ngoại lệ, khi trong lịch sử phát triển của Tâm lý học xã
hội, vấn đề đối tượng của khoa học này đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận. Vấn đề xác
định đối tượng của Tâm lý học xã hội lại càng trở nên khó khăn hơn bởi tính chất giao
thoa và sự đa dạng của các vấn đề mà nó nghiên cứu. Có thể điểm qua những quan điểm
khác nhau về đối tượng của Tâm lý học xã hội như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu các hiện tượng
tâm lý đám đông như tâm lý tầng lớp, cộng đồng xã hội, bao gồm: truyền thống đạo đức,
tập quán; nghiên cứu các tập thể, các quan điểm xã hội. Những nghiên cứu sớm trong lịch
sử Tâm lý học xã hội đều tập trung vào đối tượng đám đông. Các tác phẩm của G.Tard về
tâm lý dân tộc, của G.Lebon về tâm lý đám đông là minh họa cho quan điểm này.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu nhân cách: đặc
điểm loại hình, vị trí, các mối quan hệ liên nhân cách trong đời sống xã hội. Quan điểm
này xuất phát từ nghiên cứu nhân cách, đặt các nhân cách trong mối quan hệ liên nhân
cách. Cơ sở lý luận của nó chính là bản chất xã hội và giá trị xã hội của nhân cách.

Quan điểm thứ ba: nghiên cứu cả các quá trình tâm lý đại chúng, cả vị trí của cá
nhân trong nhóm; những thay đổi hoạt động tâm lý của cá nhân trong nhóm do ảnh hưởng
của sự tác động qua lại, các đặc điểm nhóm, các khía cạnh tâm lý của các quá trình xã hội.
Các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm này tập trung vào việc nghiên cứu suy nghĩ,
hành vi xã hội của cá nhân, tri giác xã hội, sự ảnh hưởng xã hội đối với các cá nhân.

2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội

Các quan điểm nêu trên cho thấy: đối tượng của Tâm lý học xã hội là rất rộng và
phải xác định từ hai phía - cá nhân và nhóm xã hội. Từ đó, ngày nay một cách phổ biến,
đối tượng của Tâm lý học xã hội được xác định như sau:

- Các hiện tượng tâm lý chung của nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình giao
tiếp và tác động qua lại giữa các cá nhân.

- Cái chung, đặc trưng, cái bản chất trong tâm lý nhiều người trong các nhóm xã hội
nhất định.

- Những đặc trưng tâm lý cơ bản của các loại nhóm xã hội được tạo nên từ sự tác
động qua lại.

- Các quy luật nảy sinh hình thành, vận động và phát triển của các hiện tượng tâm lý
xã hội và sự tác động qua lại.

Cách xác định như vậy cho phép bao quát một diện rộng các vấn đề mà Tâm lý học
xã hội cần giải quyết. Đồng thời nó định hướng cho việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
không phải đơn thuần của cá nhân mà là các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong đời sống xã
hội của con người.

Từ cách xác định như vậy, trong quá trình phát triển của Tâm lý học xã hội, hàng
loạt các phân ngành ra đời và tập trung sâu hơn vào các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể
như tâm lý học tôn giáo, tâm lý học dân tộc, tâm lý học giới tính...

3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội


* Nghiên cứu lý luận: Với tư cách là một bộ môn khoa học giao thoa, sử dụng nhiều
tri thức khoa học từ các ngành khoa học liên quan, đồng thời tập trung vào việc nghiên
cứu các hiện tượng rất phức tạp, Tâm lý học xã hội muốn khẳng định được vị trí của nó
trong hệ thống các khoa học thì không thể coi nhẹ việc nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ
nghiên cứu lý luận tập trung vào các nội chính như sau:

- Xác lập hệ thống các khái niệm khoa học riêng của Tâm lý học xã hội, đặc biệt
thống nhất nội hàm của các khái niệm dùng trong lĩnh vực này giữa các nhà khoa học và
phân biệt các khái niệm đó với các khái niệm gần hoặc có liên quan trong các lĩnh vực
khác. Việc sử dụng các khái niệm của các khoa học giao thoa với nội hàm không xác định
làm đánh mất bản chất tâm lý xã hội của khái niệm cũng như tạo ra sự lẫn lộn trong việc
trao đổi và phản biện khoa học. Điều đó làm giảm giá trị khoa học của các nghiên cứu.

- Phát hiện các quy luật của sự nảy sinh, hình thành và phát triển của các hiện tượng
tâm lý xã hội, các quy luật của sự tác động qua lại giữa người với người trong các nhóm,
các quan hệ xã hội. Cụ thể: phát hiện những điều kiện chủ quan, khách quan của sự hình
thành các hiện tượng tâm lý xã hội, những hình thái biến động, các cơ chế diễn ra các hiện
tượng đó. Đóng góp của Tâm lý học xã hội đối với khoa học khác và đối với đời sống xã
hội chính là ở nội dung này. Trên cơ sở các quy luật được phát hiện, Tâm lý học xã hội có
thể góp phần lý giải các hiện tượng lâm lý xã hội nảy sinh, dự báo xu hướng của các hiện
tượng đó và chỉ ra cách thức tác động đến các hiện tượng tâm lý xã hội.

- Xây dựng, thiết kế các phương pháp nghiên cứu đặc thù để nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội. Trong các phương pháp đã có, Tâm lý học xã hội khá mạnh với việc
sử dụng các phương pháp thực nghiệm để làm bộc lộ các quy luật và các cơ chế của các
hiện tượng tâm lý xã hội tuy vậy trong xu hướng nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội
ở phạm vi rộng lớn như tâm lý tộc người, tôn giáo, xuất hiện những khó khăn nhất định về
phương pháp nghiên cứu.

* Nghiên cứu thực tiễn: Có thể nói những vấn đề thực tiễn ngày càng được đặt ra
hết sức đa dạng trước Tâm lý học xã hội và các chuyên ngành hẹp của nó. Việc ứng dụng
các quy luật chung của Tâm lý học xã hội vào các lĩnh vực hẹp hơn trong đời sống xã hội
liên tục làm nảy sinh các chuyên ngành mới với các vấn đề nóng hổi và phức tạp. Tâm lý
học dân tộc đang rất được chú ý trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa với các vấn đề
thực tiễn cần giải quyết: làm thế nào để gìn giữ bản sắc dân tộc, sự đồng nhất về văn hóa
và tâm lý dân tộc có vai trò thế nào trong quá trình hội nhập? Tâm lý học tôn giáo với các
vấn đề về niềm tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo trong thời kì có sự tác động qua lại mạnh
mẽ của các tôn giáo khác nhau sẽ như thế nào? Tâm lý học giới tính lại đối đầu với các
vấn đề nóng bỏng: đâu là nguyên nhân tâm lý xã hội của các hiện tượng đồng giới? Hệ quả
của các phong trào đồng giới đối với đời sống xã hội nói chung? Đặc trưng tâm lý xã hội
của các nhóm đồng giới?... Cũng như vậy, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học tổ chức và
công nghiệp cũng đang đứng trước các vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách. Việc giải quyết
các vấn đề thực tiễn vừa là một nhiệm vụ xã hội đặc ra với Tâm lý học xã hội nói chung và
các chuyên ngành của nó nói riêng vừa là nhiệm vụ bên ngoài, vừa là sự thúc đẩy bên
trong của chính Tâm lý học xã hội. Giải quyết được các nhiệm vụ đó sẽ tạo ra sự phát triển
cho chính Tâm lý học xã hội và khẳng định vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống các
khoa học và trong đời sống xã hội.
III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

1. Các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội

Việc chỉ ra những dấu mốc cơ bản trong lịch sử của Tâm lý học xã hội nhằm tới hai
mục đích. Thứ nhất, người nghiên cứu có được bức tranh chung về tiến trình ra đời và phát
triển của Tâm lý học xã hội với tư cách là một ngành khoa học. Thứ hai, quan trọng hơn,
nó giúp chỉ ra được bản chất của Tâm lý học xã hội, về các vấn đề Tâm lý học xã hội giải
quyết, về sự phát triển trong các quan niệm về đối tượng của Tâm lý học xã hội.

Cũng giống như nhiều bộ môn khoa học khác, các tư tưởng riêng lẻ đề cập đến các
hiện tượng tâm lý xã hội đã xuất hiện từ thời kì cổ đại, dưới hình thức chung nhất là các tư
tưởng và các học thuyết triết học. Nguồn gốc của các tư tưởng đó chính là các hiện tượng
tâm lý xã hội trong cuộc sống có thể được quan sát thấy như: sự cuồng loạn hay hoảng
loạn của đám đông, sự thăng hoa trong các lễ tế thần, sự a dua theo các ý tưởng của đa số,
sự tôn sùng của các cộng đồng đối với thủ lĩnh, với tô tem... Tất cả các hiện tượng tâm lý
xã hội đó trong cuộc sống đã đặt các nhà triết học, các nhà tư tưởng trước những câu hỏi
lớn: Điều gì thúc đẩy con người cùng tiến hành các hành động như vậy? Cái gì chi phối
hành vi của một nhóm, một cộng đồng người? Trả lời các câu hỏi đó, các nhà triết học đã
đưa ra những ý tưởng đầu tiên về các hiện tượng tâm lý xã hội. Rất nhiều nhà nghiên cứu
đều nhìn thấy sự tồn tại của các tư tưởng Tâm lý học xã hội trong lòng các lý thuyết triết
học cổ đại. Các ý tưởng về “tâm lý dân tộc” - sự khác biệt trong tâm lý của dân tộc này với
dân tộc khác, các “bản năng đám đông” có thể tìm thấy trong các công trình của Arixtốt
hay Platon. G.Allport cho rằng người đặt nền móng cho các vấn đề của Tâm lý học xã hội
là Platon. Nói cách khác, các mầm mống của Tâm lý học xã hội đã được gieo từ thời kì cổ
đại, trên chính mảnh đất là cuộc sống xã hội của con người.

Xã hội ngày càng phát triển hơn, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội, việc điều chỉnh hành vi xã hội cùng ngày càng trở nên cần thiết hơn. Cùng với
sự đòi hỏi ngày càng cao, càng mang tính cấp thiết của xã hội và sự phát triển của các
khoa học khác nhau, Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập.

2. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập

Theo quan điểm của Anđrêeva, khi xem xét vấn đề tâm lý học trở thành một khoa
học độc lập như thế nào cần phải chú ý đến ba yếu tố: 1) Các yêu cầu đối với việc giải
quyết các vấn đề Tâm lý học xã hội, xuất hiện trong các ngành khoa học giáp ranh khác
nhau mà bản thân các khoa học đó chưa giải quyết được; 2) Các quá trình chuẩn bị phân
tách các vấn đề Tâm lý học xã hội bên trong hai bộ môn “mẹ” chủ yếu: tâm lý học và xã
hội học; 3) Đặc điểm của các dạng tri thức Tâm lý học xã hội độc lập đầu tiên - Đây là các
động lực trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của Tâm lý học xã hội như là một ngành khoa học
độc lập.

Giai đoạn giữa thế kỉ XIX là giai đoạn một loạt các bộ môn khoa học, trong đó có
các bộ môn khoa học xã hội, đạt được những tiến bộ đáng kể. Ví dụ, ngôn ngữ học đã có
sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu lớn lao. Năm 1859, M.Laxarus (1824 -
1903) và nhà ngôn ngữ học G.Steinthal (1823 - 1893) sáng lập tạp chí “Tạp chí tâm lý học
dân tộc và ngôn ngữ” tại Đức. Vấn đề giao lưu ngôn ngữ và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
dân tộc được quan tâm. Thế nhưng Ngôn ngữ học không thể giải quyết được các vấn đề
như sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc bằng các phương tiện của mình. Cũng như
vậy, các khoa học khác như Nhân chủng học, Dân tộc học, Khảo cổ học đến thời điểm đó
đã tích luỹ được rất nhiều dữ kiện. Trong tất cả các nghiên cứu này xuất hiện một hiện
thực cần được tính đến: các đặc điểm tâm lý của một số các nhóm dân tộc, mối liên hệ của
các sản phẩm văn hóa và truyền thống, các lễ nghi... Đó chính là lý đo mà nhà tâm lý học
xã hội người Mỹ T.Shibutani kết luận rằng Tâm lý học xã hội đã trở thành một lĩnh vực
độc lập một phần vì các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau không
thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh - có liên quan đến Tâm lý học xã hội (Shibutani,
1999). Như vậy, rõ ràng trong sự phát triển của khoa học xuất hiện nhu cầu tách riêng một
lớp các vấn đề mới không thuộc riêng về bất kì một bộ môn nào đang tồn tại rõ rệt hơn,
nhu cầu này thể hiện trong việc phát triển của hai bộ môn khoa học được coi là “mẹ đẻ”
của Tâm lý học xã hội: Tâm lý học và Xã hội học.

Tâm lý học giữa thế kỉ XIX tập trung chủ yếu vào các vấn đề của tâm lý học cá
nhân. Trong một số phần của nó, trước hết là trong bệnh lý tâm thần học bắt đầu xuất hiện
các mầm mống của các khái niệm tương lai đề cập đến đặc trưng của các dạng tác động
qua lại lẫn nhau của con người, các ảnh hưởng lẫn nhau của chúng... Bên cạnh đó cũng
phát hiện ra sự phụ thuộc trong việc điều chỉnh tâm lý và hành vi cá nhân vào các tác động
điều khiển từ phía người khác. Tức là sự điều chỉnh từ phía xã hội. Nói cách khác, một
cách tự nhiên, xuất hiện các vấn đề liên quan đến Tâm lý học xã hội ngay trong lòng Tâm
lý học.

Các tri thức tâm lý - xã hội trong lòng lĩnh vực Xã hội học cũng dần được hình
thành, nhưng theo một cách hoàn toàn khác. Gần như ngay từ thời gian đầu tồn tại của
mình (giữa thế kỉ XIX) Xã hội học đi tìm kiếm các giải thích cho một loạt những sự kiện
xã hội bằng các quy luật từ những lĩnh vực tri thức khác. Ví dụ Spencer vận dụng các quy
luật sinh học để giải thích xã hội trong trường phái hữu sinh: quy luật đấu tranh sinh tồn
hay tiến hóa xã hội. Song việc quy giản sinh học không thể lý giải đúng đắn các quá trình
xã hội và không thể giải thích được bản chất của các quá trình xã hội đã buộc các nhà
nghiên cứu phải tìm kiếm các quy luật của Tâm lý học để giải thích cho các quá trình xã
hội. Nguồn gốc của các hiện tượng xã hội được cho là nằm trong tâm lý của con người.
Khía cạnh tâm lý trong mỗi hiện tượng xã hội trở thành sự quyết định về mặt tâm lý đối
với các hiện tượng xã hội. Ví dụ, theo quan điểm nhà xã hội học người Pháp G.Tarde thì
các sự kiện xã hội cơ bản bao hàm không phải trong phạm vi một bộ óc, mà trong sự tiếp
xúc của một vài bộ óc, là đối tượng tâm lý học “liên trí óc” phải nghiên cứu. Mô hình tổng
thể của một sự kiện xã hội được vẽ ra như là mối tương quan của hai cá nhân, trong đó
một người bắt chước người khác.

Như vậy, trong quá trình phát triển của hai bộ môn khoa học: Tâm lý học và Xã hội
học, hiện rõ sự dịch chuyển theo chiều gặp nhau kết thúc bằng việc hình thành các vấn đề
đã trở thành đối tượng của một bộ môn khoa học mới.

3. Các hình thái lịch sử đầu tiên của tri thức Tâm lý học xã hội
Từ những thúc đẩy trực tiếp nêu trên, sự ra đời của Tâm lý học xã hội trở thành hiện
thực vào giữa thế kỉ XIX. Các hình thái đầu tiên của riêng tri thức tâm lý - xã hội được
khai sinh. Những hình thức đầu tiên này chủ yếu là các lý thuyết trừu tượng, mang tính mô
tả mà chưa dựa trên các nghiên cứu thực tế. Tuy vậy chúng đã tạo ra hình hài của một bộ
môn khoa học mới. Từ tất cả sự da dạng của những lý thuyết Tâm lý học xã hội đầu tiên
thường người ta chọn ra ba lý thuyết đáng kể nhất: tâm lý học dân tộc, tâm lý học đám
đông và lý thuyết bản năng của hành vi xã hội.

Tâm lý học dân tộc như là một trong các dạng đầu tiên của các lý thuyết tâm lý học
xã hội được hình thành vào giữa thế kỉ XIX tại nước Đức. Những người trực tiếp sáng lập
nên tâm lý học các dân tộc là nhà triết học M.Laxarus (1824 - 1903) và nhà ngôn ngữ học
G.Steinthal (1823 - 1893). Vào năm 1859 tạp chí Tâm lý học các dân tộc và ngôn ngữ
được ra mắt và đăng bài báo “Bàn về tâm lý học các dân tộc”. Nhiệm vụ của Tâm lý học
xã hội là “nhận biết về mặt tâm lý bản chất của tinh thần dân tộc, phát hiện các quy luật
diễn ra các hoạt động tinh thần của dân tộc”. Sau đó các tư tưởng tâm lý học dân tộc được
phát triển trong các quan điểm của V.Wundt (1852 - 1920). Lần đầu tiên Wundt xây dựng
lập trường của mình vào năm 1863 trong “Các bài giảng về tâm hồn con người và động
vật”. Tư tưởng được phát triển chủ yếu vào năm 1900 trong tập đầu tiên của bộ sách mười
tập Tâm lý học các dân tộc. Wundt cho rằng Tâm lý học cần phải cấu thành từ hai phần:
Tâm sinh lý học và Tâm lý học các dân tộc. Trong đó, Tâm lý học dân tộc cần phải áp
dụng các phương pháp khác, đó chính là phân tích các sản phẩm văn hóa: ngôn ngữ,
truyền thuyết, phong tục, nghệ thuật.

Các đại diện nổi bật khác của Tâm lý học xã hội thời kì đầu là G.Tard và G.Lebon
với lý thuyết về tâm lý học đám đông - một trong các lý thuyết tâm lý xã hội đầu tiên. Lý
thuyết này được sinh ra tại Pháp trong nửa cuối của thế kỉ XIX. Các cội nguồn của nó xuất
phát từ quan niệm về quy luật bắt chước của G.Tarde (1843 - 1904). Theo quan điểm của
Tarde trong “Những quy luật của sự bắt chước”, hành vi xã hội không có lời giải thích nào
khác ngoài việc sử dụng ý tưởng về sự bắt chước ông cho rằng Tâm lý học hàn lâm chính
thống, định hướng thiên về trí tuệ, đã không thành công khi bỏ qua các thành phần xúc
cảm trong các giải thích của mình. Ý tưởng về sự bắt chước tính đến các yếu tố phi lý
trong hành vi xã hội, bởi vậy nó có hiệu quả hơn. Chính hai tư tưởng này của Tarde - vai
trò của các yếu tố phi lý trong hành vi xã hội và vai trò của sự bắt chước - đã được các nhà
sáng lập trực tiếp tâm lý đám đông lĩnh hội. Đó là luật sư người ý S.Sigele (1868 - 1913)
và nhà xã hội học người Pháp G.Lebon (1841 - 1931). Lebon, với tư cách của một nhà xã
hội học, chủ yếu quan tâm tới vấn đề đối lập tương phản giữa đại chúng và giới thượng lưu
trong xã hội. Vào năm 1895 xuất hiện công trình chủ yếu của ông Tâm lý học đám đông
trong đó có trình bày bản chất của lý thuyết này. Theo quan điểm của Lebon, bất kì một
đám đông nào cũng được gọi là “đại chúng”. Đặc điểm chính của nó là mất khả năng lý
tính nhưng lại tồn tại sự thống nhất tinh thần của đám đông. “Đám đông này hình thành
nên một thực thể duy nhất, phục tùng quy luật thống nhất tinh thần của những đám đông”
với một số điều kiện nhất định (G.Lebon,1905). Các đặc điểm điển hình của hành vi con
người trong đám đông là: vô trách nhiệm cá nhân (điều này dẫn đến sự thống soái của các
phản ứng xung động, bản năng), vai trò cảm xúc chiếm ưu thế đột biến so với lý trí (điều
này dẫn đến việc dễ bị các ảnh hưởng khác nhau), hoàn toàn đánh mất lý trí (điều này dẫn
đến từ bỏ lôgic), đánh mất trách nhiệm riêng (điều này dẫn đến việc không kiểm soát được
các hăng hái bùng phát) (Lebon, 1995). Kết luận suy từ việc mô tả bức tranh về hành vi
của con người trong đám đông này là đám đông theo bản chất của mình, luôn luôn lộn
xộn, hỗn loạn. Bởi vậy nó cần có “thủ lĩnh”, vai trò này có thể thực hiện bởi “giới thượng
lưu”. Các kết luận này được đưa ra trên cơ sở quan sát đám đông trong tình huống hoảng
loạn. Không có bất kì khẳng định thực nghiệm nào được đưa ra, mặc dù sau này các quan
sát này được ngoại suy cho bất kì hành động của đám đông nào khác.

Ý nghĩa về mặt lý thuyết của Tâm lý học đám đông có tính chất hai mặt: một mặt,
nó đưa ra lời giải thích ở một mức độ nhất định các tương quan của cá nhân và xã hội,
nhưng mặt khác, lời giải thích này lại không có cơ sở. Trên danh nghĩa, ưu thế của cá nhân
so với xã hội được công nhận, nhưng bản thân xã hội lại bị tùy tiện quy thành đám đông và
thậm chí ở dạng này cũng rất phiến diện, vì bản thân “đám đông”, hay “đại chúng” chỉ
được mô tả trong một tình huống hành vi duy nhất của nó - tình huống hỗn loạn. Mặc dù
quan niệm tâm lý học đám đông không có ý nghĩa quan trọng đối với số phận tương lai
của Tâm lý học xã hội, nhưng dù sao thì các vấn đề được nghiên cứu trong khuôn khổ
quan niệm này cũng đáng lưu ý, kể cả vào thời điểm ngày nay.

Quan niệm thứ ba, đứng vào hàng những công trình tâm lý - xã hội độc lập đầu tiên
là lý thuyết bản năng của hành vi xã hội của nhà tâm lý học người Anh Mc.Dougall (1871
- 1938), chuyển đến Mỹ vào năm 1920 và về sau làm việc ở đó. Công trình của
Mc.Dougall Nhập môn Tâm lý học xã hội ra đời vào năm 1908 và năm đó được coi là năm
khẳng định cuối cùng của Tâm lý học xã hội như là một bộ môn tồn tại độc lập. Cũng
trong năm đó ở Mỹ xuất bản cuốn sách của nhà xã hội học E.Ross Tâm lý học xã hội và
như vậy, rất trùng hợp, khi cả nhà tâm lý học và nhà xã hội học trong cùng một năm xuất
bản giáo trình hệ thống đầu tiên của cùng một bộ môn. Song, năm đó chỉ có thể rất tượng
trưng được coi là khởi đầu của thời kì mới trong Tâm lý học xã hội vì ngay từ năm 1897
J.Bolđuin đã đăng công trình Những nghiên cứu về Tâm lý học xã hội mà cũng có thể coi
như cuốn sách chỉ dẫn hệ thống đầu tiên.

Luận điểm đầu tiên của lý thuyết Mc.Dougall là các bản năng bẩm sinh được coi là
nguyên nhân của hành vi xã hội. Tư tưởng này là hiện thực hóa nguyên tắc chung hơn: sự
hướng tới mục đích là thuộc tính của cả loài vật và con người. Chính nguyên tắc này đặc
biệt có ý nghĩa trong quan niệm của Mc.Dougall, đối trọng với chủ nghĩa hành vi (giải
thích hành vi như là phản xạ đơn giản với kích thích bên ngoài). Ông cho là tâm lý “hướng
đích” hay “hormic” (từ Hi Lạp horme - hướng tới, khát vọng, khí thế). Các bản năng của
mỗi người xuất hiện nhờ kết quả của một sự chuẩn bị tâm sinh lý nào đó - sự có mặt của
các kênh nạp năng lượng thần kinh gắn theo di truyền. Các bản năng bao gồm các phần
kích thích (dây thần kinh), trung tâm (xúc cảm) và li tâm (vận động). Như vậy, tất cả
những gì diễn ra trong phạm vi ý thức đều phụ thuộc trực tiếp vào sự khởi đầu vô thức.
Thể hiện bên trong của bản năng chủ yếu là các cảm xúc. Mối liên hệ giữa các bản năng và
các cảm xúc mang tính chất hệ thống và được xác định. Mc.Dougall đã liệt kê một số cặp
bản năng và cảm xúc có liên quan với nhau: bản năng đấu tranh và tương ứng với nó là sự
tức giận, sợ hãi; bản năng bỏ chạy và ý thức tự vệ; bản năng duy trì nòi giống và ghen
tương; bản năng tìm kiếm và cảm giác sở hữu; bản năng xây dựng và cảm giác sáng tạo;
bản năng bầy đàn và cảm giác thuộc một tổ chức nào đó. Từ các bản năng xuất phát tất cả
các tổ chức xã hội: gia đình, buôn bán, các quá trình xã hội khác nhau mà trước hết là
chiến tranh. Dù các tư tưởng của Mc.Dougall rất phổ biến, chúng đóng vai trò tiêu cực
trong lịch sử khoa học: việc diễn giải hành vi xã hội theo quan điểm của một sự hướng tới
mục đích bột phát nào đó hơn thực hóa ý nghĩa của những ảnh hưởng phi lý, vô thức như
là động lực không chỉ của cá nhân mà còn của cả loài người. Bởi vậy, cũng như trong Tâm
lý học nói chung, vượt qua được các tư tưởng của lý thuyết bản năng là một mốc quan
trọng sau này trong sự phát triển của Tâm lý học xã hội khoa học.

Những quan niệm đầu tiên của Tân lý học xã hội có những ý nghĩa nhất định. Trước
hết, ý nghĩa tích cực của chúng là đã tách biệt và đặt ra rõ ràng các vấn đề thực sự quan
trọng, cần phải giải quyết: về tương quan của ý thức cá nhân và ý thức của nhóm, về các
động lực của hành vi xã hội... Các quan niệm tâm lý - xã hội đầu tiên hãy còn yếu bởi việc
chúng không dựa trên thực tế nghiên cứu nào, chúng hoàn toàn không dựa trên các công
trình nghiên cứu. Song điều cơ bản đã hoàn thành: Tâm lý học xã hội đã được tuyên bố
như là một bộ môn khoa học độc lập có quyền tồn tại. Bây giờ nó cần phải tạo ra cơ sở
thực nghiệm cho mình vì nói chung tâm lý học đến thời điểm này đã tích luỹ được nhiều
kinh nghiệm sử dụng phương pháp thực nghiệm. Giai đoạn trưởng thành sau đó của Tâm
lý học xã hội như là một bộ môn khoa học chỉ có thể là giai đoạn thực nghiệm trong lịch
sử phát triển của nó

IV. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC

1. Tâm lý học xã hội với Xã hội học và Tâm lý học

Đến nay đã có được sự đồng thuận tương đối về đối tượng của Tâm lý học xã hội.
Nhưng sự đồng thuận trong quan niệm về phạm vi các nhiệm vụ được giải quyết bởi Tâm
lý học xã hội không có nghĩa là đã có sự thống nhất trong cách hiểu về các quan hệ của nó
với Tâm lý học và Xã hội học. Bởi vậy cuộc tranh luận về vấn đề “ranh giới” của Tâm lý
học xã hội vẫn diễn ra khá độc lập. Ở đây có thể nêu ra ba lập trường: 1) Tâm lý học xã
hội là một phần của Xã hội học; 2) Tâm lý học xã hội là một phần của Tâm lý học; 3) Tâm
lý học xã hội - đó là khoa học ở vị trí tiếp giáp của Tâm lý học và Xã hội học, trong đó bản
thân “chỗ tiếp giáp” được hiểu theo hai cách: a) Tâm lý học xã hội chiếm một phần nào đó
của Tâm lý học và một phần nào đó của Xã hội học; bị nó chiếm phần “vô chủ” - lĩnh vực
không thuộc cả Xã hội học cũng như Tâm lý học.

Nếu theo đề xuất của các nhà tâm lý học xã hội Mỹ Mc.Dougall và G.Harary, thì tất
cả các lập trường nói trên có thể đưa về hai quan điểm: nội ngành và liên ngành. Nói cách
khác, vị trí của Tâm lý học xã hội có thể tìm ở bên trong một lĩnh vực “mẹ” hay trên ranh
giới giữa chúng. Điều này có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:

Hình 1. Các phương án xác định vị trí của Tâm lý học xã hội (“ranh giới” với Xã
hội học và Tâm lý học)

Mặc dù có những khác biệt dường như rất cơ bản, tất cả các quan điểm được đưa ra
về bản chất đều dừng lại trước một vấn đề: “ranh giới” nào phân chia Tâm lý học xã hội
với Tâm lý học và với Xã hội học. Vì có đặt Tâm lý học xã hội ở đâu thì trong mọi hoàn
cảnh nó cũng tiếp xúc với hai bộ môn này.
2. Tâm lý học xã hội với các khoa học khác

Là bộ môn khoa học “giao thoa” giữa Tâm lý học xã hội và Xã hội học, đương
nhiên Tâm lý học xã hội có quan hệ chặt chẽ không chỉ với hai khoa học mẹ mà còn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội.

Khoa học tự nhiên, đặc biệt là khoa học Sinh lý thần kinh và Sinh học có vai trò to
lớn đối với Tâm lý học xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu Tâm lý học xã hội sử dụng các tri
thức về hoạt động của hệ thần kinh nhằm lý giải các hiện tượng tâm lý đám đông như sự
hoảng loạn, sự ám thị, sự lây lan xúc cảm, tình cảm, hay đi tìm các cơ chế hoạt động của
não bộ để lý giải hiện tượng đồng cảm giữa con người với con người. Một loạt các lý
thuyết của sinh học đã từng được sử dụng để giải thích các hiện tượng tâm lý xã hội như
khái niệm “tâm lý bầy đàn”, “sự hấp dẫn bầy đàn”. Ngay cả việc nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội liên quan đến các nhóm giới tính: sự hấp dẫn giới tính, các hành vi của
các giới khác nhau, cũng không hiếm khi các nhà nghiên cứu phải xuất phát từ các hiểu
biết về cơ sở sinh học của chúng. Các kiến thức toán học cũng ngày càng được sử dụng
rộng rãi hơn với hai xu hướng: dùng để mô hình hóa các hiện tượng tâm lý xã hội (mặc dù
hướng này còn rất hạn chế) và hữu dụng hơn là xu hướng sử dụng các phép toán thống kê
để phân tích sâu các hiện tượng tâm lý xã hội. Các phép tính tương quan, phân tích nhân
tố, các kiểm định... được sử dụng rất phổ biến.

Với tư cách là khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy
con người, triết học cung cấp các cơ sở phương pháp luận cho Tâm lý học xã hội. Từ việc
lựa chọn đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu đến việc phân tích, giải
thích và khái quát kết quả nghiên cứu, các nhà Tâm lý học xã hội đều dựa trên lập trường
triết học nhất định. Vấn đề đã và vẫn đang là trung tâm của các cuộc tranh luận liên quan
đến vấn đề phương pháp luận là ảnh hưởng (tích cực hay tiêu cực) của việc một nhà Tâm
lý học xã hội đứng trên một lập trường triết học nào đó để giải quyết một vấn đề tâm lý xã
hội. Vấn đề này được gọi là vấn đề giá trị (tư tưởng) trong nghiên cứu Tâm lý học xã hội.
Dù câu trả lời là thế nào đi nữa, không thể có nhà tâm lý học xã hội nào lại không đứng
trên một lập trường triết học nhất định để giải quyết vấn đề tâm lý xã hội.

Để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội sử dụng rất nhiều
những thành tựu của các khoa học xã hội và nhân văn. Muốn chỉ ra các đặc điểm tâm lý
của nhóm lớn như dân tộc chẳng hạn, không thể thiếu các kiến thức của dân tộc học, lịch
sử dân tộc, văn hóa học. Khá nhiều vấn đề mang tính giao thoa trong Tâm lý học xã hội và
các khoa học xã hội nhân văn kể trên như vấn đề nhóm gia đình, vấn đề truyền thống của
một cộng đồng hay vấn đề giới... Muốn làm rõ các hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận
xã hội, tâm trạng xã hội, không thể bỏ qua các vấn đề kinh tế học, chính trị học, quản trị
học. Các khoa học xã hội nhân văn cung cấp các tư liệu đa dạng và nhiều chiều về con
người trong các mối quan hệ xã hội khác nhau.

Ngược lại, các tri thức mà Tâm lý học xã hội phát hiện ra lại đóng vai trò quan trọng
đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Chính việc ra đời của Tâm lý học xã
hội là minh chứng cho sự cần thiết của nó trong việc giải quyết những vấn đề mà một số
khoa học khác chưa giải quyết được một cách đầy đủ.

Tóm lại, Tâm lý học xã hội luôn bị đặt trước những đòi hỏi của đời sống xã hội
trong việc giải quyết hàng loạt các vấn đề phức tạp và đa diện. Do vậy chỉ khi sử dụng các
kiến thức của các khoa học khác có liên quan, Tâm lý học xã hội mới có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình. Đồng thời nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội
cung cấp cho các khoa học khác những kiến thức để làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của
các hiện tượng xã hội. Đây cũng chính là cơ sở của mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa
Tâm lý học xã hội và các khoa học khác.
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

1. Các nguyên tắc phương pháp luận

a) Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng

Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò quyết định của các điều kiện vật chất, của các
điều kiện thực tiễn đối với các hiện tượng tâm lý xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy
sinh trên cơ sở của các điều kiện sống, điều kiện hoạt động của nhóm, của cộng đồng.
Nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội phải được tìm kiếm trong đời sống thực. Các
hiện tượng tâm lý xã hội không phải nảy sinh một cách “tự nó”, tồn tại lơ lửng đâu đó
không có chủ thể. Do vậy, lý giải các hiện tượng tâm lý xã hội phải xuất phát từ các hiện
tượng cụ thể trong đời sống xã hội, tìm tòi các nguyên nhân làm nảy sinh các hiện tượng
tâm lý xã hội trong đời sống xã hội hiện thực của con người, trong nhóm người, cộng đồng
người cụ thể. Đó chính là nguyên tắc duy vật trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã
hội. Ngược lại, các hiện tượng tâm lý xã hội khi đã hình thành lại có được sự độc lập
tương đối đối với tồn tại xã hội và có sức mạnh riêng của nó. Nó có thể chi phối ngược lại
đến các điều kiện xã hội tạo ra những thay đổi, những vận động nhất định. Các hiện tượng
tâm lý xã hội như dư luận xã hội, truyền thống xã hội, tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo... có
những sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người, của cộng đồng, thậm
chí nó có thể tạo ra những sức mạnh làm thay đổi tiến trình của lịch sử trong những thời
điểm nhất định. Đó hình là lập trường biện chứng khi nhìn nhận, đánh giá, nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý xã hội. Như vậy, nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng chỉ ra
cách thức tiếp cận, lý giải và đánh giá các hiện tượng tâm lý xã hội một cách đầy đủ và
toàn diện.

b) Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan

Nguyên tắc này đòi hỏi khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, phải nghiên
cứu như nó vốn có, vốn tồn tại trong đời sống hiện thực. Các dữ liệu thu được không được
bóp méo, hoặc bị làm sai lệch. Khi lý giải các hiện tượng không được áp đặt chủ quan. Để
thực hiện được điều đó, người nghiên cứu cần có khả năng phát hiện các hiện tượng tâm lý
xã hội, có khả năng lựa chọn, sử dụng các phương pháp, công cụ thu thập dữ liệu phù hợp,
cho độ tin cậy và chính xác cao. Bên cạnh đó, bản thân người nghiên cứu có thái độ trung
thực, khoa học trong khi thu thập và xử lý dữ liệu. Nguyên tắc khách quan làm tăng giá trị
của các kết quả nghiên cứu và giúp các nghiên cứu ngày càng tiến gần hơn đến bản chất
của các hiện tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu.

c) Nguyên tắc nghiên cứu các hiện tượng Tâm lý xã hội trong mối liên hệ với các
hiện tượng xã hội và trong mối liên hệ với các hiện tượng tâm lý xã hội khác

Nguyên tắc này được đề ra trên cơ sở coi mọi hiện tượng tâm lý xã hội đều nảy sinh
trên các điều kiện sống xã hội, nói cách khác các hiện tượng tâm lý xã hội là sự phản ánh
các điều kiện xã hội của nhóm, của cộng đồng. Để chỉ ra nguồn gốc của các hiện tượng
tâm lý xã hội người nghiên cứu phải tìm hiểu các hiện tượng xã hội có liên quan. Ví dụ:
Một chính sách xã hội một sự kiện xã hội là những nhân tố xã hội tạo ra tâm trạng hay dư
luận xã hội. Tất nhiên ở đây không đơn giản là mối quan hệ nhân quả, sự kiện nào tâm lý
xã hội ấy mà có hàng loạt các yếu tố khác trong đời sống của cá nhân, nhóm và cộng đồng
xã hội tác động đến sự phản ánh các sự kiện xã hội đó. Đặt các hiện tượng tâm lý xã hội
cần nghiên cứu trong mối liên hệ với các hiện tượng xã hội cho phép thấy rõ hơn nội dung,
mức độ, diễn biến của các hiện tượng tâm lý xã hội. Cũng chính vì thế, các hiện tượng tâm
lý xã hội khác nhau có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau như bản thân các điều kiện
xã hội mà nó phản ánh. Mỗi hiện tượng tâm lý xã hội có vai trò, vị trí nhất định trong đời
sống xã hội. Ví dụ: dư luận xã hội tồn tại trong thời gian tương đối ngắn, có chức năng
thúc đẩy hoặc kìm hãm những hành vi xã hội nào đó vào thời điểm nhất định, trong khi đó
truyền thống của nhóm lớn lại đóng vai trò điều chỉnh hành vi trong thời gian dài hơn, tạo
ra sự thống nhất cả thái độ, hành vi, giá trị cho các thế hệ khác nhau. Mặt khác dư luận xã
hội lại được hình thành trên cơ sở những giá trị đã ổn định của nhóm, của xã hội - đó chính
là nhân tố thuộc về truyền thống. Nói cách khác, ở đây hai hiện tượng tâm lý xã hội mặc
dù có những sự khác biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ và có thể chuyển hóa lẫn nhau.

d) Nguyên tắc phát triển

Nguyên tắc này nhấn mạnh đến việc tiếp cận, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã
hội trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó. Theo quan điểm biện chứng, sự vật
hiện tượng luôn vận động biến đổi, không có sự vật hiện tượng nào là bất biến. Coi sự vật
hiện tượng là bất biến tức là rơi vào quan điểm siêu hình. Sự vật hiện tượng tồn tại ổn định
tương đối, vận động và biến đổi là tuyệt đối. Xã hội cũng vậy, nó cũng vận động, biến đổi
và phát triển theo các quy luật, các chiều hướng nhất định. Với tư cách là sự phản ánh đời
sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội cũng không thể là bất biến. Các hiện tượng tâm
lý xã hội cũng nảy sinh, hình thành và phát triển theo những quy luật, những chiều hướng
nhất định. Với sự độc lập tương đối của chúng, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể chuyển
hóa lẫn nhau, tác động qua lại làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội mới. Hội chứng
“tâm lý đám đông” trong lĩnh vực chứng khóan gần đây là ví dụ điển hình cho sự tác động
qua lại và chuyển hóa này. Từ việc bắt chước hành vi của người khác, cá nhân có hành vi
giống người khác, sự giống nhau về hành vi lại trở thành kích thích làm nảy sinh tâm trạng
chung tạo điều kiện cho sự bắt chước thuận lợi hơn. Sự tác động qua lại đó làm cho hành
vi của đám đông không kiểm soát được. Chỉ khi có một tác động lớn nào đó làm cho vòng
xoáy tác động đó đột ngột bị dừng lại, hiệu lực của sự tác động qua lại đó mới giảm đi.
Như vậy, với tư cách là sự phản ánh đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội luôn
vận động, phát triển, với tư cách là các hiện tượng tinh thần của nhóm, của cộng đồng xã
hội có sự độc lập tương đối, các hiện tượng tâm lý xã hội cũng luôn vận động và phát triển
không ngừng. Do vậy, cách tiếp cận đúng đắn chính là tiếp cận phát triển.
Trên đây là các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản đối với việc nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý xã hội. Các nguyên tắc đó chỉ đạo việc tiếp cận, thu thập, phân tích và
khái quát kết quả nghiên cứu. Để có được các dữ liệu về các hiện tượng tâm lý xã hội,
người nghiên cứu cần lựa chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau
cho phù hợp với mục đích và đối tượng nghiên cứu. Sau đây là một số các phương pháp
nghiên cứu cụ thể thường được sử dụng trong các nghiên cứu Tâm lý học xã hội.

2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Nghiên cứu các tài liệu có ý nghĩa lớn, vì nhờ phương pháp này có thể hệ thống hóa,
phân tích và xây dựng được bức tranh chung về vấn đề cần nghiên cứu. Trong quá trình
nghiên cứu tài liệu, nhà nghiên cứu có thể xác định được những vấn đề đã được giải quyết,
mức độ giải quyết một vấn đề vấn đề cần làm rõ thêm, các vấn đề chưa được giải quyết...
Qua đó, nó cho phép định hướng nghiên cứu. Việc nghiên cứu tài liệu đóng vai trò quan
trọng trong việc xác định hoặc xây dựng hệ thống các khái niệm mà nhờ đó nghiên cứu có
thể được tiến hành. Một cách ví von, nghiên cứu tài liệu chính là tìm cách “đứng trên vai
những người khổng lồ” để tiến xa hơn trong nghiên cứu và tiến gần hơn đến bản chất của
đối tượng nghiên cứu. Thực hiện phương pháp này để thu thập thông tin, nhà nghiên cứu
cần thiết lập danh mục tài liệu nghiên cứu, ghi lại các nội dung có liên quan, phân tích, phê
phán và khái quát các kết quả nghiên cứu đã có.

Một vấn đề đặc biệt xuất hiện ở đây liên quan đến việc nhà nghiên cứu lựa chọn,
trình bày tài liệu như thế nào. Nhà nghiên cứu cũng là con người với những đặc điểm tâm
lý cá nhân có sẵn của riêng mình với các lựa chọn chủ quan, do vậy việc nghiên cứu tài
liệu phải phải ánh đúng và đầy đủ các quan điểm khác nhau. Để tránh dạng “chủ quan”
(việc trình bày tài liệu theo cách của nhà nghiên cứu) mới này, một thủ pháp đặc biệt có
tên gọi là “phân tích nội dung” được đưa vào (Bôgômôlôva, Xtêphanenko, 1992). Đây là
phương pháp phân tích tài liệu đặc biệt, dựa trên hình thức của tài liệu: đoạn văn bản được
tách riêng ra “các đơn vị”, sau đó tính toán tần suất được sử dụng của chúng. Phương pháp
phân tích nội dung chỉ có ý nghĩa sử dụng trong các trường hợp, khi nhà nghiên cứu phải
làm việc với các khối thông tin lớn, cho nên phải phân tích rất nhiều văn bản.

b) Phương pháp quan sát


Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác
nhau, trong đó có Tâm lý học xã hội. Trong Tâm lý học xã hội, quan sát là tri giác các hiện
tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu một cách có chủ định, có kế hoạch nhằm phát hiện
những dữ kiện cần thiết cho các nghiên cứu. Phương pháp quan sát có thể được sử dụng
độc lập hoặc cũng có thể được sử dụng như là một phương pháp bổ sung cho một phương
pháp khác. Có nhiều loại quan sát khác nhau: quan sát tự nhiên hay quan sát trong phòng
thí nghiệm, quan sát phát hiện hay quan sát kiểm định, quan sát ngắn hạn hay quan sát dài
hạn. Trong Tâm lý học xã hội hiện đại có mối quan tâm đặc biệt với một dạng của quan sát
là quan sát tham gia, khi nhà nghiên cứu (giấu mặt) trở thành một thành viên của nhóm
đang được nghiên cứu. Việc lựa chọn các hình thức quan sát phụ thuộc vào ý đồ, mục đích
và điều kiện cụ thể của người nghiên cứu. Hiện nay, nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều
thiết bị hiện đại để hỗ trợ và lưu giữ các biểu hiện của hiện tượng cần nghiên cứu như các
phương tiện ghi âm, ghi hình, các camera quan sát... ưu điểm cơ bản của phương pháp
quan sát là dễ tiến hành, chi phí thấp, linh hoạt. Đặc biệt đối với việc nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội, thường diễn ra nhanh chóng, không lặp lại, việc sử dụng phương pháp
quan sát có lợi thế lớn vì tính linh hoạt của nó. Bên cạnh các ưu điểm, phương pháp quan
sát cũng có những hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất là nó phụ thuộc nhiều vào kinh
nghiệm và tính chủ quan của nhà quan sát. Một người nghiên cứu ít kinh nghiệm có thể bỏ
qua những biểu hiện có vẻ không quan trọng nhưng lại là dấu hiệu bản chất của hiện
tượng, hay người nghiên cứu có thể bỏ qua những dấu hiệu ít liên quan đến đối tượng
nghiên cứu. Ngoài ra, phương pháp này còn đòi hỏi sự chú ý liên tục và lâu dài của người
nghiên cứu bởi vì các hiện tượng cần nghiên cứu có thể diễn ra bất kì lúc nào có thể làm
người nghiên cứu bị động. Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý là phương pháp quán sát
chủ yếu cung cấp các dữ liệu trực quan, cảm tính. Nó cũng cấp các dữ liệu chủ yếu về các
hành vi “bên ngoài” - được bộc lộ ra bên ngoài của cá nhân hay nhóm xã hội, mà ít cho
thấy những cấu trúc nhận thức bên trong. Do vậy để sử dụng các dữ liệu này một cách hiệu
quả cần kết hợp với các dữ liệu thu được từ các phương pháp khác.

c) Điều tra (Thăm dò ý kiến)

Đây là phương pháp rất được phổ biến trong các nghiên cứu Tâm lý học xã hội.
Trong số rất nhiều dạng thăm dò ý kiến, phổ biến nhất trong Tâm lý học xã hội là phỏng
vấn và điều tra bằng bảng hỏi. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng phổ biến
trong Tâm lý học xã hội, đặc biệt trong việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội của
các nhóm lớn như nghiên cứu dư luận xã hội, các đặc trưng tâm lý của các nhóm lớn.
Phương pháp này cho phép nghiên cứu trên lượng khách thể lớn, với thời gian ngắn và có
khả năng khái quát kết quả cao. Tất nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất
định. Để thực hiện phương pháp này, điều quan trọng nhất là xây dựng, thiết kế các câu
hỏi. Việc xây dựng bảng câu hỏi để kê khai đòi hỏi nghệ thuật của nhà nghiên cứu. Lôgic
của việc xây dựng câu hỏi, thứ tự các câu hỏi, kiểu của chúng (mở - đóng) cần phải được
suy tính kĩ càng. Người lập bảng điền kê khai cần phải có “chìa khóa”, nhờ đó các câu trả
lời câu hỏi có thể được trình bày một cách thích hợp. Để có được bảng câu hỏi đáp ứng
được các tiêu chí đo lường tâm lý như: độ ứng nghiệm (hay còn gọi là độ hiệu lực), độ tin
cậy... người thiết kế cần được đào tạo về kĩ thuật thiết kế các bảng hỏi và phải thực hiện
một quy trình đầy đủ. Có nhiều quy tắc xây dựng cho mỗi bảng câu hỏi, phân bố chúng
theo một trật tự nhất định, nhóm lại thành các khối riêng biệt...

d) Phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng trong Tâm lý
học xã hội. Trong Tâm lý học xã hội người ta phân biệt hai dạng thực nghiệm chủ yếu:
trong phòng thí nghiệm và tự nhiên. Đối với cả hai dạng, tồn tại một số quy tắc chung thể
hiện bản chất của phương pháp, đó là: người làm thực nghiệm tự do đưa ra những biến số
độc lập và kiểm soát chúng cũng như kiểm soát cả những thay đổi của các biến số phụ
thuộc. Trong đó, yêu cầu tách riêng các nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm để các kết
quả do đặc có thể được so sánh với một chuẩn mực nào đó. Để thực hiện phương pháp
này, đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tuân thủ một loạt các yêu cầu một cách nghiêm ngặt như
xác định mục đích thực nghiệm, thiết kế thực nghiệm, kiểm soát các biến số, tiến hành
thực nghiệm đúng với thiết kế... Đặc biệt trong thực nghiệm Tâm lý học xã hội nhà nghiên
cứu được yêu cầu phải tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực đạo đức nghiên cứu vì các nghiên
cứu liên quan đến khách thể là con người. Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có những
nghiên cứu thực nghiệm nổi tiếng. Đó là những nghiên cứu về áp lực của nhóm đối với cá
nhân, nghiên cứu về việc bắt chước các hành vi xã hội của người khác, nghiên cứu về vai
xã hội...

e) Trắc đạc xã hội

Trắc đạc xã hội là phương pháp nghiên cứu nổi tiếng của trường phái Trắc đạc xã
hội gắn liền với tên tuổi của J.Moreno. J.Moreno cho rằng: trong nhóm nhỏ tồn tại hai cấu
trúc các mối quan hệ - cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô. Cấu trúc vĩ mô là các mối quan hệ
qua lại về mặt công việc, hoạt động sống và chức năng của các cá nhân. Cấu trúc vi mô là
cấu trúc quan hệ tâm lý của cá nhân với những người xung quanh thể hiện chủ yếu ở sự
thiện cảm ác cảm hay thờ ơ giữa các thành viên. Nguyên nhân của sự không trùng khớp là
ở chỗ: những người cùng hoạt động trong một không gian có thể là những người không có
được sự thân thiện về mặt tâm lý. Do vậy, sử dụng phương pháp này có thể “làm bộc lộ
các cấu trúc ẩn dấu, những vị trí cá nhân trong nhóm”, chỉ ra các tiếp xúc xúc cảm, vị thế
của cá nhân trong các quan hệ xúc cảm, ảnh hưởng của các mức độ quan hệ xúc cảm đến
tính hiệu quả hay đến sự hình thành các chuẩn mực nhóm, đến hiện tượng áp lực nhóm...
Để nghiên cứu các vấn đề đó, J.Moreno đã đưa ra phương pháp Trắc đạc xã hội. Phương
pháp này được sử dụng phổ biến để xác định các mối liên hệ liên nhân cách trong nhóm,
dựa trên sự lựa chọn, khước từ hoặc bỏ mặc của các thành viên trong nhóm với các thành
viên khác của nhóm trong hoạt động chung. Nó còn được sử dụng để nghiên cứu các cấu
trúc không chính thức của nhóm, đo lường vị thế của cá nhân trong nhóm, khả năng hoà
nhập của cá nhân trong nhóm. Phương pháp này cho phép xác định các quan hệ xúc cảm
qua lại giữa các thành viên trong nhóm, từ đó có thể xây dựng được một sơ đồ về cấu trúc
vi mô, đồng thời xác định cách phân nhóm tối ưu, làm cho cấu trúc vĩ mô phù hợp với cấu
trúc vi mô, góp phần làm cho các nhóm trở nên gắn kết và có hiệu quả hơn. Trắc đạc xã
hội được thực hiện dưới dạng điều tra. Nhà nghiên cứu lựa chọn các tiêu chí trắc đạc cần
quan tâm, sau đó điều tra sự lựa chọn của các cá nhân theo tiêu chí trắc đạc đó. Ví dụ: để
nghiên cứu mối quan hệ về mặt xúc cảm của các cá nhân đối với cá nhân khác trong nhóm,
người nghiên cứu có thể lựa chọn tiêu chí trắc đặc: nếu được lựa chọn ai đó trong nhóm để
đi du lịch cùng, anh (chị) sẽ lựa chọn ai?". Dựa trên sự lựa chọn của các cá nhân trong
nhóm có thể mô tả được cấu trúc không chính thức của nhóm dưới dạng họa đồ xã hội
(sociogram) hoặc tính các chỉ số vị thế xã hội (sociostatus) hoặc chỉ số cố kết nhóm (group
cohension).

f) Phương pháp đánh giá của nhóm về cá nhân

Phương pháp này thường được sử dụng trong việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến nhân cách xã hội. Ví dụ, tìm hiểu những phẩm chất hay năng lực cần có ở người lãnh
đạo nhóm hoặc tập thể, để từ đó xây dựng mô hình nhân cách của các cá nhân trong một vị
trí xã hội nào đó hoặc để đánh giá các mức độ phát triển của các phẩm chất, năng lực đó ở
cá nhân cụ thể dưới con mắt của các thành viên khác trong nhóm. Để thực hiện việc này,
người nghiên cứu có thể hình thành trước một danh sách bao gồm nhiều phẩm chất tâm lý
xã hội mà cá nhân cần có ở một vị trí nhất định (dựa vào việc phân tích nội dung, tính chất
công việc... hoặc dựa vào các điều tra sơ bộ) sau đó đề nghị các cá nhân của nhóm đánh
giá mức độ phát triển các phẩm chất đó ở một cá nhân cụ thể cần nghiên cứu. Kết quả cho
biết cá nhân có được các phẩm chất, năng lực ở mức độ nào theo sự nhận biết, đánh giá
của cá nhân khác hoặc một cá nhân cần có những phẩm chất hay năng lực nào tương ứng
với vị trí và vai xã hội nhất định.

NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI:

Tâm lý học xã hội ngày càng được chú ý hơn trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong
các lĩnh vực ứng dụng của nó.

- Quản lý và phát triển tổ chức: Hướng vận dụng này đang trở thành phổ biến trong
xã hội hiện đại ở các tổ chức thuộc mọi lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh, giáo dục. Những
khía cạnh cơ bản gồm: các phương thức quản lý, các phẩm chất tâm lý của người quản lý,
giao tiếp công việc, phát triển tổ chức, tư vấn tổ chức, quản trị nhân sự, xây dựng và phát
triển nhóm làm việc.

- Thông tin đại chúng và quảng cáo: Hướng vận dụng này tập trung vào các vấn đề
như người truyền tin, thông điệp, sự giải mã thông tin, tự giác các thông điệp, kênh thông
tin, qua đó đưa ra các cách thức tổ chức thông tin và tác động hiệu quả nhất đến công
chúng.

- Gia đình và nhà trường: Lĩnh vực này bao gồm các nội dung cơ bản như: phổ biến
kiến thức tâm lý xã hội, tham vấn tâm lý, tư liệu những lệch lạc tâm lý xã hội, tư vấn
chuẩn bị hôn nhân, điều chỉnh các quan hệ gia đình...

- Luật pháp và chính trị: Các vấn đề được tập trung giải quyết bao gồm: trẻ phạm
pháp vị thành niên, cảnh báo tội phạm xã hội, các nhóm nhỏ tội phạm, đồng giới tham vấn
các vấn đề chính trị hình thành hình ảnh chính trị, uy tín chính trị...

- Tổ chức hoạt động của các tập thể trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.

- Trong lĩnh vực giáo dục đại học, hầu hết các vấn đề cơ bản của Tâm lý học xã hội
đều hiện diện: từ việc tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục sinh viên trong nhóm, tập thể
đến việc thiết lập, vận hành các quan hệ xã hội và liên nhân cách: giảng viên - sinh viên; từ
những hiện tượng tâm lý xã hội đơn giản như sự tương tác qua lại giữa các cá nhân đến
những hiện tượng tâm lý xã hội phức tạp như sự đồng nhất hóa, hay sự cố kết, đoàn kết
trong tập thể... Do vậy, những tri thức tâm lý học xã hội góp phần đáng kể trong việc phát
hiện, lý giải và hình thành các tác động đối với các hiện tượng tâm lý xã hội, từ đó giúp
việc tổ chức dạy học diễn ra thuận lợi và có hiệu quả hơn.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I

1. Phân biệt hiện tượng tâm lý xã hội với hiện tượng xã hội, hiện tượng Tâm lý xã
hội với tâm lý cá nhân.

2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội là gì? Mối quan hệ của Tâm lý học
xã hội nói các khoa học khác?

3. Có những phương pháp nào được sử dụng trong các nghiên cứu Tâm lý học xã
hội? Mô tả sơ lược các phương pháp đó.

Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI

I. CÁC QUY LUẬT TÂM LÝ XÃ HỘI


1. Quy luật kế thừa

Để tồn tại và phát triển, con người phải tiếp thu những yếu tố có sẵn, từ đó cải biến
chúng cho phù hợp với các điều kiện hiện tại. Nếu không có sự kế thừa thì sẽ không có sự
phát triển. Xã hội loài người cũng vậy, có được những thành tựu như ngày nay, xã hội loài
người phải “đứng trên vai” những thành tựu của hàng ngàn năm phát triển khoa học, công
nghệ, văn hóa và xã hội. Sau này cũng vậy, những thành tựu của xã hội hiện tại lại được
tiếp thu cải biến cho các giai đoạn xã hội mai sau. Phản ánh đời sống xã hội, các hiện
tượng tâm lý xã hội cũng diễn ra theo quy luật này. Các hiện tượng tâm lý xã hội không
phát triển theo con đường sinh học, bằng di truyền sinh học mà bằng con đường “di sản xã
hội”. Đặc biệt, đối với các hiện tượng tâm lý xã hội liên quan đến các nhóm lớn xã hội như
dân tộc, giai tầng xã hội, cộng đồng xã hội, quy luật kế thừa được vận hành một cách phổ
biến.

Kế thừa được hiểu là sự chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác các giá trị vật chất
(công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt, công trình văn hóa nghệ thuật...) và các giá trị tinh
thần (kinh nghiệm sản xuất, truyền thống, phong tục tập quán...).
Nhờ quy luật kế thừa, một cá nhân không cần phải trải qua toàn bộ các giai đoạn phát
triển của loài trong kinh nghiệm của bản thân mà chỉ cần kế thừa cái đã có để có được sự
phát triển tương ứng trong hiện tại. Một nhóm xã hội không cần lặp lại toàn bộ các giai
đoạn mà xã hội đã trải qua mà có thể dựa trên nền tảng đã có để phát triển nhanh hơn,
mạnh hơn. Một dân tộc với các truyền thống của mình, có thể bảo tồn, duy trì và tiếp tục
phát triển chúng trong thời kì mới mà không cần phải xây dựng lại từ đầu. Trong quá trình
phát triển của dân tộc, các truyền thống khác lại dần được hình thành. Việc kế thừa, một
mặt giúp rút ngắn thời gian phát triển, mặt khác tạo điều kiện để sàng lọc, loại bỏ các giá
trị không phù hợp. Như vậy nó tạo ra sự phát triển ổn định, không đứt quãng cho xã hội.

Kế thừa tâm lý xã hội diễn ra theo nhiều con đường khác nhau. Có thể đó là con đường
của “vô thức tập thể”, tức là cá nhân sống trong một môi trường nhóm, cộng đồng xã hội
nào đó với các đặc điểm tâm lý riêng, ở cá nhân dần có sự kế thừa các đặc điểm tâm lý đó
mà bản thân cá nhân không ý thức được điều đó. Các thế hệ sau nối tiếp các thế hệ trước
và tiếp tục duy trì các nét tâm lý đó. Tính cách dân tộc, lòng tự hào dân tộc, cách thức ứng
xử với người khác, thậm chí cách thức nhìn nhận, đánh giá và tư duy của cả một cộng
đồng là minh chứng rõ ràng về con đường kế thừa này. Nói đến cách tư duy của các dân
tộc, các nhà nghiên cứu đều nhắc đến hai kiểu tu duy có sự phân biệt tương đối rõ rệt. Mỗi
kiểu tư duy gắn với các cộng đồng người ở các khu vực và các nền văn hóa khác nhau. Đó
là kiểu tư duy biện chứng nhìn nhận sự vật luôn vận động và biến đổi liên tục thậm chí
không thấy được sự ổn định tương đối của nó trong các xã hội phương Đông mà thuyết
“vô thường - sắc không” của Phật giáo là ví dụ. Ngược lại là kiểu tư duy lôgic chặt chẽ coi
trọng sự ổn định của sự vật đến mức siêu hình của phương Tây. Các hiện tượng tâm lý xã
hội đó được kế thừa một cách “tự nhiên”. Chúng ngấm vào từng cá nhân trong cộng đồng
xã hội thông qua giao tiếp tương tác của cá nhân với các cá nhân khác trong các nhóm xã
hội. Theo cách nói của Mác: “sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc vào các cá nhân mà
nó giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp". Bên cạnh con đường kế thừa tự nhiên là kế thừa một
cách có ý thức, thông qua các tác động giáo dục của xã hội. Bất kì một thể chế xã hội nào
cũng đề cao các giá trị truyền thống nào đó phù hợp với tính chất và xu hướng phát triển
của nó. Do vậy, việc giáo dục các giá trị, các chuẩn mực trở thành công việc được tổ chức
một cách có ý thức trong các hoạt động của xã hội đó như giáo dục, truyền thông. Đồng
thời, mỗi cá nhân ở mức độ phát triển nhất định, có khả năng lựa chọn những giá trị phù
hợp với bản thân để kế thừa.
Sự kế thừa tâm lý xã hội diễn ra rất phức tạp. Nó là sự kế thừa những nét tâm lý chung
của cộng đồng xã hội nhưng lại tồn tại trong tâm lý riêng của cá nhân và được thể hiện với
màu sắc riêng của mỗi chủ thể. Biểu tượng dân tộc “con Rồng cháu Tiên” của người Việt
chẳng hạn. Đây là biểu tượng tâm lý xã hội của cả dân tộc, được bảo lưu, gìn giữ từ thế hệ
này sang thế hệ khác, nhưng độ sắc nét và đặc biệt ý nghĩa của nó được các cá nhân cảm
nhận ở các mức độ và các tầng bậc khác nhau. Hơn nữa, từ biểu tượng chung đến sự thống
nhất các hành vi xã hội cùng còn những khoảng cách không nhỏ.

Quy luật kế thừa cũng quy định sự phát triển của các cá nhân phụ thuộc vào sự tiếp xúc
với các cá nhân khác. Trong quá trình tiếp xúc các giá trị được chuyển giao và được tiếp
nhận bởi các thế hệ mới. Các giá trị đó tạo điều kiện cho thế hệ mới phát triển.

Có nhiều hình thức kế thừa khác nhau. Trong đó có hai loại kế thừa được đề cập đến
nhiều, đó là kế thừa có chọn lọc và kế thừa nguyên si. Kế thừa có chọn lọc là loại kế thừa
có phê phán, có tính đến sự phù hợp của các yếu tố được kế thừa với điều kiện hiện tại.
Hình thức kế thừa này được coi là rất tích cực, nó tạo điều kiện cho cái được kế thừa có
sức mạnh phát triển mới, đồng thời tạo điều kiện cho cái mới có cơ sở vững chắc. Kế thừa
nguyên si là dạng kế thừa y nguyên không có sự thay đổi, là tiếp nhận cái cũ một cách vô
điều kiện. Dạng kế thừa này nhiều khi tạo ra sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển của cái mới
và làm các yếu tố được kế thừa trở nên lạc lõng và suy yếu đi. Truyền thống phong tục, tập
quán là sự thể hiện sinh động của quy luật này. Bên cạnh phong tục, tập quán có ý nghĩa
tích cực với hiện tại, tồn tại những hủ tục, những tập quán đóng vai trò cản trở, kìm hãm
cái mới. Như vậy, quy luật kế thừa cho thấy trong đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý
xã hội không tự chủ tiêu mà nó có thể được gìn giữ, bảo lưu từ giai đoạn này sang giai
đoạn khác. Vấn đề là lựa chọn con đường nào và làm thế nào để các hiện tượng tâm lý xã
hội tích cực có thể được kế thừa một cách hiệu quả.

2. Quy luật về sự quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với tâm lý xã hội.

Quy luật này là sự thể hiện của quy luật chung về sự quyết định của tồn tại xã hội đối
với ý thức xã hội. Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng sự ra đời của các thiết chế
xã hội, chính trị, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... đều xuất phát từ tồn tại xã hội. Các hiện
tượng tâm lý xã hội với tư các là các hiện tượng tinh thần của xã hội cũng chịu sự chi phối
của quy luật này. Biểu hiện cụ thể của quy luật này trong các hiện tượng tâm lý xã hội có
thể thấy như sau:
Các nguyện vọng, tâm trạng, nhu cầu của xã hội bắt nguồn chính từ các điều kiện xã
hội, trong đó con người đang sống và hoạt động. Tâm trạng xã hội tích cực, hưng phấn
(được các nhà nghiên cứu đánh giá, ví dụ: chỉ số lạc quan cao, chỉ số hạnh phúc cao...) bắt
nguồn từ sự đi lên của kinh tế từ sự đầy đủ hơn của các điều kiện sống. Sự xuất hiện và
đặc biệt sự ý thức về các nhu cầu xã hội (với tư cách là một hiện tượng tâm lý xã hội) ở
bậc cao hơn chỉ có thể diễn ra khi các điều kiện xã hội đã phần nào giúp thỏa mãn các nhu
cầu xã hội cấp thấp hơn. Ví dụ các vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc, vấn đề thay đổi khí hậu
các vấn đề môi trường...

Như vậy, muốn nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội phải chỉ ra được các điều kiện
xã hội quy định nó. Ngược lại muốn tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nào đó, phải
chuẩn bị các điều kiện xã hội tương ứng, nếu muốn các hiện tượng tâm lý xã hội do diễn ra
có hiệu quả.

Các quan hệ xã hội trong cộng đồng: trong nhóm xã hội quy định các hiện tượng tâm lý
xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trên cơ sở tương tác giữa các cá nhân trong
nhóm, trong cộng đồng, đồng thời các tương tác đó diễn ra chính trong các quan hệ xã hội.
Các mối quan hệ được vận hành hợp lý: quan hệ lợi ích, quan hệ trách nhiệm... sẽ làm nảy
sinh bầu không khí xã hội tích cực cởi mở, ngược lại có thể làm nảy sinh xung đột, tạo ra
bầu không khí căng thẳng tiêu cực. Do vậy, muốn tác động đến các hiện tượng tâm lý xã
hội, một trong số các con đường cơ bản đó là cải tạo các quan hệ xã hội cho hợp lý hơn.

Bên cạnh việc khẳng định tính quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với các
hiện tượng tâm lý xã hội, cũng cần thấy được tính độc lập tương đối và tác động ngược lại
của các hiện tượng tâm lý xã hội đối với các điều kiện kinh tế - xã hội. Sự tác động ngược
lại cũng có thể tạo ra những động lực làm biến đổi các điều kiện kinh tế - xã hội trong
những thời điểm nhất định đặc biệt khi sự tác động ngược đó được tổ chức và tập hợp một
cách hợp lý. Việc cởi bỏ nếp tư duy bao cấp, máy móc và giáo điều đã tạo ra sự chuyển
biến vô cùng mạnh mẽ trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta những năm qua là một
minh chứng rõ ràng cho tác động ngược lại đó.

3. Quy luật bắt chước

Quy luật bắt chước là quy luật được chỉ ra sớm nhất trong Tâm lý học xã hội. Nó đã
được đề cập đến trong tác phẩm Những quy luật của sự bắt chước năm 1890 của G.Tarde.
Ông đã dùng quy luật này để giải thích hành vi của con người, đặc biệt là những hành vi
giống nhau giữa các cá nhân trong quá trình tác động qua lại.

Theo G.Tarde: Bắt chước là sự cụ thể hóa của “quy luật lặp lại của thế giới”. Thế giới
vận động và phát triển theo con đường lặp lại. Di truyền sinh học là lặp lại, phủ định của
phủ định là lặp lại. Trong xã hội loài người, sự lặp lại chính là bắt chước. Đây là nền tảng
để xã hội tồn tại và phát triển. Nhờ bắt chước mà các phát minh, sáng chế, các hành vi có
ích của xã hội được duy trì, trên cơ sở đó được khai thác lại.

Bắt chước có tính chất vô thức. Do là sự sao chép máy móc các hành vi bề ngoài của
những người khác. Bắt chước người khác chính là “sao, chụp” lại người khác.

G. Tarde cũng chỉ ra một số kiểu bắt chước khác nhau: bắt chước lôgic (trí tuệ ý thức) -
bắt chước phi lôgic (cảm tính, phi lý); bắt chước nhất thời và bắt chước lâu dài; bắt chước
hình thức và bắt chước bản chất; bắt chước giữa các thế hệ, giữa các giai cấp.

Thực chất việc Tarde đề ra quy luật bắt chước chủ yếu dựa vào quan sát chứ chưa có các
nghiên cứu thực nghiệm cụ thể. Tuy vậy, sự bắt chước rõ ràng diễn ra phổ biến trong đời
sống xã hội và tạo ra một loạt các hiện tượng tâm lý xã hội như thị hiếu, mốt thời trang,
trào lưu, xu hướng, làn sóng.

Việc đề cao thái quá quy luật bắt chước như là một quy luật tổng hợp để giải thích các
hiện tượng tâm lý xã hội đương nhiên là không hợp lý. Tuy vậy những phát hiện của Tarde
đã được các nhà nghiên cứu tâm lý học xã hội tiếp thu - chính xác hóa và coi như một
trong số các quy luật chi phối sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội.

Có thể hiểu bắt chước như là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại những hành vi, cách suy nghĩ,
các tâm trạng của các cá nhân khác trong đời sống xã hội. Quy luật này có vai trò chính
trong việc tạo ra sự đồng nhất giữa các cá nhân trong các nhóm xã hội, nhờ đó nó có thể
tạo ra các đặc trưng của các nhóm xã hội khác nhau. Sự bắt chước trong cách ăn mặc, cách
nói năng của nhóm lứa tuổi như thiếu niên chẳng hạn, tạo ra sự khác biệt với các nhóm lứa
tuổi khác.

4. Quy luật tác động qua lại giữa con người với con người

Tác động qua lại là quy luật phổ biến chi phối sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội.
Tham gia vào các nhóm xã hội, các cá nhân liên tục tác động ảnh hưởng đến các cá nhân
khác và ngược lại chịu sự tác động của các cá nhân khác. Sở dĩ các hiện tượng tâm lý xã
hội nảy sinh là do sự tác động qua lại này. Sự tác động qua lại giữa các cá nhân diễn ra
thông qua hoạt động cùng nhau và giao tiếp. Tần suất hoạt động cùng nhau và giao tiếp là
chỉ báo cho mức độ tương tác giữa các cá nhân.

Sự tác động qua lại giữa các cá nhân có thể mang tính chất tích cực hay tiêu cực. Sự tác
động qua lại theo kiểu hợp tác là điều kiện cho sự phát triển các mối quan hệ cá nhân.
Ngược lại: sự tác động qua lại theo kiểu cạnh tranh có thể trở thành nhân tố kìm hãm các
mối quan hệ.

Sự tác động qua lại có thể dẫn tới sự thay đổi về thái độ, tình cảm hay hành vi ở các cá
nhân và tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm như bầu không khí nhóm, tâm trạng
nhóm. Sự thống nhất các ý kiến sự thống nhất hành vi của các thành viên cũng có thể coi
là kết quả của sự tác động qua lại. Các mức độ tác động qua lại giữa các cá nhân phụ thuộc
vào sự thống nhất, đồng nhất giữa các cá nhân trong nhóm. Sự thống nhất càng cao, hiệu
quả của sự tác động qua lại càng lớn. Bên cạnh đó các đặc điểm chủ quan của cá nhân,
phương thức tổ chức thông tin cũng là những nhân tố quan trọng chi phối mức độ tương
tác giữa các cá nhân.

Sự tác động qua lại giữa các cá nhân, trong Tâm lý học xã hội còn được biểu đạt bằng khái
niệm tương tác. Khái niệm tương tác dùng để chỉ không phải sự tương tác bất kì mà để chỉ
“sự tác động qua lại xã hội”, tức là sự tác động qua lại giữa con người trong giao tiếp,
trong nhóm, trong xã hội. Bản thân quá trình tương tác xã hội cần được phân tích để có thể
hiểu được các hành vi xã hội của cá nhân. Sự tác động qua lại được hiểu như là các kích
thích hai chiều để tạo ra các phản ứng từ các chủ thể tham gia vào quá trình tương tác. Mặt
khác các nhà nghiên cứu phải tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi: quá trình tương tác xã hội
được thực hiện và điều chỉnh bởi các phương tiện đặc trưng nào? Các yếu tố nào? Từ đây
xuất hiện mối quan tâm đối với một loạt các vấn đề: giao tiếp với sự trợ giúp của các biểu
tượng, ngôn ngữ, việc diễn giải các tình huống; vấn đề cấu trúc của nhân cách, hành vi của
các vai trò xã hội, nhóm quy chiếu; các yếu tố nguồn gốc của sự hình thành các chuẩn mực
của sự tương tác xã hội và các thái độ xã hội.

Trong quá trình tương tác, các cá nhân diễn giải các cử chỉ điệu bộ của nhau, các tình
huống giao tiếp và hành động trên cơ sở các ý nghĩa nhận được trong quá trình giao tiếp.
Vì vậy để thực hiện hiệu quả việc giao tiếp, cá nhân cần có khả năng đặt mình vào vị trí
của người khác hay “tiếp nhận vai trò của người khác” và nhìn nhận bản thân bằng con
mắt của người khác. Chỉ có như vậy, cá nhân mới trở thành nhân cách, thành thực thể xã
hội có khả năng ứng xử với bản thân như là với một đối tượng, tức là ý thức được các ý
nghĩa của lời nói hành vi của mình, như là người khác tri giác chúng. Trong trường hợp
tương tác phức tạp hơn, như trong một nhóm, để thực hiện một cách có hiệu quả cần sự
khái quát hóa lập trường của đa số các thành viên trong nhóm. Hành vi của mỗi cá nhân
trong nhóm là kết quả của sự chấp nhận của cá nhân các thái độ của các cá nhân khác đối
với bản thân và sự thống nhất các thái độ đó vào một thái độ chung gọi là “thái độ khái
quát”.

Trong tương tác, hành vi của cá nhân được xác định bởi ba biến số: cấu trúc nhân cách, vai
xã hội và nhóm tham chiếu. Cấu trúc nhân cách quy định xu hướng ổn định của hành vi,
vai xã hội quy định các hành vi được xã hội yêu cầu và kì vọng, các nhóm tham chiếu lôi
kéo và tạo ra cơ sở cho sự so sánh đối chiếu các hệ vi. Tùy thuộc vào ý nghĩa của các biến
số ở mỗi cá nhân mà các hành vi xã hội trong tương tác diễn ra theo hướng này hay hướng
khác.

Sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm xã hội hết sức đa dạng và phức tạp. Trên
cơ sở của sự tương tác giữa các cá nhân nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội và các hiện
tượng xã hội. Trong nhiều thời điểm, sự tương tác đặc biệt giữa số đông các cá nhân có thể
tạo ra những biến đổi xã hội hết sức to lớn. Do vậy, nghiên cứu sự tương tác xã hội luôn
được các nhà nghiên cứu quan tâm.
II. CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI

II. CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI

TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI à Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
1. Cơ chế lây lan

Trong đời sống xã hội, không ít khi chúng ta gặp các hiện tượng tâm lý xã hội như
tâm trạng căng thẳng lo âu, thậm chí hoảng loạn hay ngược lại, sự hưng phấn, quá khích
của các nhóm người. Sở dĩ ở nhóm người cùng xuất hiện một dạng xúc cảm nhất định là
do sự lây lan của các cảm xúc từ một số cá nhân này sang những cá nhân khác. Cơ chế
hình thành các hiện tượng xúc cảm chung đó gọi là cơ chế lây lan.
Lây lan được hiểu là sự lan truyền xúc cảm từ cá nhân này sang cá nhân khác trong
nhóm xã hội một cách mạnh mẽ ở cấp độ tâm sinh lý ngoài những tác động ở cấp độ ý
thức nhóm.

Sự lây lan đã từ lâu được nghiên cứu như là một phương thức đặc biệt của sự tác
động, bằng một cách nào đó tạo ra sự hòa nhập đông đảo của đám đông, đặc biệt trong mối
liên hệ với sự xuất hiện các hiện tượng như xuất thần tôn giáo, loạn thần đại chúng và...
Hiện tượng lây lan đã được biết ngay trong những giai đoạn sơ khai của lịch sử loài người
và có nhiều kiểu biểu hiện như các trạng thái bột phát xúc cảm mang tính đại chúng xuất
hiện trong khi nhảy các điệu nhảy nghi lễ, sự hăng say thể thao, các tình huống hoảng
loạn. Trong hình thức chung nhất, sự lây lan có thể xác định như là tính dễ bị nhiễm một
cách vô thức trạng thái tâm lý nào đó. Nó được bộc lộ không phải qua sự thừa nhận có ý
thức một thông tin nào đó hay hình mẫu hành vi mà qua việc lan truyền trạng thái xúc cảm
hay trạng thái tâm lý. Khi trạng thái xúc cảm đó xuất hiện trong đám đông cơ chế tăng
cường nhiều lần sự tác động xúc cảm lẫn nhau của những người giao tiếp bắt đầu hoạt
động. Cá nhân ở đây không chịu áp lực trước tổ chức mang tính chủ định mà đơn giản lĩnh
hội một cách vô thức hình mẫu của cách ứng xử nào đó bằng cách tuân phục nó. Nhiều
nhà nghiên cứu phân tích sự có mặt của một phản ứng lây lan đặc biệt xuất hiện trong các
nhóm khán giả mở và có số lượng lớn, khi mà trạng thái xúc cảm được tăng cường bằng
con đường phản ánh lặp lại nhiều lần theo mô hình của phản ứng chuỗi thông thường.
Hiệu ứng có thể xảy ra trước hết trong tập hợp không được tổ chức, thường xuyên hơn cả
là trong đám đông, thể hiện như một dạng củng cố nhằm xua đuổi một trạng thái xúc cảm
khác nào đó.

Tình huống hoảng loạn là một tình huống đặc biệt trong quá trình tác động qua lại,
sự lây lan được tăng cường. Hoảng loạn xuất hiện trong đám đông như một trạng thái xúc
cảm xác định, là hậu quả của sự thiếu hụt thông tin về điều gì đó đang đe doạ hoặc điều gì
đó khó hiểu hay là ngược lại sự thừa thãi của thông tin về sự đe doạ này. Bản thân thuật
ngữ có nguồn gốc từ tên của một vị thần Hi Lạp Pana - người che chở cho những người
chăn súc vật tránh được sự nổi giận phi lý của của bầy đàn. Nguyên cớ trực tiếp của sự
hoảng loạn là sự xuất hiện của tin tức nào đó có khả năng tạo ra một dạng sốc nhất định.
Sau đó sự hoảng loạn tăng thêm sức sức mạnh khi tham gia vào hành động, do cơ chế
phản ánh lặp lại. Sự lây lan xuất hiện khi có hoảng loạn khó có thể đánh giá đúng ngay
trong cả xã hội hiện đại. Ví dụ rất nổi tiếng về sự xuất hiện sự hoảng loạn quần chúng ở
Mỹ ngày 30/10/1938 sau chương trình phát thanh của đài phát thanh ABC về quyển sách
của H.Yell Chiến tranh của các thế giới. Dân chúng - thính giả thuộc các lứa tuổi hoàn
toàn khác nhau và các tầng lớp học vấn khác nhau (theo số liệu chính thức gần 1.000.000
người) đã trải qua trạng thái giống như loạn thần đại chúng, tin vào sự tấn công của người
sao Hỏa vào Trái Đất. Mặc dù nhiều người trong số họ biết chính xác rằng đang truyền
thanh một kịch bản của một tác phẩm văn học (người phát thanh đã nhắc lại 3 lần) gần
400.000 người nói rằng đã “tận mắt” chứng kiến sự xuất hiện của người sao hoả. Hiện
tượng này đã được các nhà tâm lý học Mỹ phân tích một cách chuyên biệt.

Sự hoảng loạn là hiện tượng vô cùng khó nghiên cứu. Không thể quan sát được
chúng một cách trực tiếp. Bởi vì: thứ nhất, không bao giờ biết được thời điểm xuất hiện
của nó; thứ hai, trong tình huống hoảng loạn khó có thể vững vàng để trở thành người
quan sát. Chính ở đó sự hoảng loạn thể hiện sức mạnh của nó. Một người bất kì khi nằm
trong trạng thái hoảng loạn dù ở mức độ này hay mức độ khác đều bị nó khuất phục. Do
vậy, các nghiên cứu hoảng loạn vẫn chỉ ở trình độ mô tả sau khi hoảng loạn đã qua đỉnh
điểm. Các mô tả này cho phép chia ra các chu kì cơ bản đặc trưng cho toàn bộ quá trình
tổng thể. Hiểu các chu kì này rất quan trọng cho việc chấm dứt hoảng loạn. Điều đó là có
thể thực hiện với điều kiện có thể có các sức mạnh có khả năng đưa đến các yếu tố của sự
sáng suốt vào tình huống hoảng loạn, bằng cách nhất định chiếm lĩnh được tình huống
này. Ngoài việc hiểu biết về chu kì, cần phải hiểu cả cơ chế tâm lý học của hoảng loạn.

Các đặc điểm của sự lây lan như là sự chấp nhận một cách vô thức những hình mẫu
nhất định của hành vi. Nếu con người trong tình huống hoảng loạn này có thể đưa ra hình
mẫu nhất định của hành vi, có khả năng khôi phục lại trạng thái xúc cần bình thường của
đám đông, sẽ có khả năng chấm dứt hoảng loạn.

Vấn đề quan trọng trong nghiên cứu sự lây lan là vấn đề vai trò của mức độ thống
nhất trong đánh giá và tâm thế mà quần chúng (những người bị lây lan tâm lý) có được.
Mặc dù vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ trong khoa học, nhưng trong thực
tiễn người ta đã tìm ra các hình thức sử dụng các đặc trưng này trong tình huống lây lan.
Như trong các điều kiện lây lan đại chúng bởi kích thích, bao gồm cả sự lây lan trước đó
sự đồng nhất các đánh giá ví như đối với một nghệ sĩ nổi tiếng là sự cổ vũ, chúng có thể
đóng vai các xung lực, tiếp sau đó tình huống sẽ phát triển theo các quy luật của sự lây lan.
Sự hiểu biết về cơ chế này được sử dụng trong việc tuyên truyền, trong đó đã đưa ra một
lý thuyết đặc biệt nâng cao tính hiệu quả của tác động đến thính giả mở bằng con đường
mang họ tới trạng thái hưng phấn mở tới trạng thái xuất thần, không hiếm khi cả các thủ
lĩnh chính trị khác cũng dùng tới thủ thuật này.

Mức độ lây lan mà các thính giả khác nhau có thể bị rơi vào phụ thuộc vào mức độ
phát triển chung của các nhân cách tạo ra nhóm thính giả và cụ thể hơn - vào mức độ phát
triển tự ý thức của họ. Trong ý nghĩa này có thể khẳng định xác đáng rằng: trong xã hội
hiện đại, sự lây lan có vai trò ít hơn so với những giai đoạn đầu trong lịch sử loài người.
Có thể nhận thấy rằng trình độ phát triển xã hội càng cao thì các thái độ phê phán của con
người càng cao hơn đối với các sức mạnh có tác động lôi kéo họ tới việc thực hiện hành
động hay trải nghiệm này khác, dẫn tới kết quả là hiệu quả của cơ chế lây lan càng yếu
hơn. (Porsnhiev, 1968).

Theo truyền thống đã hình thành trong Tâm lý học xã hội thường xem xét hiện
tượng lây lan trong các điều kiện của các hành vi chống đối xã hội và không có tổ chức
(các thảm hoạ thiên nhiên khác nhau). Tuy nhiên kiểu hành vi này có thể thể hiện trong
các hành động xã hội có ý thức đại chúng, ví dụ trong tiến trình của các cuộc mít tinh khác
nhau hay các cuộc biểu tình hoặc trong các tình huống thảm hoạ khác nhau...

Như vậy không thể nói rằng trong các điều kiện hiện đại, vấn đề lây lan đã tuyệt đối
cũ kĩ. Không có sự trưởng thành nào của tự ý thức gỡ bỏ những hình thức này của sự lây
lan tâm lý xuất hiện trong các phong trào xã hội quần chúng đặc biệt trong những thời gian
không ổn định của xã hội ví như trong điều kiện tái cơ cấu xã hội mạnh mẽ. Tâm lý học xã
hội có trách nhiệm to lớn trước xã hội khi nghiên cứu vấn đề này. Ở đây hiện tại chỉ tồn tại
những mô tả và quan sát rời rạc về bản chất, chưa có các nghiên cứu nghiêm túc.

Cơ chế lây lan được coi là có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết số đông
cá nhân ở phương diện xúc cảm. Nhờ có chế này, trong đời sống xã hội có hiện tượng
“cộng cảm”, là điều kiện thuận lợi cho sự gắn bó giữa các cá nhân trong nhóm và cộng
đồng.

Cơ chế này được các nhà nghiên cứu giải thích theo các cách khác nhau.
Mikhailôvxki cho rằng lây lan được truyền theo nguyên tắc cộng hưởng, tỉ lệ thuận với
đám đông và cường độ xúc cảm được truyền đi. G.Allport lại cho rằng lây lan diễn ra theo
“phản ứng vòng tròn”. Cá nhân này kích thích cá nhân khác bằng các biểu hiện xúc cảm
của mình, đến lượt họ khi thấy biểu hiện của người khác sẽ tăng thêm phần hứng khởi.
Các xúc cảm tiêu cực và tích cực đều có thể được lây lan. Do vậy, có thể chủ động
tạo ra sự lây lan các xúc cảm tích cực và ngăn chặn sự lây lan các xúc cảm tiêu cực trong
nhóm, cộng đồng.

2. Cơ chế đồng nhất hóa

- Có nhiều cách quan niệm khác nhau về sự đồng nhất hóa. Có quan điểm coi đồng
nhất hóa như một quá trình so sánh, đối chiếu một đối tượng này với đối tượng khác theo
một điểm hay tiêu chí nhất định, từ đó khái quát, xác lập sự tương đồng giữa chúng. Ví dụ,
khi cá nhân nhận biết các phẩm chất của một số cá nhân khác sẽ tiến hành việc xếp các cá
nhân đó theo các kiểu loại khác nhau và sau đó có thể bắt chước, phỏng theo một kiểu nào
đó. Như vậy theo cách hiểu này, đồng hóa chính là việc cá nhân lựa chọn và đồng nhất bản
thân với các chủ thể khác hay với nhóm nào đó.

Cách hiểu chung trong tâm lý học hiện đại cho rằng: đồng nhất hóa là quá trình chủ
thể thống nhất bản thân với các cá nhân khác dựa trên các liên hệ cảm xúc, đồng thời nội
tâm hóa các chuẩn mực các giá trị của họ. Trong khi đồng nhất hóa, chủ thể nhìn nhận
người khác như là sự kéo dài của bản thân, gán cho người khác những đặc điểm, tình cảm,
mong muốn của bản thân. Đồng thời cá nhân đặt mình vào vị trí của người khác, dịch
chuyển bản thân vào vị trí không gian, phạm vi của người khác và thậm chí đồng nhất hóa
ý nghĩ với người khác.

Trong Tâm lý học xã hội, đồng nhất hóa được coi là quá trình cá nhân tiếp nhận vai
trò xã hội khi gia nhập nhóm. Cá nhân ý thức được vai trò, vị trí của mình trong nhóm và
thực hiện tốt vai trò xã hội của mình. Nói cách khác, đồng nhất hóa chính là quá trình cá
nhân đồng nhất bản thân với một vai trò xã hội nhất định.

Từ các cách hiểu rất rộng và nhiều khía cạnh như vậy, có thể hiểu một cách chung
nhất về cơ chế đồng nhất hóa như sau: Đồng nhất hóa là quá trình cá nhân điều chỉnh bản
thân nhằm thích ứng với các vai xã hội hay với các cá nhân khác trong nhóm xã hội trên
những phương diện nhất định của đời sống tâm lý.

- Vai trò của cơ chế đồng nhất hóa như sau:

Cá nhân có thể thực hiện tốt vai trò xã hội của bản thân, từ đó các quan hệ xã hội
được vận hành một cách có hiệu quả.
Các cá nhân trong nhóm có được những điểm chung: sự đồng nhất về cảm xúc, sự
đồng nhất về cách giải quyết nhìn nhận vấn đề. Trong các nhóm lớn xã hội, cơ chế đồng
nhất hóa có thể diễn ra một cách ẩn tàng để tạo ra những hiện tượng tâm lý xã hội của
nhóm dân tộc, giai cấp như ý thức tự hào dân tộc, nếp suy nghĩ dân tộc, tình cảm dân tộc...

Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế đồng nhất hóa sẽ xuất hiện khi các cá nhân trong
nhóm xã hội bị đồng nhất hóa quá mức. Các cá nhân sẽ trở nên bị động, đánh mất cái riêng
và bản sắc riêng.

3. Cơ chế ám thị

Trong quá trình giao tiếp, tương tác giữa các cá nhân, có trường hợp cá nhân chịu sự
tác động của cá nhân khác và có hành vi phục tùng yêu cầu của cá nhân khác một cách
không ý thức được gọi là hiện tượng ám thị.

Để hiểu hơn về ám thị, có thể đặt nó trong mối quan hệ với một hiện tượng khác gọi
là thôi miên. Trạng thái bị thôi miên là trạng thái “mất tỉnh táo”, “mất khả năng ý thức”
của chủ thể. Một người bị thôi miên sẽ không ý thức được các hành vi của bản thân và rơi
vào trạng thái bị người khác điều khiển. Ám thị là mức độ nhẹ hơn so với thôi miên, người
bị ám thị không mất ý thức nhưng mất khả năng suy xét, phê phán do vậy dễ bị thuyết
phục và dễ bị điều khiển.

Ám thị là tác động tâm lý có mục tiêu nhưng vô căn cứ từ một người đến người
khác hoặc nhóm, dẫn tới sự thay đổi hành vi ứng xử của cá nhân do phục tùng mệnh lệnh
đến từ một uy quyền hợp pháp.

Quá trình diễn ra ám thị có một số đặc điểm: Sự chuyển giao thông tin dựa vào việc
tiếp nhận thông tin một cách không phê phán. Trong quá trình đó, não chỉ giữ liên hệ với
một nguồn kích thích, các nguồn kích thích khác bị ngắt.

Ám thị là một kiểu tác động đặc biệt có mục đích, sự tác động phi luận cứ của một
người lên người khác hay lên một nhóm. Trong ám thị quá trình truyền thông tin được
thực hiện trên cơ sở tri giác chúng một cách không có phê phán. Thông thường toàn bộ
thông tin được truyền từ người này sang người khác được phân loại căn cứ vào mức độ
tính tích cực trong lập trường của người truyền thông tin, phân biệt trong đó các thông
báo, thuyết phục và ám thị. Chính hình thức thông tin thứ ba này liên quan đến sự tri giác
không phê phán, cho rằng người tiếp nhận thông tin trong trường hợp ám thị không có khả
năng đánh giá chúng một cách phê phán. Một cách tự nhiên, trong các tình huống khác
nhau và đối với các nhóm người khác nhau mức độ phi luận cứ, cho phép tiếp nhận không
phê phán thông tin trở nên rất khác nhau.

Hiện tượng ám thị được nghiên cứu trong Tâm lý học từ trước đây rất lâu trên thực
tế: trong thực tiễn y học hay với một số các hình thức dạy học cụ thể. Ám thị như một hiện
tượng tâm lý học xã hội có đặc trưng rõ rệt: do vậy có quyền nói về hiện tượng đặc biệt
“ám thị xã hội”. Trong các nghiên cứu của Tâm lý học xã hội vẫn duy trì hệ thống thuật
ngữ, được sử dụng trong các phần khác nhau của khoa học tâm lý nghiên cứu hiện tượng
này: người thực hiện việc ám thị gọi là nhà ám thị, đối tượng của ám thị gọi là “người bị
ám thị”. Hiện tượng chống đối lại ám thị gọi là “phản ám thị”. Trong tài liệu ở Nga, lần
đầu tiên vấn đề ý nghĩa của ám thị được đặt ra trong tác phẩm của V.M.Becheriev Ám thị
và vai trò của nó trong đời sống xã hội (1903).

Khi phân tích ám thị như là phương tiện tác động đặc biệt, vấn đề về tương quan
giữa ám thị và lây lan được đặt ra và vẫn chưa có câu trả lời thống nhất. Đối với một số tác
giả ám thị là một trong các loại lây lan bên cạnh bắt chước, những người khác lại nhấn
mạnh sự khác biệt của ám thị với lây lan, có thể khái quát như sau: Trong lây lan diễn ra
sự đồng cảm của trạng thái tâm lý đám quần chúng lớn. Ám thị không có “sự bình đẳng” -
ngược lại, trong đó không có sự đồng cảm, và đồng nhất xúc cảm. Nhà ám thị không rơi
vào trạng thái của người bị ám thị. Quá trình ám thị có tính một chiều mà không phải là sự
tăng lên bột phát của trạng thái nhóm ám thị. Nó là sự tác động tích cực của một người đến
một người khác hoặc nhóm. Ám thị, thông thường, mang tính ngôn ngữ, trong khi đó,
trong lây lan ngoài tác động ngôn ngữ còn sử dụng cả các phương tiện khác (nhịp điệu,
cảm thán...).

Mặt khác ám thị khác với thuyết phục ở chỗ nó trực tiếp gây ra những trạng thái tâm
lý nhất định không cần có lôgic và chứng cứ. Thuyết phục, ngược lại, được xây dựng trên
cơ sở sự trợ giúp của các cấu tạo lôgic để đạt tới sự đồng ý của người khác của người tiếp
nhận thông tin. Trong ám thị không đạt tới sự đồng ý mà còn phải là tiếp nhận thông tin
dưới dạng kết luận có sẵn. Trong khi đó, trường hợp thuyết phục, kết luận cần phải được
đưa ra một cách độc lập bởi người tiếp nhận. Do vậy thuyết phục là tác động chủ yếu
mang tính trí tuệ còn ám thị tác động chủ yếu mang tính xúc cảm ý chí.
Chính vì vậy khi nghiên cứu ám thị đã xác nhận một số quy luật liên quan đến vấn
đề: trong những tình huống nào và trong những tình trạng nào hiệu quả ám thị được nâng
cao. Những trường hợp ám thị xã hội đã chứng minh sự phụ thuộc của hiệu ứng ám thị vào
lứa tuổi: trẻ em nhìn chung dễ bị ám thị hơn người lớn. Cũng đúng như vậy, trong đa số
các thường hợp, những người bị ám thị là những người mệt mỏi, yếu về mặt thể chất hơn
là những người khỏe mạnh. Nhưng điều quan trọng nhất là ở chỗ ám thị có các nhân tố
tâm lý xã hội đặc biệt tác động. Nhiều nghiên cứu cho thấy: điều kiện quyết định tính hiệu
quả của ám thị là uy tín của người ám thị, uy tín sẽ tạo ra nhân tố bổ sung đặc biệt của tác
động - sự tin tưởng vào nguồn thông tin. “Hiệu ứng niềm tin” này được thể hiện trong
quan hệ với nhân cách của người ám thị cũng như trong thái độ đối với nhóm xã hội mà
anh ta đại diện. Uy tín của nhà ám thị cả trong trường hợp này và trong trường hợp khác
thực hiện chức năng được gọi là “luận cứ gián tiếp” một dạng bù trừ sự thiếu hụt các
chứng cứ trực tiếp - là nét đặc trưng của ám thị.

Trong ám thị, kết quả phụ thuộc vào cả tính cách cá nhân của người ám thị. Hiện
tượng phản ám thị minh chứng cho mức độ chống lại ám thị mà cá nhân riêng biệt có
được. Trong thực tế, ám thị xã hội đã nghiên cứu những phương thức, nhờ đó có thể ở một
mức độ nhất định cô lập sự “tự vệ tâm lý” này. Tổ hợp các biện pháp như vậy được gọi là
“chống phản ám thị” (Porsnhiev.1968). Hiện tượng phản ám thị có thể được sử dụng
không chỉ cho việc bảo vệ cá nhân khỏi sự tác động ám thị mà còn cho việc loại bỏ sự tự
vệ này. Ví dụ, nếu với tư cách là một phương tiện phản ám thị - sự không tin tưởng vào
nhà ám thị, thì bằng cách đưa thêm các thông tin bổ sung về người ám thị có thể đạt tới
việc loại bỏ sự không tin tưởng này và tổ hợp các biện pháp đó sẽ là chống phản ám thị.
Một cách lôgic, có đề xuất đáp lại những cố gắng bổ sung đó cá nhân cố gắng tạo ra một
loạt những biện pháp tự vệ mới. Nhưng đến nay các nghiên cứu thực tế chưa vượt qua
được lớp thứ nhất của chống phản ám thị. Trong phương diện nghiên cứu ứng dụng, ám thị
có ý nghĩa lớn đối với các lĩnh vực như tuyên truyền và quảng cáo. Vai trò của ám thị
được đưa vào hệ thống các phương tiện tác động tuyên truyền là khác nhau, phụ thuộc vào
loại tuyên truyền, mục đích và nội dung của tuyên truyền. Dù nét cơ bản của tuyên truyền
là dựa vào lôgic và có ý thức còn phương tiện đang được nói đến chủ yếu là phương tiện
thuyết phục. Tất cả những điều đó không loại bỏ sự có mặt của một số nhân tố của ám thị.
Phương pháp ám thị thể hiện ở đây như là phương pháp dưới dạng chương trình hóa tâm
lý khán giả, tức là liên quan đến các phương pháp tác động điều khiển, điều này đặc biệt rõ
ràng trong lĩnh vực quảng cáo.

4. Cơ chế thỏa hiệp

Thỏa hiệp là sự nhân nhượng của cá nhân trước áp lực nhóm thể hiện ở việc cá nhân
thay đổi cách ứng xử và thái độ của mình cho phù hợp với đa số.

Thỏa hiệp là một cơ chế tạo ra sự thống nhất giữa các cá nhân trong nhóm mặc dù
còn có sự khác biệt nhất định. Nó đảm bảo cho việc xác định mục đích chung hay ra quyết
định chung của nhóm, đồng thời tránh tạo ra sự xung đột trong một khoảng thời gian. Như
vậy, với tư cách là một cơ chế tâm lý xã hội giúp giảm bớt xung đột trong một số tình
huống, thỏa hiệp có vai trò tích cực nhất định khác với hiểu đơn giản thiên về tiêu cực của
hiện tượng này. Trong nhóm xã hội, với các vị trí, lợi ích khác nhau khó có thể có sự
thống nhất hoàn toàn. Cơ chế này có thể coi như một sự “tạm dừng” để có thể tiến tới sự
thống nhất hơn khi được trao đổi, thảo luận.

Có các loại thỏa hiệp như sau: Thỏa hiệp bên ngoài (thỏa hiệp hình thức) là sự tiếp
nhận ý kiến nhóm một cách hình thức; Thỏa hiệp bên trong (thỏa hiệp thực tâm) là sự biến
đổi thực sự thái độ của cá nhân cho phù hợp với đa số và loại thứ ba là lập trường độc lập,
thực chất là dạng phụ thuộc ngược với ý kiến đa số.

Có một loạt các yếu tố ảnh hưởng tới sự thỏa hiệp. Các yếu tố đó thuộc hai nhóm cơ
bản: các yếu tố cá nhân và các yếu tố tâm lý xã hội. Các yếu tố cá nhân như đặc trưng tâm
lý của cá nhân phải chịu áp lực thỏa hiệp, giới tính, lứa tuổi, trí tuệ, trình độ nhận thức.
Các cá nhân có tính độc lập có xu hướng ít thỏa hiệp hơn và ngược lại. Nữ giới có khả
năng thỏa hiệp cao hơn nam giới. Các yếu tố tâm lý xã hội như: quy mô nhóm, trình độ
phát triển của nhóm, tính chất của các mối quan hệ trong nhóm, vị trí của cá nhân, mức độ
phụ thuộc lẫn nhau trong nhóm, hoàn cảnh đặc thù như nội dung cần thỏa hiệp, các nhiệm
vụ chung. Thỏa hiệp cũng được coi là một cơ chế mang màu sắc văn hóa, bởi lẽ trong một
số nền văn hóa, cơ chế thỏa hiệp chi phối một cách phổ biến các quan hệ xã hội, trong nền
văn hóa khác cơ chế này lại ít phát huy tác dụng.

NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:

Các quy luật nêu trên chi phối mạnh mẽ sự nảy sinh, hình thành và biến đổi của các
hiện tượng tâm lý xã hội trong đời sống của con người. Hoạt động dạy học và giáo dục
trong các nhà trường về bản chất là hoạt động xã hội. Trong các hoạt động đó, các hiện
tượng tâm lý xã hội nảy sinh. Đến lượt nó, các hiện tượng tâm lý xã hội lại chi phối chính
hoạt động của các chủ thể: giảng viên và sinh viên. Do vậy, việc nắm vững các quy luật cơ
bản nêu trên có thể giúp người giảng viên có được sự chủ động nhất định trong việc tổ
chức hoạt động dạy học, giáo dục và trong việc dự đoán các hiện tượng tâm lý xã hội có
thể xảy ra để có những cách xử lý khoa học. Từ đó tác động đến sinh viên một cách có
hiệu quả. Có thể có các hướng vận dụng như sau:

- Khai thác quy luật bắt chước trong việc hình thành nếp sống, lối sống, thái độ,
hành vi đúng đắn hay phổ biến những kinh nghiệm tích cực trong giáo dục sinh viên bằng
cách xây dựng các hình mẫu, các tấm gương điển hình, những nhóm hạt nhân. Gắn nội
dung cần phổ biến với các nhân vật có uy tín, những người cùng thời... có ảnh hưởng đối
với sinh viên. Các hình mẫu của sự bắt chước phải có tính hấp dẫn đối với sinh viên.
Ngược lại, có thể dự đoán trước các xu hướng bắt chước để ngăn chặn sự phổ biến những
hành vi tiêu cực, bằng cách lôi cuốn sinh viên vào các hành vi tích cực hoặc làm gián đoạn
các kênh tiếp xúc với hình mẫu.

- Khai thác quy luật về sự tác động qua lại một cách triệt để trong việc thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi. Sinh viên luôn tham gia vào các nhóm nhất định. Không phải sự
thuyết giáo mà sự tác động qua lại giữa các cá nhân được định hướng có thể làm thay đổi
mỗi cá nhân một cách tích cực. Tăng cường giao tiếp, trao đổi thông tin, tiếp xúc giữa sinh
viên với nhau, giữa giảng viên với sinh viên để có được sự thấu hiểu lẫn nhau và tạo ra sự
đồng thuận trong việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc chung.

- Khuyến khích việc tìm hiểu các truyền thống, thành tựu của nhà trường. Động viên
sự phát triển một cách sáng tạo của sinh viên trên cơ sở truyền thống, thành tựu của nhà
trường.

- Sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra các trạng thái tâm lý nhóm, tâm lý tập thể tích
cực, ngược lại ngăn chặn các trạng thái tâm lý tiêu cực. Muốn tạo ra sự lây lan cần chú ý
tới “mồi xúc cảm”. Các xúc cảm tích cực như sự lạc quan, phấn khởi, sự hăng hái... cần
được tạo điều kiện để chúng lây lan làm cho hoạt động của nhóm, tập thể có hiệu quả hơn.
Đặc biệt lưu ý đến việc sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra sự thống nhất trong các trạng thái
xúc cảm, hình thành tình cảm “chúng ta”.
- Nhận biết, dự đoán ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lý xã hội trong phạm vi vĩ
mô đến các nhóm sinh viên.

- Trong các hoạt động với sinh viên, muốn sinh viên thực hiện tốt các chức năng,
nhiệm vụ của mình, một mặt khuyến khích sinh viên nhận thức về các vai trò xã hội của
mình: sinh viên - người học, người nghiên cứu, người tiên phong trong các phong trào xã
hội... tạo điều kiện để sinh viên đồng nhất hóa thành công, mặt khác khuyến khích sự bộc
lộ tính sáng tạo, cái riêng của sinh viên trong công việc.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II

1. Vai trò và nội dung của quy luật kế thừa? Phân tích một hiện tượng tâm lý xã hội
để làm rõ sự thể hiện của quy luật kế thừa.

2. Vai trò của quy luật bắt chước trong xã hội? Có thể vận dụng quy luật này như
thế nào trong dạy học, giáo dục?

3. Các cơ chế lây lan, đồng nhất hóa, ám thị được thể hiện như thế nào trong đời
sống xã hội? Hướng vận dụng các cơ chế đó trong dạy học và giáo dục?

Chương 3: NHÓM XÃ HỘI

I. KHÁT NIỆM NHÓM XÃ HỘI VÀ PHÂN LOẠI NHÓM

1. Khái niệm nhóm

Vấn đề các nhóm, trong đó con người liên kết với nhau trong quá trình sống của
mình - vấn đề quan trọng nhất không chỉ của Tâm lý học xã hội mà còn của xã hội học.
Trong các khoa học xã hội: về nguyên tắc có thể có hai cách sử dụng khái niệm “nhóm”.

Cách thứ nhất, trong thống kê thường đề cập đến các nhóm mang tính điều kiện: sự
phân nhóm có chủ định con người theo một dấu hiệu chung nào đó cần thiết cho hệ thống
phân tích cụ thể. Cách hiểu như vậy phổ biến trong thống kê. Khi cần thiết các nhóm
người được phân chia theo tiêu chí nào đó. Ví dụ: nhóm người với một trình độ học vấn
nhất định, nhóm người bị bệnh tim mạch, nhóm người đang cần có nhà ở... Đôi khi với
cách hiểu như vậy thuật ngữ “nhóm” được sử dụng trong cả Tâm lý học. Ví dụ: trong
trường hợp phân tích kết quả của các trắc nghiệm của một nhóm nghiệm thể: nhóm này
cho các chỉ số này, còn nhóm khác cho chỉ số khác...
Cách thứ hai: trong một loạt các khoa học, xã hội nhóm được hiểu như là một thực
thể xã hội tồn tại hiện thực: trong đó con người tập hợp lại, được liên kết lại bằng những
dấu hiệu nhất định như bằng sự đa dạng của các hoạt động cùng nhau hay bằng những điều
kiện đồng nhất nào đó trong những hoàn cảnh sống của họ. Những con người này ý thức
được theo một cách nhất định sự thâu thuộc của mình vào cơ cấu này mặc dù mức độ và
trình độ ý thức có thể rất khác nhau.
Chính trong phạm vi của cách hiệu thứ hai, Tâm lý học xã hội sẽ đề cập tới vấn đề
nhóm. Thực hiện các vai trò xã hội khác nhau, con người là thành viên của nhiều nhóm xã
hội, con người được hình thành dường như trong sự giao cắt của các nhóm đó, như là một
điểm bao hàm trong đó các ảnh hưởng của các nhóm giao cắt nhau. Điều đó có hai hệ quả
quan trọng đối với cá nhân: một mặt, xác định vị trí khách quan của cá nhân trong hệ
thông hoạt động xã hội, mặt khác ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức cá nhân. Cá nhân
được tham gia vào hệ thống các quan điểm, các chuẩn mực của nhiều nhóm. Do vậy một
công việc vô cùng có ý nghĩa là xác định “sự tác động tổng lực” của các ảnh hưởng của
các nhóm khác nhau đến cá nhân sẽ như thế nào, sự tác động đó sẽ quy định nội dung ý
thức của cá nhân ra sao. Nhưng để thực hiện nhiệm vụ này cũng cần phải xem xét nhóm
không chỉ đơn giản là một tập hợp mà như là một đơn vị hiện thực của xã hội, nhóm tham
gia vào bối cảnh rộng lớn hơn của hoạt động xã hội, với tư cách là nhân tố hội nhập cơ bản
và dấu hiệu cơ bản của nhóm xã hội. Sự tham gia chung của các thành viên nhóm trong
hoạt động cùng nhau của nhóm quy định sự hình thành chỉnh thể tâm lý giữa họ và như
vậy trong điều kiện đó nhóm thực sự trở thành hiện tượng tâm lý xã hội, tức là đối tượng
nghiên cứu của Tâm lý học xã hội. Từ đó có thể chỉ ra các dấu hiệu cơ bản của một nhóm
xã hội: có hoạt động chung của nhiều người được quy định bởi các mục đích, nhiệm vụ,
quan hệ (cộng đồng về lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực xã hội., chính kiến...), ý thức của các
thành viên và của nhóm về sự đồng nhất các dấu hiệu duy trì sự tồn tại và phát triển của
nhóm.
Với cách lý giải đó “nhóm” có thể được định nghĩa như là “cộng đồng những cá
nhân tác động qua lại vì mục đích đã được ý thức, cộng đồng như là chủ thể của hành
động” (Sercôvin, 1975. 50).
Hay J.P.Chaplin: “Nhóm là sự tập hợp các cá nhân mà ở đó họ có một số đặc điểm
chung hoặc cùng theo đuổi một số mục đích giống nhau”.
Hoặc “Nhóm là một tập hợp của hai hoặc nhiều người, giữa các thành viên có sự
tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau về hành vi. Nhóm là một đơn vị tồn tại một cách có tổ
chức, các thành viên nhóm có cùng chung những lợi ích và các mục đích” John.C.
Bringham, R. Schlenker.
Như vậy, có nhiều khái niệm về nhóm, nhưng khái niệm sau đây là một khái niệm
tương đối phổ quát cho các nhóm xã hội (bao gồm cả nhóm xã hội có quy mô lớn như dân
tộc, giai cấp và cả các nhóm nhỏ như một nhóm học tập, kinh doanh): Nhóm xã hội là
những cộng đồng người được hình thành trong quá trình phát triển lịch sự xã hội, giữ vị
trí nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội, do đó chúng ổn định trong những thời kì
phát triển lâu dài trong xã hội (dân tộc, nghề nghiệp, lứa tuổi...).
2. Phân loại nhóm
Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có nhiều cố gắng xây dựng một cách phân loại
nhóm, đưa ra các nguyên tắc khác nhau, trên cơ sở đó đã xây dựng các phân loại như: trình
độ phát triển văn hóa, loại cấu trúc, nhiệm vụ và chức năng, kiểu tiếp xúc chủ yếu trong
nhóm... Thường bổ sung thêm các cơ sở như thời gian tồn tại của nhóm, nguyên tắc hình
thành nhóm, các nguyên tắc trở thành thành viên nhóm vào việc phân loại nhóm. Tất cả
các phân loại đó đều có quyền tồn tại.
Tuy nhiên nét chung của chúng là chỉ xác định hình thức hoạt động sống của nhóm.
Nếu thừa nhận nguyên tắc xem xét các nhóm xã hội hiện thực với tư cách là chủ thể của
hoạt động xã hội thì ở đây đòi hỏi phải có nguyên tắc phân loại khác. Sự phân loại xã hội
học về nhóm tương ứng với vị trí của chúng trong hệ thống các quan hệ xã hội cần phải là
cơ sở. Nhưng trước khi đưa ra sự phân loại cần phải đưa vào hệ thống những cách sử dụng
khái niệm nhóm đã được nói đến ở trên. Theo cách phân loại của Anđrêeva có thể có sơ đồ
như sau:
Các nhóm

Nhóm ước lệ Nhóm thực hiện

Nhóm trong phòng thực nghiệm Nhóm tự nhiên

Nhóm lớn Nhóm nhỏ

Nhóm tự phát Nhóm phát triển Nhóm tự phát Nhóm phát triển
Trước tiên đối với Tâm lý học xã hội, việc phân chia nhóm thành nhóm ước lệ và
nhóm hiện thực là có ý nghĩa. Cách phân chia này tập trung việc nghiên cứu vào nhóm
hiện thực. Nhưng trong số những nhóm hiện thực đó, tồn tại cả những nhóm có hình hài
trong nghiên cứu tâm lý học đại cương - nhóm trong phòng thí nghiệm hiện thực. Khác
với chúng là các nhóm tự nhiên hiện thực. Sự phân tích Tâm lý học xã hội có thể có tương
ứng với hình thức này khác của nhóm hiện thực. Tuy nhiên các nhóm tự nhiên hiện thực
được tách ra trong các phân tích xã hội học có ý nghĩa lớn hơn. Đến lượt nó, các nhóm tự
nhiên này lại được chia thành các “nhóm lớn” và “nhóm nhỏ”. Các nhóm nhỏ - trường
sinh sống của Tâm lý học xã hội. Vấn đề liên quan đến việc nghiên cứu nhóm lớn phức tạp
hơn và đòi hỏi được xem xét riêng biệt. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng nhóm lớn
hiện diện trong Tâm lý học xã hội không giống nhau: một số nhóm lớn có được truyền
thống nghiên cứu lâu dài (các nhóm lớn xuất hiện không có tổ chức, tự phát, bản thân
thuật ngữ “nhóm” được dùng chỉ các nhóm này cũng mang tính tương đối), những nhóm
khác - những nhóm tồn tại lâu dài và có tổ chức như giai cấp, dân tộc, ít hiện diện hơn
trong tâm lý học với tư cách đối tượng nghiên cứu.

II. Cấu trúc của nhóm xã hội

1. Cấu trúc chính thức

Khi các cá nhân gia nhập nhóm và nhóm được hình thành, các cá nhân sẽ tương tác qua
lại để cùng thực hiện mục đích và hoạt động cùng nhau của nhóm. Mỗi cá nhân có những
năng lực riêng, có những nhu cầu và kì vọng riêng. Các yếu tố này được thể hiện và ảnh
hưởng đến quá trình tương tác. Nhưng để nhóm có thể tồn tại và thực hiện được hoạt động
của nó thì các cá nhân phải nằm trong những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Mối quan
hệ tương đối ổn định, tương đối bền vững giữa các cá nhân để tạo thành một nhóm toàn
vẹn gọi là cấu trúc nhóm. Về nguyên tắc, các cá nhân có thể khác nhau, có thể thay đổi,
nhưng các liên hệ đó sẽ tương đối ổn định. Một khi cấu trúc nhóm thay đổi nó sẽ làm
nhóm biến đổi về chất và hình thành một loại nhóm khác. Như vậy, các thành phần nằm ở
“đầu mối” của mỗi quan hệ đó gọi là các vị trí. Có thể hình dung: các liên hệ giữa các vị trí
trong nhóm tạo ra một cấu trúc - bộ xương của nhóm, trên cơ sở đó “con người” nhóm có
được hình dạng cụ thể và có những hoạt động cụ thể.
Từ cách hiểu đó, cấu trúc chính thức của nhóm là những mối quan hệ mang tính chất
công việc được quy định trước, phụ thuộc vào chức năng xã hội mà nhóm phải thực hiện,
trong đó các vị trí được quy định một cách rõ ràng. Nhóm chỉ thực hiện tốt chức năng của
nó khi các vị trí đó hoạt động một cách hiệu quả và có sự liên hệ chặt chẽ với các vị trí
khác.

Trong Tâm lý học xã hội, vị trí trong cấu trúc nhóm bao gồm hai thành tố: vị thế và
chức năng của vị trí (cá nhân) trong nhóm. Vị thế có thể coi như quyền tự quyết của cá
nhân khi cá nhân chiếm giữ một vị trí trong các quan hệ trong nhóm từ khi bắt đầu và
trong suốt quá trình duy trì vị trí đó. Như vậy, giữa các cá nhân trong nhóm có mối quan
hệ theo thứ bậc thì vị thế của họ cùng khác nhau. Vị thế của cá nhân chỉ có thể được xác
định trong mối quan hệ với vị thế của cá nhân khác trong toàn bộ cấu trúc nhóm. Trong
thực tế vị thế thường được hiểu là biểu hiện các quyền lực, các quyền lợi, các đặc quyền
gắn với một vị trí.

Thành tố thứ hai của vị trí là chức năng của cá nhân khi chiếm giữ vị trí đó đóng góp
cho hoạt động của nhóm. Các vị trí có thể có các chức năng khác nhau. Cá nhân chiếm giữ
một vị trí cần thực hiện các chức năng tương ứng. Các chức năng đó có thể là chức năng
thực hiện, giám sát hay lên kế hoạch...

Như vậy, cấu trúc chính thức của nhóm được xác định chủ yếu trên cơ sở công việc của
nhóm. Nó đảm bảo cho hoạt động của nhóm trong việc thực hiện các chức năng xã hội của
nhóm.

2. Cấu trúc không chính thức

Trong bất kì nhóm nào cũng tồn tại hai loại quan hệ cơ bản: quan hệ công việc nhằm
thực hiện các chức năng của nhóm và quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên. Quan hệ
liên nhân cách là quan hệ dựa trên xúc cảm giữa các thành viên. Cơ sở của quan hệ này
không phải là vị trí (bao gồm vị thế và chức năng như trình bày ở trên) mà là xúc cảm và
sự gắn bó xúc cảm giữa các cá nhân. Trong mỗi nhóm, một số cá nhân có sự liên hệ chặt
chẽ hơn về mặt xúc cảm so với các cá nhân khác. Đây là hiện tượng mang tính quy luật.
Bên trong bất kì một nhóm nào, sự gắn bó (về mặt xúc cảm) cũng phân bố không đồng
đều. Chính các mối liên hệ về mặt xúc cảm giữa các thành viên trong nhóm tạo ra cấu trúc
không chính thức của nhóm. Từ đó có thể coi cấu trúc không chính thức của nhóm là
những mối quan hệ giữa các thành viên mang tính xúc cảm được quy định bởi các đặc
điểm tâm lý xã hội của các thành viên. Cấu trúc không chính thức góp phần quan trọng
trong việc tạo ra bầu không khí tâm lý của nhóm.

Do tính chất của hai loại quan hệ trong nhóm là khác nhau, nên cấu trúc không chính
thức và cấu trúc chính thức có nhiều điểm khác biệt. Cấu trúc không chính thức không
được quy định từ trước. Sự hình thành của cấu trúc này chủ yếu dựa trên các tiếp xúc xúc
cảm trực tiếp của các thành viên. Nó hình thành một cách tự phát dựa trên sự thân thiện,
thiện cảm hay không thiện cảm giữa các thành viên. Do đó, cấu trúc không chính thức khó
có thể được mô tá một cách rõ ràng với các vị trí trong các mối quan hệ cụ thể giống như ở
cấu trúc chính thức. Đồng thời các cá nhân trong cấu trúc không chính thức không có các
thứ bậc rõ ràng, chức năng của các cá nhân cũng không được quy định rõ. Vị trí tương đối
nổi bật trong cấu trúc không chính thức là thủ lĩnh. Cấu trúc không chính thức có thể
không trùng với cấu trúc chính thức và trong đa số trường hợp là như vậy. Để phát hiện
được cấu trúc này cần sử dụng phương pháp đặc trưng - đó là trắc đạc xã hội.

Tuy vậy, trong thực tế không tồn tại cấu trúc chính thức thuần túy mà nó luôn tồn tại
song hành với cấu trúc không chính thức. Cấu trúc không chính thức xuất hiện một cách tự
phát. Cấu trúc này thường được hình thành dựa trên sự liên kết các thành viên bởi các
hứng thú chung, các liên hệ thân tình hay các mối quan tâm nào đó. Sự tồn tại của các cấu
trúc không chính thức trong lòng cấu trúc chính thức đặc biệt được quan tâm vì nó có tác
động mạnh đến nhóm.

3. Chuẩn mực nhóm

Các chuẩn mực nhóm và sự hình thành các chuẩn mực nhóm là một trong số các hiện
tượng nhóm có được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.

- Chuẩn mực nhóm là hệ thống các quy tắc và đòi hỏi của cộng đồng đối với mỗi một
thành viên, đóng vai trò phương tiện quan trọng nhất điều chỉnh hành vi của các thành
viên trong quan hệ và tác động tương hỗ, trong giao tiếp của nhóm. Chuẩn mực nhóm có
vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhóm: Chuẩn mực nhóm là cơ sở để
thống nhất hành vi của các cá nhân trong nhóm và hướng cá nhân tới việc thực hiện các
mục tiêu của nhóm.

- Chuẩn mực nhóm tạo ra sự ràng buộc giữa các thành viên với nhóm.

- Chuẩn mực nhóm đảm bảo cho sự ổn định của trật tự nhóm.
Sự hình thành của chuẩn mực nhóm có thể được coi là sản phẩm của sự tác động xã hội
qua lại giữa các cá nhân trong đời sống nhóm và phản ánh những đòi hỏi từ cộng đồng xã
hội lớn hơn đối với nhóm. Do vậy quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm không phải là
quá trình thuần tuý nội nhóm. Một vấn đề khác cũng cần được lưu ý là nhóm chỉ hình
thành các chuẩn mực liên quan đến các tình huống và hành động có ý nghĩa đối với nhóm
chứ không phải tất cả các chuẩn mực cho mọi tình huống. Các chuẩn mực nhóm đã được
hình thành có thể được chấp nhận và tuân thủ ở các mức độ khác nhau.

Có các hướng nghiên cứu chuẩn mực nhóm khác nhau, mỗi hướng tạo thành các nhánh
trong nghiên cứu chuẩn mực nhóm. Hướng thứ nhất, nghiên cứu việc tiếp nhận những
chuẩn mực đang tồn tại trong nhóm của những cá nhân mới tham gia vào nhóm. Đây
không phải là vấn đề về sự gia nhập của thành viên mới vào nhóm. Trong trường hợp này,
có thể quy về việc nghiên cứu hiện tượng áp lực nhóm đối với cá nhân, sự tuân thủ của cá
nhân trước nhóm. Hướng thứ hai nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm và
các giá trị nhóm trong điều kiện cùng một lúc có nhiều cá nhân tham gia vào nhóm và sự
tiếp nhận đầy đủ hơn sau đó những chuẩn mực, sự chia sẻ mục đích nhóm của toàn bộ các
thành viên.

Hướng thứ nhất nổi bật với các nghiên cứu sự lệ thuộc, thực chất là hiện tượng áp lực
nhóm - trong Tâm lý học xã hội được gọi là hiện tượng lệ thuộc (a dua). Bản thân từ “a
dua” trong ngôn ngữ đời thường đã có một nội dung hoàn toàn xác định: sự hùa theo
người khác. Ở mức độ nhận thức thông thường, hiện tượng a dua đã được xác định từ
trước. Trong ngôn ngữ thường ngày khái niệm này mang sắc thái tiêu cực. Điều này ảnh
hưởng xấu đến việc nghiên cứu, đặc biệt nếu nghiên cứu được tiến hành trong lĩnh vực
ứng dụng. Vấn đề còn ở chỗ khái niệm sự a dua có ý nghĩa đặc biệt xấu trong chính trị như
là biểu tượng của sự thỏa hiệp và dễ đãi. Để phân biệt rõ những ý nghĩa này, trong các tài
liệu Tâm lý học xã hội thường không nói đến sau a dua mà nói tới tính lệ thuộc hay là các
hành vi lệ thuộc (phụ thuộc) với ý nghĩa đơn thuần là đặc trưng tâm lý về vị trí của cá
nhân tương ứng với vị trí của nhóm là mức độ tuân thủ của cá nhân trước các áp lực nhóm.
Trong các công trình nghiên cứu gần đây thường sử dụng thuật ngữ “ảnh hưởng xã hội”.

Tính lệ thuộc xuất hiện khi có sự mâu thuẫn giữa ý kiến của cá nhân và ý kiến của nhóm.
Mâu thuẫn được giải quyết theo hướng vì lợi ích của nhóm. Mức độ lệ thuộc - đó là mức
độ tuân thủ nhóm trong trường hợp khi sự mâu thuẫn ý kiến được cá nhân tiếp nhận như là
một xung đột. Những khái niệm như “đồng thuận”, “tính có điều kiện” có thể là những
khái niệm tương đồng mặc dù trong những khái niệm này có sắc thái khác. Ví dụ, sự đồng
thuận biểu thị việc chấp nhận những chuẩn mực nhất định nhưng sự chấp nhận các chuẩn
mực không phải là do áp lực. Khái niệm ngược với khái niệm lệ thuộc là “độc lập”, “lập
trường kiên định”, “vững vàng trước áp lực nhóm”... Đôi khi khái niệm “tiêu cực” cũng
được sử dụng như một khái niệm đối lập với sự lệ thuộc - sự chống đối lại áp lực nhóm,
phủ nhận các chuẩn mực nhóm thể hiện sự độc lập thái quá. Tuy nhiên tính tiêu cực giống
như một hình thức phủ nhận sự lệ thuộc chỉ là vẻ bề ngoài. Thực tế, tính tiêu cực không
phải là sự độc lập thực sự. Ngược lại có thể cho rằng đó là một trường hợp đặc biệt của sự
lệ thuộc, một dạng “lệ thuộc ngây thơ”: nếu cá nhân đặt ra cho mình mục đích chống đối
lại ý kiến của nhóm bằng mọi cách thì thực tế cá nhân đó lại phụ thuộc vào nhóm. Bởi lẽ
mỗi cá nhân buộc phải xây dựng hành vi chống đối nhóm của mình, phải xác lập một vị trí
đối lập với nhóm hay với các chuẩn mực tức là cá nhân đó bị phụ thuộc vào ý kiến nhóm
chỉ có điều là với các dấu hiệu ngược lại (Có nhiều ví dụ về tính tiêu cực, như cách ứng xử
của thiếu niên). Do vậy lập trường ngược lại với tính lệ thuộc không phải là tiêu cực mà là
độc lập và không phụ thuộc.

Ảnh hưởng xã hội

Thông tin (thiểu số) Cơ sở “quyền lực” Chuẩn mực (đa số)

Sự giảm định luật Khen thưởng- cưỡng chế

Thay đổi trong hành vi cá nhân

Thay đổi (bên trong) Đồng thuận

Sơ đồ các kiểu ảnh hưởng xã hội

Sau này M.Douch và Djepard đưa ra “lý thuyết thông tin về tính lệ thuộc” với 2 loại ảnh
hưởng nhóm: chuẩn mực (khi mà áp lực từ đa số và các thành viên tiếp nhận nó như là
chuẩn mực) và thông tin (khi áp lực tạo ra từ thiểu số và các thành viên tiếp nhận nó như
là thông tin, trên cơ sở đó tự thực hiện sự lựa chọn của mình).

Cơ chế ảnh hưởng trong hai trường hợp này là khác nhau: đa số theo nghĩa đầy đủ tạo ra
“chuẩn mực”, chi phối ý kiến của cá nhân. Trong trường hợp này cá nhân thay đổi hành vi
của mình để thể hiện sự đồng ý, nhưng vẫn giữ ý kiến riêng cho bản thân. Chính điều này
là sự lệ thuộc bên ngoài. Thiểu số chỉ đưa ra cho các cá nhân thông tin và nếu cá nhân tin
tưởng vào thông tin, anh ta sẽ thay đổi ý kiến của mình... tức là dường như diễn ra sự đổi
chiều, chấp nhận bằng một quan điểm khác. Trường hợp này thể hiện sự lệ thuộc bên
trong. Trong nhiều trường hợp khác nhau mức độ ảnh hưởng tương ứng của hai loại này là
khác nhau, nhưng từ góc độ hình thành nhóm, cơ chế ảnh hưởng xã hội thể hiện như là áp
lực của nhóm đối với việc tuân thủ các chuẩn mực của nó.
III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA NHÓM LỚN
1. Những vấn đề chung về nhóm lớn

Việc nghiên cứu của Tâm lý học xã hội về các nhóm lớn gặp phải hàng loạt các khó
khăn. Do vậy, trong truyền thống nghiên cứu tâm lý học nhóm lớn xã hội đã có một số
phận tương đối phức tạp và kì lạ. Một mặt Tâm lý học xã hội bắt đầu chính từ việc nghiên
cứu các nhóm lớn xã hội, nhưng trong nửa đầu thế kỉ thứ XX, Tâm lý học xã hội thực
nghiệm phát triển mạnh mẽ và sự tập trung chính lại là nghiên cứu nhóm nhỏ. Vấn đề
nhóm lớn lại trở thành “đứa con ghẻ” chủ yếu vì có sự suy yếu của mối quan tâm tới các
nghiên cứu lý luận trong Tâm lý học xã hội, cũng như vì tính phức tạp của việc nghiên cứu
các nhóm lớn bằng phương pháp thực nghiệm.

Có thể khẳng định một cách tự tin rằng vấn đề nhóm lớn đang được sinh ra lần thứ hai.
Về bản chất, nếu Tâm lý học xã hội không có phần về tâm lý học nhóm lớn thì nói chung
không thể trở thành Tâm lý học xã hội theo đúng nghĩa của từ này. Theo khẳng định của
G.Điligenxki, việc xem xét tâm lý của nhóm lớn không phải là một trong số các vấn đề
của Tâm lý học xã hội mà là vấn đề quan trọng nhất của nó.

Có hàng loạt các vấn đề liên quan đến nhóm lớn. Trước tiên đó là vấn đề: những nhóm
nào cần được xem là nhóm lớn? Thứ hai, tâm lý của nhóm lớn có cấu trúc như thế nào?
Các yếu tố cơ bản và sự phụ thuộc lẫn nhau, tính chất mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng ra
sao? Thứ ba là vấn đề về mối quan hệ lẫn nhau giữa tâm lý của các cá nhân riêng lẻ tham
gia vào nhóm và các yếu tố tâm lý nhóm. Cuối cùng, thứ tư, những phương pháp nào có
thể sử dụng trong việc nghiên cứu tất cả các hiện tượng đó?

- Vậy “nhóm lớn xã hội” là gì? Xuất phát từ những nguyên tắc chung trong cách hiểu
về nhóm, tất nhiên không thể đưa ra một định nghĩa đơn thuần về số lượng cho khái niệm
này. Theo sơ đồ được nêu ra ở phần trên đã chỉ ra rằng: những tập hợp người lớn về số
lượng được chia ra thành hai loại: loại thứ nhất là các nhóm ngẫu nhiên và tự phát. Đó là
các tập hợp tồn tại trong khoảng thời gian tương đối ngắn như đám đông, thính giả (cử
toạ), công chúng và loại thứ hai là các nhóm xã hội - theo đúng nghĩa của từ này, tức là
những nhóm hình thành trong tiến trình xã hội lịch sử, chiếm một vị trí nhất định trong hệ
thống các quan hệ xã hội của mỗi kiểu xã hội cụ thể và do vậy tồn tại lâu dài và bền vững.
Loại thứ hai này bao gồm các nhóm như giai cấp xã hội, tầng lớp xã hội và các nhóm tộc
người (với hình thức chính là các dân tộc), các nhóm nghề nghiệp, nhóm giới tính, lứa tuổi
(theo quan điểm này với tư cách là nhóm có thể xem xét các nhóm như: nhóm thanh niên,
phụ nữ những người trưởng thành và trung niên...).

- Tâm lý nhóm lớn có cấu trúc như thế nào? Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu
(G.G.Điligenxki, A.I.Goriachieva, Iu.V.Brômlei...) đều phân chia thành hai phần cấu
thành trong nội dung của nó: 1. Nếp tâm lý như là cấu tạo tâm lý ổn định hơn (bao gồm
tính cách xã hội hay tính cách dân tộc, nếp sống, truyền thống, thị hiếu...); 2. Phương diện
xúc cảm như một cấu tạo tương đối biến động hơn (nhu cầu, hứng thú, tâm trạng). Mỗi
yếu tố cần trở thành đối tượng phân tích Tâm lý học xã hội một cách đặc biệt.

- Vấn đề thứ ba - vấn đề mối quan hệ qua lại giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm lớn và
ý thức của mỗi cá nhân tham gia vào nhóm. Trong dạng chung nhất, vấn đề này được giải
quyết như sau: Các đặc trưng tâm lý nhóm là những gì mang tính đặc thù (cho nhóm)
nhưng lại chung cho tất cả các cá nhân và do vậy hoàn toàn không phải là tổng các nét có
ở mỗi cá nhân: Rõ ràng, cái phần tâm lý của các cá nhân tạo ra nhóm, thuộc về nhóm là cái
có thể gọi là “tâm lý nhóm”. Nói cách khác: tâm lý nhóm là cái có chung ở tất cả các đại
diện nhóm ở mức độ này hay mức độ khác, tức là đặc thù cho họ, được sinh ra bởi các
điều kiện tồn tại chung. Cái đặc thù đó không phải là như nhau đối với tất cả các cá nhân
mà chỉ là cái chung. Các nét chung của các đại diện của một nhóm xã hội nào đó tồn tại
một cách khách quan, bởi lẽ chúng thể hiện trong hoạt động hiện thực của nhóm. Theo
mối quan hệ với “ý thức” riêng lẻ, tâm lý nhóm như là một hiện thực xã hội nào đó vượt ra
khỏi phạm vi ý thức của cá nhân riêng lẻ và tác động đến cá nhân cùng với các điều kiện
khách quan của cuộc sống, theo cách nói của Valông, dẫn tới “sự nhân đôi môi trường”
trong đó con người hoạt động.

Bằng các phương pháp nào có thể nghiên cứu tâm lý nhóm lớn xã hội? Trong chừng
mực các nét điển hình được củng cố trong đạo đức, truyền thống và nếp sống, Tâm lý học
xã hội - trong trường hợp này - cần sử dụng các phương pháp của các khoa học khác, như
Dân tộc học để phân tích các sản phẩm văn hóa. W.Wundt đề xuất về việc nghiên cứu
ngôn ngữ, huyền thoại và nếp sống để tìm hiểu tâm lý dân tộc. Một trong các hình thức
hiện đại trong việc sử dụng các phương pháp đó là các nghiên cứu so sánh hay liên văn
hóa. Ở đây thuật ngữ “liên văn hóa” được sử dụng mang tính truyền thống khi nói đến các
nguồn gốc văn hóa khác nhau. Trong thực tế thì không nhất thiết chỉ so sánh các văn hóa
khác nhau mà còn so sánh các nhóm xã hội khác nhau.

Trong việc nghiên cứu tâm lý nhóm lớn còn có thể áp dụng cả các phương pháp truyền
thống của xã hội học bao gồm cả các phương pháp phân tích thống kê khác nhau. Các kết
quả nghiên cứu được thực hiện nhờ sự trợ giúp của các phương pháp đó không phải luôn
phát hiện ra được các liên hệ nhân quả; trong đó trước tiên mô tả một số những liên hệ phụ
thuộc chức năng nào đó cho phép có được các tương quan có ý nghĩa, điều chấp nhận
được đổi với nghiên cứu tương quan, phổ biến trong việc nghiên cứu đặc trưng tâm lý của
nhóm lớn. Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, trong khi nghiên cứu nhóm lớn,
Tâm lý học xã hội sử dụng cả các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học.

Lý thuyết “Biểu tượng xã hội” được đưa ra trong trường phái Tâm lý học Pháp
(X.Moscovisi) đã có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Tâm lý học xã hội nhóm lớn.
Lý thuyết này ở một mức độ có ý nghĩa đồng thời đề ra phương pháp nghiên cứu nhóm
lớn. Biểu tượng xã hội trong lý thuyết này được hiểu là các biểu tượng đời thường của một
nhóm nào đó về hiện tượng xã hội này hay hiện tượng xã hội khác, tức là phương thức lý
giải và thấu hiểu hiện thực đời sống. Nhờ sự trợ giúp của các biểu tượng xã hội, mỗi nhóm
xây dựng hình ảnh thế giới xã hội, các thiết chế của nó, chính quyền, luật pháp, chuẩn
mực. Các biểu tượng xã hội - công cụ không phải của cá nhân mà của chính nhận thức xã
hội của nhóm. Bởi lẽ “biểu tượng” được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm, hoạt động của
nhóm, hướng tới cách lý giải đời thường được nhấn mạnh trong kinh nghiệm này. Về bản
chất, thông qua sự phân tích các biểu tượng xã hội của các nhóm lớn, bộ mặt tâm lý của
chúng được nhận thức. (Đônxôp, Emelianôva, 1987).

Các biểu tượng xã hội được nhóm tạo ra thể hiện dưới dạng: một mặt nhóm định hình
một số khía cạnh của hiện thực xã hội, tạo ra ảnh hưởng trong việc đánh giá các khía cạnh
đó, sau đó sử dụng biểu tượng của mình về hiện tượng xã hội trong việc xác định thái độ
đối với chúng. Mặt khác, biểu tượng xã hội nhóm được đặt ra tạo khả năng hoà nhập
nhóm, dường như thực hiện chức năng “giáo dục” nhận thức cho các thành viên, mang đến
cho họ những cách lý giải đặc thù, quen thuộc (đối với nhóm) về các sự kiện, tức là tạo
khả năng hình thành sự đồng nhất nhóm (Anđrêeva, 2000). Như vậy phân tích các biểu
tượng xã hội là chìa khóa cho việc hiểu tâm lý nhóm. Lý thuyết này giúp xác định khái
niệm “khuôn mẫu xã hội” của nhóm lớn xã hội chính xác hơn. Trong đó phản ánh “góc
nhìn” và “cách hiểu” thế giới của các thành viên của một nhóm, phản ánh câu trả lời đặc
thù của họ đối với bức tranh thế giới. Các thành viên của một nền văn hóa nhất định lĩnh
hội các phương thức tri giác giống nhau hình thành các hình ảnh giống nhau thể hiện trong
các hình mẫu ứng xử đặc thù. Tập hợp các biểu tượng xã hội độc đáo của nhóm và tương
ứng với nó là các hình mẫu hành vi nhất định xác định khuôn mẫu của nhóm. Không phải
ngẫu nhiên trong ngôn ngữ đời thường nhắc tới “hình mẫu trí thức”, “hình mẫu doanh
nhân”...

2. Đặc điểm Tâm lý dân tộc

Các nhóm tộc người là ví dụ về nhóm lớn xã hội có ý nghĩa trong quá trình xã hội lịch
sử. Khác với tâm lý học giai cấp, các đặc điểm của các nhóm tộc người, trước hết là dân
tộc được nghiên cứu nhiều hơn. Một nhánh đặc biệt của khoa học giao thoa giữa Tâm lý
học xã hội và Dân tộc học - Tâm lý học tộc người, nghiên cứu riêng biệt những vấn đề nêu
trên (Xtêphanhencô, 1999).

Truyền thống nghiên cứu Tâm lý học nhóm tộc người trong Tâm lý học xã hội bắt đầu
từ các công trình của W.Wundt trong “Tâm lý học dân tộc”. Sự thâu thuộc về tộc người
của cá nhân là nhân tố đặc biệt có ý nghĩa đối với Tâm lý xã hội học. Bởi lẽ nó xác định
những đặc trưng nhất định của môi trường vi mô. Trong các điều kiện của môi trường đó,
nhân cách được hình thành. Đặc trưng tộc người ở một mức độ nhất định tập trung trong
kinh nghiệm lịch sử của mỗi tộc người và việc lĩnh hội các kinh nghiệm này là nội dung
quan trọng nhất của quá trình xã hội hóa. Thông qua môi trường xung quanh gần gũi nhất
trước tiên là gia đình, nhà trường, cá nhân theo từng mức độ phát triển tiếp cận với đặc
trưng văn hóa tộc người, tập quán truyền thống, phương thức, ý thức về sự thâu thuộc vào
tộc người phụ thuộc vào các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của sự tồn tại của tộc người đó.

Tương ứng với truyền thống được hình thành trong Tâm lý học xã hội nhóm lớn, trong
tâm lý học cộng đồng tộc người phân biệt hai mặt: 1. Tính cách dân tộc - phần ổn định hơn
cả - nếp tâm lý (bao gồm, tính cách khí chất và cả truyền thống, tập quán) của một tộc
người hoặc cả một dân tộc; 2. Phương diện xúc cảm (bao gồm tình cảm dân tộc, tộc
người).

- Tính cách dân tộc: Đây là khái niệm phổ biến hơn cả để mô tả các đặc điểm của nếp
tâm lý tộc người (dân tộc). Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn vả nhiều tranh luận liên quan đến
nội dung của tính cách dân tộc nhưng trong các nghiên cứu cụ thể vẫn có sự đồng thuận
tương đối lớn khi mô tả các nét tính cách dân tộc ở nhiều nhóm dân tộc riêng lẻ (tính dũng
cảm, yêu lao động, khả năng kiềm chế...). Liên quan đến bản chất của tính cách dân tộc thì
ở đây xuất hiện nhiều vấn đề gây tranh cãi. Trước tiên là nét tính cách dân tộc có quan hệ
như thế nào với các nét tính cách của mỗi đại diện của nó. Liệu các nét tính cách có phải
hoàn toàn chỉ có ở một dân tộc mà hoàn toàn không có ở các nhóm khác (tức là liệu có thể
nói rằng một dân tộc nào đó yêu lao động, còn dân tộc khác - cởi mở). Cuối cùng các nét
tính cách dân tộc và tính cách xã hội tác động qua lại như thế nào? Do vậy không chỉ đơn
giản nói về tập hợp các nét tính cách mà chủ yếu là về mức độ biểu hiện của nét này hay
nét khác trong tập hợp đó, về đặc trưng trong cách biểu hiện của nó: Không phải ngẫu
nhiên các tài liệu tập trung vào việc xác định một số đặc trưng nào đó. Ví dụ, đặc trưng
của người Anh là hài hước, mặc dù sự hài hước không chỉ có ở người Anh. Giải thích sự
hình thành tính cách tộc người cũng là công việc được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Các nhà nghiên cứu đã đi theo nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề này. Từ
cách tiếp cận dựa trên các điều kiện tự nhiên, khí hậu đến tiếp cận dựa trên sự giao thoa và
khuyếch tán văn hóa; từ tiếp cận dựa trên các đặc điểm sinh học thể chất, đến tiếp cận hoạt
động sống của tộc người. Tuy vậy, câu hỏi này vẫn cần những nghiên cứu tiếp theo.

Trong nghiên cứu tính cách dân tộc, ngoài việc tìm hiểu tập quán và truyền thống, việc
phân tích ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, việc truyền lại các nét tính
cách dân tộc được thực hiện trong quá trình xã hội hóa, trước tiên là trực tiếp qua ngôn
ngữ. Tính ổn định tương đối của các nét tính cách dân tộc, dù có sự thay đổi của môi
trường được giải thích bằng sự xuất hiện của sức ỳ nào đó, được đảm bảo bằng con đường
chuyển giao kinh nghiệm giữa các thế hệ.

- Phương diện xúc cảm của tộc người bao gồm sự đồng nhất tộc người và ý thức tự giác
tộc người. Các đặc trưng này liên quan đến ý thức của con người về sự thâu thuộc của bản
thân vào một nhóm tộc người nhất định và sự trải nghiệm xúc cảm về việc đó, tức là tiếp
nhận và trải nghiệm sự khác biệt văn hóa của nhóm mình với nhóm khác. Cùng với quá
trình đó là sự xuất hiện của các khuôn mẫu tộc người.

Tính cộng đồng tâm lý có ở mọi nhóm tộc người được thể hiện trong sự hình thành tình
cảm “chúng ta” nào đó. Đối với nhóm tộc người “tình cảm chúng ta” xác định ý thức về
các đặc điểm của tộc người mình khác biệt với tộc người khác. Hình ảnh của các nhóm
khác, trong đó thường bị làm tầm thường hóa, được hình thành dưới ảnh hưởng của các
quan hệ liên nhóm, các quan hệ tạo ra tâm thế đặc biệt cho các đại diện của nhóm khác.
Trong đó kinh nghiệm giao tiếp với nhóm tộc người khác có vai trò nhất định. Nếu các
quan hệ này trong quá khứ mang tính thù địch thì màu sắc đó được di chuyển sang mỗi đại
diện được gặp lại của nhóm đó và bằng cách đó hình thành tâm thế tiêu cực. Thường
xuyên hơn cả, khuôn mẫu tộc người xuất hiện vì sự hạn chế của giao tiếp liên nhóm: các
nét có ở những đại diện cá biệt của nhóm tộc người (khác) lần lượt được phổ biến ra toàn
bộ nhóm (Stêphanhencô, 1999).

Khuôn mẫu được hình thành bằng cách đó sau này ảnh hưởng tới sự xuất hiện của thái
độ thiện cảm hay không thiện cảm của tộc người. Bản thân sự ý thức về các đặc điểm của
tộc người không chứa đựng định kiến trước chống lại tộc người khác. Nhưng vấn đề vẫn
xảy ra cho tới khi sự tương phản của các khác biệt được nhận thức vẫn còn tiếp diễn. Tuy
nhiên rất dễ chuyển từ sự tương phản sang việc đánh giá nhóm tộc người khác, sang sự
thân thiện hay không thiện cảm và khi đó có thể xảy ra sự hạ thấp hình ảnh của nhóm
khác. Trong các khuôn mẫu tộc người luôn luôn có sự va chạm mạnh mẽ của những kiểu
ảnh hưởng từ ngoài tộc người, trước hết là xã hội, lịch sử, chính trị, cũng như những ảnh
hưởng được quy định bởi nội dung văn hóa... Cơ chế tiếp theo của việc biến khuôn mẫu
tộc người thành định kiến và sau đó là sự củng cố định kiến trong các học thuyết chinh trị,
tư tưởng - vấn đề không phải của Tâm lý học xã hội. Khuôn mẫu tộc người luôn được hình
thành trong một vài bối cảnh xã hội nào đó và khi đó chúng có được một hình thức bền
vững - định kiến, tức là một cấu tạo có màu sắc xúc cảm tiêu cực mang tính quy chuẩn,
chúng dễ dàng được sử dụng như là vũ khí của sự thù hằn dân tộc. Cũng từ đó xuất hiện về
phương diện tâm lý học hiện tượng trung tâm tộc người (hay trung tâm luận tộc người, hay
tự kì tộc người) - đề cao nhóm tộc người mình, mong muốn tiếp nhận mọi hiện tượng cuộc
sống từ lập trường của nó, xác định một cách thống nhất các nét tính cách của tộc người.

Tính tương đối của các khác biệt tâm lý giữa các nhóm là đặc trưng quan trọng của
TLH nhóm tộc người (Kon, 1970). Những khác biệt này không thể tuyệt đối hóa và cần
được xem như là cái phải sinh từ những điều kiện lịch sử nhất định, được củng cố trong
chiều dài của hàng loạt các thế hệ (“sự chuyển giao văn hóa”). Dù cho có tính ổn định
tương đối, các nét này có thể thay đổi theo lịch sử. Tâm lý học tộc người đã tích luỹ được
một số lượng tương đối lớn những tư liệu thú vị liên quan đến những đặc điểm nếp tâm lý
và hành vi của con người, bị quy định bởi sự thâu thuộc của họ vào một tộc người. Do vậy
nhiệm vụ đặt ra cho Tâm lý học xã hội và Tâm lý học xã hội tộc người ngày nay tương đối
phức tạp. Tính nóng bỏng chính trị của vấn đề trong thế giới hiện đại buộc phải giải quyết
các vấn đề này với sự chính xác đặc biệt. Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc, đặc trưng cho
các chương trình chính trị của các quốc gia dân chủ không biểu thị sự thừa nhận tính giống
nhau giữa các dân tộc. Từ đó chỉ ra các đặc điểm dân tộc, trong đó có sự khác biệt trong
tâm lý dân tộc vẫn còn là một nhiệm vụ cấp thiết.

3. Đặc điểm Tâm lý giai cấp

Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự quan tâm đặc biệt.
Trong nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey và E.Aronson chủ biên đã chỉ ra
rằng bản thân thuật ngữ giai cấp có nội dung khác nhau đối với các nhà nghiên cứu châu
âu và Mỹ. Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây, khái niệm “giai cấp” hiện thực hơn
bởi lẽ sự đồng nhất với giai cấp rõ ràng hơn, tương đối thường xuyên gắn với việc xác
định sự thâu thuộc về chính trị. Đối với văn hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm
“giai cấp công nhân”, “giai cấp tư bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen hơn với khái
niệm “giai cấp trung lưu”, “giai cấp bần cùng”... Điều đó liên quan tới việc trong các lý
thuyết xã hội học cấu trúc xã hội được mô tả nhờ sự trợ giúp của các khái niệm như “các
thiết chế kinh tế - xã hội” chứ không phải “giai cấp xã hội”. Một cách tự nhiên, điều đó
không thể không ảnh hưởng tới những sự khác biệt trong cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã
hội về giai cấp. Nói riêng, trong một mức độ lớn, thay vì phân tích tâm lý học về giai cấp,
người ta đề nghị phân tích tâm lý học các tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy vậy trong mọi
tình huống cần lưu ý rằng bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ làm rõ liên hệ giữa các
đặc trưng tâm lý của nhóm và hình mẫu hành vi của các thành viên nhóm.

Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội học Nga) về
giai cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai cấp: Đó là chỉ ra các đặc
điểm đặc thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong lịch sử và đang tồn tại; chỉ ra đặc
trưng của các giai cấp khác nhau trong các thời đại nhất định; phân tích mối quan hệ giữa
tâm lý giai cấp và tâm lý các thành viên riêng lẻ của giai cấp như là những trường hợp
riêng của vấn đề mối quan hệ giữa tâm lý học nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền
thống này việc sử dụng thuật ngữ “tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không loại trừ sự
phân tích tâm lý học các tầng lớp riêng lẻ tham gia vào giai cấp này hay giai cấp khác.

Phương diện động thái xúc cảm của tâm lý học giai cấp được nghiên cứu đầy đủ hơn
cả, bao gồm các nhu cầu giai cấp, các lợi ích giai cấp, tập hợp các vai trò xã hội. Trong
chừng mực vị trí xã hội nhất định, khối lượng và thành phần của các quyền lợi tinh thần và
vật chất mà mỗi thành viên nhóm được phân bố chừng đó. Nó tạo ra cấu trúc nhất định của
các nhu cầu, ý nghĩa tâm lý và trọng lượng của mỗi nhân tố. Bên cạnh đó vẫn còn một loạt
các vấn đề đòi hỏi sự phân tích Tâm lý học xã hội. Lợi ích được hình thành như là lợi ích
của toàn nhóm, nhưng mỗi thành viên của giai cấp không chỉ tham gia vào nhóm đó mà họ
còn là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác: Thứ nhất, ngay trong bản thân mỗi giai cấp
có nhiều tiểu nhóm được phân biệt bằng trình độ nghề nghiệp của nó theo các phương diện
công việc… Thứ hai, mỗi thành viên của một giai cấp có thể đồng thời là thành viên của
một nhóm nào đó trong phương diện học vấn (ví dụ trong trường đại học, trường phổ
thông), nơi thành viên đó tác động qua lại trực tiếp với những thành viên của các giai cấp
khác. Xuất hiện sự đan xen các lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích trong số đó được xác định
bởi sự thâu thuộc vào một nhóm có giá trị xã hội. Trong hệ thống các lợi ích của cá nhân
có những lợi ích bền vững hơn và ngược lại trong một số những tình huống nào đó, các lợi
ích ít sâu sắc hơn bắt đầu đóng vai trò nổi bật - có ý nghĩa mang tính nguyên tắc.

Các yếu tố tham gia vào phần biến động của tâm lý học giai cấp như tập hợp các vai trò
xã hội và định hướng xã hội tương ứng của cá nhân... cũng như tính chưa rõ ràng của các
khái niệm này trong khi áp dụng vào việc phân tích tâm lý học nhóm lớn trên thực tế chưa
được nghiên cứu. Điều này cũng đúng với một hiện tượng được gọi là “tình cảm xã hội”.
Khái niệm tình cảm xã hội không phải được thừa nhận chung trong các tài liệu. Ở một
mức độ nhất định, nhiều vấn đề về tình cảm xã hội còn tranh luận. Do vậy có thể sử dụng
nó như một định nghĩa mô tả trạng thái nào đó trong phương diện xúc cảm của nhóm (Ví
dụ: “căm thù giai cấp”, xúc cảm xuất hiện trong mối liên hệ với mọi sự đồng nhất xã hội
liên quan tới sự bất bình đẳng). Do vậy tính không xác định của thuật ngữ không làm giảm
ý nghĩa của bản thân vấn đề. Nó chỉ chứng tỏ rằng trong Tâm lý học xã hội chưa có truyền
thống nghiên cứu lĩnh vực này với sự trợ giúp của một bộ máy khái niệm khoa học. Tâm
lý học xã hội buộc phải kết hợp hệ thống các thuật ngữ từ các khoa học khác như văn học
nhân văn, triết học và lịch sử.

Khi đề cập tới việc xác định các thành phần ổn định hơn trong tâm lý học giai cấp thì
có thể thấy vấn đề này ít được nghiên cứu hơn ở một mức độ đáng kể. Liên quan tới giai
cấp, nếp tâm lý thường được mô tả như là một diện mạo tâm lý thể hiện trong một phương
thức đặc biệt của hành vi và hoạt động, trên cơ sở đó có thể tái thiết kế các chuẩn mực
điều chỉnh nhóm xã hội. Diện mạo đó thể hiện trong tính cách xã hội, những định nghĩa
mang tính thao tác của cả khái niệm này cũng còn chưa được làm rõ trong các tài liệu
riêng của Tâm lý học xã hội.

Thuật ngữ “tính cách xã hội” thực tế được đưa ra trong các công trình của trào lưu
Phân tâm học mới, trong đó có các công trình của E.Fromm. Theo ông, tính cách xã hội -
đó là mắt xích kết nối giữa tâm lý cá nhân và cấu trúc xã hội. Nhưng các loại tính cách xã
hội ở Fromm không gắn với một giai cấp xã hội nhất định mà tương ứng với các kiểu khác
nhau của sự tự tách biệt của con người trong các thời đại lịch sử khác nhau. Ông nêu ra
các kiểu như sau: con người thời đại tiền tư bản (loại “tích luỹ”), những năm 20 của thế kỉ
XX (“loại thị trường” gắn liền với xã hội “xa lánh hoàn toàn”). Do vậy tính cách xã hội
thường xuyên hơn cả được xác định bằng cách mô tả những cái được thể hiện trong hình
mẫu hành vi ứng xử ổn định đặc thù của các thành viên của các giai cấp khác nhau trong
các tình huống trong hoạt động sống của họ và giúp phân biệt giai cấp này với giai cấp
khác. Trong việc đưa ra các tính cách xã hội, các mô tả được chứa đựng trong lịch sử văn
hóa, lịch sử quốc gia, trong các tài liệu văn học có thể được sử dụng (có thể nói đến các tác
phẩm của Banzắc, Gorki). Văn học thực chất đã tiến hành công việc của tâm lý học trong
việc thực hiện cái được gọi là chuyên khảo. Dù cho sản phẩm của nghiên cứu loại này
không tồn tại dưới dạng các lý thuyết khoa học, không dưới dạng các khái niệm khoa học,
mà dưới dạng các hình ảnh nghệ thuật, tức là dưới dạng các tài liệu văn học phản ánh hiện
thực vẫn không làm mất đi giá trị của các nghiên cứu đó. Ngoài tính cách xã hội, khuôn
mẫu xã hội được tìm thấy trong các thói quen và tập quán, cũng như truyền thống giai cấp.
Tất cả các cấu tạo này đóng vai trò người điều chỉnh hành vi và hoạt động của các thành
viên trong nhóm xã hội, do vậy có ý nghĩa lớn đối với việc hiểu tâm lý học nhóm. Chúng
đưa ra đặc trưng quan trọng nhất của dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối
sống của nó. Khía cạnh Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao
cho trong phạm vi vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được hình mẫu
hành vi nổi trội của đa số quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong các tình huống độc
đáo trong đời sống hàng ngày. Thói quen và tập quán được hình thành dưới ảnh hưởng của
các điều kiện sống nhất định nhưng sau đó được củng cố và đóng vai trò cái điều chỉnh
hành vi. Phân tích thói quen và tập quán chính là vấn đề riêng của Tâm lý học xã hội. Các
phương pháp nghiên cứu vấn đề này gần với các phương pháp nghiên cứu tâm lý học
truyền thống, trong một chừng mực nhất định ở đây có thể sử dụng phương pháp quan sát.

Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó Tâm lý học xã hội
còn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của các tầng lớp xã hội khác
nhau và các phương thức mà nhờ chúng, tâm lý nhóm được “xây dựng”, đảm bảo cho “sự
lãnh hội” hiện thực xã hội của mỗi cá nhân. Ở đây điều quan trọng là phải hiểu bằng cách
nào quần chúng với số lượng tương đối lớn - với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ - trong
những tình huống có ý nghĩa nào đó của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các biểu
tượng như thị hiếu, hay thậm chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện thực. Các tình huống
này là các tình huống trong điều kiện sống đặc biệt, được quy định trước hết bởi sự thâu
thuộc vào một nhóm lớn xã hội cụ thể, do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ qua sự kiện
này khi xây dựng các mô hình giải thích hành vi và hoạt động của con người.
IV. KHÁT NIỆM CHUNG VỀ NHÓM NHỎ
1. Khái niệm nhóm nhỏ

Trong suốt một thế kỉ nghiên cứu nhóm nhỏ, các nhà Tâm lý học xã hội đã đưa ra
rất nhiều những định nghĩa khác nhau về nhóm nhỏ. Mỗi định nghĩa được dưa ra dựa trên
góc độ riêng, quan niệm riêng của mỗi tác giả về nhóm. Các định nghĩa nói chung hoặc chỉ
xem xét một khía cạnh nào đó, hoặc chỉ nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của nhóm
được cho là bản chất.

Các định nghĩa nhóm nhỏ có thể xuất phát từ các góc độ sau:
- Từ góc độ tri giác của thành viên nhóm với các thành viên khác hay với cả nhóm
nói chung.

- Từ góc độ động cơ của các thành viên nhóm.

- Từ góc độ mục đích nhóm.

- Từ góc độ các đặc trưng cấu trúc nhóm.

- Từ góc độ sự phụ thuộc lẫn nhau.

- Từ góc độ tác động qua lại giữa các thành viên nhóm.

Từ góc độ tri giác lẫn nhau giữa các thành viên, M.Smith đưa ra khái niệm nhóm
nhỏ “Nhóm xã hội là một đơn vị bao gồm nhiều cá nhân có sự tri giác tập thể về tính thống
nhất của nó, có khả năng hành động với cách hành động thống nhất đối với môi trường”
Theo quan niệm này, đặc trưng cơ bản của nhóm nhỏ xã hội là sự tri giác thống nhất về sự
tồn tại của nhóm, từ đó có được hành động thống nhất. Thực tế cho thấy các thành viên
trong nhóm ở một mức độ nhất định tri giác sự tồn tại của nhóm và sự thâu thuộc của bản
thân vào nhóm, nhưng tri giác đó chỉ có được như là kết quả của một nhóm đã hình thành.
Một số tác giả khác lại dựa trên động cơ thúc đẩy các cá nhân tham gia vào nhóm để định
nghĩa nhóm. Họ cho rằng cá nhân tham gia vào nhóm vì tin rằng nhu cầu của bản thân sẽ
được thỏa mãn nhờ nhóm. Chẳng hạn, theo R.Cattell: “Nhóm là một tập hợp các cá nhân,
trong đó sự có mặt của tất cả các thành viên cần thiết để thỏa mãn nhu cầu riêng nào đó
của cá nhân”. Theo quan niệm này, trước khi tham gia vào nhóm, cá nhân phải tự xác định
nhu cầu nào cần được thỏa mãn và phương thức thỏa mãn nó. Vấn đề đặt ra là cùng một
nhu cầu có thể được thỏa mãn ở nhiều nhóm khác nhau. Vậy điều gì làm cá nhân lựa chọn
nhóm này hay nhóm khác? Thực sự khi tham gia vào nhóm cá nhân có thể và cần tính đến
việc các nhu cầu của mình là gì và nó có thể thỏa mãn nhờ nhóm hay không. Đây cũng
chính là điểm mà nhóm có thể lôi cuốn và hấp dẫn cá nhân. Nhưng xét trong các điều kiện
thực tế xã hội, việc cá nhân lựa chọn nhóm không phải chỉ đơn thuần dựa trên động cơ đó.

Bản thân M.Shaw - người đã tiến hành phân tích các khái niệm nhóm nhỏ khác nhau
- coi nhóm nhỏ là: “Hai hoặc nhiều cá nhân tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân ảnh
hưởng và chịu ảnh hưởng của cá nhân khác”. Với khái niệm này M.Shaw cũng chưa thoát
khỏi việc định nghĩa theo một trong các cách nói trên.
Tuy vậy ông đã lưu ý rằng sự tương tác qua lại là dấu hiệu bản chất của nhóm nhỏ,
dấu hiệu này làm nhóm nhỏ khác biệt với các đám đông đơn thuần, nhưng bên cạnh đó
cũng cần tính tới các dấu hiệu rất quan trọng của nhóm nhỏ như: thời gian tồn tại lâu dài,
có mục đích chung hoặc các mục đích chung sự phát triển cấu trúc nhóm dù ở mức độ đơn
giản (bao gồm các thuộc tính nhóm như sự ý thức của các thành viên về cái “chúng ta” hay
ý thức về sự thâu thuộc của cá nhân vào một nhóm).

Xuất phát từ quan điểm khác, các nhà tâm lý học xã hội như G.M.Andrêeva,
A.V.Pêtrôvxki, P.L.Krichievxki, E.M.Dubrôvxkai dựa trên nguyên tắc hoạt động để
nghiên cứu các vấn đề của Tâm lý học xã hội nói chung và nhóm nhỏ nói riêng. Pêtrôvxki
cho rằng: “Nhóm xã hội là một tập hợp các cá nhân được liên kết trên cơ sở một số các
dấu hiệu chung liên quan đến hoạt động cùng nhau của họ, trong đó có giao tiếp”. Khái
niệm này nhấn mạnh đến hoạt động cùng nhau của nhóm, nhưng chưa làm nổi bật và
khẳng định vị trí của nhóm trong các quan hệ xã hội.

Trong hàng loạt các khái niệm của Tâm lý học xã hội về nhóm nhỏ, khái niệm của
G.M.Anđrêeva về nhóm nhỏ được coi là phổ biến. Nó thể hiện rõ nhất tư tưởng và phương
pháp luận của Tâm lý học xã hội theo nguyên tắc hoạt động: “Nhóm nhỏ là nhóm trong đó
các quan hệ xã hội thể hiện dưới hình thức các tiếp xúc cá nhân trực tiếp”. Theo đó nhóm
nhỏ là một nhóm tồn tại hiện thực không phải trong chân không mà trong một hệ thống
các quan hệ xã hội. Nhóm nhỏ là chủ thể của một hoạt động xã hội nhất định, thực hiện
một chức năng xã hội nhất định. Mỗi nhóm nhỏ là một đơn vị của cấu trúc xã hội rộng lớn.
Hoạt động xã hội chung của nhóm quy định các đặc trưng của nhóm. Nhóm nhỏ xã hội bất
kì là một hệ thống vi mô trọn vẹn trong các mối quan hệ xã hội. Do vậy các mối quan hệ
phải được phản ánh và cụ thể hóa trong nhóm. Như vậy nhóm nhỏ được xem là một nhóm
xã hội. Cách quan niệm này nhấn mạnh vào bản chất xã hội của nhóm chứ không phải đơn
thuần là một tập hợp các cá nhân thực hiện các mục đích riêng nào đó. Trong hệ thống các
quan hệ xã hội, mọi nhóm nhỏ đều là đơn vị nhỏ nhất không phân chia được của hệ thống.
Đây cũng chính là những nhóm nhỏ xã hội mà xã hội hiện đại đang đặt ra yêu cầu nghiên
cứu: các nhóm kinh doanh, các nhóm lao động, nhóm nghiên cứu khoa học...

Một quan điểm, khác rất đáng lưu ý là quan điểm của A.I.Đônxôv. Ông cho rằng
nhóm nhỏ là tổ hợp hữu hạn các cá nhân tác động qua lại một cách trực tiếp với các dấu
hiệu:
1. Tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối dài và thường xuyên tiếp xúc trực
tiếp với nhau, không có trung gian, trong khoảng cách ngắn nhất.

2. Có các mục đích chung mà việc thực hiện chúng cho phép thỏa mãn những nhu
cầu cá nhân và các quyền lợi bền vững.

3. Tham gia vào hệ thống chung phân bổ các chức năng và vai trò trong hoạt động
sống cùng nhau...

4. Chia sẻ các các chuẩn mực và các quy định đối với các hành vi nội nhóm và liên
nhóm.

Điều quan trọng trong cách hiểu về nhóm xã hội ở đây là sự gắn kết các cá nhân
trong nhóm bằng các giá trị, các mục đích chung. Theo A.I.Đônxôv một nhóm thực sự là
một tổ hợp tương đối bền vững các cá nhân có liên hệ mang tính lịch sử bởi các giá trị
chung, các mục đích, các phương tiện của đời sống xã hội. Một nhóm thực sự sẽ phải có
các giá trị, các mục đích chung.

Từ những dấu hiệu nêu trên, có thể đi đến một khái niệm nhóm nhỏ như sau: Nhóm
nhỏ là một cộng đồng với số lượng ít thành viên, giữa các thành viên có mối quan hệ liên
nhân cách trực tiếp, có sự tương tác chặt chẽ, cùng hoạt động theo các giá trị chung và
những mục đích chung.

Khái niệm này nhấn mạnh quan điểm của Tâm lý học hoạt động, coi nhóm nhỏ là
một đơn vị xã hội. Do vậy nó được hình thành do yêu cầu xã hội, thực hiện những chức
năng xã hội nhất định và là một mắt xích trong hệ thống các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó,
khái niệm đã đề cập tới các thành tố khác nhau tạo nên một nhóm chỉnh thể: các quan hệ
tác động qua lại trực tiếp, sự thống nhất giá trị và thống nhất mục đích nhóm. Khái niệm
cũng đề cập tới hoạt động cùng nhau của các thành viên nhóm, bằng hoạt động và thông
qua hoạt động nhóm mới trở thành một chỉnh thể tâm lý.

2. Quy mô nhóm

Quy mô nhóm là một khía cạnh gắn liền với định nghĩa nhóm nhỏ, bởi lẽ tính chất
“nhỏ” hay “lớn” về mặt số lượng phần nào thể hiện ở ngay quy mô của nó. Đề cập tới quy
mô nhóm, trong Tâm lý học nhóm nhỏ các tác giả thường đề cập tới giới hạn trên và giới
hạn dưới về số lượng các thành viên của nhóm. Đến nay còn nhiều quan niệm khác nhau
về quy mô nhóm.
Về giới hạn dưới: Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng với hai thành viên là có thể
tạo ra một nhóm. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng: nhóm hai người chỉ có thể coi là một
dạng đặc biệt của nhóm nhỏ xã hội nói chung chứ không phải là một mô hình tiêu biểu của
nhóm nhỏ xã hội. Nhóm hai người không phản ánh được một cách đầy đủ sự phức tạp của
các quan hệ liên nhân cách, cũng như sự tác động qua lại đa chiều giữa các cá nhân trong
nhóm. Do vậy, tồn tại quan niệm khác khẳng định chỉ có thể nói đến một nhóm nhỏ khi có
từ ba thành viên trở lên. Đến nay giới hạn dưới của nhóm nhỏ là bao nhiêu vẫn là câu hỏi
còn chưa có được câu trả lời hoàn toàn thống nhất. Tuy vậy một cách phổ biến, nhóm nhỏ
vẫn được coi là bắt đầu với hai thành viên.

Cũng giống như với giới hạn dưới, vấn đề giới hạn trên cũng có nhiều quan điểm
khác nhau: Có quan niệm cho rằng số lượng thành viên tối đa có thể là 20 (M.Shaw), hay
30, 40 (J.Moreno). Các tác giả khác lại đưa ra con số là 7 ± 2. Số lượng thành viên thuộc
giới hạn trên do các tác giả nêu ra chưa có được các cơ sở lý luận vững chắc.

Coi nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội, các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm hoạt
động cho rằng: số lượng các thành viên trong một nhóm được quy định bởi chức năng mà
nhóm thực hiện trong các mối quan hệ xã hội. Nói cách khác số lượng thành viên của
nhóm nhỏ không phải được xác định một cách chủ quan mà phải dựa vào sự tồn tại thực tế
của nó trong đời sống hiện thực xã hội. Nếu nhóm nhỏ được nghiên cứu, trước tiên, cần
phải là nhóm tồn tại hiện thực và nếu nó được xem xét như là chủ thể của hoạt động thì
một cách lôgic là không đưa ra một giới hạn cứng nhắc nào đó mà chấp nhận nhóm như
chính bản thân quy mô hiện thực của nó, được quy định bởi nhu cầu hoạt động chung của
nhóm. Nói cách khác, nếu nhóm được hình thành trong một hệ thống nhất định các mối
quan hệ xã hội với quy mô cụ thể nào đó và nó đủ để thực hiện một hoạt động nhất định
thì trong nghiên cứu có thể thừa nhận chính giới hạn đó là giới hạn trên. Quan niệm này
đảm bảo tính linh hoạt khi tiếp cận với nhóm nhỏ tồn tại hiện thực trong đời sống xã hội.
Quan niệm này cũng nhấn mạnh đến tính chỉnh thể của nhóm chứ không khai thác vào
khía cạnh số lượng đơn thuần của các thành viên nhóm.

3. Phân loại nhóm nhỏ

Phân loại nhóm nhỏ là bước tiếp theo mang tính lôgic trong việc nghiên cứu nhóm
nhỏ. Với sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của các nhóm nhỏ xã hội, việc có được một cách
phân loại hợp lý để có thể nhận diện và phần nào chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của
các loại nhóm nhỏ là một công việc vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Do
vậy, vấn đề phân loại nhóm nhỏ đã là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận trong Tâm lý
học xã hội. Để có được cái nhìn tổng quan có thể kể tới các loại nhóm nhỏ sau: nhóm
trong phòng thí nghiệm (thực nghiệm) và nhóm tự nhiên.

Nhóm trong phòng thí nghiệm là những nhóm được tập hợp từ nhiều cá nhân khác
nhau một cách ngẫu nhiên với mục đích thực hiện các nhiệm vụ thực nghiệm đã được định
trước. Thời gian tồn tại của nhóm này ngắn, kết thúc khi thực nghiệm đã hoàn thành.
Ngược lại, nhóm tự nhiên là nhóm tồn tại thực trong cuộc sống, có lịch sử phát triển và
thực hiện chức năng nhất định. Loại nhóm này được hình thành trong điều kiện thực của
cuộc sống và có sự phát triển ở các mức độ khác nhau. Nhóm chính thức và nhóm không
chính thức (hay còn gọi là nhóm tự phát). Cách phân chia này được đưa ra bởi E.Mayo,
gắn liền với thực nghiệm Hawthorne. Cả hai loại nhóm này đều là các nhóm tự nhiên.
Nhóm chính thức là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội, trong đó vị trí của các thành viên
được xác định. Đồng thời vai trò của các thành viên cũng được phân chia rõ ràng. Nhóm
có cấu trúc chính thức (cấu trúc chính quyền). Các mối quan hệ trong nhóm là quan hệ
theo chiều dọc, do hệ thống các vai và các vị trí quy định. Sự xuất hiện của nhóm chính
thức được quy định bởi sự cần thiết phải thực hiện một chức năng xã hội nào đó. Do vậy,
nhóm chính thức được thành lập để thực hiện một nhiệm vụ do tổ chức xã hội giao cho.
Đó cũng chính là đặc trưng cơ bản của nhóm chính thức. Đặc trưng này cho thấy nhóm
chính thức không phải được hình thành hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người mà
được hình thành bởi nhu cầu của hệ thống xã hội.

Nhóm không chính thức là nhóm xuất hiện một cách tự phát, các vị trí và các vai trò
trong nhóm không được quy định trước. Nhóm không chính thức có thể xuất hiện ngay
trong lòng các nhóm chính thức hay bên ngoài các nhóm chinh thức. Nhóm này thường
được hình thành dựa trên sự liên kết các thành viên bởi các hứng thú chung, các liên hệ
thân tình hay các mối quan tâm nào đó. Trong một số trường hợp nhất định, nhóm này có
thể trở thành nhóm có tổ chức. Thông thường các nhóm không chính thức trong lòng
nhóm chính thức được xác định bằng trắc đạc xã hội.

Tuy nhiên sự phân biệt này là tương đối vì hoàn toàn có khả năng nhóm không
chính thức có thể có những đặc điểm nhất định của nhóm chính thức và ở một mức độ nhất
định chuyển hóa thành nhóm chính thức. Trong thực tế rất khó có thể phân chia một cách
rõ ràng nhóm chính thức và nhóm không chính thức, đặc biệt trong trường hợp nhóm
không chính thức xuất hiện trong lòng nhóm chính thức.

Với cách hiểu như vậy về nhóm chính thức và nhóm không chính thức, trong hoạt
động tô chức, quản lý xã hội, nhà quản lý trước tiên phải quan tâm tới nhóm chính thức.
Hệ quả tất yếu khi nhóm chính thức hình thành là nhóm chính thức này ngay từ đầu chưa
phải là một nhóm có được sự trùng khớp giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính
thức, nói cách khác chưa có sự cố kết cao. Chính vì vậy E.Mayo cho rằng cần làm cho cấu
trúc chính thức và không chính thức càng trùng khớp nhau càng tốt. Đây cũng là nguyên
nhân của việc xuất hiện các xu hướng nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc tăng cường sự
trùng khớp giữa cấu trúc của nhóm không chính thức với cấu trúc nhóm chính thức hay tạo
ra sự cố kết nhóm trong nhóm chính thức.

Một cách phân loại khác là cách phân loại của H.Hyman: phân chia các nhóm thành
nhóm thành viên và nhóm tham chiếu. Cơ sở của cách phân chia này là mức độ có ý nghĩa
của các giá trị, các chuẩn mực nhóm đối với các định hướng của cá nhân. Nhóm thành
viên là nhóm mà cá nhân tham gia thực tế nhưng các giá trị và mục đích nhóm không được
cá nhân chia sẻ. Cá nhân tồn tại trong một nhóm này nhưng nhóm không tạo ra được ảnh
hưởng đến thái độ, đến các định hướng giá trị của cá nhân. Trong khi đó, nhóm mà cá
nhân không tham gia thực tế nhưng các chuẩn mực, giá trị của nó lại được cá nhân tiếp
nhận gọi là nhóm tham chiếu. Theo quan điểm ban đầu của H.Hyman, nhóm tham chiếu
bắt buộc nằm bên ngoài nhóm thành viên. Sau này các dữ kiện thực nghiệm đã cho thấy
đôi khi có trùng hợp nhóm tham chiếu với nhóm thành viên. Đồng thời trong số nhiều
nhóm khác nhau, chỉ có một nhóm nào đó có vai trò là nhóm tham chiếu đối với cá nhân
mà thôi. Lý thuyết nhóm tham chiếu gắn bó chặt chẽ với 2 hướng nêu trên của định hướng
tương tác. Nhóm tham chiếu được hiểu là nhóm mà các giá trị và chuẩn mực của nó được
cá nhân hướng tới. Nhóm tham chiếu như là tiêu chí, hệ thống các cơ sở để cá nhân đánh
giá bản thân và người khác cũng là nguồn gốc để hình thành các thái độ xã hội, các định
hướng giá trị của cá nhân. Các tác giả của lý thuyết này là H.Hyman, T.Newcomb,
M.Sherif, G.Kem, R.Merton.

Nhờ các công trình của các tác giả nêu trên, vấn đề nhóm tham chiếu trở thành một
vấn đề phổ biến trong Tâm lý học xã hội. Các nhà Tâm lý học xã hội tìm thấy trong vấn đề
này chìa khóa để giải thích quá trình hình thành các thái độ xã hội (tâm thế xã hội) và sự tự
đánh giá, còn các nhà xã hội học xem là công cụ để phân tích chức năng các cấu trúc xã
hội. Khái niệm nhóm tham chiếu cũng được sử dụng một cách rộng rãi để giải thích các
hiện tượng như: tính không thống nhất trong hành vi của cá nhân trong các điều kiện một
ngữ cảnh xã hội mới, hiện tượng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên, các xung đột liên
quan đến nhóm, phản ứng khác nhau của công chúng trước cùng một thông tin từ thông tin
đại chúng... Cơ sở của lý thuyết nhóm tham chiếu là ý tưởng của G.Mead về “người khác
khái quát”. Theo quan điểm của G.Mead, ý nghĩa của “người khái quát” là tương tác xã
hội được thực hiện thông qua đó, cũng qua đó diễn ra sự tác động xã hội đến cá nhân. “Cá
nhân nhận thức về bản thân không phải trực tiếp mà là gián tiếp, từ những góc độ riêng
của những thành viên nhóm xã hội mà cá nhân thuộc về” (Mead, 1934, 138). Nhóm trở
thành hệ thống các thái độ khái quát đối với các cá nhân tham gia vào nhóm.

Khái niệm này được Hyman đưa ra vào năm 1942 khi nghiên cứu biểu tượng của cá
nhân về vị trí của mình trong sự so sánh với các cá nhân khác. Ông không đưa ra định
nghĩa về nhóm tham chiếu, mà sử dụng khái niệm này để chỉ nhóm mà nghiệm thể dùng
để so sánh với bản thân để xác định vị trí của mình. Kết quả của việc so sánh với nhóm
tham chiếu là sự tự đánh giá của nghiệm thể về vị trí của mình. Sự tự đánh giá này được
Hyman xem như là biến số phụ thuộc bởi vì nó có quan hệ đối với nhóm tham chiếu.

Sau này khái niệm nhóm tham chiếu được Newcomb sử dụng để chỉ nhóm mà cá
nhân hướng tới trên phương diện tâm lý và do vậy chia sẻ các chuẩn mực các giá trị của nó
cũng như dựa vào đó để định hướng các hành vi của bản thân. Theo ông, sự hình thành các
thái độ là chức năng của quan hệ tích cực hay tiêu cực của cá nhân đối với nhóm nảy hay
nhóm khác. Từ đó Newcomb chia thành các nhóm tham chiếu tích cực hay tiêu cực. Nhóm
tham chiếu tích cực là nhóm mà các chuẩn mực và giá trị của nó được cá nhân chấp nhận
và tạo ra mong muốn được nhóm chấp nhận. Nhóm tham chiếu tiêu cực là nhóm tạo ra
mong muốn chống lại ở cá nhân và cá nhân không muốn trở thành thành viên của nhóm.
Theo Newcomb, “sự nổi loạn” của thiếu niên chính là biểu hiện của việc trẻ coi cha mẹ là
nhóm tham chiếu tiêu cực của chúng.

Khái niệm này được xác nhận cuối cùng bởi M.Sherif và R.Merton. Theo Sherif,
các chuẩn mực của nhóm tham chiếu trở thành các thái độ xã hội của cá nhân và cơ sở của
sự tự đánh giá và cơ sở để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội và để hình thành
“bức tranh của bản thân về thế giới”. Sự đa dạng của các nhóm tác động đến cá nhân, đặt
cá nhân vào một tình thế khó khăn khi phải lựa chọn các chuẩn mực khác nhau của các
nhóm khác nhau. Ông đề nghị phân biệt nhóm hiện tại mà cá nhân đang là thành viên và
nhóm tham chiếu - nhóm cá nhân coi là mình thuộc về một cách có ý thức hay vô thức.

Hiện vẫn chưa có được sự phân chia rõ ràng các loại nhóm tham chiếu nhưng có sự
thừa nhận chung đối với các loại sau: nhóm bên ngoài, nhóm thành viên, nhóm hiện thực,
nhóm lý tưởng, nhóm lớn và nhóm nhỏ.

Các chức năng của nhóm tham chiếu: có hai chức năng chính: chuẩn mực và đánh
giá - so sánh. G.Kem sau khi phân tích các công trình trước đó về nhóm tham chiếu đã
nhận thấy khái niệm nhóm tham chiếu đề cập đến hai loại quan hệ khác nhau giữa cá nhân
và nhóm. Đó là quan hệ ở phương diện động cơ và phương diện các quá trình tri giác. Từ
đó ông chia thành 2 chức năng: chức năng chuẩn mực và chức năng so sánh đánh giá.

- Chức năng thứ nhất: tạo lập các tiêu chuẩn nhất định cho hành vi và buộc cá nhân
tuân theo. Các chuẩn mực hành vi thường được gọi là các chuẩn mực nhóm. Do vậy ông
gọi chức năng này của nhóm tham chiếu là chức năng chuẩn mực. Theo Kelley, nhóm
tham chiếu có thể thực hiện chức năng này nếu nó có khả năng ban thưởng cho cá nhân
khi tuân theo và trừng phạt khi cá nhân không tuân theo.

- Chức năng thứ hai của nhóm tham chiếu thể hiện ở chỗ nó là cơ sở để cá nhân so
sánh và đánh giá bản thân và người khác. Hai chức năng trên có thể được thực hiện bởi
cùng một nhóm, có thể là nhóm thành viên hay nhóm bên ngoài mà cá nhân muốn trở
thành thành viên hay gắn bó về mặt tâm lý. Sự khác biệt của chức năng chuẩn mực và so
sánh có thể được hiểu như sau: Với chức năng chuẩn mực, đối với cá nhân điều quan trọng
là biết được thái độ của nhóm đối với bản thân, nhóm chấp nhận hay từ chối cá nhân.
Dường như cá nhân bị theo dõi bởi nhóm, bị đánh giá từ góc độ các chuẩn mực của nhóm,
do vậy cá nhân xây dựng các hành vi của mình theo các chuẩn mực đó; còn đối với chức
năng so sánh thì ý kiến của nhóm đối với cá nhân lại ít có ý nghĩa. Cá nhân tự đánh giá
bản thân bằng cách so sánh với các tiêu chí đã biết.

Vấn đề khác cũng được quan tâm là những nhóm nào được cá nhân chọn làm nhóm
tham chiếu. Merton đi sâu nghiên cứu vấn đề này, ông đã đề xuất một số các điều kiện,
theo đó cá nhân lựa chọn nhóm bên ngoài làm nhóm tham chiếu:

- Nếu nhóm không có đủ uy tín đối với cá nhân, cá nhân có xu hướng lựa chọn
nhóm bên ngoài có uy tín hơn làm nhóm tham chiếu.
- Cá nhân càng bị cô lập, vị thế của cá nhân càng thấp trong nhóm, càng có khả
năng cá nhân lựa chọn nhóm tham chiếu bên ngoài, ở đó cá nhân có được vị thế cao hơn.

- Sự biến động xã hội càng cao, cá nhân càng có nhiều cơ hội thay đổi vị thế của
mình thì càng có khả năng cá nhân lựu chọn các nhóm tham chiếu ở đó cá nhân có được vị
thế xã hội cao hơn.

- Sự lựa chọn nhóm tham chiếu cũng phụ thuộc vào tính cách cá nhân.

H. Kelley chỉ ra hai chức năng của nhóm tham chiếu: chức năng so sánh và chức
năng tiêu chuẩn. Các chuẩn mực hành vi, thái độ được thừa nhận trong nhóm trở thành
“hình mẫu” để cá nhân thực hiện các hành vi - đây là chức năng so sánh. Chức năng thứ
hai - chức năng tiêu chuẩn cho phép cá nhân đánh giá sự tương ứng của các hành vi của
mình đối với các chuẩn mực nhóm. Chức năng tiêu chuẩn góp phần điều chỉnh các hành vi
của các cá nhân, đặc biệt trong trường hợp có các hành vi lệch chuẩn.

Ngoài những cách phân chia cơ bản nêu trên, một số tác giả phân chia thành nhóm
thứ cấp và nhóm sơ cấp (Tr.Kuli). Nhóm thứ cấp là nhóm có sự tiếp xúc gián tiếp thông
qua các trung gian. Nhóm sơ cấp là nhóm có sự tiếp xúc trực tiếp.

Một loại nhóm nhỏ đặc biệt hay được đề cập đến trong Tâm lý học xã hội Xô viết là
tập thể. Loại nhóm này không được nói đến trong Tâm lý học xã hội phương Tây. Trong
Tâm lý học xã hội Việt Nam, khái niệm này được sử dựng rộng rãi. Trong lý thuyết về tập
thể của A.V.Petrôvxki và sau này các tác giả khác như G.M.Anđrêeva, A.I.Đôxôv,
R.L.Krichievxki đều cho rằng tập thể là một trạng thái chất lượng đặc biệt của nhóm nhỏ,
là nhóm nhỏ đạt tới “sự trưởng thành” tâm lý xã hội. Xét về quá trình phát triển nhóm,
nhóm nhỏ phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều mức độ, chỉ khi đạt tới mức độ phát triển
cao nhất nhóm mới trở thành tập thể. Đặc trưng cơ bản của nhóm khi nó trở thành tập thể
là có mục đích phù hợp với mục đích xã hội, có sự liên kết chặt chẽ và có thể tạo ra và
đảm bảo những điều kiện lợi cho sự phát triển của mỗi nhân cách.

4. Chức năng nhóm

Vấn đề chức năng của nhóm cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau. Giải quyết vấn đề này góp phần lý giải các nguyên nhân thúc đẩy một cá nhân
tham gia vào nhóm cũng như chỉ ra chiều hướng vận động và phát triển của nhóm. Trong
nhiều cách tiếp cận vấn đề này đáng chú ý là cách tiếp cận sinh học xã hội, tiếp cận nhu
cầu tâm lý và quan hệ xã hội, tiếp cận chức năng và tiếp cận mô hình 5 chức năng lớn (Big
five model).

Ngay trong công trình đầu tiên - Nhập môn Tâm lý học xã hội (1908) Mc.Dougall
đã đưa ra cách tiếp cận sinh học xã hội để lý giải sự hình thành nhóm. Ông cho rằng: Bản
năng bầy đàn dẫn dắt con người tham gia vào nhóm. “Chúng ta thường nói rằng sự buồn
chán của nông thôn thúc đẩy con người vào thành phố. Nhưng cách hiểu như vậy không
đúng với sự thật. Chính đám đông trong thành phố - bầy đàn người khổng lồ lôi kéo, hấp
dẫn những người đứng ngoài nó” (Allport, 1994). Cộng đồng xã hội được coi là bầy đàn
mặc dù đó là cộng đồng xã hội. Những cái lôi cuốn cá nhân tham gia vào nhóm không có
tính chất xã hội của cộng đồng đó mà là tính chất tự nhiên, bản năng có ở mỗi cá thể. Rõ
ràng cách tiếp cận này đề cao bản năng sinh học của con người. Nó chưa chỉ ra được bản
chất xã hội của nhóm xã hội, cũng như chưa chỉ ra được chức năng của nhóm.

Cách tiếp cận thứ hai tương đối phổ biến. Đó là tiếp cận nhu cầu tâm lý và quan hệ
xã hội. Cơ sở của cách tiếp cận này là các nhu cầu tâm lý của cá nhân và phương thức thỏa
mãn xã hội của nó. H.Murray (1938) với thuyết nhu cầu tâm lý cho rằng tham gia vào hệ
thống hai người giúp các cá nhân có thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của mình.
A.Maslow trong tháp nhu cầu nổi tiếng của mình có đưa ra “nhu cầu thuộc về một nhóm
xã hội”. Theo cách tiếp cận này, chức năng của nhóm nhỏ xã hội là tạo điều kiện cho sự
thỏa mãn các nhu cầu tâm lý của cá nhân. Cách tiếp cận này đã chỉ ra được một khía cạnh
trong các chức năng của nhóm nhỏ, một khía cạnh tương đối nổi bật. Tuy vậy nhìn nhận
nhóm xã hội chỉ từ góc độ cá nhân riêng lẻ đồng nghĩa với việc đánh mất ngữ cảnh xã hội
của nhóm. Phân tích chức năng của nhóm không chỉ tập trung vào chức năng của nhóm
đối với cá nhân mà còn cần phải chú ý đến chức năng của nhóm như là một chủ thể xã hội.

Tiếp cận chức năng nhìn nhận vấn đề một cách khái quát hơn: nhóm là nguồn cho
sự tồn tại xã hội của con người. Nó cung cấp các nguồn lực cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển con người xã hội. Trong cách tiếp cận này mô hình 5 chức năng lớn (Big five
Function) của nhóm do Donelson R. đề xuất rất đáng được lưu ý:

1. Nhóm tạo điều kiện cho các cá nhân có cơ hội tiếp xúc và tạo lập quan hệ với các
cá nhân khác trong một mạng lưới xã hội có tổ chức. (Belonging)

2. Nhóm tạo cơ hội cho những mối quan hệ thân thiện, gắn bó, tạo điều kiện cho sự
phát triển nhóm làm việc gắn bó. (Intimacy)
3. Nhóm tạo điều kiện cho tính hiệu quả, thành công, kiểm soát nguồn lực và định
hướng công việc. (Generativity)

4. Nhóm tạo ra sự ổn định về Tâm lý, giảm lo hãi, tạo cảm giác an toàn, tăng cường
lòng tự trọng... (Stability)

5. Nhóm tạo điều kiện cho sự sáng tạo, sàng lọc các ý tưởng, tự phát triển bản thân,
hiểu bản thân và người khác, tăng cường liên hệ liên nhân cách (Adaptability) (Myer D.G.
1996).

Mô hình 5 chức năng lớn của nhóm có một số ưu điểm:

- Chỉ ra vị trí của nhóm trong mạng lưới các quan hệ xã hội, coi nhóm là một mắt
xích trong mạng lưới đó. Cá nhân tham gia vào nhóm cũng chính là tham gia vào mạng
lưới các quan hệ xã hội.

- Bên cạnh chức năng tạo ra những mối quan hệ xúc cảm quan hệ tâm lý liên nhân
cách - như xu hướng chung của Tâm lý học xã hội phương Tây nhấn mạnh đến các quan
hệ xúc cảm trong nhóm - mô hình này đã đề cập tới chức năng tổ chức hoạt động của
nhóm.

- Chỉ ra sự gắn kết nhóm nằm trong bản chất nhóm, xuất hiện trong cuộc sống nhóm
chứ không phải sự gắn kết có từ ban đầu, bên ngoài. Sự cố kết trong nhóm là kết quả của
quá trình hoạt động nhóm.

Tuy vậy hạn chế ở đây cũng chính là việc chưa xem nhóm là một đơn vị xã hội thực
hiện một chức năng xã hội nhất định, trên cơ sở đó nhóm thực hiện các chức năng khác
của mình.

5. Quá trình ra quyết định nhóm

Quá trình ra quyết định nhóm là một trong những dấu hiệu cơ bản của nhóm nhỏ.
Quá trình này cho thấy nhóm nhỏ như là một chủ thể của hoạt động nhóm. Cũng giống
như các hiện tượng tâm lý xã hội khác của nhóm nhỏ, quá trình ra quyết định nhóm cũng
được xem xét như một quá trình được tạo bởi các thành phần cụ thể. Trong đó thành phần
thứ nhất là nhiệm vụ của nhóm. Nhiệm vụ của nhóm được xem như là nguồn gốc và đối
tượng của quá trình ra quyết định nhóm.

M.Shaw khi nghiên cứu các nhiệm vụ của nhóm tập trung vào 4 vấn đề: mô tả các
nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm, xây dựng các phân loại nhiệm vụ của nhóm,
phân tích các chiều kích của nhiệm vụ nhóm và chỉ ra ảnh hưởng của các nhiệm vụ nhóm
có các tính chất khác nhau đến quá trình nhóm.

Theo M.Shaw, các nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm được hiểu là những
nhiệm vụ có tính chất rõ ràng, giúp nghiên cứu các khía cạnh của hành vi nhóm thuận lợi.
Các nhiệm vụ này có thể ghi lại các điều kiện xuất phát, sản phẩm cuối cùng và các hành
động nhất định mà các thành viên cần thực hiện để đạt tới mục đích mong muốn. Loại
nhiệm vụ này có lợi thế là giúp người nghiên cứu dễ dàng theo dõi hành vi của các cá nhân
và của nhóm một cách chính xác, loại trừ bớt các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau do tính chất rõ
ràng của nhiệm vụ quy định. Tuy nhiên hạn chế cơ bản là loại nhiệm vụ này chỉ cho phép
nghiên cứu những hành động mang tính cơ học chứ không cho thấy hành vi phức tạp của
nhóm và các hiện tượng như thảo luận nhóm hay quá trình phân tích trí tuệ của nhóm.

* Phân loại các nhiệm vụ nhóm là một trong các công việc phức tạp. Hiện nay có
một số phân loại như sau: nhiệm vụ phức tạp hay đơn giản; nhiệm vụ hợp tác hay cạnh
tranh. Tackman đề xuất một số loại: sáng tạo, thảo luận, vấn đề. M.Shaw đề xuất phân loại
các nhiệm vụ nhóm theo các tính chất của chúng: độ khó của nhiệm vụ, tính đa phương án
của nhiệm vụ, độ quan tâm bên trong của mỗi thành viên nhóm, yêu cầu phối hợp hành
động, mức độ yêu cầu về trí tuệ đối với nhiệm vụ và tính mới mẻ của nhiệm vụ (Shaw M.
1976).

* Ảnh hưởng của tính chất nhiệm vụ nhóm tới quá trình nhóm: Các nhiệm vụ với
các tính chất khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau tới các quá trình nhóm, tới các
phương diện khác nhau của hành vi nhóm như: sự định hướng tới hành vi của người khác;
sự lạc quan, tính mới mẻ của các quyết định; sự tham gia vào quá trình cũng như sự bền
vững và chất lượng của hành vi. Đặc biệt tính rõ ràng của mục đích cần đạt được có ảnh
hưởng lớn tới sự cố kết của các thành viên. Các thành viên thể hiện sự cố kết cao hơn và
có động cơ hoạt động mạnh hơn đối với các nhiệm vụ rõ ràng và có hành vi ngược lại đối
với các nhiệm vụ không rõ ràng.

* Quá trình ra quyết định nhóm: Quá trình ra quyết định nhóm luôn phải đối mặt với
một vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng: tính hiệu quả của quyết định cá nhân và quyết
định nhóm có tương đồng hay không? Sự dịch chuyển rủi ro từ cá nhân sang nhóm và sự
phân cực nhóm như thế nào?
Để ra quyết định nhóm, thảo luận nhóm có vai trò quan trọng. Trong quá trình thảo
luận nhóm diễn ra các cơ chế sau:

- Thảo luận nhóm cho phép các lập trường các quan điểm được va chạm, bằng cách
đó giúp các thành viên có thể nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của vấn đề.

- Các kết luận được rút ra từ thảo luận nhóm sẽ có ý nghĩa hơn đối với mỗi thành
viên, nó có thể trở thành chuẩn mực nhóm và do vậy có ảnh hưởng lớn đến hành vi của
các thành viên.

Thảo luận nhóm cũng được xem xét như là một giai đoạn của quá trình ra quyết
định nhóm. Đặc biệt ở lĩnh vực ứng dụng, các nhà nghiên cứu đang tìm cách đưa ra các
hình thức thảo luận nhóm khác nhau, một trong số đó là “brainstorming” do A.Osbom đề
xuất hay phương pháp “liên kết các khác biệt” của U.Golden.

* Sự dịch chuyển rủi ro: Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khi ra quyết định,
nhóm có xu hướng dung hòa các quyết định thái quá cả về 2 phía của các cá nhân để đi
đến một quyết định “trung bình”. Hiện tượng này được gọi là “cân bằng hóa nhóm”. Tuy
nhiên, trong các trường hợp các quyết định có nhiều rủi ro thì diễn ra “sự dịch chuyển rủi
ro”: có thể có hiện tượng dịch chuyển về phía rủi ro khi có sự phân tán trách nhiệm và dịch
chuyển về phía thận trọng hơn. Các giả thuyết chưa được khẳng định.

* Sự phân cực các ý kiến trong nhóm (cũng được gọi là sự chuyển dịch ý kiến):
Trong tiến trình thảo luận nhóm, các ý kiến đối lập không chỉ xuất hiện mà chúng còn tạo
ra sự chấp nhận hay phản đối của phần lớn các thành viên. Các ý kiến trung gian dịch
chuyển dần về phía này hay phía khác làm các ý kiến thuộc 2 cực ngày một rõ ràng hơn.
Có 2 cách giải thích sự phân cực: chuẩn mực và thông tin. Chuẩn mực tức là cá nhân so
sánh mình với người khác và để khẳng định cái tôi của bản thân “người khác cũng nghĩ
như tôi”. Điều này giúp cá nhân củng cố ý kiến của bản thân. Thông tin tức là nếu thảo
luận nhóm được điều khiển bởi các chứng cứ và các chứng cứ đó có lợi cho cá nhân thì cá
nhân đó càng mạnh mẽ hơn với ý kiến của mình (tức là phân cực thay vì trung gian).
Ngược lại nếu chứng cứ mâu thuẫn với ý kiến trước đây, cá nhân đó sẽ dứt khoát dịch
chuyển về phái đối lập (tức là cũng phân cực).

6. Lý thuyết về sự phát triển nhóm


Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ. Ý tưởng về sự phát
triển nhóm đã được đưa ra trong lý thuyết Phân tâm học, trong công trình của Freud “Tâm
lý học nhóm và phân tích cái tôi”. Trong định hướng Phân tâm học của Tâm lý học xã hội
xuất hiện lý thuyết phát triển nhóm của V.Bennis và G.Shepard, được hình thành trên cơ
sở phân tích thực tiễn tâm lý trị liệu nhóm. Lý thuyết này được hình thành từ giữa những
năm 1950. Nó không hoàn toàn nằm trong định hướng phân tâm học mà còn chịu ảnh
hưởng của nhiều định hướng khác. Tuy vậy theo Shaw và Costanzo, lý thuyết này có tư
tưởng cơ bản liên quan đến Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở tìm
hiểu những quá trình nhóm diễn ra trong các nhóm T hay còn gọi là các nhóm huấn luyện
quan hệ con người hay nhóm tự phân tích. Các nhóm này là một hiện tượng trong đời sống
xã hội phương Tây những năm 60, 70 của thế kỉ XX. Thực hành Nhóm T - với các hình
thức đa dạng của nó diễn ra dưới ảnh hưởng của Phân tâm học. Nhóm T chính là một
phương pháp huấn luyện xã hội. Huấn luyện xã hội được hiểu theo nghĩa rộng là dạy các
hiểu biết, kĩ năng, kỹ xảo giao tiếp liên nhân cách. Hoạt động cơ bản của nhóm T là thảo
luận nhóm. Chủ đề thảo luận là các mối quan hệ liên nhân cách hiện thực của các thành
viên nhóm và nhiệm vụ là tìm hiểu chính động thái nhóm qua việc phân tích các quá trình
diễn ra trong nhóm. Các quá trình đó được nghiên cứu bởi chính các thành viên nhóm. Sự
tăng lên trong hiểu biết của cá nhân về chính các động cơ của bản thân; sự hụt hẫng, ý
định, các khả năng có thể trong giao tiếp liên nhân cách của bản thân cũng như của người
khác... được gọi chung là sự thành thục xã hội. Mục đích cuối cùng của huấn luyện xã hội
là giúp những người tham gia nâng cao sự thành thục xã hội. Để đạt được mục đích cuối
cùng, cần thực biện các mục đích cụ thể được đặt ra một cách rõ ràng hay ngầm định. Ở
cấp độ nhóm, mục đích đó là tạo ra sự giao tiếp có hiệu lực, tức là: đạt được một trạng thái
nhóm mà mỗi thành viên có khả năng thể hiện các tình cảm, xúc cảm, động cơ, ý định của
mình một cách chính xác, tự do. Ở đó tri giác của mỗi thành viên về vị trí của mình trong
nhóm phù hợp với sự tri giác của các thành viên khác, mục đích được thống nhất của
nhóm và sự nỗ lực của các thành viên là tương ứng và các thành viên nhóm có khả năng
chia sẻ nhiều mức độ giao tiếp. Quy mô nhóm có thể từ 7 - 15 người. Đó có thể là nhóm
hiện thực nhưng thường xuyên hơn cả là các nhóm được hình thành từ những người không
quen biết nhau từ trước. Các thành viên chủ yếu là những người thuộc các nghề nghiệp
khác nhau nhưng có điểm chung là cần có khả năng giao tiếp. Thời hạn của các nhóm T có
thể từ 2 ngày đến 2 tháng. Mỗi nhóm có một người huấn luyện. Vai trò của người này có
thể thay đổi tùy nhiệm vụ cụ thể. Nhưng trong mọi trường hợp vai trò chính của người đó
là tạo ra bầu không khí tin tưởng, sự cởi mở trong nhóm. Người huấn luyện phải thể hiện
hình mẫu của các hành vi mong muốn, tức là bộc lộ một cách chân thành và rõ ràng các
tình cảm của mình, thể hiện sự gắn bó và ủng hộ sự chân thành của người khác. Người
huấn luyện khác với vai trò của người bác sĩ trị liệu, không tập trung vào các kinh nghiệm
của các thành viên mà chỉ tập trung vào các quá trình diễn ra “ở đây” và “bây giờ” trong
nhóm. Hệ thống các liên hệ ngược cho phép mỗi cá nhân có thể hiểu được người khác và
diễn giải điều mình làm và nói, qua đó tạo ra những tiền đề cho việc suy nghĩ về hậu quả
có thể có của các hành động của mình trong nhóm. Kết quả của huấn luyện phụ thuộc vào
hệ thống các liên hệ ngược được thiết lập như thế nào. Những tiền đề đảm bảo cho nhóm
có hiệu quả là tạo ra bầu không khí tin tưởng, an toàn tâm lý trong nhóm và sự sẵn sàng
thay đổi những phương thức tri giác và tác động qua lại khi thấy được những hạn chế của
chúng.

Về phương diện lý luận nhóm, T chịu ảnh hưởng của Phân tâm học truyền thống ở
chỗ: cá nhân có thể mở rộng kinh nghiệm của mình bằng cách đưa các cơ chế tự vệ của
hành vi mà cá nhân chịu chi phối mà không ý thức được đến với ý thức và đặt dưới sự
kiểm soát của ý thức. Đây chính là nguyên tắc trị liệu của Phân tâm học. Lý thuyết này
được xây dựng trên việc nghiên cứu các quá trình diễn ra trong nhóm gọi là nhóm T - các
nhóm luyện tập (training group): sự tồn tại của nhóm luyện tập chia thành 2 pha. Trong
mỗi pha, nhóm giải quyết một tập hợp nhất định các vấn đề để đạt được mục tiêu cơ bản
của nó - thiết lập giao tiếp có hiệu lực (tức là giao tiếp, trong đó loại bỏ các trở ngại đối
với người tham gia giao tiếp). Con đường để đạt tới mục đích đó chính là sự phát triển
nhóm: trong pha đầu tiên giải quyết vấn đề về thủ lĩnh và các mối quan hệ qua lại giữa mỗi
thành viên nhóm và thủ lĩnh; trong pha thứ 2, mối quan hệ giữa các thành viên ngang hàng
được xác lập. Trong mỗi pha, sự khó khăn trong các mối quan hệ thường xuyên được dỡ
bỏ và sự giao lưu đầy đủ hơn được phát triển.

Lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng dựa trên các quá trình thay đổi trong
nhóm để đạt tới mục đích giao tiếp hiệu lực với 2 vấn đề cơ bản: phân tích những khía
cạnh của giao tiếp hiệu lực và xác định các giai đoạn phát triển nhóm.

Một trong những điều kiện cơ bản để thiết lập giao tiếp hiệu lực theo các tác giả là
tình huống không xác định trong đó mỗi thành viên của nhóm rơi vào tại thời điểm bắt đầu
của nhóm T. Các thành viên có xu hướng giấu các thái độ thật của mình, các phản ứng, các
xúc cảm bởi vì họ không biết họ sẽ chờ đợi điều gì từ những người khác. Do vậy, sự
không xác định liên quan đến 2 mặt của sự thực hiện chức năng nhóm: vấn đề quyền lực
và vấn đề phụ thuộc lẫn nhau.

Vấn đề quyền lực - đó là vấn đề về thủ lĩnh, ai sẽ là người dẫn dắt và ai là người
chịu sự điều khiển. Lĩnh vực quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên nhóm cũng không
rõ ràng. Ở đây sự không xác định liên quan đến vấn đề bền chặt của các liên hệ xúc cảm.
Các tác giả cho rằng vấn đề thủ lĩnh là vấn đề mang tính thứ nhất và định hướng mối quan
hệ với thủ lĩnh là thứ 2, ở mức độ nhất định quyết định hướng quan hệ của các thành viên
với những thành viên khác. Do vậy, trong quá trình phát triển nhóm, trước hết phải giải
quyết vấn đề quyền lực, thủ lĩnh và chỉ trên cơ sở giải quyết vấn đề đó mới giải quyết được
vấn đề mối quan hệ giữa các thành viên nhóm. Điểm cơ bản trong việc phân tích các
“hành vi nhóm” là phân chia 2 loại mối quan hệ trong nhóm: quan hệ thành viên với thủ
lĩnh và quan hệ giữa các thành viên. Trong đó quan hệ giữa thành viên với thủ lĩnh mang
tính thứ nhất vừa ở phương diện phát triển nhóm, vừa ở phương diện quy định các quan hệ
giữa các thành viên nhóm. Theo đó có thể chia thành 2 pha trong sự phát triển nhóm. Nội
dung của pha thứ nhất giải quyết vấn đề thủ lĩnh nhóm; trong pha thứ hai là vấn đề quan
hệ qua lại giữa các thành viên nhóm. Trong mỗi pha lại có 3 tiểu pha, tức là có 6 giai đoạn.

Trong pha đầu, nhóm gặp phải những tình huống sau: Những người tham gia chờ
đợi người huấn luyện nhận trách nhiệm nắm giữa quyền lực. Tuy nhiên với nhóm T, người
huấn luyện được chỉ định trước không nhận trách nhiệm đó và phải thông báo trước về vấn
đề đó. Thông thường trong thời điểm đó có sự căng thẳng nhất định, xuất hiện sự không
hài lòng với tình huống, tranh luận về mục đích và các nhiệm vụ của nhóm. Sự bắt đầu của
tiểu pha thứ 2 liên quan đến yêu cầu đối với người huấn luyện để bỏ lại nhóm. Xuất hiện 2
ý kiến đối lập nhau: một số thành viên ủng hộ cấu trúc thủ lĩnh mạnh còn số khác đề nghị
một bầu không khí nhóm ít mang tính cấu trúc hơn, chống lại thủ lĩnh mạnh và những hình
thức quản lý nhóm nghiêm khắc. Tiểu pha thứ 3 liên quan đến việc giải quyết vấn đề thủ
lĩnh. Việc này có thể nhanh chóng được giải quyết hay ngược lại, khi đó nhóm nằm trong
trạng thái lung lay. Cuối cùng, nếu nhóm không tan rã thì nó sẽ chuyển sang một pha mới:
pha thiết lập các mối quan hệ liên nhân cách hay giải quyết vấn đề sự phụ thuộc lẫn nhau.
Các tiểu pha của pha thứ 2 có thể có những lệch pha nhất định: nhóm có thể không
đạt được mục đích cuối cùng hoặc là trong một thời gian dài không xác định dừng lại ở
một pha nào đó hoặc tan rã.

Như vậy, rõ ràng lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng hoàn toàn dựa vào
việc quan sát hoạt động của nhóm T. Các tác giả của nó không có tham vọng đối với tính
khái quát của lý thuyết này nhưng đôi khi có xu hướng vận dụng lý thuyết này một cách
không có chỉnh sửa vào việc giải thích sự phát triển nhóm ở phạm vi các nhóm nói chung.
Lý thuyết này chưa chỉ ra thời gian kéo dài của mỗi pha. Nó chỉ đề cập đến sự tiếp nối
giữa các pha chưa chỉ ra các biến số ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhóm cũng như
đến việc giải quyết vấn đề sự phụ thuộc qua lại. Tính dự báo của lý thuyết này còn hạn
chế.

Lý thuyết thứ 2 về sự phát triển nhóm có được cơ sở tương đối rộng rãi hơn là lý
thuyết “xã hội hóa nhóm” của R.Morlend và J.Livan. Quá trình phát triển nhóm được xem
xét tương tự với quá trình xã hội hóa cá nhân, phân tích sự tồn tại không gian, thời gian
của nhóm. Mỗi giai đoạn trong sự phát triển nhóm được đặc trưng bởi một loại quan hệ
giữa nhóm với mỗi cá nhân khi cá nhân trở thành thành viên nhóm. Các giai đoạn có thê
được so sánh với nhau dựa trên 3 tiêu chí:

- Sự đánh giá (mục đích nhóm, vị trí của nhóm giữa các nhóm khác, ý nghĩa của
mục đích nhóm đối với mỗi cá nhân thành viên).

- Trách nhiệm (của nhóm trong quan hệ đối với các thành viên và của mỗi cá nhân
đối với nhóm, trong tiến trình đó bộc lộ mức độ hài lòng đối với các kì vọng lẫn nhau.
Nâng cao sự đồng thuận, các tiếp xúc xúc cảm, động cơ duy trì nhóm là kết quả của việc
thực hiện các trách nhiệm qua lại...

- Cấu trúc lại các vai của các thành viên nhóm (Mức độ tham gia nhiều hơn hay ít
hơn của các thành viên, mức độ đồng nhất với nhóm. Với mục đích này chia ra 5 loại vai
trò có thể có của thành viên nhóm: Thành viên tiềm năng, thành viên mới, thành viên đầy
đủ, thành viên cận biên, cựu thành viên).

Trên cơ sở các tiêu chí kể trên, các giai đoạn trong đời sống nhóm được xác định
tương ứng với các vị trí (vai) của các thành viên. Sự kết hợp các giai đoạn và vai được thể
hiện trong “Mô hình hệ thống quá trình” của M.Tremerse. Sự tương ứng các giai đoạn và
vai trò có thể biểu diễn như sau:
Vai trò Giai đoạn

Thành viên tiềm năng Tìm hiểu (thành viên tìm hiểu nhóm).

Thành viên mới Xã hội hóa thành viên (trong nhóm).

Thành viên đầy đủ Hỗ trợ (nhóm hỗ trợ thành viên).

Thành viên cận biên Tái xã hội hóa (có khả năng thành viên rời bỏ
nhóm).

Cựu thành viên Nhớ lại (về nhóm mà người đó không còn là thành
viên).

Như vậy trong mô hình nêu trên, điểm nhấn mạnh là ở chỗ kết hợp các giai đoạn
phát triển nhóm với quá trình xã hội hóa cá nhân trong nhóm. Rõ ràng mô hình này cho
phép nhóm ngừng tồn tại trong trường hợp nếu như việc ở trong nhóm không cần thiết đối
với các thành viên nhóm. Khái niệm “giai đoạn” phát triển nhóm được hiểu là các thời kì
khác nhau với các đặc điểm về vai trò và mức độ tham gia của các thành viên vào nhóm,
các giai đoạn này được phân biệt bởi 1 tập hợp các tiêu chí. Mỗi giai đoạn liên quan đến
sự thay đổi thành phần của nhóm: các thành viên mới tham gia vào nhóm, một số thành
viên cũ rời bỏ, diễn ra quá trình chuyển hóa thành viên tiềm năng thành thành viên đầy đủ
và sau đó đôi khi thành “thành viên cận biên” nếu như nhóm không còn thỏa mãn được
nhu cầu của thành viên đó và có thể có sự chia tay với nhóm. Mức độ chấp nhận của nhóm
đối với mỗi thành viên và ngược lại của mỗi thành viên đối với thực tế nhóm là những
nhân tố của sự thay đổi các vai của các thành viên nhóm. Quá trình xã hội hóa nhóm diễn
ra không phải trong chân không: đặc trưng văn hóa và các quan hệ xã hội mà trong phạm
vi đó nhóm tồn tại ảnh hưởng đến sự thay đổi trong nhóm.

Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ:

- Ober Nir đưa ra mô hình phát triển nhóm nhỏ theo bốn giai đoạn: 1) Thời kì thứ
bậc dửng dưng của nhóm trên cơ sở tiêu chí biểu cảm và các vai đa năng; 2) Thời kì nhiễu
loạn: phá hủy cấu trúc phân vai và xuất hiện các bất hòa trong nhóm; 3) Thời kì hình thành
các tiêu chuẩn công cụ, 4) Thời kì thực hiện - hình thành chức năng, sự sắp đặt các tác
dụng phụ thuộc trong mối liên hệ qua lại.
- Trên phương diễn giải quyết nhiệm vụ E.A.Marby chia thành các giai đoạn: Giai
đoạn tiềm ẩn (tìm kiếm nhiệm vụ), giai đoạn thích nghi, giai đoạn liên kết giai đoạn giải
quyết nhiệm vụ, đạt kết quả chung.

- B.Tacmen: Giai đoạn kiểm tra và phụ thuộc, giai đoạn xung đột nội bộ, giai đoạn
phát triển sự cố kết nhóm nhờ sự hài hòa dần các quan hệ và biến mất của xung đột nhóm
giai đoạn tương ứng chức năng vai trò, cùng với sự hình thành cấu trúc phân vai của
nhóm.

- Quan điểm của A.V.Petrovxki: Nếu căn cứ vào tính tích cực của nhóm nhỏ vào ý
nghĩa xã hội của hoạt động chung, sự phát triển của nhóm nhỏ có thể coi là quá trình vận
động giữa hai cực: coi sự phát triển cao nhất của nhóm nhỏ là tập thể - tập thể là cực phát
triển cao của nhóm nhỏ, cực đối lập với tập thể là nhóm hỗn độn. Các nhóm ở giữa hai cực
này là các nhóm phân tán, trong đó thiếu vắng hoạt động cùng nhau. Có các giai đoạn khác
nhau trong quá trình phát triển đó: giai đoạn tổng hợp sơ cấp - phân hóa - hợp nhất - tập
thể.

Các lý thuyết phát triển nhóm vẫn tiếp tục được xây dựng trong phạm vi nghiên cứu
các định hướng văn hóa xã hội khác nhau, cụ thể như định hướng quan hệ tập thể - cá
nhân. Các nghiên cứu chủ yếu chỉ ra thái độ của nhân cách đối với định hướng này hay
định hướng khác trong mối quan hệ tập thể cá nhân ở các môi trường văn hóa khác nhau.
Các nghiên cứu được thực hiện như là các nghiên cứu xuyên văn hóa (so sánh văn hóa).

Định hướng nghiên cứu mới liên hệ chặt chẽ với quá trình phát triển của nhóm:
chuyển từ một pha sang pha khác một phần lớn phụ thuộc vào việc phong cách nổi trội của
sự định hướng, có nghĩa là hành vi nào “chiến thắng” trong nhóm và nhờ đó tạo điều kiện
hay cản trở sự chuyển hóa sang một pha mới. Trong văn hóa cá nhân, sự phát triển nhóm
đòi hỏi sự vận động tới đỉnh cao của quyền cá nhân của nhân cách, trong văn hóa tập thể -
tới sự quan tâm về lợi ích chung. Cũng như trong các cách tiếp cận đã được phân tích ban
đầu, một tư tưởng quan trọng ngày càng được củng cố là sự phát triển nhóm phụ thuộc vào
tính chất xã hội trong đó nhóm tồn tại.

HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:

Những vấn đề liên quan đến nhóm xã hội là những vấn đề có được sự quan tâm lớn
trong giai đoạn hiện nay, trong dạy học và giáo dục mối quan tâm chủ yếu hướng tới các
nhóm nhỏ. Cụ thể:
- Chú ý đầy đủ đến việc tổ chức các nhóm sinh viên trong quá trình dạy học và giáo
dục. Nên coi các nhóm sinh viên là đơn vị cơ sở của hoạt động dạy học và giáo dục. Hầu
hết các hoạt động của sinh viên diễn ra trong môi trường nhóm nhỏ, các cơ chế tâm lý xã
hội cũng phát huy tác dụng trong nhóm. Đặc biệt, nhóm nhỏ là môi trường thuận lợi cho
việc phát huy tính tích cực chủ động trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, là môi
trường cho việc rèn luyện các “kĩ năng mềm”.

- Hình thành nhóm nhỏ trong dạy học, giáo dục bằng nhóm và thông qua nhóm. Để
thực hiện điều đó cần ý thức rõ việc tổ chức nhóm và tác động để hình thành các hiện
tượng tâm lý nhóm, từ việc lựa chọn quy mô nhóm, đến việc giúp nhóm hình thành các
mục tiêu, các nguyên tắc, khuyến khích sự chủ động trong hoạt động của nhóm, quan tâm
đến sự phát triển của nhóm.

- Cần đưa ra những yêu cầu chính thức khi hình thành các nhóm: đánh giá kết quả
của nhóm, của cá nhân trong nhóm trong sự tương quan với kết quả của nhóm, sự luân
chuyển các vai trò xã hội trong cấu trúc chính thức của nhóm.

- Quan tâm đến quá trình ra quyết định nhóm sự hình thành các chuẩn mực nhóm.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III

1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
các nhóm xã hội?

2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức của
nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không chính thức? Tại sao?

3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào để hình thành
các chuẩn mực nhóm?

4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo dục theo anh
(chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao?

Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ

I. TẬP THỂ VÀ CẤU TRÚC QUAN HỆ CÁ NHÂN TRONG TẬP THỂ

1. Khái niệm tập thể

You might also like