You are on page 1of 77

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI

ThS. VŨ MỘNG ĐÓA

LỜI MỞ ĐẦU

Cuốn giáo trình Tâm lý học xã hội này được biên soạn dành cho sinh
viên Khoa Công tác xã hội và Phát triển cộng đồng - Trường Đại học Đà Lạt.

Nội dung của cuốn giáo trình bao gồm 3 chương:

- Chương 1: Tâm lý học xã hội là một khoa học

- Chương 2: Các hiện tượng tâm lý xã hội

- Chương 3: Tâm lý nhóm nhỏ Mục tiêu của giáo trình nhằm:

- Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về bản chất và lịch
sử hình thành tâm lý học xã hội.

- Giúp sinh viên nhận thức rõ bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội
trong quá trình hoạt động và giao tiếp giữa các cá nhân.

- Giúp sinh viên nắm vững những đặc điểm tâm lý và các giai đoạn phát
triển của nhóm xã hội. Từ đó có thể vận dụng vào trong quá trình thực hành
công tác xã hội với nhóm xã hội cụ thể.

Trong quá trình biên soạn giáo trình này tác giả đã cố gắng rất nhiều để
hoàn thành kịp thời cung cấp cho sinh viên. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót nhất định. Tác giả kính mong nhận được sự đóng
góp và bổ sung ý kiến của bạn đọc.

Đà Lạt, ngày 21 tháng 06 năm 2007


Tác giả
Vũ Mộng Đóa
Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC

I. Bản chất, đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học xã hội

1. Khái niệm tâm lý học xã hội

Bản chất của Tâm lý học xã hội:

+ Đó là tâm lý chung của nhiều người. Nó được hình thành từ một hệ


thống động cơ của một nhóm xã hội cụ thể (nhu cầu xã hội, tâm thế, niềm tin
xã hội, v.v...)

+ Tâm lý xã hội luôn luôn phản ánh thực tại đời sống của một nhóm
người. Tồn tại nào thì tâm lý ấy.

+ Tâm lý học xã hội có bản chất từ hoạt động và giao tiếp (tính duy vật
của tâm lý học xã hội).

Theo Từ điển tâm lý học Tiếng Anh của Arther S. Rebel and Emily
Rebel, tâm lý học xã hội được định nghĩa là một phân ngành của tâm lý học,
nó tập trung nghiên cứu các khía cạnh của hành vi con người bao gồm các cá
nhân, các nhóm, các tổ chức xã hội và xã hội mang tính tổng thể.

Theo từ điển Tâm lý học xã hội do Vũ Dũng chủ biên, tâm lý học xã hội
là một phân ngành của tâm lý học, nghiên cứu các quy luật khách quan của
sự tác động qua lại giữa các yếu tố tâm lý và xã hội trong hoạt động của cá
nhân và các nhóm người. Tâm lý học xã hội nghiên cứu đặc điểm tâm lý của
các nhóm xã hội, các tầng lớp và các giai cấp khác nhau trong xã hội, nghiên
cứu các đặc tính (giai cấp, dân tộc, v.v) và các quy luật hình thành những loại
hình nhân cách mang tính lịch sử, xã hội, nghiên cứu các cơ chế quan hệ qua
lại về mặt tâm lý xã hội trong các nhóm xã hội khác nhau, nghiên cứu các
hình thức giao tiếp khác nhau trong tập thể.

Tóm lại, theo chúng tôi, tâm lý học xã hội là một phân ngành của tâm lý
học, nó tập trung nghiên cứu các hiện tượng tâm lý của một nhóm xã hội cụ
thể, nảy sinh từ sự tác động qua lại trong hoạt động và trong giao tiếp giữa
các cá nhân ở trong nhóm. Nó chi phối thái độ, hành vi, cử chỉ của cá nhân
khi họ ở trong nhóm đó.

2. Đối tượng của Tâm lý học xã hội

Tâm lý học xã hội cũng giống như nhiều ngành khoa học khác, việc xác
định đối tượng nghiên cứu là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất. Hiện nay
vẫn có nhiều quan điểm khác nhau giữa các nhà tâm lý học của các trường
phái tâm lý học về đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội. Trong đó, đặc
biệt là có sự khác nhau khá rõ nét giữa tâm lý học Xô viết (cũ) và tâm lý học
phương Tây.

Các nhà tâm lý học Xô viết cho rằng, đối tượng của tâm lý học xã hội là
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm. Tuy nhiên, trong số
những nhà tâm lý học Xô viết cũng có những quan điểm cụ thể không hoàn
toàn đồng nhất nhau.

Các nhà tâm lý học Xô viết (cũ), tiêu biểu như: E. X. Kuzơmin, V. I.
Xelivanop, K. K. Platonop, E. V. Sôrôkhôva cho rằng đối tượng nghiên cứu
của tâm lý học xã hội là nhân cách “phân loại kiểu người về mặt xã hội - lịch
sử”, “các đặc điểm tâm lý của nhân cách”, “sự quy định của xã hội đối với tâm
lý của cá nhân”. Một số tác giả khác như V. N. Kolbanopxki, A. I. Goriaseva,
A. V. Baranova, A. G. Kovaliop cho rằng đối tượng của tâm lý học xã hội là
“những hiện tượng tâm lý của những khối người đông đảo”, “là tâm lý của tập
thể”, “sự cộng đồng về tâm lý”. Còn B. D. Parưghin, N. X. Manxurop cho rằng
tâm lý học xã hội vừa nghiên cứu tâm lý của nhóm, của khối người đông đảo,
vừa nghiên cứu đặc điểm hành vi của nhân cách, của cá nhân khi ở trong
nhóm.

A.G. Kovaliop thì cho rằng “đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên
cứu những nét đặc trưng tâm lý của các nhóm xã hội, các tập thể, cũng như
những quy luật hình thành và quy luật hoạt động của các tập thể, các nhóm
trong quá trình tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cá nhân”.
Khác với quan điểm của các nhà tâm lý học Xô viết trước đây và các
nhà tâm lý học Nga hiện nay, các nhà tâm lý học phương tây lại tiếp cận từ
góc độ khác. Các nhà tâm lý học phương tây cho rằng, đối tượng của tâm lý
học xã hội là nghiên cứu hành vi của cá nhân trong những điều kiện, hoàn
cảnh và môi trường xã hội. Đó là nhận định khái quát, tuy nhiên, nếu xem xét
một cách cụ thể cũng có một số vấn đề sau đây:

+ Quan điểm của Jones và Gerard (1967) cho rằng đối tượng của tâm
lý học xã hội là nghiên cứu hành vi cá nhân như là chức năng kích thích xã
hội. Ở đây, các tác giả đã nhấn mạnh đến ảnh hưởng qua lại giữa các cá
nhân trong nhóm.

+ Quan điểm của các nhà tâm lý học M. Sherif và C. W. Sherif (1956),
Mc David Harari (1968),. cho rằng tâm lý học xã hội cần nghiên cứu kinh
nghiệm và hành vi của cá nhân trong môi trường xã hội nhất định.

+ Quan điểm thứ ba cho rằng đối tượng của tâm lý học xã hội là nghiên
cứu mối quan hệ tương hỗ giữa cá nhân và môi trường xã hội (các nhà tâm lý
học đại diện như: Jack H. Curtis Richard Dewey, David G. Myer)

Cách tiếp cận thứ nhất (trường phái tâm lý học Xô viết) mang tính khái
quát hơn, chúng có phạm vi rộng. Cách tiếp cận thứ hai mang tính cụ thể, rõ
ràng: nhận thức - thái độ - tình cảm - hành vi.

Như vậy, có thể hiểu rằng: Đối tượng của tâm lý học xã hội nằm ở bản
chất các hiện tượng tâm lý xã hội đã được phân tích ở trên. Đó là cái tâm lý
của những nhóm xã hội cụ thể, bao gồm những nét tâm lý chung nhất, đặc
trưng nhất của nhóm được tạo nên từ sự tác động qua lại giữa các cá nhân
trong nhóm. Nó không phải là cái tâm lý như là sản phẩm hoạt động của chủ
thể mỗi người dưới những tác động của hiện thực khách quan. Nó cũng
không phải là cái tổng số đơn giản những đặc điểm tâm lý của tất cả những
cá nhân trong nhóm hợp thành.

3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội


Tâm lý học xã hội có hai nhiệm vụ chính là nghiên cứu lý luận và
nghiên cứu ứng dụng.

1) Nghiên cứu lý luận

- Xác lập được hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học riêng nằm
trong cấu trúc hợp lý, mang đặc thù của khoa học mình. Hiện nay một số khái
niệm, phạm trù cấu trúc của tâm lý học xã hội còn chưa rõ ràng để có thể
phân biệt được ranh giới của nó với những khoa học lân cận.

- Phát hiện được các quy luật hình thành và phát triển của các hiện
tượng tâm lý xã hội, chỉ ra cách sử dụng chúng vào việc phát huy nhân tố con
người trong các điều kiện hoạt động khác nhau. Cụ thể là những quy luật của
sự tác động qua lại trong nhóm, vai trò của cá nhân, vai trò của nhóm trong
quá trình này, những điều kiện chủ quan và khách quan của sự hình thành
nên những hiện tượng tâm lý xã hội và những hình thái biến động trong tâm lý
xã hội.

2) Nghiên cứu ứng dụng

Những quy luật chung của Tâm lý học xã hội được vận dụng vào một
số lĩnh vực khoa học khác cũng như trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội.
Từ đó tạo nên những chuyên ngành khác nhau của tâm lý học xã hội.

- Tâm lý học dân tộc: Đây là một chuyên ngành quan trọng của tâm lý
học xã hội. Nó nghiên cứu tâm lý dân tộc và những biến đổi của tâm lý dân
tộc gắn với những chuyển biến lịch sử diễn ra trong đời sống các dân tộc.
Nhận thức được tính phong phú, đa dạng hay độc đáo của một dân tộc là yêu
cầu cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, con người của một
quốc gia. Việc nghiên cứu tâm lý dân tộc còn góp phần quan trọng trong sự
hiểu biết giữa các dân tộc, là cơ sở của mối quan hệ hợp tác và liên kết giữa
các nước với nhau.

- Tâm lý học xã hội trong công tác lãnh đạo và quản lý xã hội. Đây là
một chuyên ngành mới của tâm lý học xã hội, nó đi sâu vào nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý trong hệ thống quản lý, chỉ ra các đặc điểm, cơ chế và quy
luật tâm lý đang có ảnh hưởng tới hoạt động này trên cơ sở đó nêu ra những
yêu cầu về phẩm chất và năng lực tâm lý cần thiết của những người lãnh đạo
và bị lãnh đạo quản lý.

- Tâm lý học xã hội trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh

Chuyên ngành này nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng,
nghệ thuật bán hàng, thông tin quảng cáo v.v.Trên cơ sở đó, nêu ra yêu cầu
đối với cơ sở sản xuất về số lượng và chất lượng, hình thức của các loại
hàng hoá, dịch vụ.

- Tâm lý học xã hội trong tín ngưỡng tôn giáo, trong thông tin đại
chúng, trong giáo dục y tế, trong đời sống gia đình, trong dư luận xã hội và
tâm trạng quần chúng.

Phạm vi ứng dụng của tâm lý học xã hội rất rộng. Nó sẽ ngày càng
được mở rộng theo sự đòi hỏi của thực tiễn, cũng như khả năng đáp ứng
trong quá trình phát triển của nó.

II. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của Tâm lý học xã hội

Tâm lý học xã hội đã ra đời và phát triển được gần một thế kỷ. Song,
những tiền đề để ra đời ngành khoa học này thì đã xuất hiện từ rất sớm. Nói
về sự hình thành và phát triển của Tâm lý học xã hội, trước hết phải tìm hiểu
những tiền đề để ra đời ngành tâm lý học này.

1. Những tiền đề triết học.

Cũng giống như sự ra đời của tâm lý học, sự hình thành Tâm lý học xã
hội có sự đóng góp rất quan trọng của các tư tưởng triết học. Có thể đưa ra
một số những tiền đề cơ bản sau:

1.1. Quan điểm của một số nhà triết học Hy Lạp cổ đại

Khi nói về quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại có ảnh hưởng
tới sự ra đời của Tâm lý học xã hội, chúng ta chú ý nhiều hơn đến quan điểm
về xã hội và con người của Platon và Aristotle.
- Platon (427 - 374 TCN) trong luận thuyết về đạo đức xã hội và trong
phác thảo về một xã hội lý tưởng của mình, ông đã rất chú ý đến các quan hệ
liên nhân cách. Ông cũng chỉ ra sự ảnh hưởng của các cá nhân đến sự ổn
định của nhà nước.

Trong các tác phẩm của mình, Platon đã quan tâm đến các kiểu loại
nhân cách xã hội. Theo ông, trong xã hội có ba kiểu nhân cách cơ bản:
a/Những người luôn luôn cố gắng làm vừa lòng người khác (người hướng tới
xúc cảm), b/Những người say sưa theo đuổi quyền lực và sự nổi danh (người
hướng đến quyền lực) và c/Những người luôn có khao khát hiểu biết (người
hướng đến tri thức). Ba kiểu nhân cách trên phản ánh ba yếu tố tâm lý của
con người: tình cảm, ý chí và trí tuệ.

- Aristotle (354 - 322TCN) là một người mở đường vĩ đại của khoa học
xã hội. Ông đánh giá cao yếu tố tình cảm. Theo ông, có 3 động lực của sự
liên kết con người: tình bạn, sở thích, và đồng nhất. Trong đó, tình bạn là
động cơ của đa số các nhóm xã hội.

Aristotle đánh giá cao vai trò của các nhóm xã hội đối với con người.
Ông cho rằng, con người cần phải sống trong các nhóm xã hội như gia đình
và nhà nước. Nhóm xã hội cơ bản nhất đối với con người là gia đình. Quan
điểm này của ông vẫn còn rất phù hợp với xã hội hiện đại ngày nay. Điều
đáng chú ý là Aristotle xem xét con người và khả năng của nó trong các phản
ứng xã hội, quan hệ và hoàn cảnh xã hội.

Có thể nói, mặc dù các quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp còn khá
xa vời các tri thức Tâm lý học xã hội hiện đại, nhưng các tư tưởng này có ảnh
hưởng không nhỏ đến các tư tưởng nói chung và tâm lý học xã hội nói riêng ở
châu Âu sau này.

1.2. Một số quan điểm về xã hội và cá nhân của các nhà tư tưởng La

Quan điểm về xã hội và cá nhân của một số nhà tư tưởng La Mã như


M.T.
Cicero; St. Augustine rất đáng được quan tâm trong nghiên cứu các
tiền đề triết học của sự phát triển Tâm lý học xã hội.

M.T. Cicero là đại biểu xuất sắc của tư tưởng La Mã. Khi nghiên cứu về
con người và xã hội, ông rất quan tâm đến vấn đề pháp luật, con người phải
hành động như thế nào trong khuôn khổ luật pháp của xã hội.

St. Augustine (354 - 430 sau CN), ông là đại biểu xuất sắc về tư tưởng
xã hội trong thời đại của ông. Các quan điểm của ông về xã hội và cá nhân
được tâm lý học xã hội hiện đại đánh giá cao. Đó là các quan điểm về sự liên
kết của con người, về vai trò của nhóm xã hội đối với việc hình thành quan
điểm, thái độ của cá nhân. Song, các quan điểm của ông lại bị ảnh hưởng lớn
của tư tưởng tôn giáo. Augustine đánh giá cao vai trò của Chúa Trời và các
lực lượng thần thánh đối với cuộc sống thực tại của con người. Theo ông, cá
nhân không chỉ có quan hệ tương tác với các cá nhân khác mà còn có quan
hệ với Chúa.

1.3. Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội.

Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội do T. Hobber (1588 - 1679),


J. Locke (1632 - 1704), và J.J. Rousseau (1712 - 1778) đưa ra đã được xem
như sự mở đường cho Tâm lý học xã hội hiện đại. Các tác giả đã quan tâm
nghiên cứu rất nhiều về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân.

Học thuyết về sự thoả thuận xã hội của Hobber được phát triển dựa
trên 3 yếu tố:

- Định đề: bản năng con người bị hạn chế và cô lập từ những người
cùng tầng lớp hoặc từ tầng lớp đối lập của xã hội.

- Nguyên nhân hoặc thiết lập các nguyên nhân: Tại sao con người tự
đặt mình vào các mối liên kết với người khác.

- Thiết lập các quy tắc đạo đức từ hai lý do trên.

Locke không tin rằng có tồn tại một nhà nước thời kỳ tiền xã hội. Ông
đưa ra quan điểm cho rằng con người luôn sống trong xã hội, nhà nước trở
thành phương tiện để chấn chỉnh sai trái, bất công và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của con người về cuộc sống, tự do và sở hữu.

So với học thuyết về thoả thuận xã hội của Hobber và Locke thì học
thuyết về sự thoả thuận xã hội của Rousseau được đánh giá cao hơn. Cũng
giống như Hobber, ông bắt đầu bằng việc tìm hiểu những hành vi bản năng
của con người, sau đó nghiên cứu mối tương tác giữa người với người, giữa
cá nhân và xã hội. Ông cho rằng, trật tự xã hội là điều bất khả xâm phạm. Nó
được xây dựng trên cơ sở lợi ích của đa số mọi người. Cái trật tự này không
thể bắt nguồn từ bản năng của con người mà cần phải được xây dựng trên
sự thoả thuận.

2. Những trường phái đầu tiên trong xã hội học và tâm lý học.

2.1. Các trường phái xã hội học

Vai trò của xã hội học trong việc hình thành Tâm lý học xã hội được thể
hiện qua sự ảnh hưởng của các quan điểm của một số nhà xã hội học.

- Auguste Comte (1790 - 1857)

Comte đã phân chia tâm lý học theo hai khía cạnh: sinh học và xã hội
học. Sự phân chia này có giá trị nhất định trong Tâm lý học xã hội.

Khi nói về nhân cách con người, ông đã thiên về khía cạnh bản năng.
Theo ông, bản năng con người chia thành 2 loại chính: sự ích kỷ và lòng vị
tha. Tính vị tha của bản năng có thể dẫn con người đến sự mềm yếu, nhu
nhược. Ông cho rằng, xã hội cần khuyến khích lòng vị tha của con người như
một mục đích trọng tâm của tổ chức, bên cạnh đó cần hạn chế tính ích kỷ của
cá nhân.

Mặc dù rất quan tâm đến tâm lý học cá nhân, nhưng Comte vẫn nhấn
mạnh rằng đơn vị xã hội thực là gia đình, nhờ nó mà xã hội phát triển. Gia
đình, theo ông ngoài việc duy trì nòi giống còn nuôi dưỡng lòng vị tha của con
người. Từ mái ấm gia đình, cá nhân sẽ trở thành thành viên xã hội hữu ích.
Tâm lý học cá nhân theo hướng bản năng của Comte đã tác động mạnh đến
tâm lý học xã hội tận đầu thế kỷ XX.
- Gabriel Tarde (1843 - 1904)

Tarde là một người sáng lập ra tâm lý học cá nhân trên cơ sở của xã
hội học. Ông phản đối những quan điểm thái quá của tâm lý học cá nhân thời
đó.

Một công trình nghiên cứu của Tarde có ảnh hưởng lớn đến sự ra đời
của tâm lý học xã hội là cuốn: “Những quy luật của sự bắt chước”. Trong
cuốn sách này ông đã lý giải cơ sở xã hội của sự tương tác giữa các cá nhân.
Ông cũng là người đầu tiên đưa ra khái niệm mới về sự tương tác. Đây là một
tiền đề dẫn đến sự hình thành tâm lý học xã hội.

- Durkheim (1858 - 1917)

Quan điểm của Durkheim là phản đối sự đề cao quá mức tâm lý học cá
nhân khi ông nhấn mạnh đến hệ thống quy định xã hội. Ông ca ngợi và thích
tranh luận về học thuyết “ý thức tập thể”.

Trong các nghiên cứu của mình, ông quan tâm nhiều đến các kiểu loại
hành vi của nhóm hơn là các hành vi của cá nhân. Những nghiên cứu của
ông về “ý thức tập thể” là đóng góp đặc biệt quan trọng cho tâm lý học xã hội.

- G. Lebon (1841 - 1931)

Trong các nghiên cứu của mình, ông chú ý nhiều đến tâm lý học nhóm.
Ông đã làm sáng tỏ thêm những quan điểm của Durkheim về các hiện tượng
tâm lý của nhóm. Lebon cũng bị ảnh hưởng bởi Tâm lý học xã hội của Tarde.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của Lebon là cuốn “Đám đông” (The crowd).
Trong cuốn sách này ông đã phân tích rất sâu sắc về tâm lý đám đông - một
hiện tượng tâm lý rất đặc thù của Tâm lý học xã hội. Với cuốn sách này, ông
đã trở thành người mở đường về vấn đề “hành vi tập thể” hiện đại.

- Charles Horton Cooley (1863 - 1929)

Cooley là nhà xã hội học Mỹ, người có quan điểm hiện đại về mối quan
hệ giữa xã hội và cá nhân. Ông nhấn mạnh, không thể tách rời yếu tố xã hội
và yếu tố cá nhân trong cuộc sống của con người.
Ông đã viết ba cuốn sách nổi tiếng về vấn đề này: Bản chất con người
và trật tự xã hội; Tổ chức xã hội; Sự phát triển xã hội. Cooley bị ảnh hưởng
bởi học thuyết “bắt chước” của Tarde, quan điểm về đồng nhất của Schaffle
và tâm lý học của W.James.

- E.A. Ross (1866 - 1951)

Ross là nhà xã hội học người Mỹ, người đã viết cuốn sách Tâm lý học
xã hội (1908) - một trong những cuốn sách giáo khoa đầu tiên về ngành khoa
học này. Nếu Cooley nhấn mạnh hơn đến khía cạnh tập thể thì Ross lại chú ý
đến cả khía cạnh xã hội và khía cạnh cá nhân trong nghiên cứu quan hệ giữa
xã hội và cá nhân.

Theo ông, vai trò của xã hội thể hiện qua sự ảnh hưởng của nhóm tới
cá nhân và vai trò của cá nhân thể hiện qua sự ảnh hưởng của cá nhân tới
nhóm. Các vai trò này xảy ra trong các hoàn cảnh xã hội. Quan điểm này của
Ross đã bị ảnh hưởng bởi quan điểm của Tarde về “sự bắt chước” trong đời
sống xã hội.

2.2. Các trường phái Tâm lý học

- Thuyết hành vi của Watson:

Thuyết hành vi ra đời vào năm 1913 trong bối cảnh Tâm lý học nội
quan bước vào thời kỳ khủng hoảng và một số nhà tâm lý học cho rằng cần
phải xác định lại đối tượng nghiên cứu của tâm lý học.

Thuyết hành vi là cơ sở để tâm lý học đầu thế kỷ XX từ bỏ di sản của


trường phái nội quan và đưa Tâm lý học xã hội hiện đại đến chỗ tìm hiểu con
người thông qua các hoàn cảnh xã hội và trước hết là nghiên cứu hành vi của
con người.

Sự đóng góp to lớn của thuyết hành vi đối với Tâm lý học xã hội thể
hiện ở chỗ nó là cơ sở để các nhà tâm lý học phương Tây (trước hết là các
nhà tâm lý học Mỹ) xác định đối tượng nghiên cứu của ngành khoa học này -
hành vi xã hội của con người.
- Thuyết cấu trúc của W. Wundt

Một trong những đóng góp lớn của ông đối với việc ra đời của Tâm lý
học xã hội là cuốn sách Tâm lý học dân tộc. Cuốn sách này gồm 10 tập, được
ông viết trong 20 năm (1900 - 1920).

Theo ông, tâm lý học xã hội là một phân ngành cần thiết của Tâm lý
học. Ông cho rằng không thể nghiên cứu con người như một cá nhân đơn lẻ,
mà cần phải nghiên cứu con người trong những mối quan hệ của con người.

- Tâm lý học Gestalt

Một trong những đại biểu xuất sắc nhất của tâm lý học Gestalt là
K.Lewin, ông đã dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu khía cạnh quan
trọng của Tâm lý học xã hội

- nhóm nhỏ và nhóm nói chung. Lewin đã sáng lập ra Trung tâm nghiên
cứu động thái nhóm. Ông cũng là tác giả của một phương pháp nghiên cứu
mới trong tâm lý học xã hội - phương pháp nhóm tập luyện (training group).

3. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập

Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập được đánh dấu bằng
sự kiện cuốn sách giáo khoa đầu tiên về Tâm lý học xã hội được xuất bản vào
năm 1908. Đó là cuốn Tâm lý học xã hội (Social Psychology) của tác giả
Edward A. Ross. Cuốn sách của ông dựa trên cơ sở kết hợp hai khoa học
tâm lý học và xã hội học. Nội dung chính được đề cập trong cuốn sách này là
sự bắt chước được hình thành, phát triển và thực hiện như thế nào. Ông đã
sử dụng hiện tượng bắt chước để giải thích sự thay đổi tư tưởng, thói quen
và quan điểm giữa các thành viên trong các nhóm xã hội.

Một sự kiện quan trọng nữa góp phần làm cho Tâm lý học xã hội trở
thành khoa học độc lập, đó là sự ra đời cuốn sách có tên: Nhập môn Tâm lý
học xã hội (Introduction to Social Psychology) của Mc. Dougall. Trong cuốn
sách này tác giả đã lý giải sự giống nhau về hành vi giữa cá nhân trong nhóm
xã hội thông qua sự bắt chước.
Tính đến năm 1954, đã có 52 cuốn sách giáo khoa về Tâm lý học xã
hội xuất bản, đến năm 1968 con số này đã tăng lên gần 100 cuốn và tính đến
năm 1980, số sách giáo khoa về Tâm lý học xã hội đã lên tới gần 150 cuốn,
gần chục tạp chí về tâm lý học xã hội và một số lượng lớn các tuyển tập bài
viết, các sách tham khảo có giá trị về ngành khoa học này được hoàn thành.
Trong gần một thế kỷ vừa qua, người ta có thể nhận thấy hai xu hướng phát
triển của Tâm lý học xã hội: Tâm lý học xã hội phương Tây và Tâm lý học xã
hội Xô viết. Hai xu hướng này có sự khác biệt nhất định.

Tâm lý học xã hội Xô viết chú ý nhiều đến nghiên cứu các đặc điểm tâm
lý của nhóm, trong đó đặc biệt là tập thể (một loại nhóm chính thức) và các
nhóm lớn như giai cấp, dân tộc,... Tâm lý học xã hội phương Tây lại quan tâm
nhiều hơn đến việc nghiên cứu kinh nghiệm và hành vi xã hội. Tính thực tiễn,
ứng dụng trong các nghiên cứu của Tâm lý học phương Tây được thể hiện
rất rõ nét.

Ở nước ta, Tâm lý học xã hội là một ngành còn rất non trẻ. Song, trong
thời gian gần đây, ngành khoa học này đã có những bước phát triển quan
trọng. Tâm lý học được giảng dạy ở nhiều trường Đại học, học viện và trường
cao đẳng. Nhiều công trình nghiêu cứu về Tâm lý học xã hội đã được dịch và
biên soạn. Tính đến nay chúng ta đã có hàng chục cuốn sách giáo khoa,
nhiều tài liệu tham khảo đã được các nhà Tâm lý học Việt Nam biên soạn và
xuất bản nhằm phục vụ cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu Tâm lý học
xã hội.

III. Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội

1. Những nguyên tắc nghiên cứu

1.1. Phải đảm bảo tính chất khách quan

Nghiên cứu phải đảm bảo tính khách quan, trước hết là phải nghiên
cứu từ chính bản thân sự vật, hiện tượng, phải xem xét sự vật, hiện tượng
như chúng vốn có trong thực tế, ghi nhận mọi chi tiết, mọi biểu hiện của
chúng.
1.2. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong các mối liên hệ của
chúng

Tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên đều liên hệ, tác động qua
lại với nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu phải đặt chúng trong mối quan hệ, liên hệ
giữa chúng nhằm vạch ra được sự ảnh hưởng lẫn nhau, mối quan hệ nhân
quả và những quy luật của sự tác động qua lại giữa chúng. Khi nghiên cứu
các hiện tượng tâm lý xã hội cần thực hiện tốt các yêu cầu này, bởi vì mỗi
hiện tượng tâm lý xã hội đều chịu sự ảnh hưởng và liên quan của các hiện
tượng khác.

1.3. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong sự phát triển.

Mỗi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên hay trong xã hội đều có quá
trình nảy sinh, vận động và phát triển. Tâm lý cá nhân hay của xã hội đều
nằm trong quy luật này, có sự phát triển và biến đổi về chất. Bởi vậy, khi
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, nhà khoa học cần xem xét chúng
trong một quá trình.

1.4. Phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn

Mỗi sự vật và hiện tượng đều có một cấu trúc nhất định. Bởi vậy, yêu
cầu đặt ra đối với các nhà khoa học là phải nghiên cứu sự vật và hiện tượng
với cả hệ thống các thành phần trong cấu trúc của chúng cũng như mối liên
hệ và quan hệ của các thành phần ấy.

2. Những phương pháp nghiên cứu

2.1. Phươngpháp quan sát

Quan sát là sự tri giác chủ động và có hệ thống các hiện tượng tâm lý
nhằm tìm ra các đặc điểm đặc trưng và có ý nghĩa của chúng. Trong tâm lý
học xã hội, phương pháp quan sát được sử dụng để nghiên cứu hành vi xã
hội.

• Các bước tiến hành quan sát:

- Xác định mục đích, nhiệm vụ quan sát (quan sát để làm gì)
- Lựa chọn khách thể quan sát, tình huống quan sát và đối tượng quan
sát (quan sát ai, quan sát cái gì)

- Lựa chọn cách thức quan sát để ít ảnh hưởng đến khách thể quan
sát và thu được những thông tin cần thiết (quan sát như thế nào)

• Nhiệm vụ quan sát: là định hướng ban đầu về khách thể, đề xuất giả
thuyết và kiểm tra giả thuyết. Các tình huống quan sát có thể là tình huống tự
nhiên hoặc tình huống thực nghiệm (do người quan sát chủ động) tạo nên

• Đối tượng quan sát: là những hành động ngôn ngữ hoặc phi ngôn
ngữ của con người trong nhóm hay liên nhóm. Cụ thể là:

- Hành động nói (hành động ngôn ngữ). Ở đây cần chú ý quan sát tính
định hướng, tần số, cường độ, mức độ diễn cảm, đặc điểm của ngôn từ, ngữ
pháp, cách phát âm.

- Những hành động diễn cảm thể hiện qua nét mặt, thái độ, hành động.

- Cử chỉ di chuyển, trạng thái đứng im của con người, khoảng cách
giữa người này với người khác, tốc độ, phương hướng vận động, sự va
chạm...

• Một số ưu điểm và hạn chế:

- Ưu điểm: Nó được sử dụng rộng rãi, chiếm ưu thế trong việc thu thập
các biểu hiện của tâm lý xã hội. Trong phương pháp này, nhà khoa học có thể
sử dụng những máy móc hiện đại như máy ảnh, máy ghi âm, máy quay phim
để ghi lại những hiện tượng cần nghiên cứu, khi cần có thể quan sát lại nhiều
lần bảo đảm tính khách quan.

- Hạn chế: phương pháp này còn có hạn chế là nó đòi hỏi nhiều thời
gian; nó chỉ cung cấp những tài liệu về các biểu hiện bề ngoài có tính cảm
tính. Bởi vậy, khi dùng phương pháp này nhà khoa học phải thu thập tài liệu
với số liệu đủ lớn để có thể chọn lọc trong đó những tài liệu cần thiết.

2.2. Phươngpháp nghiên cứu sản phẩm.


Sản phẩm hoạt động bao giờ cũng mang đậm nét những đặc điểm tâm
lý của nhóm người tạo ra nó, bao gồm sản phẩm vật chất và tinh thần. Các
sản phẩm vật chất như: nhà cửa, vật dụng thông thường,. các sản phẩm tinh
thần như âm nhạc, phong

tục, tập quán,. Qua sản phẩm hoạt động, nhà khoa học có thể tìm hiểu
về trình độ nhận thức, mức độ kỹ xảo, nội dung tình cảm, đặc điểm tính cách
của các nhóm người khác nhau.

2.3. Phươngpháp điều tra.

Dùng để hiểu rõ thái độ của mọi người đối với các biến cố xã hội,
những nhiệm vụ xã hội có liên quan đến họ cũng như nhu cầu, nguyện vọng,
định hướng hoạt động của họ trong tương lai. Phương pháp này được sử
dụng rộng rãi để nghiên cứu thông qua công cụ là bảng hỏi.

• Các nguyên tắc đặt câu hỏi:

- Trong một câu hỏi chỉ cần tìm hiểu một khía cạnh, không nên chứa
đựng nhiều nội dung nghiên cứu.

- Nên tránh sử dụng các thuật ngữ nước ngoài không được sử dụng
rộng rãi trong xã hội, tránh các thuật ngữ chuyên môn quá hẹp, tránh các từ
đa nghĩa.

- Không nên đưa ra các câu hỏi quá dài, đặc biệt là khi hỏi trực tiếp.

- Nếu trong câu hỏi có sử dụng các thuật ngữ không phổ biến thì người
điều tra viên có thể giải thích thêm về câu hỏi này để cho khách thể hiểu
được.

- Các câu hỏi cần được cụ thể hoá, đơn giản hoá đến mức độ cao nhất,
tránh đặt câu hỏi một cách chung chung, khó hiểu (rườm rà, tối nghĩa)

- Khi đặt câu hỏi có thể đưa ra các phương án trả lời mà mọi người đều
có thể hiểu như nhau.

- Cần tránh đặt các câu hỏi khuôn mẫu, sáo rỗng hay kiểu “đánh đố” đối
với
khách thể nghiên cứu

- Cần tránh đưa ra các câu hỏi tạo nên thái độ tiêu cực đối với người
được hỏi.

• Câu hỏi đóng và câu hỏi mở

- Câu hỏi đóng là các câu hỏi đưa ra các phương án trả lời, đòi hỏi
khách thể nghiên cứu phải chọn một hay một số trong các phương án trả lời.

Có hai loại câu hỏi đóng: câu hỏi đóng phân đôi và câu hỏi đóng có
nhiều phương án trả lời.

- Câu hỏi mở: là dạng câu hỏi không đưa ra các phương án trả lời.
Theo yêu cầu của câu hỏi, khách thể tự bộc lộ suy nghĩ của mình.

• Cách thức trình bày bảng hỏi:

Để bảng hỏi được trả lời tốt, khi xây dựng chúng ta cần chú ý đến một
số khía cạnh sau:

- Ở trang đầu của bảng hỏi ghi rõ cơ quan, tổ chức tiến hành điều tra.

- Tiếp theo là lời mở đầu (nêu mục đích, yêu cầu của bảng hỏi). Trong
lời mở đầu cần cam kết giữ bí mật tên, tuổi cho người được hỏi. Nên viết
ngăn gọn, lịch sự.

- Ở phần cuối bảng hỏi nên có lời cảm ơn người được hỏi.

- Cần chú ý đến hình thức trình bày bảng hỏi: kiểu chữ, cách trình bày,

• Những ưu điểm và hạn chế

- Ưu điểm: Cho phép tiến hành nghiên cứu trên một địa bàn rộng với số
lượng lớn khách thể nghiên cứu. Có thể thu được thông tin về nhiều sự kiện
khác nhau trong thời gian ngắn. Không chỉ thu thập được thông tin trong hiện
tại mà trong cả quá khứ và tương lai.

- Hạn chế: Số liệu điều tra chủ yếu dựa vào đánh giá của khách thể.
Độ tin cậy của thông tin phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, khả năng tự trình
bày các vấn đề của khách thể. Ngoài ra, độ tin cậy của thông tin còn phụ
thuộc vào khả năng thiết kế bảng hỏi của người nghiên cứu, vào sự hợp tác
của khách thể

Để bổ sung phương pháp điều tra, người ta đã dùng phương pháp


phỏng vấn kèm theo. Phương pháp phỏng vấn hay trò chuyện có mục đích
giúp cho người điều tra thâm nhập vào cuộc sống xã hội mà họ muốn nghiên
cứu, có được thông tin ban đầu về xã hội ấy. Qua trò chuyện sẽ gây được
không khí tự nhiên, gần gũi giữa người điều tra và người được điều tra khiến
họ có thể thông cảm hơn, tích cực hưởng ứng và trả lời chính xác.

Phỏng vấn cũng bị hạn chế là tốn thời gian, nên chỉ có thể tiến hành
trong một diện hẹp, có lựa chọn, thông thường là những người lãnh đạo,
những cá nhân tiêu biểu.

2.4. Phươngpháp thực nghiệm

Đây là phương pháp trong đó nhà khoa học chủ động gây ra hiện
tượng cần nghiên cứu và đặt người được thực nghiệm vào hoàn cảnh đòi hỏi
họ phải có hoạt động tích cực.

Ưu điểm: Thực nghiệm tâm lý xã hội có thể tiến hành dưới nhiều hình
thức tự nhiên hoặc tiến hành trong phòng thí nghiệm. Phương pháp thực
nghiệm giúp cho quá trình nhận thức hiện thực nhanh chóng hơn phương
pháp khác. Nó đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc nghiên cứu khoa
học đem lại những kết quả đáng tin cậy.

Nhược điểm: Trong tâm lý học xã hội, thực nghiệm là một phương pháp
rất phức tạp, rất khó sử dụng. Bởi vì nó được thực nghiệm đối với con người.
Nó không chỉ liên quan đến vấn đề tri thức, tổ chức, giáo dục, tuyên truyền
v.v. mà còn liên quan đến các chuẩn mực đạo đức và cả pháp luật.

2.5. Phươngpháp trắc nghiệm xã hội

Trắc nghiệm xã hội có nghĩa là đo lường xã hội. Phương pháp này


được xây dựng trên cơ sở lý luận tâm lý học về xã hội và test tâm lý xã hội
nhằm đánh giá các mối liên hệ cảm xúc liên nhân cách trong nhóm.
Phương pháp trắc nghiệm xã hội do L. Moreno (1892 - 1974) sáng lập.
Moreno đã đưa ra phương pháp này để tìm hiểu các cấu trúc tâm lý xã hội
trong các quan hệ liên nhân cách của nhóm. Các cấu trúc này không chỉ xác
định các đặc điểm của nhóm mà còn xác định trạng thái tinh thần của con
người.

■ Nhiệm vụ của trắc nghiệm xã hội

Trắc nghiệm xã hội được sử dụng, để chẩn đoán những quan hệ liên
nhân cách và liên nhóm với những mục đích làm cho chúng thay đổi tốt hơn
và hoàn thiện chúng.

Trắc nghiệm xã hội có thể nghiên cứu các kiểu loại hành vi xã hội của
con người trong điều kiện hoạt động của nhóm, đánh giá sự tương hợp tâm lý
xã hội của các thành viên trong các nhóm xã hội cụ thể.

Song nhiệm vụ cơ bản của trắc nghiệm xã hội là nghiên cứu cấu trúc
không chính thức của các nhóm xã hội và bầu không khí tâm lý của nhóm.

■ Các giai đoạn thực hiện trắc nghiệm xã hội

* Các giai đoạn thực hiện

- Xác định nhiệm vụ, khách thể nghiên cứu

- Xác định các giả thuyết nghiên cứu cơ bản

- Xây dựng bảng hỏi

Bảng hỏi của trắc nghiệm xã hội gồm các câu hỏi liên quan đến những
khía cạnh cảm xúc của các quan hệ tương hỗ giữa các cá nhân trong nhóm.
Đòi hỏi những người tiến hành trắc nghiệm phải thể hiện được mối quan hệ
thân ái, gần gũi, cởi mở với các khách thể làm trắc nghiệm. Vì quan hệ như
vậy sẽ kích thích được lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của khách thể
nghiên cứu.

* Các hình thức lựa chọn mẫu trong trắc nghiệm

- Sự lựa chọn không hạn chế


Nếu trong nhóm có 12 thành viên thì mỗi người trong nhóm sẽ lựa chọn
11 người còn lại của nhóm (trừ bản thân mình) để thực hiện trắc nghiệm.

Công thức lựa chọn ở đây là: N - 1, trong đó N là số lượng các thành
viên của nhóm thực nghiệm. Như vậy, sẽ có (N - 1) người được lựa chọn để
tham gia thực nghiệm.

Ưu điểm: khả năng lựa chọn như nhau đối với các thành viên. Nó có
thể làm cho các thành viên bộc lộ được cảm xúc của mình. Đây có thể là lát
cắt qua mối liên hệ liên nhân cách phức tạp trong cấu trúc nhóm.

Nhược điểm: kỹ thuật tính toán khá phức tạp, khó khăn khi nhóm trắc
nghiệm có nhiều thành viên. Một nhược điểm khác là xác suất nhận được từ
sự lựa chọn ngẫu nhiên là rất lớn. Ví dụ, ta có thể nhận được câu trả lời “Tôi
chọn tất cả”

- Sự lựa chọn hạn chế

Ở đây các khách thể được phép chọn số lượng hạn chế các thành viên
của nhóm (số lượng này theo quy định của người làm trắc nghiệm). Ví dụ,
trong nhóm trắc nghiệm có 25 người thì mỗi thành viên được lựa chọn 4
người.

Ưu điểm: có độ tin cậy cao hơn vì nó sẽ làm người thực hiện trắc
nghiệm có ý thức trách nhiệm, chú ý hơn khi lựa chọn.

Vấn đề ở đây là chọn bao nhiêu thành viên là hợp lý. J.Moreno và E.
Jenking đã đưa ra công thức về xác suất của sự ngẫu nhiên:

P(A) = d/(N - 1)

P là xác suất của sự kiện ngẫu nhiên (A) của sự lựa chọn theo trắc
nghiệm xã hội.

N là số lượng các thành viên của nhóm d là sự lựa chọn hạn chế.

Thông thường, trị số P(A) dao động trong khoảng từ 0,20 - 0,30. Khi
biết P(A) và N thì ta có thể xác định được số lượng lựa chọn hạn chế d.
Nhược điểm của cách lựa chọn này là không có khả năng lựa làm sáng
tỏ những quan hệ tương hỗ phức tạp trong nhóm.

Để khắc phục nhược điểm của mỗi cách lựa chọn, ta có thể kết hợp cả
hai cách lựa chọn này. Giai đoạn một là lựa chọn không hạn chế, giai đoạn
hai là sự lựa chọn hạn chế.

■ Phiếu trắc nghiệm xã hội

Kết quả nghiên cứu phụ thuộc rất nhiều vào phiếu trắc nghiệm xã hội.
Khi xây dựng phiếu trắc nghiệm cần chú ý một số điểm sau:

- Số lượng các câu hỏi trong phiếu không nên quá nhiều.

-Trong trường hợp nghiên cứu nhiều người và số lượng câu hỏi trắc
nghiệm lớn chúng ta có thể chia ra thành một số phiếu trắc nghiệm nhỏ hơn
theo các nội dung nghiên cứu.

Phiếu trắc nghiệm xã hội được xây dựng theo trình tự sau:

Bước 1: Chuẩn bị danh sách các thành viên của nhóm trắc nghiệm. Mỗi
thành viên nắm được số thứ tự của mình trong danh sách đó.

Bước 2: Xây dựng phiếu điều tra.

Ở phần đầu của phiếu hướng dẫn cách thực hiện trắc nghiệm (hướng
dẫn cách trả lời các câu hỏi). Khi trả lời các câu hỏi người được trắc nghiệm
cần đánh số thứ tự các thành viên trong nhóm theo danh sách ở phần cột lựa
chọn.

Các câu hỏi trắc nghiệm được chia thành hai nhóm:

+ Nhóm I: Người được trắc nghiệm đưa ra sự lựa chọn của mình về
các thành viên của nhóm.

+ Nhóm II: Người được trắc nghiệm đánh giá xem ai trong số các thành
viên của nhóm sẽ chọn mình vào vị trí đó. Tức là đánh giá về khả năng lựa
chọn của nhóm đối với bản thân anh ta.
Trên đây là một số những phương pháp nghiên cứu cơ bản trong tâm lý
học xã hội. Các phương pháp này được sử dụng kết hợp với nhau tuỳ theo
mục đích của nhà nghiên cứu.

Chương 2. CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI

I. Khái niệm chung về hiện tượng tâm lý xã hội

Con người luôn sống trong một môi trường xã hội nhất định: gia đình,
trường học, công ti, xí nghiệp,... Trong quá trình đó các cá nhân có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này đã điều chỉnh thái độ, hành vi của cá
nhân và nhóm dẫn đến quá trình xã hội hoá cá nhân, hình thành nên những
hiện tượng tâm lý đặc trưng của nhóm.

Tâm lý xã hội bao gồm những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm
xã hội nảy sinh từ tác động qua lại trong hoạt động và giao tiếp giữa các
thành viên trong nhóm, chi phối thái độ hành vi của các cá nhân khi hiện diện
trong nhóm.

Những hiện tượng tâm lý xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau, chi
phối lẫn nhau. Nó có diễn biến rất phức tạp mặc dù được hình thành và phát
triển có quy luật.. Khi xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội
ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Chính trong quá trình đó nảy sinh
nhiều các hiện tượng tâm lý xã hội khác nhau. Việc nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn hiện nay.

II. Các hiện tượng tâm lý xã hội cơ bản

1. Tri giác xã hội

1.1. Khái niệm Tri giác xã hội

Tri giác xã hội là sự cảm nhận, hiểu biết và sự đánh giá của chủ thể tri
giác về các đối tượng xã hội: các cá nhân, nhóm người, bản thân mình, hoặc
các hiện tượng xảy ra có sự tham gia của con người.
Tri giác xã hội đó là hiện tượng nhận biết xã hội. Nó phụ thuộc vào đối
tượng mà chúng ta đang tri giác, đặc biệt là phụ thuộc vào mục đích, kinh
nghiệm, nguyện vọng của chúng ta. Nó còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, bối
cảnh của chúng ta. Thực chất của tri giác xã hội là tri giác những người và
kiểu người trong xã hội.

Tri giác xã hội có nghĩa là thông qua các biểu hiện và hành vi bên ngoài
kết hợp với một vài đặc điểm nhân cách của người đó (do chúng ta cảm nhận
được) để hiểu được mục đích, phương hướng hành động hoặc để hiểu được
người khác.

Tri giác xã hội khác với tri giác vật thể ở chỗ đối tượng tri giác là một
thực thể tích cực, có tình cảm và thái độ riêng của mình.

Cấu trúc của bất kỳ một quá trình tri giác xã hội nào cũng bao gồm: chủ
thể tri giác, đối tượng tri giác, quá trình tri giác và kết quả tri giác, sự ảnh
hưởng của tri giác xã hội tới sự điều chỉnh hành vi và hoạt động của cá nhân,
của các nhóm xã hội.

1.2. Các cơ chế tri giác xã hội

Các công trình nghiên cứu đã cố gắng chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng
của quá trình tri giác xã hội. Đó là: ấn tượng ban đầu, quy gán xã hội, định
kiến xã hội.

1.2.1. Ấn tượng ban đầu

Ấn tượng ban đầu là hình ảnh tổng thể mà chúng ta có được về một
người khác hoặc về nhóm xã hội dựa trên một sự nhìn nhận, đánh giá một
cách chung chung thông qua những biểu hiện về diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác
phong, ánh mắt,. Sau lần tiếp xúc ban đầu ta sẽ có một ấn tượng nhất định về
đối tượng của mình.

Thông thường sau lần gặp gỡ đầu tiên (tri giác, nhận thức), về mặt vô
thức, trong đầu chúng ta hiểu về người đó: liệu có chơi được hay không?
người này có thích mình không?... Chúng ta quy lại một nhân cách chung, do
đó nó chi phối rất nhiều trong quá trình tri giác lần sau.
Ấn tượng ban đầu được hình thành trên cơ sở:

■ Đặc điểm trung tâm

Trong quá trình ứng xử xã hội, giao tiếp thông thường ở mỗi cá nhân có
nổi lên một đặc điểm nào đó và chúng ta đã lấy nó để suy luận về họ.

Nhà tâm lý học Mỹ, Asch Solomon, nghiên cứu về ấn tượng ban đầu đã
tiến hành thí nghiệm như sau:

Cho hai nhóm sinh viên hai bảng ghi các đặc điểm tính cách. Nội dung
của hai bảng như nhau, chỉ khác một điểm: “tính nồng nhiệt” của người A thay
thế bằng “tính lạnh lùng” của người B.

Ngừơi A Người B
Thông minh Thông minh

Khéo léo Khéo léo

Cần cù Cần cù

Nồng nhiệt Lạnh lùng

Kiên quyết Kiên quyết

Thực tế Thực tế

Thận trọng Thận trọng


Ông yêu cầu hai nhóm sinh viên đưa ra nhận định của mình về người
có những đặc điểm trong bảng. Các sinh viên nhận xét người A là một người
tin tưởng vào những điều đúng đắn, muốn mọi người hiểu quan điểm của
mình, chân thành khi tranh luận và mong ý kiến, quan điểm đó được thừa
nhận.

Nhóm sinh viên thứ hai cho rằng người B là một kẻ lừa dối, thấy mình
thành công, thông minh đã tưởng là khác người, đó là người tính toán, lãnh
cảm.

Từ thí nghiệm này ông kết luận: chính cặp đặc điểm trung tâm “nồng
nhiệt - lạnh lùng” là yếu tố chính trong quá trình hình thành ấn tượng. Nếu
thay đổi cặp đặc điểm này thì ấn tượng chung cũng bị ảnh hưởng. Các cặp
đặc điểm trung tâm không chỉ đem lại những ấn tượng khác nhau mà còn gợi
thêm những cảm tưởng khác nhau như tính nồng nhiệt đã làm 90% sinh viên
đánh giá người A là hào hiệp, 75% sinh viên đánh giá là hài hước. Còn tính
“lạnh lùng” chỉ có 10% sinh viên nhận định người B là hào hiệp hoặc hài
hước.

Ấn tượng ban đầu được hình thành trên cơ sở một vài đặc điểm biểu
hiện ra ngoài mang tính nổi bật trong một hoàn cảnh nào đó. Đặc điểm ấy
thường gọi là đặc điểm trung tâm. Nó quyết định, khống chế cách thức và
chiều hướng suy nghĩ cảm nhận của người tri giác. Vì thế, không phải lúc nào
chúng ta tri giác cũng đúng.

■ Sơ đồ nhân cách tiềm ẩn.

Trong cuộc sống, do tiếp xúc ứng xử, chúng ta thường có một cách
thức hay gán ghép các yếu tố với nhau thành một nhân cách.

- Trong mỗi con người đều có sẵn một sơ đồ liên hệ giữa các tính cách
của con

người với nhau. Chúng ta hay gán ghép những nét tính cách, phẩm
chất giống nhau lại. Khi tiếp xúc với các cá nhân trong xã hội, thì mối liên hệ
nét tính cách tốt hay xấu nó được hoạt hoá và chúng ta dùng để đánh giá
người khác. Sự hoạt hoá - liên kết giữa các nét tính cách đã ảnh hưởng đến
việc chúng ta đánh giá người khác dựa vào kinh nghiệm của chúng ta, nghĩa
là chúng ta đặt con người bằng phạm trù sơ lược, bằng kinh nghiệm.

Khái niệm sơ đồ nhân cách tiềm ẩn: nhằm mô tả một biểu tượng tinh
thần sơ lược có chức năng hiểu biết hiện thực bằng cách giản lược những
phức tạp của đối tượng, thực tế, dự đoán được các phản ứng hành động của
đối tác, định ra cái chuẩn có khả năng nhờ đó có thể kiểm tra được người
khác và hành động của họ.

Sơ đồ nhân cách ngầm ẩn nó phụ thuộc vào:


+ Kinh nghiệm (những ý niệm, tri thức của chúng ta có về người khác),
chúng ta sẽ có phản ứng tích cực hay tiêu cực về các nhóm xã hội khác.

+ Động cơ (lý do hành động), đó là hoạt động của chúng ta hướng vào
để đạt được mong muốn, ý đồ của chúng ta.

+ Hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể. Nó quy định cách thức chúng ta nhìn
nhận người khác, quy định chuẩn mực của sự đánh giá.

■ Thông tin đầu tiên

Là những tri thức, cảm xúc của con người, trật tự của những thông tin
quy định cách chúng ta đánh giá người khác.

Thứ tự thông tin rất quan trọng trong việc quan sát người khác, những
thông tin đến sớm nhất, đầu tiên bao giờ cũng tác động gây cho người ta có
sự tri giác gây ấn tượng lớn. Nó tạo nên sự áp đặt, nó chi phối làm sai lệch
cách chúng ta cảm nhận người khác.

Thông tin ban đầu có tính quyết định khi tri giác người lạ, còn đối với
người quen thì thông tin cuối cùng lại có ý nghĩa hơn cả.

Như vậy, ấn tượng ban đầu mang tính chủ quan khó xác định, bị nhiều
hiệu ứng tác động không dễ xoá nhoà. Nó quyết định nhiều thái độ ứng xử
tiếp đó của chúng ta đối với đối tượng.

1.2.2. Quy gán xã hội

Việc chúng ta giải thích các sự kiện xã hội hay nhận định về người khác
bằng cách gán những nguyên nhân ổn định nằm trong kinh nghiệm của bản
thân, gọi là quy gán xã hội.

Quy gán xã hội, đó là quá trình suy diễn nhằm hiểu ý nghĩa hành động
của người khác bằng cách tìm những nguyên nhân hợp lý để giải thích cho
các sự kiện, hành động luôn biến đổi trong xã hội.

Quy gán xã hội tuân theo những nguyên tắc:

- Nguyên tắc tâm lý ngây thơ: chúng ta luôn tìm cách khám phá nguyên
nhân hành vi để hiểu và dự đoán sự kiện sắp tới, với mong muốn có thể giám
sát được môi trường và mọi vật xung quanh. Heider (nhà tâm lý học Mỹ) gọi
xu thế này là tâm lý ngây thơ vốn có ở mỗi người.

- Nguyên tắc suy diễn tương ứng: Khi quan sát hành vi của người
khác, ta luôn tìm cách suy diễn ý nghĩa của hành vi đó tương ứng với những
gì ta thấy. Nếu chúng ta có nhiều thông tin về mục đích hoạt động của đối
tượng thì sự suy diễn tương ứng càng chính xác. Sự suy diễn tương ứng
nhằm đi đến một quy gán nào đó bị ảnh hưởng bởi 3 yếu tố sau:

+ Chuỗi hành vi không thống nhất

+ Hành vi xã hội được mong đợi hay hành vi không được mong đợi

+ Những hành vi được tự do lựa chọn dễ suy diễn hơn hành vi bắt
buộc.

Cách suy diễn tương ứng để tìm nguyên nhân hành vi không phải lúc
nào cũng chính xác. Sự suy diễn tương ứng chỉ phản ánh được lượng thông
tin chúng ta có về đối tượng. Khi cá nhân không có thông tin chi tiết, cụ thể
nên hay dựa vào một điều bất kỳ mà người đó biết để quy gán hoặc cho là
thế này, hoặc thế kia.

- Nguyên tắc suy diễn nhân quả: thường biểu hiện bởi 3 yếu tố: Chủ
quan, khách quan, đối tượng.

Theo một quy luật chung: khi cá nhân thành công thì thường quy gán
nghiêng về bản thân theo xu hướng quy gán vào nâng cao năng lực, phẩm
chất của mình.

Ngược lại, khi thất bại cá nhân thường đổ lỗi cho khách quan. Còn đối
với người khác khi thành công chúng ta hay quy gán cho là khách quan, khi
họ thất bại lại quy gán do chủ quan của họ.

Trong quá trình quy gán chúng ta hay cho thái độ và hành vi của mình
là chuẩn, hành vi của người khác là không chuẩn. Từ đó, chúng ta nhìn nó để
chiếu theo người khác, ép người khác theo chuẩn của mình.
Một trong những nhược điểm của con người khi quy gán nguyên nhân
hành vi là ảo tưởng rằng mình có khả năng kiểm soát được mọi yếu tố quyết
định thành công hay thất bại. Ví dụ: như trò chơi sổ xố, người ta có cảm
tưởng rằng có nhiều cơ hội thắng cuộc nếu tự do lựa chọn vé số.

2. Định kiến xã hội (Social Prejudice)

2.1. Khái niệm định kiến xã hội

Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì: Định kiến là ý kiến
riêng đã có sẵn, khó có thể thay đổi được.

Như chúng ta đã biết, định kiến cùng với khuôn đúc là một trong những
dạng thức của Tri giác giác xã hội. Sự phân tích khái niệm định kiến
(Prejudice), một khái niệm cổ điển của tâm lý học xã hội, góp phần cho phép
ta nám được một trong những dạng thức biểu hiện các hệ thống tri giác của
chúng ta, cũng như góp phần cho phép cụ thể hoá các cơ chế xây dựng các
hiện thực về mặt tinh thần và xã hội, sự vận hành của những dư luận và sự
tin tưởng xã hội.

2.1.1. Một số định nghĩa của các nhà Tâm lý học xã hội

Về vấn đề định nghĩa thế nào là Định kiến xã hội cũng có nhiều ý kiến
khác nhau, mỗi tác giả khi xem xét định kiến xã hội ở góc độ riêng của mình
đã đưa lại những định nghĩa sao cho phù hợp với vấn đề mà họ đang nghiên
cứu. Ở đây chúng ta chỉ xem xét những định nghĩa của các nhà tâm lý học xã
hội.

Trước hết ta xem xét khái niệm Định khuôn xã hội. Thuật ngữ Định
khuôn xã hội do Lippman (người Mỹ) đưa ra, nhằm nói đến những biểu tượng
bền vững được đơn giản hoá khái quát và sơ đồ hoá mỗi khi nhìn nhận đối
tượng mà thiếu hụt thông tin. Định khuôn là biểu tượng xã hội của cá nhân
trong cùng một nhóm. Định khuôn xã hội có thể mang tính tích cực hoặc tiêu
cực.

Trong tri giác xã hội, định khuôn xã hội biến thành định kiến xã hội khi
nó mang sắc thái tiêu cực.
Định kiến xã hội được hiểu là thái độ của một cá nhân trong từng nhóm
xã hội, nó thường là tiêu cực đối với người khác, nhóm khác trong quan hệ
với nhau. Có nhiều loại định kiến xã hội như: định kiến chủng tộc, giới tính,
tôn giáo, giai cấp,.

Theo Fischer: Định kiến xã hội là những thái độ bao hàm sự đánh giá
một chiều và sự đánh giá đó là tiêu cực đối với cá nhân khác hoặc nhóm khác
tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ. Nói cách khác, định kiến là một loại
phân biệt đối xử bao gồm 2 thành tố chính là nhận thức và ứng xử.

Theo Godefroid: Định kiến là sự phán xét “tốt” hay “xấu” của chúng ta
đối với người khác, ngay cả trước khi ta biết rõ họ hoặc biết được lý do hành
động của họ.

Theo J. P. Chaplin: Định kiến là thái độ có thể tích cực hoặc tiêu cực
được hình thành trên cơ sở của yếu tố cảm xúc. Là niềm tin hoặc cách nhìn
thường là không thiện cảm dẫn đến cho chủ thể một cách nghĩ hoặc cách
ứng xử tương tự với người khác.

Theo Rosenberg: Định kiến xã hội là một định hướng được tiếp thụ có
mục đích thiết lập một sự phân biệt xã hội. Như vậy, có thể nói rằng định kiến
là một sự phân biệt đối xử. Quan điểm này của ông cho phép phân biệt hai
thành tố căn bản của định kiến: thành tố nhận thức và thành tố ứng xử. Ta có
thể sơ đồ hoá khái niệm định kiến:

Như vậy, tuy có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề định
kiến, nhưng suy cho cùng, các tác giả đều có nhìn nhận giống nhau một cách
cơ bản trên một số điểm. Hầu hết họ đều thừa nhận định kiến là một kiểu thái
độ tiêu cực - bất hợp lý đối với người khác dựa trên những nhận thức thiếu
căn cứ, phiến diện và một chiều của chủ thể là người mang định kiến.

2.1.2. Sự khác nhau giữa Định kiến và Phân biệt đối xử.

Trong cách nói thường ngày, nhiều người sử dụng thuật ngữ định kiến
và phân biệt đối xử như những từ đồng nghĩa. Có thực là chúng như nhau
không? Hầu hết các nhà tâm lý học đều chỉ ra sự khác biệt rất rõ ràng giữa
chúng.

Định kiến ám chỉ một kiểu thái độ đặc biệt mà thông thường là những
thái độ tiêu cực đối với thành viên của nhóm xã hội khác. Vì một kiểu thái độ
nên định kiến không phải lúc nào cũng được phản ánh công khai trong hành
động. Trong rất nhiều trường hợp, cá nhân mang định kiến nhận ra rằng mình
không thể biểu đạt nó một cách trực tiếp. Có một nghìn lẻ một các lý do khiến
họ làm như vậy: luật lệ, áp lực xã hội, nỗi sợ hãi bị trả thù. đã ngăn cản họ
thực hiện hành động tiêu cực một cách rộng rãi. Nhưng khi không còn những
rào cản và sự kiềm toả như vậy thì những niềm tin, cảm giác tiêu cực thắng
thế và nó được thể hiện một cách công khai và trở thành sự phân biệt đối xử.

2.2. Các nguyên nhân hình thành định kiến xã hội

2.2.1. Sự cạnh tranh (competition)

Thật không may mắn, những điều mà con người coi trọng nhất trong
cuộc đời này như công việc tốt, nhà cửa đẹp đẽ, vị trí cao, một nền giáo dục
hoàn hảo,.. lúc nào cũng hiếm hoi nhưng lại không bao giờ có đủ cho mọi
người. Thực tế này có thể chính là sự giải thích lâu đời nhất cho sự ra đời của
định kiến.

Theo quan điểm này, định kiến ra đời từ cuộc cạnh tranh giữa những
nhóm xã hội khác nhau về những tiện nghi giá trị và cơ hội. Thành viên của
những nhóm liên quan tiếp tục nhìn nhận ngày một tiêu cực về nhau. Họ “dán
nhãn” nhau là kẻ thù, coi nhóm mình là đạo đức tối thượng, dựng lên rào cản
ở giữa và sự thù địch giữa họ ngày một sâu sắc. Kết quả tất yếu là từ những
cuộc cạnh tranh đơn giản chẳng liên quan gì tới oán hận và thù ghét đã dần
phát triển thành những định kiến gay gắt. Thậm chí những cuộc cạnh tranh
kiểu như vậy thường dẫn tới mâu thuẫn trực tiếp, công khai và những hành vi
có tính xâm khích.

Nghiên cứu của Hovland và Sear đã cho ta thấy điều này: Họ đã tiến
hành kiểm tra mối liên hệ giữa số người da đen bị phân biệt đối xử ở 14 bang
của nước Mỹ với hai chỉ số về kinh tế là giá trị trang trại của cây bông và giá
trị đồng cỏ. Họ đã lấy số liệu trong 49 năm và kết quả là: điều kiện kinh tế
càng xấu bao nhiêu thì số vụ bạo lực xảy đến với người da đen càng nhiều
bấy nhiêu.

Điều đó cho thấy một khi kinh tế khủng hoảng thì những cuộc cạnh
tranh về tài nguyên kinh tế càng khan hiếm. Những người thất bại trong cuộc
cạnh tranh hiện tại nảy sinh tâm lý lo hãi vì sẽ bị mất đi vị thế của mình. Lúc
này nhóm thiểu số (người da đen, người nhập cư) trở thành những người giơ
đầu chịu báng, những “con vật hy sinh” đối với những kẻ thất bại và là nơi để
họ đổ lỗi, trút giận bằng những hành vi hung tính. Những nạn nhân này trở
thành sự lý giải hợp lý đối với nạn thất nghiệp, mức sống thấp và nhờ đó biện
minh cho hành động của những cá nhân mang định kiến. Với quan điểm như
vậy, định kiến là một cơ chế bảo vệ được kích hoạt bởi sự giận dữ, lo hãi và
cảm giác bị hạ thấp giá trị.

Nghiên cứu của Sherif và những cộng sự: Xung đột và định kiến trong
một trại hè.

Nghiên cứu của họ bao gồm việc gửi những cậu bé 11 tuổi đến một trại
hè ở vùng hẻo lánh. Khi những cậu bé đến trại hè, các em được chia làm 2
nhóm riêng biệt và được phân làm 2 khu cách biệt nhau khá xa. Trong một
tuần các cậu bé sống và chơi với nhóm của mình, tham gia những hoạt động
như đi bộ đường trường, bơi lội và nhiều loại thể thao thú vị khác. Trong giai
đoạn đầu, các em phát triển sự quan tâm đối với nhóm của mình, các em
chọn tên cho đội (Đại bàng, Trống lắc) và trang trí cờ hiệu của nhóm mình.

Trong giai đoạn hai của cuộc nghiên cứu, các cậu bé được thông báo
rằng các em sắp tham gia vào một cuộc thi đấu. Đội chiến thắng sẽ được
nhận chiến lợi phẩm và giải thưởng. Liệu sự ganh đua có làm phát sinh định
kiến không? Câu trả lời đang đến gần. Khi những cậu bé thi đấu thì tình trạng
căng thẳng giữa hai đội tăng lên. Đầu tiên mọi việc chỉ giới hạn trong việc
lăng mạ, chọc phá nhưng sau đó nó nhanh chóng leo thang thành những
hành động trực tiếp như đội Trống lắc đốt cờ đội Đại bàng. Ngày hôm sau, đội
Đại bàng trả thù bằng việc tấn công vào cabin của đối thủ, lật ngược giường
chiếu, xé mùng màn và lấy đi vật dụng cá nhân. Cùng lúc đó, hai nhóm ngày
càng có nhiều cái nhìn xấu hơn về nhau. Các em dán nhãn, đối thủ là những
kẻ yếu đuối, vô tích sự và nhát gan trong khi không ngừng ca tụng nhóm của
mình.

Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc nghiên cứu, các nhà khoa học đã
phải can thiệp bằng cách tạo ra một hoàn cảnh mới. Bằng cách làm việc cùng
nhau để khôi phục nguồn nước, chung tiền mướn phim và cùng sửa chữa
chiếc xe tải bị hỏng, không khí căng thẳng đã phai mờ, rào cản giữa 2 nhóm
đã thực sự biến mất và tình bạn xuyên nhóm giữa các em đã được thiết lập.

2.2.2. Bất bình đẳng xã hội (social unequality)

Trong bất cứ xã hội nào cũng tồn tại những địa vị xã hội không ngang
bằng. Các cá nhân không có sự bình đẳng với nhau về cơ hội, lợi ích, về các
giá trị. và sự không ngang bằng đó dễ dàng làm phát sinh định kiến. Những
người có định kiến thường đánh giá vị trí của mình cao hơn người khác và
bằng thái độ kẻ cả, họ thường yên tâm

v ề giá trị của mình. Họ tự cho mình cái quyền được phán xét người
khác, họ cho mình là tốt hơn, cao quý hơn còn những người thuộc về nhóm
xã hội khác thì bị gán cho những đặc điểm tiêu cực và bị đối xử kém ưu ái.

Theo một số tác giả, lúc này định kiến là sự hợp lý hoá bất bình đẳng
xã hội và nó được sử dụng như một công cụ để chứng minh cho tính đúng
đắn của những người có thế lực và tiền bạc, sở hữu nhiều giá trị cao hơn.

2.2.3. Xã hội hóa (socialization)

Định kiến xã hội được hình thành qua quá trình xã hội hoá ngay từ lúc
đứa trẻ bắt đầu sinh ra. Môi trường gia đình, đặc biệt là những khuôn mẫu
của bố mẹ là nguồn hiểu biết quan trọng nhất đối với trẻ. Qua bố mẹ, đứa trẻ
hiểu và tiếp xúc với thế giới bên ngoài, hình thành xu hướng lặp lại những gì
mà bố mẹ và người lớn đã dạy dỗ nó. Đứa trẻ học cách ứng xử xã hội bằng
cách quan sát người khác và bắt chước họ. Vì thế những kinh nghiệm đầu
tiên trong cuộc đời có thể có tầm quan trọng nhất định đến sự hình thành định
kiến. Trẻ em học cách suy nghĩ, nhìn nhận và đánh giá như những người
xung quanh chúng.

Mặt khác, những phương tiện truyền thông đại chúng cũng đóng vai trò
quan trọng đối với các em trong việc nhận thức xã hội và những áp lực phải
tuân theo các quy tắc xã hội. Chẳng hạn, thành viên của những dân tộc,
chủng tộc thiểu số ít được xuất hiện trên những phương tiện thông tin đại
chúng mà khi xuất hiện họ lại thường đóng những vai có thân phận thấp hèn
và vai trò hài hước. Khi những tình huống như thế cứ lặp lại nhiều lần thì cuối
cùng tin là thành viên của những nhóm đó thực sự là thấp hèn.

Người ta có thể chứng minh rằng những người có nhân cách độc đoán,
được tạo nên do hoàn cảnh và sự giáo dục chính là những người nhạy cảm
nhất trong việc phát triển định kiến. Một nhân cách như vậy hàm chứa một cái
gì đó cứng nhắc, một sự khó khăn trong việc tiếp xúc với người khác, một
khuynh hướng đơn giản hoá các tình huống đến cực đoan và nhất là lòng tin
vào tính chất thượng đẳng của nhóm xã hội và nền văn hoá của mình. Những
con người này có khuynh hướng phân biệt tất cả những ai khác với mình,
khác với cơ cấu tư duy của mình. Nhà nghiên cứu Adorno và những cộng sự
của ông đã nhận thấy rằng những nhân cách có thiên hướng căm ghét những
cá nhân khác biệt thuộc tầng lớp thấp thường xuất hiện trong những gia đình
gia trưởng - nghiêm khắc có người bố tàn bạo và người mẹ nhu nhược, phục
tùng. Trẻ em trong những gia đình như vậy thường căm ghét và sợ hãi bố
của mình. Tuy nhiên các em thường phủ nhận và che giấu tình cảm này do
sợ bị trừng phạt. Những người trưởng thành thuộc mẫu tính cách độc đoán
hướng sự giận dữ của mình vào những nhóm cá biệt trong xã hội như nhóm
da đen, nhóm đồng tính, nhóm Do thái hay những nhóm không thích ứng với
tiêu chuẩn xã hội.

2.2.4. Khuôn mẫu trong nhận thức


Trong một hoàn cảnh thiếu hụt thông tin, kinh nghiệm sống hạn chế
chúng ta thường lựa chọn giải pháp dễ dàng nhất để giải bài toán về người
khác.

Chúng ta có xu hướng xếp những con người rất đa dạng vào những
hạng đơn giản và có những kết luận sai lầm về họ. Chúng ta cũng có xu
hướng dựa vào những khuôn mẫu nhận thức có sẵn hơn là tìm hiểu về chúng
để có một sự phản ánh chân thực hơn. Trong điều kiện đó thì những khuôn
mẫu giúp ta rút ngắn thời gian nhận thức và đưa ra một hình ảnh giản ước về
đối tượng.

Như vậy, các khuôn mẫu có những ảnh hưởng nhất định đến cách
chúng ta xử lý thông tin. Chúng ta có khuynh hướng chỉ lựa chọn những
thông tin phù hợp với khuôn mẫu, những thông tin được ưa thích, mong đợi
và những thông tin này được xử lý nhanh hơn, được ghi nhớ sâu hơn. Còn
những thông tin không phù hợp nó sẽ được ý thức của chúng ta chủ động
bác bỏ.

Ngày nay, tuy một số đông đã chống lại các khuôn mẫu nhận thức tiêu
cực không còn phù hợp với quan điểm và niềm tin có ý thức của họ nhưng khi
họ hành động hoặc phản ứng một cách không có chủ ý thì những khuôn mẫu
tiềm thức vẫn thắng thế.

Chẳng hạn, một người da trắng rất dễ có xu hướng kiểm tra lại vị trí của
mình sau khi đứng cạnh một anh da đen trong xe điện ngầm, dù người này
hoàn toàn không có cảm giác thù địch nào với người da mầu.

2.2.5. Biểu tượng xã hội

Trong xã hội thường tồn tại những biểu tượng xã hội. Chẳng hạn trong
xã hội Mỹ người da trắng thường được quan niệm như những người có lòng
tốt, sự trong sạch và thông minh. Trong khi đó những người da đen thường bị
liên tưởng là những kẻ bệnh hoạn, tàn ác, ngu dốt và không có tinh thần trách
nhiệm.
Những biểu tượng xã hội này đã làm ảnh hưởng đến định kiến và phản
ứng của trẻ em. Nghiên cứu của nhà tâm lý học người da đen Mamie Clack
đã chứng minh điều đó. Ông đã tiến hành thực nghiệm trên một số lượng lớn
trẻ em da đen từ 3 - 7 tuổi. Nội dung thực nghiệm của ông như sau: ông đưa
ra 2 loại búp bê da trắng và da đen, ông yêu cầu các em trả lời câu hỏi:

Búp bê nào xấu nhất?

Búp bê nào xinh nhất?

Búp bê nào da đen?

Búp bê nào ngoan?

Búp bê nào em thích chọn làm bạn?

Phần lớn trẻ em tham gia thực nghiệm đều nhận thức đúng mầu da của
búp bê và chúng cho biết chúng thích chơi với búp bê mầu trắng hơn vì nó
đẹp hơn, tốt hơn còn búp bê mầu đen thì xấu xí và độc ác. 2/3 trẻ em da đen
đã bị búp bê da trắng cuốn hút.

Các nhà nghiên cứu đã giải thích hiện tượng này là hậu quả từ những
biểu tượng xã hội khinh miệt người da đen và sự chối bỏ của chính trẻ em da
đen đối với con búp bê có cùng màu da với mình thể hiện một sự khinh miệt
lạc hướng chống lại chính bản thân mình.

Những biểu tượng xã hội tiêu cực đã khiến cho nhóm thiểu số không
chỉ là nạn nhân của sự phân biệt đối xử mà còn làm họ đánh mất niềm tin vào
những giá trị của mình, tự hạ thấp mình và thay vì hướng ra bên ngoài để
chống lại những định kiến mà họ là đối tượng thì họ lại chấp nhận nó, tin vào
nó.

2.2.6. Trường học

Trường học được đánh giá là một trong những nguồn gốc hình thành
định kiến vì nhiều định kiến đã được ra đời từ ảnh hưởng của trường học.

Sự phân tích này cho thấy sách giáo khoa trong nhà trường là một sự
chuyển tiếp hàng đầu trong việc tập luyện định kiến. Việc học trong nhà
trường là một trong những hình thức phát triển và duy trì định kiến qua sự
hấp thụ nhập tâm những khuôn mẫu từ sách vở. Con người lại rất dễ bị cầm
tù bởi những quan niệm, những hiểu biết cũ kỹ được thấy trong sách hoặc
được học trong nhà trường. Nếu thấy ở đâu đó có điều gì không phù hợp với
những điều mình đã học, đã đọc là bác bỏ ngay không cần xem xét gì.

Hiện tượng đó đã từng xảy ra với rất nhiều lý thuyết khác nhau xuất
hiện trong lịch sử. Một ví dụ, đó là hiện tượng của Phân tâm học. Có rất nhiều
người chưa từng đọc một tác phẩm nào của phân tâm, hoặc biết rất ít về
phân tâm học nhưng khi nghe người khác nói hay - nói dở như thế nào đấy là
tin ngay, nhất là những điều đó lại được nói ra từ sách giáo khoa hoặc từ
những người có học vấn. Và kết quả là người ta thổi phồng quá mức những
thành tựu phân tâm học hoặc cho rằng đó chỉ là một lý thuyết nhảm nhí, dung
tục, chỉ quan tâm đến vấn đề bản năng và tình dục.

2.2.7. Kiểu hình thần kinh

Quan điểm này cho rằng những người thuộc kiểu hình thần kinh yếu
(trong đó quá trình ức chế mạnh hơn quá trình hưng phấn) là những người có
yếu tố thuận lợi để phát triển định kiến. Những người có kiểu hình thần kinh
như vậy thường không linh hoạt, rụt rè, tự ti. Khi gặp phải hoàn cảnh không
thuận lợi họ thường suy nghĩ một cách tiêu cực, thậm chí bệnh hoạn. Họ rất
ngại giao du và nếu buộc phải tiếp xúc với người khác thì thái độ của họ thiếu
cởi mở, không lường trước được. Họ là những người rất khó khăn trong việc
chấp nhận những giá trị mới và ít thích nghi với những biến động của môi
trường.

Nói tóm lại, định kiến xã hội là một hiện tượng tâm lý phức tạp bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân đa dạng nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống của con
người.

Các nguyên nhân này không tách rời nhau mà có mối liên hệ ràng buộc
chặt chẽ. Hiểu được nguyên nhân hình thành định kiến ta sẽ có cách khắc
phục được nó. Bởi vì suy đến cùng định kiến là một kiểu thái độ mà thái độ
của con người có thể thay đổi.
2.3. Các mức độ của định kiến xã hội

Theo như định nghĩa về định kiến xã hội, có thể chia định kiến xã hội ra
thành 3 mức độ như sau: lời nói - nhận thức - hành vi, trong đó hành vi là
mức độ cao nhất của định kiến xã hội.

Tuy nhiên, ta cũng cần phải hiểu sự phân chia này chỉ mang tính chất
tương đối, bởi định kiến dù ở mức độ nào thì nó cũng vẫn là một thái độ tiêu
cực của chủ thể mang định kiến.

2.4. Thay đổi định kiến

Như đã nói ở trên, định kiến xã hội là một thái độ tiêu cực và chủ quan
của chủ thể mang định kiến đối với đối tượng của họ, mặt khác định kiến xã
hội có thể khiến ta tri giác sai người khác cũng như các hiện tượng khác nhau
của xã hội, chúng ta không thể dựa vào nó để làm cơ sở định hướng cho
cuộc sống cá nhân. Do đó, việc thay đổi định kiến, nhất là những định kiến
“nguy hiểm” như: phân biệt chủng tộc, phân biệt tôn giáo,.. là rất cần thiết và
có ý nghĩa không chỉ cho các cá nhân mà còn cho lợi ích chung của cộng
đồng. Tuy nhiên, thay đổi định kiến là cả một quá trình không hề đơn giản.

2.4.1. Khó khăn trong thay đổi định kiến

Con người hầu như ai cũng có định kiến không về cái này thì về cái
khác, không trong lúc này thì trong lúc khác. Tuy nhiên, họ lại không ý thức
được rằng mình mang định kiến, thậm chí là không chịu ý thức về điều đó.
Điều này tạo ra khó khăn rất lớn khi muốn thay đổi định kiến.

Thứ hai, định kiến với các chức năng của mình đã trở thành cái để đảm
bảo cho sự phân biệt đối xử, sự biện minh xã hội và đặc biệt định kiến khiến
cho cá nhân (mang định kiến) giữ vững và gán cho mình những giá trị của
nhóm nhằm nâng cao giá trị của bản thân. Do đó, mà không phải ai cũng có
nhu cầu thay đổi định kiến của mình.

Thứ ba, định kiến gắn liền với những giá trị của nhóm cũng như của
mỗi cá nhân, vì vậy, khi thay đổi định kiến cũng có nghĩa là cá nhân và nhóm
mất đi những giá trị, từ đó dẫn đến việc bị đánh đồng với người khác. Điều
này cũng tạo ra những khó khăn không nhỏ khi muốn thay đổi định kiến.

Thứ tư, định kiến có nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, định kiến
phụ thuộc vào nhận thức, tình cảm, hành vi của mỗi cá nhân, vào áp lực của
nhóm. dẫn đến khó thay đổi.

2.4.2. Các bước thay đổi định kiến

Có hai bước chủ yếu để thay đổi định kiến:

- Thay đổi nguyên nhân dẫn đến định kiến: như trình bày ở phần trên,
định kiến có nhiều nguyên nhân khác nhau, muốn thay đổi được định kiến thì
trước tiên ta phải xác định được nguyên nhân chủ yếu dẫn đến định kiến đó
để tác động vào.

- Thay đổi định kiến: sau khi xác định rõ nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
định kiến ta sẽ dùng các biện pháp cụ thể phù hợp để thay đổi định kiến.

2.4.3. Biện pháp thay đổi định kiến

- Ngăn chặn quá trình hình thành định kiến: Định kiến xã hội được hình
thành qua quá trình xã hội hoá ngay từ khi đứa trẻ vừa sinh ra. Môi trường gia
đình, đặc biệt là những khuôn mẫu sống của bố mẹ là nguồn hiểu biết quan
trọng nhất của đứa trẻ. Qua bố mẹ, đứa trẻ hiểu, tiếp xúc với thế giới bên
ngoài và có xu hướng lặp lại những gì bố mẹ trao cho. Trẻ con học cách ứng
xử xã hội qua hoạt động thực tiễn, qua bắt chước, quan sát, giao tiếp với
người khác. Chúng tiếp thu thái độ và định kiến của bố mẹ. Định kiến gắn
chặt với thái độ, cũng giống như thái độ, định kiến có thể tiếp thu được và
cũng có thể từ bỏ được. Nó gây ảnh hưởng tới hành vi vào những thời điểm
nhất định và có khả năng suy giảm vào thời điểm khác.

Trường học là cơ sở quan trọng hình thành định kiến. Nhiều định kiến
được hình thành từ những ảnh hưởng của sách vở, của nhóm bạn, của cuộc
sống đời thường. Trong quá trình sống, ảnh hưởng của các nhóm xã hội, thể
chế chính trị, bối cảnh xã hội làm cho các định kiến hoặc bền vững hoặc bị
xoá bỏ đi. Ví dụ như định kiến trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến khó
xoá bỏ ngay được.

Nắm được quá trình hình thành định kiến, ta có thể dùng chính các môi
trường hình thành nên định kiến (gia đình, nhà trường, các thể chế.) để tác
động giúp ngăn chặn hoặc mất dần định kiến.

- Trị liệu cá nhân, trị liệu nhóm: Đây là phương pháp nhằm nâng cao
khả năng tri giác xã hội cho các cá nhân và nhóm. Quá trình trị liệu sẽ giúp cá
nhân nhận thức đúng hơn về bản thân, về người khác cũng như hoàn thiện
hơn nhận thức xã hội của mình. Qua trị liệu cá nhân, trị liệu nhóm sẽ góp
phần ngăn chặn quá trình hình thành định kiến cũng như làm mờ dần những
định kiến vốn có của cá nhân do nhận thức của cá nhân đã được hoàn thiện.

- Thay đổi hành vi: Phương pháp này chủ yếu là dùng pháp luật và các
thiết chế xã hội để điều chỉnh, thay đổi hành vi (mang tính định kiến) của các
cá nhân.

- Tiếp xúc trực tiếp nhóm: Sự tiếp xúc trực tiếp giữa các nhóm cũng có
thể giúp ngăn chặn và làm mờ dần định kiến giữa các nhóm. Bởi qua sự tiếp
xúc trực tiếp các nhóm sẽ nhận thức đúng đắn hơn về “địch thủ” của mình.

Tuy nhiên, sự tiếp xúc giữa các nhóm muốn có hiệu quả cũng cần tuân
theo một số những nguyên tắc nhất định:

+ Những nhóm tác động phải ngang bằng nhau về địa vị, vị thế xã hội.

+ Các nhóm phải tương trợ nhau.

+ Sự tiếp xúc giữa các nhóm phải chính thức (ràng buộc, trói buộc lẫn
nhau)

+ Sự tiếp xúc phải có bối cảnh, các quy tắc, các nhóm như nhau

+ Các nhóm ảnh hưởng lẫn nhau theo cách cho phép phản đối những
hành vi tiêu cực.

+ Nhìn nhận từng thành viên của nhóm bạn như là tiêu biểu của nhóm
đó.
2.5. Kết luận:

Như đã trình bày ở phần trước, định kiến xã hội là một kiểu thái độ tiêu
cực - bất hợp lý đối với người khác dựa trên những nhận thức thiếu căn cứ,
phiến diện và một chiều của chủ thể là người mang định kiến. Chính từ định
kiến có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng trong các mối quan hệ xã hội
(phân biệt đối xử trong gia đình, kỳ thị chủng tộc, xung đột tôn giáo...). Do đó,
xoá bỏ định kiến là một yêu cầu rất thiết thực mà xã hội đặt ra, đòi hỏi các nhà
quản lý, các nhà khoa học mà trước hết là những nhà tâm lý học phải đi sâu
tìm hiểu và đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm giải quyết nó.

3. Ảnh hưởng xã hội

3.1. Khái niệm ảnh hưởng xã hội

3.2.1. Định nghĩa

Ảnh hưởng xã hội là một trong những cơ chế căn bản được tâm lý học
xã hội quan tâm nghiên cứu. Ảnh hưởng xã hội chỉ một cách rất rộng tới cái
hành vi của một người trở thành một chỉ dẫn định hướng cho hành vi của một
người khác. Do đó, có thể nói rằng ảnh hưởng xã hội bao trùm tất cả những
gì tạo ra một thay đổi về hành vi dựa vào những sức ép chi phối trong một bối
cảnh nhất định.

Ảnh hưởng xã hội theo nghĩa rộng là sự tác động (của tự nhiên - xã
hội) để lại kết quả trên các sự vật, hiện tượng hay con người.

Ảnh hưởng xã hội là sự tác động bằng các hình thức khác nhau trong
một quá trình tương tác làm thay đổi các đặc điểm tâm lý (đó là các quan
điểm, quan niệm, thái độ, biểu hiện hành vi của người bị tác động)

Tâm lý chung là bản chất của ảnh hưởng xã hội: nghiên cứu sự tác
động, tương tác giữa con người với con người.

Ảnh hưởng lẫn nhau giữa người với người trong quá trình giao tiếp là
nhân tố hình thành tâm lý chung của các nhóm xã hội, là đối tượng của tâm lý
học xã hội.
Vậy, ảnh hưởng xã hội là một quá trình tác động của các cá nhân hay
của một nhóm xã hội làm thay đổi hành vi của họ.

3.1.2. Các loại ảnh hưởng xã hội

Ảnh hưởng trực tiếp: khi cá nhân mặt đối mặt. Những đặc điểm về tâm
lý ứng xử, phong cách ăn mặc, nói chuyện của người này có thể ảnh hưởng
đến người kia và ngược lại. Ví dụ như các em học sinh có thể bị ảnh hưởng
nhau về cách nói chuyện, hoặc có thể bắt chước nhau quần áo... những
người bị ảnh hưởng bởi người khác (đối tượng tiếp xúc trực tiếp) thường là
những người có địa vị, học vấn, uy tín, tư cách, trí lực, độ tuổi kém hơn. Cơ
chế cho loại ảnh hưởng này chủ yếu là bắt chước, ám thị, đồng nhất hoá, so
sánh xã hội.

Ảnh hưởng gián tiếp: gồm có:

- Ảnh hưởng gián tiếp xác định được: thông qua các chuẩn mực, phong
tục, thái độ của nhóm sẽ ảnh hưởng đến tâm lý chúng ta (ở đây cần lưu ý
rằng: cá nhân không trực tiếp chịu tác động của các yếu tố ảnh hưởng xã hội
từ các nhóm xã hội từ các nhóm lớn mà phải thông qua nhóm nhỏ). Trong đó,
người lãnh đạo (thủ lĩnh) đóng vai trò quan trọng trong việc làm ảnh hưởng tới
các thành viên của nhóm.

Nhóm nhỏ là một tập hợp người nhất định, có quan hệ trực tiếp qua lại
thường xuyên, liên kết với nhau trong một hoạt động chung, tồn tại trong một
khoảng thời gian nhất định. Còn nhóm lớn là tập hợp đông người liên kết với
nhau trong quá trình hoạt động sống, tạo ra những giá trị, chuẩn mực và đặc
điểm tâm lý chung có khả năng điều chỉnh, định hướng và điều hoà tâm lý,
hành vi cá nhân.

- Ảnh hưởng gián tiếp không xác định được: bị lây lan, ám thị một cách
vô thức. Loại ảnh hưởng này chủ yếu tồn tại trong đám đông. Đám đông là
một tập hợp người vì lý do nào đó mà hội tụ lại tại một địa điểm nhất định, vào
một thời điểm nhất định. Ví dụ: cổ động viên trên sân vận động, cuộc mít tinh,
biểu tình, lễ hội lớn được tổ chức ở sân rộng. Trong đám đông, tình cảm của
mọi người được lây lan, được cảm nhiễm, được tích hợp, và do đó, cường độ
được tăng lên.

Trong ảnh hưởng gián tiếp không xác định được, các cá nhân cũng có
thể bị ảnh hưởng một cách không chủ định (bị ảnh hưởng vô thức) bởi cơ chế
ám thị. Cơ chế này thường gắn với các hình thức thông tin đại chúng như
quảng cáo, đài, báo, ti vi,.

3.1.3. Các đặc điểm của ảnh hưởng xã hội

Là một hiện tượng bao quát tất cả các khía cạnh khác nhau của đời
sống con người. Trong tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống mỗi người,
chúng ta đều nhận thấy “bóng dáng” của ảnh hưởng xã hội. Mỗi cá nhân
được sinh ra trong xã hội, trở thành người cũng phải nhờ học hỏi, tiếp thu...từ
xã hội. Ngay trong quá trình ấy, và ngay từ khi còn là một đứa trẻ mới lọt lòng,
mỗi người đều chịu ảnh hưởng xã hội. Trẻ hình thành cho mình những hoạt
động sống đơn giản nhất, đến quá trình phát triển nhân cách, ý thức. đầu tiên
thông qua cơ chế bắt chước. Ở những độ tuổi lớn hơn, mỗi người đều chịu
ảnh hưởng xã hội nhiều hay ít, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực kia như công việc,
quan niệm, nhân cách, ngoại hình.

Con người thường không ý thức hết được tác động và sự chịu tác động
của các ảnh hưởng cũng như các cá nhân chủ động hay vô tình gây ảnh
hưởng ở người khác. Trong cơ chế ám thị, cá nhân thường không dành sự
quan tâm đến các thông tin mà người khác muốn ám thị với mình, nhưng sau
đó, những thông tin ấy lại đóng vai trò quan trọng trong quan niệm, thái độ,
hoạt động của cá nhân. Còn trong cơ chế bắt chước, người được bắt chước
có khi không biết rằng mình đã gây ảnh hưởng nhất định đến người khác.

Phụ nữ có xu hướng bị ảnh hưởng xã hội nhiều hơn (dễ bị phục tùng
hơn). Những người tự ti, ít chịu trách nhiệm bản thân, hệ thần kinh yếu bị ảnh
hưởng nhiều.

Ảnh hưởng xã hội còn phụ thuộc nền văn hoá, lối sống, mức chịu đựng

Ảnh hưởng xã hội có 2 xu hướng:


+ Hiệu ứng thuận lợi xã hội:

Ví dụ: đua xe đạp, nếu hai người đi cùng nhau, hoặc một người đi mà
có người khác đuổi theo thì thuận lợi hơn là một người đi xe đạp một mình.
Như vậy, sự có mặt của người này làm tăng tính tích cực của người khác.
Điều này cũng được áp dụng trong một số ngành sản xuất.

Hiệu ứng thuận lợi xã hội chỉ xảy ra khi cá nhân làm những công việc
đơn giản, quen thuộc hoặc với người mình yêu thích. Nếu công việc không
quen thuộc, thuận lợi, cá nhân làm việc không được tốt.

+ Hiệu ứng lười biếng xã hội:

Khi có một số lượng lớn hơn mức cần thiết để làm công việc chung, sự
cố gắng bị giảm đi. Có nhiều người cùng thực hiện một công việc, trách
nhiệm của cá nhân giảm đi.

Ở đây chúng ta có thể giải thích bằng hiện tượng khuếch tán xã hội: bất
kỳ một áp lực nào của nhóm cũng được chia nhỏ cho các thành viên trong
nhóm. Vì vậy, khi số thành viên trong nhóm tăng lên, cá nhân thấy nhiệm vụ
của mình không cần thiết.

Hiệu ứng lười biếng xã hội chỉ xảy ra đối với những cá nhân cho rằng
công việc chung không đáng quan tâm, hoặc không có ai kiểm soát, đánh giá.
Như vậy, tính khuyết danh, tính mất mình làm cho hiệu quả kém đi.

Hiệu ứng lười biếng xã hội thể hiện ý thức trách nhiệm của các cá nhân
với hành vi tổ chức của họ.

3.1.4. Ba yếu tố ảnh hưởng đến ảnh hưởng xã hội

Thứ nhất, đó là cường độ quan trọng (hay cường độ tương tác) của
nhóm đối với cá nhân. Cường độ tương tác càng mạnh thì ảnh hưởng xã hội
càng nhanh, càng rõ rệt. Ngược lại, nếu độ hấp dẫn của nhóm kém đi đối với
cá nhân, tần số và cường độ tương tác thấp đi, ảnh hưởng xã hội đến cá
nhân cũng giảm theo.
Thứ hai, đó là mức độ gần gũi về không gian, thời gian. Nếu khoảng
cách càng nhỏ, thời gian càng dài, thì mức độ ảnh hưởng đến cá nhân sẽ lớn
hơn. Cơ chế lây lan sở dĩ có thể phát huy mạnh trong đám đông bởi khoảng
cách rất ngắn giữa các cá nhân.

Thứ ba, đó là số lượng các thành viên trong nhóm (nhóm ít người gây
ảnh hưởng xã hội lớn hơn nhóm nhiều người) (theo nghiên cứu nhóm ít
người thường là nhỏ hơn 5 người)

3.2. Các cơ chế tâm lý của ảnh hưởng xã hội

Các công trình nghiên cứu đã khẳng định: không có một cá nhân nào
tồn tại bên ngoài các nhóm xã hội. Trong quá trình giao tiếp, tâm lý của các cá
nhân tác động qua lại với nhau, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Hành vi của
một người trở thành một chỉ dẫn, định hướng cho hành vi của một người
khác. Suy cho cùng đời sống tâm lý của mỗi cá nhân đều ảnh hưởng đến tâm
lý nhóm (xã hội) và ngược lại, tâm lý của nhóm lại chi phối tâm lý của từng cá
nhân. Tất cả các quá trình đó đều xen kẽ, đan quyện với nhau gọi là ảnh
hưởng xã hội hay ảnh hưởng giữa các cá nhân trong quá trình giao tiếp.

Các quá trình ảnh hưởng xã hội được thực hiện và thông qua các cơ
chế tâm lý: bắt chước, lây lan, ám thị, thoả hiệp, đồng nhất hoá. Đây được gọi
là những cơ chế tâm lý đặc trưng nhất của ảnh hưởng xã hội.

3.2.1. Bắt chước

Khái niệm: bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành động,
hành vi, tâm trạng, cách thức suy nghĩ, ứng xử của một người hay một nhóm
người nào đó.

Có thể thấy biểu hiện của bắt chước ở mọi giai đoạn phát triển khác
nhau của cá nhân, đặc biệt ở trẻ em bắt chước giữ một vai trò quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách.

Nghiên cứu của Tarde G.


Người đầu tiên nghiên cứu về bắt chước một cách có hệ thống là Tarde
G. được đưa ra trong tác phẩm: “Những quy luật của bắt chước” (1890).
Những nét chính trong luận điểm của ông là:

- Bắt chước là nguyên tắc nền tảng để xã hội tồn tại và phát triển.
Chính nhờ hoạt động bắt chước mà hình thành chuẩn mực và giá trị của
nhóm. Bắt chước là trường hợp cá biệt của “quy luật lặp lại thế giới” tổng quát
nhất. Nếu trong thế giới động vật quy luật này được thực hiện thông qua di
truyền thì trong xã hội loài người quy luật này thực hiện qua hoạt động, hoạt
động bắt chước. Bắt chước là nguồn gốc của tiến bộ bởi vì nhờ có cơ chế bắt
chước mà các phát minh sáng chế của xã hội loài người duy trì phát triển và
khai thác lại.

- Bắt chước có tính chất vô ý thức, nó là sự sao chép một cách máy
móc các phản ứng bề ngoài của những người khác. Nói cách khác, bắt
chước là “phim ảnh” của một bộ não này “chụp lại ảnh” của một não khác.

Cũng trong tác phẩm này, ông đã phân ra 4 loại bắt chước:

- Bắt chước logic (trí tuệ - ý thức) và phi logíc (cảm tính, phi lý)

- Bắt chước hình thức và bắt chước bản chất.

- Bắt chước nhất thời (mốt, tâm trạng xã hội) và bắt chước lâu dài (tập
quán, phong tục, tín ngưỡng)

- Bắt chước lẫn nhau trong phạm vi một giai cấp, một thế hệ và sự mô
phỏng, lặp lại giữa các giai cấp, giữa các thế hệ.

Nghiên cứu về bắt chước trong tâm lý học lứa tuổi

Bắt chước với tư cách là một phương thức tiếp thu các kinh nghiệm xã
hội được nghiên cứu nhiều trong tâm lý học lứa tuổi, đặc biệt là trong quá
trình phát triển trẻ em. Các nghiên cứu thống nhất rằng, bắt chước là phương
thức đặc trưng nhất để trẻ em nhận thức được thực tế và tính hay bắt chước
là thuộc tính cơ bản của một nhân cách đang phát triển ở trẻ. Chính nhờ hoạt
động bắt chước mà đứa trẻ đã làm chủ được về mặt thực tiễn cái ngôn ngữ
tích cực, những hành động sơ đẳng sử dụng đồ vật, những phương thức
quan hệ và cung cách xử sự.

Mặc dù cùng là hoạt động bắt chước, nhưng đối với trẻ em ở những
giai đoạn phát triển khác nhau bắt chước thể hiện qua những hình thức khác
nhau để nắm bắt hiện thực: từ sao chép mù quáng các hình mẫu ứng xử của
người lớn đến chỗ bắt chước có ý thức, có chọn lọc và có động cơ thúc đẩy.
Nói cách khác, bắt chước có những biến đổi về chất và những vai trò khác
nhau trong quá trình phát triển của đứa trẻ ở những hoàn cảnh sống nhất
định. Ở giai đoạn này thì bắt chước có vai trò chủ đạo trong việc phản ánh
hiện thức xã hội, nhưng ở giai đoạn khác thì bắt chước chỉ có vai trò thứ yếu
không đáng kể.

Những công trình nghiên cứu của các tác giả tâm lý học Xô Viết (cũ)
như Becterev V.M, Osy M. V, Kovaliov A.G đã chỉ ra rằng, để thực hiện được
bắt chước, đứa trẻ nhất thiết phải đạt được một trình độ phát triển tâm sinh lý
nhất định, thông thường là khi đứa trẻ bước vào năm thứ hai của cuộc đời.

Các nhà tâm lý học đã mô tả hoạt động bắt chước trong quá trình phát
triển của trẻ em như sau:

- Từ năm thứ hai cho đến lúc 3 tuổi giai đoạn đầu của sự bắt chước
tích cực hay còn gọi là giai đoạn sao chép một cách không có chủ định những
hành động bên ngoài và những phản ứng ngôn ngữ của mọi người xung
quanh. Đây là giai đoạn mà đứa trẻ bắt chước ngay tại chỗ, trực tiếp những
hoạt động của người lớn mà chúng nhìn thấy, chứ không dựa theo trí nhớ ở
lứa tuổi lớn hơn.

- Đến tuổi mẫu giáo (từ 3 cho đến thời kỳ mẫu giáo lớn), hoạt động bắt
chước của trẻ có những biến đổi về nội dung cũng như về hình thức. Hoạt
động bắt chước của trẻ ngày càng phức tạp và ngày càng có tính chất trò
chơi hơn, đặc biệt là trò chơi đóng vai có nội dung.

Trước tiên đứa trẻ làm theo những biểu hiện và đặc điểm hoạt động
bên ngoài của người lớn, tái tạo lại trong trò chơi và dần dần bắt chước
những biểu hiện của hành vi phản ánh chân thực ý nghĩa của hoàn cảnh. ở
tuổi mẫu giáo lớn đã có thêm sự cải biên do trẻ tiếp thu được những kinh
nghiệm trước đó, Becterev gọi là bắt chước gián tiếp.

- Đến thời kỳ lứa tuổi thiếu niên: các nhà nghiên cứu cho rằng sự bắt
chước của trẻ em càng trở nên có ý thức hơn, có chọn lọc hơn và có động cơ
thúc đẩy rõ ràng hơn cho dù các yếu tố sao chép một cách không có ý thức
vẫn còn tồn tại.

Điều quan trọng nhất trong thời kỳ này là có sự chuyển tiếp từ việc bắt
chước những biều hiện bên ngoài của người lớn và bạn bè sang bắt chước
những phẩm chất bên trong, những đặc điểm tính cách mà trẻ em nhận thức
được một cách gián tiếp. Nói cách khác, bắt chước hướng tới sự đồng hoá bề
ngoài và đôi khi cả đồng hoá trong bản thân đứa trẻ với một số hình mẫu cụ
thể có ý nghĩa đối với chúng. Ví dụ: hình mẫu có thể là thầy cô giáo, bạn bè,..
mà các em yêu quý.

- Ở lứa tuổi trưởng thành, hoạt động bắt chước là yếu tố nắm bắt kỹ
năng, kỹ xảo trong một số dạng hoạt động nghề nghiệp. Ví dụ: trong thể thao,
nghệ thuật,...

Như vậy, cùng với sự phát triển của cá nhân, hoạt động bắt chước
cũng phát triển và biến đổi theo.

Cơ chế bắt chước trong các nhóm xã hội

Mỗi cá nhân ảnh hưởng đến các thành viên khác của nhóm trước hết
bằng sự hiện diện của chính bản thân mình và cũng chịu sự chi phối, ảnh
hưởng của các thành viên khác trong nhóm. Tương tự, sự vận hành của cơ
chế bắt chước trong các nhóm xã hội diễn ra như sau: các thành viên trong
nhóm bắt chước lẫn nhau và bắt chước thủ lĩnh của mình. Nói cách khác,
người ta có thể bắt chước một tập thể, một cá nhân, bắt chước quần chúng
và ngược lại...

Dollard J. và Miller N.E cho rằng, có 4 nhóm người chính khiến cho
người ta thích bắt chước:
- Những người lớn tuổi

- Những người có địa vị xã hội hơn hẳn

- Những người có trình độ trí tuệ hơn hẳn

- Những người thành thạo hơn hẳn trong một lĩnh vực thực tiễn nào đó.

Nhìn chung, hiểu biết về cơ chế bắt chước có thể giúp ta dễ dàng giải
thích nhiều hiện tượng diễn ra trong xã hội cũng như trong sử dụng cơ chế
này trong giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội cũng như vào mục đích sản
xuất kinh doanh.

3.2.2. Lây lan

Khái niệm

Lây lan là quá trình chuyển toả trạng thái cảm xúc từ cá thể này sang
cá thể khác ở cấp độ tâm sinh lý, xảy ra một cách nhanh chóng, mạnh mẽ,
nằm ngoài những tác động qua lại ở cấp ý thức - tư tưởng. Nói cách khác, lây
lan là thuộc tính vô ý thức, ngẫu nhiên của cá thể biểu hiện qua việc chuyển
toả trạng thái cảm xúc nhất định.

Một số nghiên cứu về lây lan

Người đầu tiên đưa ra khái niệm lây lan là Lơbon G. Trong tác phẩm
“tâm lý học đám đông” (1995), ông cho rằng: Ở bên trong các hệ thống xã hội
có tồn tại sự lưu thông tình cảm giữa các cá nhân. Vì vậy, những xúc cảm và
ý kiến giao tiếp với nhau được nhân lên và củng cố. Điều đó cho phép giải
thích các hiện tượng xã hội xảy ra không chỉ bằng cưỡng bức, mà cả bằng
khả năng thu hút của một số giá trị hay ý kiến làm cho các cá nhân làm theo.
Như vậy, lây lan tâm lý quy định xu hướng bắt chước một mô hình ứng xử có
tác dụng chi phối được lây truyền từ người này sang người khác (Tâm lý học
quần chúng - Lơbon. G- sách đã dịch, Hà nội 1958).

Theo Mikhailovxki N.K, lực lây lan được truyền đi theo nguyên tắc cộng
hưởng, tỷ lệ thuận với số lượng của đám đông và cường độ cảm xúc được
truyền đạt.
Theo Mc Dougall.W lý giải quá trình lây lan bằng thuyết “quy nạp thiện
cảm”. Theo ông, những biểu hiện của cảm xúc qua điệu bộ, cử chỉ và nét mặt
của một số cá nhân sẽ tạo ra sự phản ứng tương tự ở bên cạnh. Đây là bản
năng sinh học bầy đàn, vốn rất phổ biến ở động vật.

Ollport Ph, lại đề xuất tư tưởng “phản ứng vòng tròn”: cá nhân kích
thích người khác bằng hành vi của mình, do nhìn thấy hoặc nghe thấy phản
ứng của người kia mà tăng thêm độ hứng khởi. Bằng cách đó cảm hứng của
đám đông phát triển, lan toả không ngừng.

Parigin B.D cho rằng, lây lan là quá trình chuyển toả tâm trạng nhất
định, xuất hiện trong đám đông, thực hiện qua cơ chế thúc đẩy ảnh hưởng
cảm xúc lẫn nhau nhiều lần giữa những người tham gia giao tiếp. ở đây cá
nhân không phải chịu áp lực chủ ý, có tổ chức, nhưng đơn giản là họ hành
động theo hình mẫu ứng xử của ai đó, bị lệ thuộc vào ai đó một cách vô thức.

3.2.3. Ám thị

Khái niệm

Là tác động tâm lý có mục tiêu nhưng vô căn cứ từ một người đến
người khác hoặc nhóm. Nói cách khác, ám thị là sự thay đổi ứng xử của cá
nhân do phục tùng vô căn cứ, máy móc, mệnh lệnh đến từ một uy quyền hay
một sự ngưỡng mộ nào đó.

Những yếu tố quy định hiệu quả của ám thị

- Thuộc tính của người ám thị (vị thế xã hội, sức lôi cuốn, ưu thế và ý
chí, trí tuệ, tính logic)

- Những đặc điểm của người chịu ám thị (mức độ của tính dễ bị ám thị)

- Các mối quan hệ được thiết lập giữa người ám thị và người chịu ám
thị (tin cậy, uy tín, phụ thuộc)

- Phương thức tổ chức thông báo (mức độ có căn cứ, tính chất kết hợp
các thành tố logic và cảm xúc, củng cố thêm bằng những tác động khác).
Ám thị đặc biệt có hiệu quả khi nó gặp phải miếng đất thuận lợi. Chẳng
hạn khi người ta đang rất mong mỏi thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng nào
đó, họ thường trở nên cả tin hơn và dễ dàng chấp nhận bất cứ đề nghị nào
mà không cần suy nghĩ gì hết.

3.2.4. Thoả hiệp

Khái niệm

Thoả hiệp là cơ chế rất đặc trưng cho cá nhân ở trong nhóm. Đó là sự
nhân nhượng của cá nhân trước áp lực thực tế hoặc áp lực tưởng tượng của
nhóm thể hiện qua việc cá nhân thay đổi ứng xử và tâm thế của mình phù
hợp với đa số.

Thoả hiệp xuất hiện trong sự giải quyết những biểu hiện xung đột giữa
ý kiến cá nhân và ý kiến nhóm. Khắc phục sự xung đột này dẫn đến có lợi cho
nhóm. Mức độ thoả hiệp là mức độ thu phục của nhóm. Từ lâu trong tâm lý
học xã hội phân chia ra hai loại thoả hiệp: thoả hiệp bề ngoài hay thoả hiệp
hình thức và thoả hiệp bên trong hay thoả hiệp thực tâm.

Thoả hiệp bề ngoài là sự quy thuộc của cá nhân để tỏ thái độ đối với ý
kiến áp đặt của nhóm, cá nhân chỉ tiếp nhận ý kiến của nhóm mang tính chất
hình thức, còn trên thực tế anh ta tiếp tục chống lại ý kiến của nhóm.

Thoả hiệp bên trong là sự biến đổi thực sự tâm thế cá nhân do tiếp
nhận thật lòng quan điểm của nhóm. Quan điểm của nhóm được cá nhân coi
trọng và đánh giá hợp lý, xác đáng và khách quan hơn là quan điểm riêng của
cá nhân.

Tuy rằng khác nhau về bản chất nhưng cả hai hình thức thoả hiệp này
giống nhau ở chỗ là phương thức đặc thù để giải quyết xung đột có ý thức
giữa ý kiến cá nhân và ý kiến nhóm, nghiêng về phía có lợi cho nhóm. Hành
vi thoả hiệp này được giải thích như là sự phụ thuộc của cá nhân vào nhóm,
buộc cá nhân phải tìm kiếm sự thoả thuận thực sự hay giả tạo với nhóm, điều
chỉnh hành vi của mình theo cách thể hiện bề ngoài bằng những quy chuẩn
xa lạ và không quen thuộc đối với bản thân nhưng lại đáp ứng được yêu cầu
của nhóm.

Theo Fischer, trong tính thoả hiệp nổi lên ba yếu tố khác nhau: 1/sự tồn
tại của những căng thẳng giữa lập trường trước đây của cá nhân và sự thúc
ép với mức độ khác nhau từ phía nhóm mà cá nhân phải chịu, 2/ sự tán thành
của cá nhân đối với điều anh ta đề nghị, 3/ là kết quả của sự thay đổi ứng xử,
bao hàm một mặt, là phủ định một số khía cạnh ứng xử trước đây và mặt
khác là khẳng định bản thân mình bằng việc có những ứng xử mới.

Các nghiên cứu của Ach S. kết luận rằng: tính thoả hiệp là do hoàn
cảnh cô lập của đối tượng mà ra. Nếu phá bỏ được sự cô lập ấy có thể làm
giảm bớt tỷ lệ của tính thoả hiệp. Qua các thí nghiệm của Asch S. thấy nổi lên
hai loại hành vi của cá nhân trong nhóm: hành vi thoả hiệp và hành vi không
thoả hiệp.

Nghiên cứu của Petrovxki A.V, theo ông trong nhóm thực tế tồn tại ba
loại hành vi của cá nhân chứ không phải hai loại hành vi theo sơ đồ của Asch
S. Theo ông, sơ đồ về hành vi của cá nhân trong nhóm bao gồm:

- Tính ám thị bên trong nhóm, nghĩa là chấp nhận ý kiến của nhóm mà
không có phản ứng

- Tính thoả hiệp - hợp đồng bề ngoài một cách có ý thức với sự bất
đồng bên trong.

- Chủ nghĩa tập thể hay quyền tự quyết tập thể - sự đồng nhất hành vi
tương đối nhờ tình đoàn kết có ý thức của cá nhân cùng với những đánh giá
và nhiệm vụ của tập thể.

Những yếu tố quyết định tính thoả hiệp

Nhiều các công trình nghiên cứu lý luận và thực nghiệm chỉ ra rằng,
mức độ thoả hiệp phụ thuộc vào hàng loạt nguyên nhân, trong đó có:

- Những đặc trưng của cá nhân phải chịu áp lực của nhóm như: giới
tính, lứa tuổi, dân tộc, trí tuệ, v.v...
- Những đặc trưng của nhóm là nguồn gôc của áp lực như: quy mô,
mức độ nhất trí của đa số, nghĩa là sự hiện diện số lượng thành viên của
nhóm đi trệch với ý kiến chung.

- Những tính chất đặc thù của mối liên hệ lẫn nhau giữa cá nhân và
nhóm: vị trí của cá nhân trong nhóm, sự trung thành của cá nhân với nhóm,
mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân trong nhóm,...

- Hoàn cảnh đặc thù: nội dung, nhiệm vụ, mức độ quan tâm của con
người đối với nhiệm vụ đó, sự am hiểu của người đó,...

Các nhân tố ảnh hưởng đến tính thoả hiệp có mối liên hệ mật thiết với
nhau, nhưng mức độ quan trọng của mỗi nhân tố lại phụ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể.

Do đó, hiểu biết sâu về cơ chế thoả hiệp giúp chúng ta tạo điều kiện
cho các thành viên của nhóm phát triển nhân cách cũng như dễ dàng tạo ra
sự nhất trí, thống nhất trong nhóm và trong toàn xã hội.

3.2.5. Đồng nhất hoá

Khái niệm

Theo các nhà nghiên cứu về tâm lý học xã hội, có thể phân chia đồng
nhất hoá thành hai quá trình:

- Đồng nhất hoá với ý nghĩa là sự nhận biết, nhận dạng cái gì đó, ai đó,
chủ yếu được sử dụng trong tâm lý học kỹ sư, tâm lý học tư pháp. Trong
phân ngành này đồng nhất hoá được hiểu là một quá trình so sánh, đối chiếu
một đối tượng này với các đối tượng khác theo một đặc điểm hay tính chất
nhất định, từ đó khái quát, xác lập sự tương đồng giữa chúng. Trong trường
hợp đối tượng là con người, đồng nhất hoá thể hiện như một quá trình nhận
biết các phẩm chất của người đó. Dựa vào các phẩm chất này, cá nhân có
thể bị liệt vào tầng lớp, kiểu loại nhất định nào đó hoặc có thể được nhận
dạng đầy đủ và tương đồng với nó.
- Đồng nhất hoá với ý nghĩa bắt chước, phỏng theo như nhau đối với ai
đó, với cái gì đó. Đây là quá trình nhận thức cảm xúc của một chủ thể khi
đồng nhất hoá mình với chủ thể khác, nhóm hay hình mẫu khác một cách vô
thức.

Nghiên cứu của S. Freud

Theo ông, đồng nhất hoá có thể được hiểu như sau:

- Sự đồng nhất hoá là hình thức cổ sơ nhất của sự ràng buộc với đối
tượng

- Vì sự biến đổi thoái hoá, sự đồng nhất hoá chiếm chỗ của sự ràng
buộc libido với đối tượng, sở dĩ như vậy là vì đối tượng được đưa vào trong
cái tôi.

- Sự đồng nhất hoá xuất hiện khi nào một người nhận thấy mình có một
nét chung với một người khác, tuy rằng người khác ấy không phải là đối
tượng của Libido. Những nét chung càng nhiều và càng quan trọng thì sự
đồng nhất hoá càng cao.

Nghiên cứu đồng nhất hoá trong tâm lý học xã hội

Tâm lý học xã hội nghiên cứu đồng nhất hoá như là một cơ chế xã hội
hoá quan trọng nhất. Tiêu biểu cho cách tiếp cận nghiên cứu này là các công
trình nghiên cứu của Bandung A, Mead I, Parson T, Kuli Ch,... Trong nghiên
cứu của các tác giả này, cơ chế đồng nhất hoá thể hiện trong việc cá nhân
tiếp nhận vai trò xã hội khi gia nhập nhóm, cá nhân ý thức về việc có chân
trong nhóm, về việc hình thành các tâm thế xã hội,.

Theo Fischer, đồng nhất hoá là một quá trình trước hết giống với cơ
chế quy gán, đó là toàn bộ những phạm trù hoá cho phép nhận ra những
người khác theo dấu hiệu đặc thù và do đó mà đặt họ vào một hiện thực nhất
định một cách rõ ràng. Hiện thực này là hệ thống văn hoá của một nhóm hay
một xã hội có vai trò quan trọng trong việc hình thành ở cá nhân sự đánh giá
về người khác bao gồm một tập hợp những yếu tố, phẩm chất mà cá nhân
(hay nhóm) dùng làm mô hình để đồng hoá. Theo cách nói của Fischer, sự
đồng nhất hoá là một quá trình tương tác giữa một lý tưởng về cái tôi, có thể
định nghĩa như cái mà cá nhân muốn trở thành hơn cả, và một cái siêu tôi
bao bàm một sự quan hệ với những chuẩn mực của môi trường xã hội. Quá
trình này diễn ra trong suốt cuộc đời của mỗi cá nhân. Như vậy, theo quan
điểm của tâm lý học xã hội, sự đồng nhất hoá quy định toàn bộ các quá trình
trong mối quan hệ với môi trường xã hội.

Nghiên cứu của tâm lý học hiện đại

- Đồng nhất hoá là quá trình chủ thể thống nhất bản thân mình với cá
nhân khác hoặc nhóm khác dựa trên mối dây liên hệ cảm xúc và đồng thời
chuyển những chuẩn mực, giá trị hình mẫu của họ vào thế giới nội tâm của
mình. Điều này có thể nhận thấy trong sự bắt chước công khai hình mẫu, đặc
biệt là ở trẻ em trước tuổi đến trường.

- Đồng nhất hoá là sự nhìn nhận, hình dung của chủ thể về người khác
như sự kéo dài của chính bản thân mình, gán cho người đó những đặc tính,
tình cảm và mong muốn của mình. Ví dụ, cha mẹ mong đợi ở đứa con thực
hiện những ý tưởng, kỳ vọng của mình.

- Đồng nhất hoá là cơ chế tự đặt mình vào vị trí của người khác, dịch
chuyển bản thân mình vào phạm vi, không gian và hoàn cảnh của người khác
dẫn đến việc đồng hoá ý nghĩa cá nhân của người đó. Kiểu đồng nhất hoá
này cho phép mô hình hoá phạm vi có ý nghĩa của đối tượng giao tiếp, đảm
bảo quá trình hiểu biết lẫn nhau,...

3.2.6. A dua

Khái niệm

Biểu hiện đặc biệt của áp lực nhóm tới cá nhân trong tâm lý học xã hội
gọi là tính a dua. Chính bản thân từ a dua đã biểu hiện nghĩa thích ứng. Khi
nói đến tính a dua là nhằm chỉ đặc điểm tâm lý thuần tuý về vị trí của cá nhân
với vị trí của nhóm, cá nhân chấp nhận hay phản đối các chuẩn mực, ý kiến
nhất định của nhóm, về mức độ phục tùng của cá nhân do áp lực của nhóm.
Đối lập với a dua là sự tự lập, độc lập và vững vàng của cá nhân so với áp
lực nhóm.

Nguyên nhân của tính a dua

Tính a dua được nhận thấy khi biểu hiện xung đột giữa ý kiến cá nhân
và ý kiến nhóm, khắc phục sự xung đột này dẫn đến có lợi cho nhóm. Mức độ
a dua là mức độ thu phục của nhóm.

Phân loại a dua

Từ lâu trong tâm lý học xã hội đã chia ra hai loại a dua: a dua bên trong
và a dua bên ngoài.

- A dua bên ngoài là a dua khi cá nhân tiếp nhận ý kiến của nhóm mang
tính hình thức, còn trên thực tế anh ta chống lại ý kiến của nhóm

- A dua bên trong là a dua khi cá nhân hoàn toàn bị ý kiến của đa số thu
phục. Loại a dua này là kết quả khắc phục sự xung đột của cá nhân với nhóm
và kết thúc bằng sự có lợi cho nhóm.

Khi nghiên cứu tính a dua, ta còn nhận thấy một vị trí nữa của cá nhân
trong nhóm đó là vị trí độc lập, khi nhóm dùng áp lực của mình tới “cá nhân”
anh ta hoàn toàn chống lại áp lực đó và giữ vị trí độc lập của mình.

Thí nghiệm của Asch

Thí nghiệm điển hình nghiên cứu tính a dua là thí nghiệm của Asch tiến
hành năm 1952. Mục đích của thí nghiệm là xác định áp lực nhóm đối với cá
nhân.

Nhóm viên từ 7 - 9 người xác định độ dài của đoạn thẳng đưa ra. Mỗi
người nhận được hai phiếu, một ở tay phải, một ở tay trái. Phiếu ở tay trái kẻ
một đoạn thẳng, phiếu ở bên tay phải kẻ 3 đoạn thẳng, một trong 3 đoạn có
độ dài bằng phiếu ở tay trái. Hai đoạn còn lại: một cái dài hơn, một ngắn hơn.
Người tiến hành thí nghiệm đề nghị nghiệm thể xác định đoạn thẳng nào ở
bên tay phải có độ dài bằng đoạn thẳng ở bên tay trái. Bài tập này được thực
hiện một cách riêng rẽ và tất cả đều giải đúng.
Thí nghiệm được tiến hành tiếp giai đoạn 2: ở giai đoạn này các tác giả
sử dụng “phương pháp nhóm giả tạo”. Người tiến hành thí nghiệm đã thoả
thuận trước với tất cả các nghiệm thể, trừ một người. Nội dung của thoả
thuận là các nghiệm thể sẽ đưa ra câu trả lời không đúng với thực tế: đoạn
thẳng bên tay trái ngắn hơn hoặc dài hơn đoạn thẳng bên phải (trong thực tế
thì bằng nhau). Một người không được thoả thuận trước là “chủ thể ngây
thơ”. ở giai đoạn 1 cá nhân này giải đúng, sang giai đoạn hai thì kết quả như
sau: trong số 123 chủ thể ngây thơ thì 37% (khoảng hơn 1/3) đưa ra câu trả
lời sai, họ đã trả lời là ý kiến của nhóm đã áp đảo rất mạnh.

Sau thí nghiệm của mình, Asch đã chia ra hai loại hành vi của cá nhân:
hành vi a dua (tiếp nhận ý kiến của tập thể mà không có phản ứng) và hành vi
không a dua (không tiếp nhận ý kiến của tập thể).

3.2.7. Kết luận chung:

Có thể nói, các cơ chế tâm lý trên là tiêu biểu cho quá trình ảnh hưởng
qua lại giữa cá nhân và xã hội. Các cơ chế tâm lý xã hội này được coi là
phương thức phản ánh thực tế nhờ đó mà cá nhân thích nghi được với môi
trường xã hội, học cách chung sống, hợp tác với mọi người xung quanh. Nói
cách khác, các cơ chế tâm lý xã hội giữ một vai trò, vị trí vô cùng quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân, bổ sung và
làm phong phú thêm vốn tâm lý xã hội này cho phép chúng ta ứng dụng
chúng vào nhiều lĩnh vực đa dạng của thực tiễn đời sống xã hội.

4. Liên hệ xã hội

4.1. Khái niệm liên hệ xã hội

- Liên hệ xã hội là đặc trưng xã hội, thể hiện khả năng chung sống tạo
thành xã hội của mỗi cá nhân.

- Liên hệ xã hội là những hình thức tác động khác nhau của con người
(cá nhân) trong xã hội, nó ảnh hưởng đến ứng xử của cá nhân.
- Liên hệ xã hội là liên hệ cho phép một sự liên lạc với những người
khác và với môi trường xung quanh, phương diện thiết lập là các hình thức
giao tiếp (ngôn ngữ, cử chỉ)

- Liên hệ thuộc trong nhóm nào đó mà cá nhân tồn tại.

- Cấu trúc xã hội của các liên hệ xã hội nó phụ thuộc vào chuẩn mực
mà cá nhân đang nằm trong đó, nó phụ thuộc vào sự vận động của từng cá
nhân, phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà cá nhân đang ở trong đó.

Ngoài ra, nó còn có các điều kiện: hệ thần kinh, hình thể.

Khái niệm liên hệ xã hội có liên quan đến khái niệm tham dự. Tham dự
là một yếu tố giúp cá nhân xác lập được các liên hệ xã hội. Bản thân từ tham
dự nó chỉ rõ bản chất của mỗi con người. Đó là một thực thể tồn tại với người
khác, tồn tại với cái bên ngoài. Tham dự là một nhân tố tạo thành các liên hệ
xã hội, thể hiện tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân, thể hiện khả năng hoà
nhập xã hội, lòng mong muốn được đánh giá từ xã hội.

* Cơ chế của sự tham dự

- Sự phụ thuộc lẫn nhau trong đó sự có mặt người khác là cần thiết để
mỗi người theo đuổi mục đích riêng của mình. Tham dự xã hội nó xuất hiện
như là một sự tìm kiếm cần thiết những liên hệ đối với người khác.

* Tham dự xã hội xuất hiện khi nào?

Khi cá nhân rơi vào một hoàn cảnh, sự kiện họ không làm sao hiểu
được nhưng họ có nhu cầu muốn hiểu thì cơ chế tham dự được xuất hiện.
Tham dự xuất hiện nhằm tìm kiếm một sự lý giải hoặc một sự giải thích. Hoặc
tham dự xuất hiện khi cá nhân ở trong tâm trạng lo âu, khi cá nhân bị sợ hãi
không làm chủ được bản thân. Trong hoàn cảnh lo âu, thì cá nhân có xu
hướng tìm các liên hệ đối với những người khác. Đặc điểm này nó thể hiện
bản chất của tham dự là tìm kiếm các liên hệ xã hội.

4.2. Những cơ sở của việc hình thành liên hệ xã hội


4.2.1. Những gắn bó thời thơ ấu là cơ sở của các liên hệ xã hội của mỗi
con người.

Là một liên hệ tình cảm giữa các cá nhân dựa trên những giá trị, ý
nghĩa của người này với người kia. Việc gắn bó thời thơ ấu nó liên quan rất
nhiều đến bản năng.

Có hai xu hướng nghiên cứu về sự gắn bó thời thơ ấu;

- Coi gắn bó như là một liên hệ xã hội có tính bản năng

- Gắn bó là một liên hệ đáp lại sự quan tâm, chăm sóc của người khác

Lý luận của Bowly (1969) đã tổ hợp 2 quan điểm này lại: theo ông, sự
gắn bó một liên hệ xã hội có tính bản năng dựa vào những năng lực bẩm sinh
ở trẻ em, những năng lực nó được thực hiện để đáp lại những chăm sóc của
người mẹ đối với nó. Như vậy sự gắn bó xuất hiện như một hành vi tương tác
nhằm thiết lập liên hệ với những người từng mang lại cho trẻ một số chăm
sóc và chú ý nào đó.

Thí nghiệm của Harlow (1958),

Hai con khỉ mẹ (trong đó một con có thể cho bú nhưng có gai ở xung
quanh mình, một con có thể không cho bú nhưng mặc áo mềm).

Con khỉ con chỉ đáp lại tình cảm của con khỉ thứ hai mà chỉ đói nó mới
tìm đến khỉ mẹ thứ nhất.

Như vậy, từ thí nghiệm này đi đến kết luận:

+ Gắn bó là một liên hệ xã hội mang tính bản năng dựa vào năng lực có
tính bẩm sinh của trẻ nhỏ và năng lực này được thực hiện để đáp ứng lại
những chăm sóc chú ý của người khác đối với trẻ.

+ Gắn bó là một cấu trúc tâm lý đầu tiên của liên hệ x^ hội được thiết
lập từ 2 yếu tố: chăm sóc về mặt thể chất và yên ổn về mặt tình cảm.

Từ những kết luận này về sự phát triển liên hệ ở trẻ nhỏ ta thấy có một
sự tương quan giữa chất lượng của những gắn bó (đã trải qua từ thời thơ ấu
của mỗi con người) và khả năng thiết lập những liên hệ gắn bó (ở tuổi trưởng
thành).

Những đứa trẻ mồ côi bị tách biệt với bố mẹ thì nó có những biểu hiện
hoặc là dửng dưng với người xung quanh (tức là nó không có sự khác nhau
giữa người thân và người lạ); hoặc nó bộc lộ khát khao với người khác một
cách không bình thường (lãnh cảm - trầm ngâm). Cả hai đều dẫn đến thích
nghi xã hội kém.

4.2.2. Khía cạnh xã hội hoá

Xã hội hoá có nghĩa là sự bước vào các liên hệ xã hội. Xã hội hoá trong
tâm lý học được xem là một quá trình luyện tập và hoà nhập vào xã hội thông
qua những liên hệ.

Xã hội hoá phụ thuộc vào các nhu cầu:

- Nhu cầu về sự gia nhập: Đó là một xu hướng cơ bản để tìm kiếm


những liên hệ, những tiếp xúc. Mỗi cá nhân gia nhập vào xã hội là do anh ta
có nhu cầu được sống trong xã hội đó (có thể là do lịch sử lôi kéo). Đó là nhu
cầu muốn tồn tại, muốn khẳng định, muốn thừa nhận ở người khác.

- Nhu cầu kiểm soát: nó xuất hiện muộn hơn khi mỗi cá nhân nhập tâm,
làm chủ được các chuẩn mực xã hội, để đạt được sự độc lập trong tư duy và
hành động. Nhu cầu này xuất phát từ việc cá nhân luôn muốn tìm tòi, khám
phá các sự vật, hiện tượng để có thể làm chủ được cái thế giới hiện thực để
kiểm soát.

- Nhu cầu tình cảm: chủ yếu là được thiết lập mang tính tay đôi đó là
nhu cầu mong muốn được quan tâm, chú ý đến người khác và được đáp ứng
lại.

Kết luận: Nói tóm lại, xã hội hoá được thực hiện ở những đứa trẻ thông
qua những liên hệ mà nó thiết lập từ thời tấm bé, những người xung quanh
để dần dần nó tự phát hiện ra chính mình, khẳng định cái chí của mình trong
nhóm. Nó hoà nhập vào cuộc sống.
Một cá nhân trở thành một con người mang bản chất xã hội nó được
diễn ra thông qua các quá trình liên hệ xã hội. Xã hội hoá vừa là nguyên nhân
vừa là kết quả.

4.3. Những yếu tố quy định liên hệ xã hội

4.3.1. Sự gần gũi

Là một yếu tố kích thích cho việc thiết lập các môi liên hệ xã hội với
những người xung quanh. Các nghiên cứu về xã hội thực nghiệm chỉ ra rằng
liên hệ xã hội có xu hướng được tăng lên khi khoảng cách địa lý được giảm
đi. Như vậy, gần gũi là một trong những yếu tố kích thích cho việc thiết lập
liên hệ xã hội.

Các cá nhân càng có cơ hội gặp nhau thì càng có khả năng muốn liên
hệ với nhau. Bởi vì bản chất của sự gần gũi của sự liên hệ thường xuyên sẽ
tạo nên sự thân thuộc.

Tần suất gặp gỡ nhau thường xuyên sẽ tạo nên sự thân thuộc từ đó sẽ
hình thành nên các liên hệ xã hội.

4.3.2. Sự giống nhau - bổ sung

Là hai yếu tố tạo nên các liên hệ xã hội

Giống nhau: Được xem như là yếu tố tương đồng (sở thích, ý kiến, lợi
ích,..). Sự giống nhau này là điều kiện để hình thành lên các liên hệ xã hội.
Xét từ góc độ bản chất tâm lý xã hội thì con người luôn có xu hướng tìm kiếm
những người giống mình trong xã hội. Chính sự tìm kiếm đã tạo nên các liên
hệ xã hội.

Những nghiên cứu của tâm lý học xã hội đã chỉ ra các cá nhân chỉ
thường tìm xem với những người có cùng ý kiến với mình, liên hệ xã hội phát
triển tốt khi mà lĩnh vực đồng ý kiến càng cao. Sự giống nhau về ý kiến dẫn
đến sự yêu thích nhau.
Người được ưa thích hơn cả trong tập thể là những người có ý kiến
gần gũi với nhiều người. Xét ở góc độ tâm lý, những đặc điểm nào trong sự
giống nhau về các ý kiến đã dẫn đến sự liên hệ, thân thiết gặp gỡ.

+ Sự giống nhau ấy sẽ làm tăng thêm sự tôn trọng ở bản thân với ý
nghĩ rằng ý kiến của mình được người khác thừa nhận trong xã hội.

+ Sự giống nhau kích thích những hưng phấn tích cực trong việc tìm
kiếm cái liên hệ tương đồng, vì họ cho rằng người nào giống ý kiến mình họ
sẽ tán thành ủng hộ cho mình. Vì vậy cá nhân chủ động đi tìm kiếm các liên
hệ tương đồng.

+ Sự giống nhau giữa các cá nhân (hình thể, ý kiến) làm nảy sinh một ý
nghĩ ngấm ngầm vô thức. Từ đó, người nào có nét giống mình, gần gũi với
mình sẽ làm cho liên hệ xã hội phát triển.

Ngoài sự giống nhau, các nhà tâm lý học xã hội cũng nghiên cứu về sự
khác nhau, trái ngược nhau (bổ sung) cũng tạo nên các liên hệ xã hội. Các
nghiên cứu đã đi đến kết luận: bổ sung là duy trì các liên hệ xã hội. Nếu như
“giống nhau” đóng vai trò tạo nên liên hệ xã hội thì bổ sung là một nhân tố của
quan hệ xã hội nó tạo sự ưa thích, hấp dẫn vì nó đem lại những yếu tố, đặc
điểm mà cá nhân không có, họ cần. Bổ sung xuất hiện như là một cơ chế bù
đắp những gì thiếu hụt của các cá nhân tạo nên một sự liên hệ phát triển.

4.3.3. Sự hấp dẫn thể chất (yếu tố phi lý)

- Là một giá trị tạo nên các liên hệ xã hội

- Sự hấp dẫn hình thể đã quy định các liên hệ xã hội giữa các cá nhân
và có ảnh hưởng đến sự đánh giá.

- Hấp dẫn hình thể nó có tính chất phi lý trong các phán xét của chúng
ta đối với người khác. Các thực nghiệm cho thấy: Trung bình những người có
hình thể hấp dẫn ở Mỹ có thu nhập gấp 3 lần so với những người ít hấp dẫn.
Ở Mỹ, thu nhập của người hình thể hấp dẫn cao hơn những người có
hình thể ít hấp dẫn và những người khác. Vì thế, vẻ đẹp của con người tự nó
trở thành yếu tố để đánh giá xã hội hoặc tạo nên các liên hệ xã hội.

4.4. Các hình thức liên hệ và các mức độ liên hệ

4.4.1. Các hình thức liên hệ

- Hình thức liên hệ cá nhân: phụ thuộc vào cá tính của mỗi người, phụ
thuộc vào tâm trạng. Ở hình thức này cá nhân chỉ đại diện cho mình, các
hành vi, cử chỉ, thái độ cá nhân tham dự vào các liên hệ và quy định các yếu
tố này.

- Hình thức liên hệ theo chuẩn mực (tổ chức)

Cá nhân đóng vai trò đại diện cho một nhóm, tổ chức nào đó vì vậy các
hành vi ứng xử của anh ta là theo các vai mà họ đóng. Trong hình thức liên
hệ này các cá nhân phải ứng xử, thực hiện các liên hệ theo quy định của xã
hội. Tự liên hệ nó phân hoá đẳng cấp xếp đặt theo thứ bậc. Nó không phụ
thuộc vào đặc điểm của cá nhân, nó phụ thuộc vào thứ bậc.

- Liên hệ mang tính toàn xã hội

Các giá trị của cá nhân ở mỗi giai đoạn lịch sử có quy định bởi các đặc
điểm chung điển hình của thời đại như: chúng ta thuộc dân tộc, thời đại, giai
cấp nào, đặc trưng về giới tính,. Tất cả các yếu tố này tạo khoảng cách về
văn hoá khác nhau, nó mang dấu ấn trong liên hệ thể hiện trong ngôn ngữ,
phong cách sống, ăn mặc v.v..

Nó tạo nên hình mẫu về các hành vi tương ứng chung được mọi người
theo. Nó đưa vào trong liên hệ xã hội tạo nên đặc trưng xã hội.

Tóm lại, các liên hệ đều mang đặc điểm cá nhân, nhóm, xã hội. Trong
các liên hệ của con người thì cấu trúc thứ bậc có ảnh hưởng rất lớn trong kết
quả giao tiếp, liên hệ. Nó phụ thuộc vào vị trí xã hội của chúng ta. Vị trí càng
cao nó quy định giá trị càng lớn.
Thực chất liên hệ trong xã hội đó là việc thực hiện một hệ thống quyền
lực. Các liên hệ xã hội đều bị quyền lực tham gia vào, nó ảnh hưởng đến các
kết quả liên hệ.

Quyền lực là một ảnh hưởng của cá nhân hay nhóm xã hội khi áp đặt
quan điểm của mình lên người khác, quyền lực cũng được hiểu như là một
sức mạnh tinh thần, sức mạnh gây ra sự cưỡng bức khác nhau đối với người
khác. Xét về mặt xã hội ai cũng có thể gây ra quyền lực.

4.4.2. Các mức độ liên hệ trong xã hội

- Tiếp xúc số không (zêro): là mức thống nhất của liên hệ xã hội. Nó
được thực hiện bằng việc bắt đầu, các cá nhân lần đầu gặp gỡ nhau. Các cá
nhân đối diện nhưng không biết về nhau, chỉ ý thức đơn phương. Người này
chú ý đến người kia và phản ứng lại, phụ thuộc vào khả năng tri giác đầu tiên.

- Liên hệ xã giao hời hợt giữa các cá nhân giúp cho nhau tồn tại. Phần
lớn chúng ta đều có liên hệ này: trao đổi đồng nghiệp, chuyện trò với những
người sống cùng nhau. Nó không giúp chúng ta nhận thức xúc cảm, tình cảm
mà chủ yếu giúp duy trì cuộc sống của con người.

- Liên hệ tương hỗ: Nó thể hiện các mức độ khác nhau. Thân thiết chia
sẻ cho nhau từng vấn đề có liên quan đến cuộc sống chung trên cơ sở đó trở
thành mối liên hệ gắn bó lẫn nhau.

Ở mức cao hơn, là nó ràng buộc gắn bó lẫn nhau thể hiện ở việc làm, ý
nghĩ của người này trở thành trách nhiệm, tình cảm của người khác. ở các cá
nhân thì đều có các liên hệ này. Ở mức độ cao hơn thì các liên hệ nó càng
hẹp lại.

5. Thái độ xã hội

5.1. Một số quan điểm về thái độ

Những người đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ như một đặc tính
quan trọng của các vấn đề xã hội là hai nhà tâm lý học Mỹ: Thomas và
Znaniecki. Theo hai ông thì thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với
một giá trị.

Allport cho rằng, thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần
kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh
hưởng năng động trong phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và
tình huống mà nó có mối quan hệ.

Newcome cho rằng thái độ của một cá nhân đối với một khách thể nào
đó là thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với
khách thể liên quan. Đó là sự sẵn sàng phản ứng. Những gì mà chúng ta tin
là đúng và có một thái độ nhất định về một khách thể nào đó hay một nhóm
nào đó sẽ đóng một vai trò hiển nhiên trong việc quy định sự sẵn sàng phản
ứng theo một cách thức nhất định của chúng ta.

Các nhà Tâm lý học Xô Viết (cũ) cũng nghiên cứu rất sâu về vấn đề
thái độ xã hội, tiêu biểu là Uznatze (với học thuyết tâm thế xã hội) và Iađop
(thuyết định vị).

Thuyết tâm thế xã hội

Khái niệm thái độ hay nhiều người dịch là tâm thế trong học thuyết của
Uznatze được ông hiểu là “sự biến dạng hoàn chỉnh của chủ thể”, là trạng thái
sẵn sàng hướng tới một hoạt động nhất định, là cơ sở của tính tích cực có sự
lựa chọn của chủ thể. Tâm thế xuất hiện khi có sự lựa chọn của chủ thể. Tâm
thế xuất hiện khi có sự hội ngộ của hai yếu tố: nhu cầu và hoàn cảnh thoả
mãn nhu cầu. Ông dùng khái niệm tâm thế với tư cách là khái niệm trung tâm,
nhưng lại là cái vô thức để giải thích hành vi của con người.

Nhiều tác giả đã phê phán quan điểm này của ông vì chỉ đề cập đến
quá trình hiện thực hoá các nhu cầu sinh lý đơn giản mà không tính đến các
hình thức hoạt động phức tạp, cao cấp của con người. Ông không tính đến
sự tác động phức tạp của các yếu tố xã hội trong việc quy định hành vi con
người cũng như vai trò của quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội.

Thuyết định vị
Iadob nghiên cứu vai trò của thuyết định vị trong hành vi xã hội của
nhân cách. Ông cho rằng con người có một hệ thống các tổ chức định vị khác
nhau phức tạp và hành vi của con người bị điều khiển bởi các tổ chức đó.
Các định vị này được tổ chức theo 4 bậc, mức độ khác nhau.

+ Bậc một: bao hàm các tâm thế bậc thấp (như quan niệm của
Uznatze), hình thành trên cơ sở các nhu cầu và tình huống đơn giản nhất.

+ Bậc hai: các định vị phức tạp hơn, được hình thành trên cơ sở và các
tình huống giao tiếp của con người trong các nhóm nhỏ.

+ Bậc ba: các định vị mà trong đó định hướng chung của các sở thích
được hình thành trong các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể.

+ Bậc bốn: bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giá trị
của nhân cách, nó điều chỉnh hành vi và hoạt động của nhân cách trong
những tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất định đối với nhân
cách.

5.2. Bản chất của thái độ xã hội

Thái độ xã hội được hiểu là:

- Trạng thái nhất định của tinh thần và hệ thần kinh

- Thể hiện sự sẵn sàng phản ứng

- Có tổ chức

- Dựa trên kinh nghiệm trước đó

- Có ảnh hưởng điều khiển và tác động tới hành vi

Qua đây có thể thấy rõ sự phụ thuộc của thái độ xã hội và vai trò điều
chỉnh hành vi rất quan trọng của nó.

5.2.1. Đối tượng của thái độ

Đối tượng của thái độ có thể là tất cả những gì tồn tại trong thế giới vật
chất và tinh thần mà chúng ta đang sống: người khác, một nhóm người, một
tổ chức, một sự kiện,... có khi là thái độ về chính bản thân mình.
5.2.2. Chức năng của thái độ

- Chức năng thích nghi xã hội: Thái độ hướng chúng ta tới các đối
tượng có thể giúp đạt được các mục đích kinh tế, xã hội của mình. Áp lực
nhóm thường rất lớn, nó làm cho chúng ta có xu hướng thoả hiệp hoặc theo
khuôn phép, a dua. Bằng cách có một thái độ được mọi người ủng hộ hay
chấp nhận được chúng ta dễ dàng đạt được mục đích hơn, dễ được thưởng
và tránh bị trừng phạt hơn.

- Chức năng kiến thức: Nhờ có thái độ mà chúng ta biết cách thức phải
ứng xử như thế nào trong các tình huống khác nhau một cách giản đơn, tiết
kiệm thời gian và sức lực.

- Chức năng biểu hiện: Thái độ xã hội là phương tiện giúp con người
thoát khỏi các căng thẳng nội tâm và thể hiện mình như là một nhân cách.

- Chức năng tự bảo vệ: Trong những tình huống xung đột (giữa các suy
nghĩ, niềm tin, có khi là giữa thái độ và hành vi). Chúng ta thường tìm cách tự
bào chữa, tìm lý do giải thích thậm chí tìm người nào đó khác chịu trách
nhiệm thay mình hoặc hợp lý hoá hành vi của mình. Quá trình này dẫn đến sự
thay đổi thái độ tương ứng. Thái độ mới sẽ giúp chúng ta giảm bớt sự “bất
đồng” nội tâm.

5.2.3. Các thành tố của thái độ

Thái độ xã hội có thể thực hiện được các chức năng trên là nhờ có một
cấu trúc phức tạp. Các nhà Tâm lý học xã hội đã phân biệt và nghiên cứu 3
bộ phận cấu thành của nó như sau:

- Nhận thức: là kiến thức của cá nhân về đối tượng của thái độ cho dù
kiến thức đó có tương ứng hay không tương ứng, tức là có đúng hay không
đúng.

- Tình cảm: là các cảm xúc, tình cảm của cá nhân đối với đối tượng của
thái độ xã hội.
- Hành vi: Đó là hành động hay ý định hành động mà bạn sẽ ứng xử với
đối tượng.

5.3.Sự hình thành thái độ

Thái độ được hình thành trong quá trình phát triển của cá nhân. Những
yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển thái độ là nhu cầu của cá nhân,
thông tin, giao tiếp trong nhóm và nhân cách của cá nhân.

5.3.1. Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu

Con người hình thành và phát triển các thái độ nhằm thoả mãn các nhu
cầu của mình. Người ta sẽ hình thành các thái độ tích cực đối với các khách
thể có lợi, tiêu cực đối với các khách thể có hại cho họ trên con đường đạt tới
mục đích nào đó để thoả mãn các nhu cầu nhất định của họ. Thực tế cho
thấy, thái độ có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Và như vậy, các
nhu cầu khác nhau có thể hình thành nên một thái độ.

5.3.2. Thái độ được hình thành bởi các thông tin

Nếu chúng ta không biết thông tin, hoặc biết rất ít về một sự vật hiện
tượng nào đó thì chúng ta không thể hiện thái độ đối với nó.

Với mọi người nguồn thông tin chính thức qua các phương tiện thông
tin đại chúng có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành thái độ, dư luận cũng
như thay đổi hành vi của các nhóm dân cư.

5.3.3. Giao tiếp nhóm là một trong những yếu tố quyết định trong quá
trình hình thành thái độ.

Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau. Thái độ của anh
ta thường phản ánh niềm tin, giá trị, chuẩn mực của nhóm mà anh ta là thành
viên. Sự khác nhau giữa thái độ của các nhóm khác nhau một phần là do
niềm tin của họ khác nhau. Thái độ đối với Thượng đế, chẳng hạn của trẻ em
trong các gia đình theo một tôn giáo nào đó thường khác với thái độ của trẻ
em trong các gia đình mà các em là thành viên là người vô thần. Giá trị mà cả
nhóm theo đuổi chắc chắn sẽ có ảnh hưởng tới việc hình thành thái độ các
thành viên của nhóm đó. Chuẩn mực nhóm không chỉ xác định hành vi nào là
đúng hoặc sai mà còn xác định thái độ nào là “đúng”, “sai” nữa. Các nhà tâm
lý học xã hội đều cho rằng vai trò của các nhóm, nhất là nhóm nhỏ (gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp,...) trong việc hình thành ý thức cá nhân là cực kỳ quan
trọng. Nhưng cá nhân không tiếp nhận thái độ phổ biến trong nhóm một cách
bị động mà việc đó diễn ra một cách có chọn lọc trong quá trình thoả mãn nhu
cầu của anh ta.

5.4. Thái độ và Hành vi

Vài thập kỷ gần đây, các nhà xã hội học đã bàn luận về vai trò của thái
độ như là sự báo trước (xu hướng) của hành vi tương ứng với mục đích của
thái độ Irving Crespi đã nhắc tới trong tác phẩm “President Address” với Hiệp
hội Mỹ cho những nghiên cứu về quan điểm của công chúng (dư luận xã hội),
ông cho rằng: “rất khó để thấy được bất cứ lời nhận xét, tranh luận nào của
những người nghiên cứu thái độ, những người mà đã không thừa nhận sự
tồn tại của mối quan hệ hợp pháp giữa thái độ và hành vi”

Một quan điểm rất chắc chắn về những nghiên cứu đã được tích luỹ từ
những nghiên cứu trước đây của Lapiere năm 1930 và nửa sau thập kỷ 60 đã
hướngWicker tới việc khẳng định một cách chính xác nhất rằng: thái độ chiếm
khoảng 10% sự đa dạng của hành vi (tức là nó chi phối xu hướng của hành
vi)

Deutscher (1966, 1973) đã phát triển xa hơn trong các tranh luận rằng
không có lí do mang tính lí luận nào mong muốn tìm thấy sự phù hợp giữa
thái độ và hành vi, và trên thực tế, tất cả mọi lí do đều mong đợi sự khác biệt
giữa hai yếu tố. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà nghiên cứu đều đồng ý
với quan điểm này. Thực tế, năm 1969, Warner và Deufler đã rất quan tâm tới
cuộc tranh luận mà đã mang lại kết quả là 3 định đề hơn là những quan điểm
mong đợi sự khác biệt.

Thuật ngữ đầu tiên “định đề của sự chắc chắn”, được dựa trên sự giả
định rằng những thái độ có thể được sử dụng như những chỉ dẫn phù hợp
cho xu hướng hành vi mà con người sẽ bộc lộ khi phải đương đầu (tiếp xúc)
với mục đích (đối tượng) của thái độ. Cohen cũng rất quan tâm tới giả thuyết
này, ông đã khẳng định rằng, hầu hết mọi người đều xem xét, nhìn nhận thái
độ như một xu hướng của hành vi, “như là những yếu tố quyết định việc con
người sẽ hành động như thế nào trong các công việc hàng ngày” (1964). Mặc
dù ở một vài nơi, quan điểm này vẫn còn rất phổ biến nhưng không có một
vấn đề nào được nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Quan điểm thứ hai, định đề của sự đa dạng độc lập, cho rằng: không có
một lí do hợp lý nào thừa nhận thái độ có mối quan hệ phù hợp với nhau.
Deutscher đã bác bỏ mối quan hệ đã được thừa nhận giữa thái độ và hành vi.
Turner (1968) đã tiến bộ hơn khi coi khái niệm thái độ, một cách cổ điển như
một xu hướng của hành vi. Tuy nhiên những đồng tình với quan điểm này
cũng rất hạn chế. Sự nhất trí một cách chung chung rằng: mặc dù chúng ta
thường quan sát được những mâu thuẫn (mang tính kinh nghiệm) giữa thái
độ và hành vi nhưng cả hai yếu tố này không hoàn toàn độc lập với nhau.

Quan điểm thứ ba, định đề của sự khẳng định một cách ngẫu nhiên, đã
kết hợp hai quan điểm trên. Theo quan điểm này, hành vi xuất hiện sẽ bị ảnh
hưởng bởi thái độ của những người có liên quan với những nhân cách khác
nhau và các yếu tố hoàn cảnh xã hội. Định đề này đúng với định nghĩa thái độ
mà chúng ta đã đưa ra ở phần đầu của chương này.

Một cuộc điều tra về những nghiên cứu về thái độ và hành vi, trong 3
thập kỷ sau Lapiere cho thấy, hầu hết các nghiên cứu mà chúng ta đã thực
hiện chỉ tập trung vào yếu tố thái độ trong việc dự đoán hành vi, mặc dù bỏ
qua những quan điểm được khẳng định một cách không chắc chắn. Các kết
quả chỉ ra rằng, bản thân thái độ không phải là những tiên đoán chính xác,
hiệu quả của hành vi.

Tuy nhiên vào cuối những năm 50, Defleur và Westire (1958) bắt đầu
nhận ra vai trò quan trọng của các yếu tố khác có ảnh hưởng tới mối quan hệ
thái độ và hành vi. Họ đã rất nỗ lực để lý giải hành vi của những chủ thể mà
đã bộc lộ hành vi một cách không chắc chắn. Defluer và Westire đã tranh luận
rằng việc thiếu mối quan hệ chặt chẽ giữa thái độ bằng lời nói và hành vi công
khai có thể được lí giải bằng thuật ngữ (từ ngữ) về sự ràng buộc xã hội đã
ngăn con người khỏi những hành động không thuyết phục. Ví dụ: một người
có thể rất thành kiến với người da đen nhưng khi họ được Sếp giới thiệu với
một người da đen, họ sẽ ứng xử một cách tử tế (tốt).

Mặc dù thái độ của anh ta cho thấy trước rằng anh ta sẽ từ chối bắt tay
người da đen, nhưng những ràng buộc xã hội được đưa ra bởi sự hiện diện
của Sếp đã ngăn anh ta khỏi việc kiểm soát được thái độ của mình.

Hầu hết những nhà nghiên cứu thái độ hiện nay đều bị ảnh hưởng bởi
quan điểm này và cố gắng để bao quát cả những ràng buộc mang tính tình
huống khi hiểu mối quan hệ thái độ và hành vi. Điều này lần lượt dẫn đến 2 xu
hướng phát triển chính, mang tính truyền thống, trong nghiên cứu tâm lý học
xã hội hiện nay về vấn đề thái độ - hành vi.

Cách tiếp cận đầu tiên thể hiện ở công trình nghiên cứu của nhà tâm lý
học xã hội Melvin Defleur và những sinh viên của ông.

Cách tiếp cận thứ hai là nghiên cứu của nhà tâm lý học Martin Fisfbein
và các cộng tác viên.

Cả 2 hướng tiếp cận này đều có một vài điểm chung. Họ đều vượt ra
khỏi nghiên cứu cho rằng một thái độ đơn nhất quyết định hành vi và nhận ra
rằng: vấn đề này còn phức tạp hơn nhiều. Cả hai hướng này đều liên hệ thái
độ với các tình huống và những yếu tố khác, và việc làm này đã mang lại
những dự báo hay xu hướng của hành vi hiệu quả hơn nhiều.

Tóm lại, cả hai hướng nghiên cứu đều khẳng định: trong bất cứ trường
hợp nào, hành vi cũng là kết quả của rất nhiều yếu tố, trong đó bao gồm cả
yếu tố thái độ.

David G. Myer đã đưa ra sơ đồ như sau để mô tả quá trình dẫn tới một
hành vi:

6. Dư luận xã hội và tin đồn

6.1. Dư luận xã hội (Public opinion)


6.1.1. Khái niệm

Định nghĩa: Dư luận xã hội là sự phán đoán, sự đánh giá và thái độ


cảm xúc của một nhóm xã hội đối với một sự kiện, hiện tượng nào đó ít nhiều
có đụng chạm đến quyền lợi của nhóm.

Trong cuộc sống, trong hoạt động của các nhóm xã hội thường xuất
hiện những sự kiện, những hiện tượng tác động lên ý thức của cá nhân, gây
ra những trạng thái cảm xúc biểu thị sự phản ứng của họ, sự phản ứng này ở
mỗi người, mỗi nhóm từng lúc biểu thị ở mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào
tính chất của các sự kiện, hiện tượng đó, và tuỳ thuộc vào mức độ hiểu biết
của mỗi người về chúng. Tuy ở các mức độ phản ứng khác nhau của các cá
nhân nhưng có những sự đồng nhất nào đó trong cách đánh giá, trong thái độ
của nhóm và chính sự đồng nhất trong đánh giá đó tạo thành dư luận xã hội.

6.1.2. Quá trình hình thành dư luận xã hội

- Bất kỳ dư luận xã hội nào cũng đều phản ánh những sự kiện, hiện
tượng và biểu thị thái độ của nhóm đối với chúng. Sự hình thành dư luận xã
hội tuỳ thuộc vào nguyên nhân, vào tính chất của sự kiện và hiện tượng.

- Nếu sự kiện, hiện tượng đụng chạm đến quyền lợi của đa số thì dư
luận xã hội hình thành nhanh chóng, không có bàn cãi, đồng thời nó có hiệu
lực lớn huy động được quần chúng đi đến những quyết định thực tiễn. Nếu
sự kiện, hiện tượng liên quan đến các nhóm xã hội khác nhau nó hình thành
một cách chậm chạp, trải qua một quá trình bàn cãi giữa các quan điểm khác
nhau.

*Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội

- Mức độ chuẩn bị của quần chúng để tiếp nhận sự kiện, hiện tượng.
Những sự kiện, hiện tượng quá bất ngờ thường gây sự hoảng loạn hay trì trệ
hoặc ngược lại quá lạc quan thiếu cơ sở trong quần chúng.

- Đặc điểm tâm lý xã hội của quần chúng: những định hình suy nghĩ
hình thành nên cách nhìn nhận nhất định, những tiêu chuẩn để đánh giá sự
kiện, hiện tượng của quần chúng và hình thành nên một sự đánh giá xã hội
tương ứng với tiêu chuẩn đó.

- Trạng thái cảm xúc cũng có ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã
hội: các trạng thái cảm xúc tích cực của quần chúng dễ dẫn đến sự đánh giá
không hết những khó khăn có thể xảy ra.

- Số lượng và chất lượng thông tin, các phương tiện thông tin cũng có
ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội và chất lượng của nó. Nếu
thông tin này không đầy đủ không rõ ràng thì sự đấu tranh giữa các quan
điểm sẽ kéo dài và có thể không tạo thành dư luận chung.

*Những thông tin đảm bảo tính chính xác, tính nhạy bén, tính công khai
thường tạo ra được dư luận xã hội đúng đắn.

- Mức độ phát triển của nhóm có ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận
xã hội. Những nhóm mới thành lập khó hình thành dư luận xã hội chung hơn
những nhóm tồn tại lâu vì các thành viên trong nhóm mới chưa hiểu biết lẫn
nhau nên khó đi đến một phán đoán chung.

6.1.3. Chức năng của Dư luận xã hội trong đời sống nói chung và trong
sự điều chỉnh, kiểm soát hành vi của cá nhân.

- Trong xã hội học, chức năng là vai trò của tiểu hệ thống đối với hệ
thống lớn hơn mà tiểu hệ thống đó là thành phần.

- Đó là hậu quả gây ra bởi các bộ phận trong hệ thống xã hội đối với
chỉnh thể xã hội, những hậu quả này là quan sát được bằng các phương
pháp khoa học.

- Dư luận xã hội có thể được xem xét là tiểu hệ thống trong chỉnh thể xã
hội và trong quá trình phát triển của xã hội loài người, tiểu hệ thống dư luận
xã hội được giao cho thực hiện những vai trò nhất định tức là xã hội đòi hỏi
dư luận xã hội phải thực hiện những hành vi nhất định. Những hành vi đó có
thể là lên án cái ác, ủng hộ cái thiện. Chức năng của dư luận xã hội có thể
được thể hiện dưới dạng biểu đạt hoặc dưới dạng tiềm ẩn. Để phát hiện ra
chức năng tiềm ẩn chúng ta phải sử dụng các phương pháp khoa học.
Dư luận xã hội có thể có chức năng tích cực đối với xã hội nếu như đó
là dư luận chín muồi hoặc trưởng thành.

*Cơ chế tác động của dư luận xã hội

- Tác động trực tiếp thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng

- Tác động gián tiếp thông qua các nhóm xã hội: các tiểu môi trường xã
hội

- Các tác động của dư luận xã hội tới cá nhân và nhóm còn được phối
hợp với sự kiểm soát thực tế.

- Các tác động của dư luận xã hội, các tiểu môi trường xã hội tác động
đến hành vi của cá nhân và nhóm theo hai hướng: tích cực và tiêu cực, biểu
hiện qua các cơ chế kiểm soát, điều chỉnh, giáo dục, tư vấn.

Sức mạnh của dư luận xã hội chỉ được tăng cường nếu như nó được
cụ thể hoá thông qua các tác động của tiểu môi trường xã hội. Ví dụ: gia đình,
nhóm bạn bè, các tập thể lao động,.

Phân loại các chức năng của dư luận xã hội:

Chức năng đánh giá

Dư luận xã hội thể hiện thái độ phán xét đánh giá của công chúng đối
với sự kiện hiện tượng, vấn đề cuộc sống. Sự phán xét, đánh giá có thể trực
tiếp hoặc gián tiếp, có thể biểu hiện dưới hình thức rất đơn giản mang đậm
sắc thái cảm xúc (đồng tình - phản đối) nhưng cũng có thể rất phong phú về
mặt nội dung. Nhờ có chức năng đánh giá, dư luận xã hội đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành các thang bậc giá trị của xã hội.

Chức năng điều tiết các mối quan hệ xã hội

Dư luận xã hội gây sức ép đối với các nhóm cực đoan phản đối, lên án
của họ làm cho họ phải “chùn tay”, cổ vũ các hành vi vì lợi ích chung của các
lực lượng tiến bộ trong xã hội. Dư luận xã hội đóng vai trò là “người lính” canh
giữ, bảo vệ các quyền lợi các giá trị phổ biến của xã hội cũng như các quyền
lợi, các giá trị cá nhân, đặc thù chính đáng của con người. Đối với đại đa số
nhân dân, lợi ích quốc gia dân tộc luôn có tầm quan trọng hàng đầu. Mỗi khi
quyền lợi các giá trị của quốc gia dân tộc hay của nhóm xã hội bị xâm phạm,
dư luận xã hội lập tức lên án, gây sức ép nhằm ngăn chặn hành vi đó. Nhờ có
sự can thiệp kịp thời, dư luận xã hội góp phần duy trì trật tự xã hội, mối quan
hệ hài hoà giữa cá nhân và xã hội cũng như giữa các nhóm xã hội.

Chức năng giáo dục của dư luận xã hội

Nhờ có uy tín lớn, sự khen chê, khuyên bảo của dư luận xã hội có tác
động rất mạnh đến ý thức và hành vi của con người, nhất là đối với các thế
hệ trẻ. Bằng sự khen chê khuyên can kịp thời đối với các hành vi phù hợp với
lợi ích, các giá trị xã hội, nhất là các giá trị đạo đức, luân lý, dư luận xã hội có
vai trò giáo dục cho các thế hệ ý thức về sự phải - trái, đúng - sai, thiện - ác,
đẹp - xấu.

Chức năng giám sát

Dư luận xã hội có vai trò giám sát hoạt động của Nhà nước và các tổ
chức xã hội, gây sức ép đối với tệ tham nhũng quan liêu, tắc trách. Trong các
nước dân chủ, công luận thường được coi là cơ quan quyền lực thứ 4. Các
quan chức tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ rất ghét báo chí, dư luận xã
hội vì báo chí, dư luận xã hội luôn nhòm ngó vào các công việc mờ ám của
họ, sẵn sàng lên án, tố cáo họ.

Chức năng tư vấn, phản biện

Trước những vấn đề nan giải của đất nước, dư luận xã hội có thể đưa
ra những lời khuyên sáng suốt, dư luận xã hội cũng là người phản biện có uy
tín đối với các quyết định của các cơ quan Đảng, chính quyền, tổ chức chính
trị - xã hội

Chức năng giải to ả tâm lý

6.2. Phân tích dư luận xã hội dưới góc độ khoa học

6.2.1. Phân tích dưới góc độ xã hội học


Là cách tiếp cận tìm căn nguyên của dư luận xã hội trong tồn tại xã hội
khách quan bên ngoài (đặc điểm giai cấp - xã hội, hình thái nhà nước, chức
năng của các nhóm, các thiết chế xã hội,...)

Trong xã hội học, lợi ích xã hội được coi là căn cứ của dư luận xã hội,
ở đây có hai cách tiếp cận đối lập nhau: cách tiếp cận giai cấp và cách tiếp
cận phi giai cấp. Tức là giai cấp nào nắm địa vị thống trị thì nó sẽ chi phối việc
hình thành dư luận xã hội theo kiểu đó.

6.2.2. Phân tích dư luận xã hội dưới góc độ tâm lý xã hội

Trong những điều kiện nhất định, tinh thần, ý thức xã hội là căn nguyên
của chính mình, tự mình quy định chính mình. Ở đây, để giải thích hành vi,
phát ngôn của con người, của nhóm xã hội chúng ta không thể xuất phát từ
tồn tại xã hội khách quan bên ngoài (lợi ích giai cấp, nhóm, đặc điểm tổ chức
xã hội.) mà phải xuất phát từ thế giới chủ quan bên trong của con người, của
nhóm xã hội (đặc điểm tư duy, ý thức).

Cách phân tích tìm căn nguyên của dư luận xã hội trong phạm vi độc
lập của thế giới tinh thần (ý thức xã hội, tự ý thức xã hội) chính là cách tiếp
cận tâm lý học xã hội.

Theo các nhà tâm lý học xã hội, căn cứ tâm lý xã hội của dư luận xã hội
là các khuôn mẫu tư duy xã hội và các tâm thế xã hội.
Tải bản FULL (file doc 135 trang): bit.ly/3cDtZLe
* Khuôn mẫu tư duy: Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

Là quan niệm, suy lý, phán xét khái quát, giản đơn, phiến diện nhưng
có tính phổ biến và tương đối bền vững trong một cộng đồng xã hội. Khuôn
mẫu tư duy tồn tại trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người, của xã
hội: trong tôn giáo, đạo đức, chính trị,. Chẳng hạn, trong thời kỳ bao cấp, các
khuôn mẫu tư duy về chủ nghĩa xã hội là các quan niệm như: “chủ nghĩa xã
hội đối lập với kinh tế hàng hoá, thị trường”, “chủ nghĩa xã hội là sở hữu nhà
nước và sở hữu tập thể”. Trong lĩnh vực đạo đức, các khuôn mẫu tư duy về
con người tốt đã từng tồn tại là các quan niệm: “người tốt là người không
buôn bán, là người không có sở hữu tư nhân,.”
Khuôn mẫu tư duy là sự giản đơn thực tế, song sự tồn tại của nó không
phải hoàn toàn phi lý, có thể nói, sự tồn tại của khuôn mẫu tư duy vừa hợp lý,
vừa cần thiết đồng thời cũng vừa bất hợp lý.

* Tâm thế xã hội

Là trạng thái đồng nhất của ba yếu tố: nhận thức, tình cảm và ý chí.
Trên thực tế, các khuôn mẫu tư duy xã hội không tồn tại “tự nó” mà tồn tại
gắn liền với tình cảm và ý chí xã hội.

Tâm thế xã hội là trạng thái tâm lý, tinh thần, thể hiện tư thế sẵn sàng
hành động của nhóm xã hội nhằm đối phó với một đối tác nhất định.

Tâm thế xã hội được định hình thông qua kinh nghiệm sống của nhóm
xã hội. Nó có ảnh hưởng tiền định đối với nội dung và tính chất phản ứng của
nhóm xã hội trước đối tác.

* Các đặc điểm cơ bản của tâm thế:

- Trạng thái sẵn sàng phản ứng: tâm thế không phải là hành động mà
chỉ là tư thế sẵn sàng hành động, hay nói cách khác chỉ là khuynh hướng ứng
xử của nhóm xã hội, theo một quy luật nhất định đối với đối tác. Đối tác có thể
là con người, sự vật, sự kiện, hiện tượng.

- Sức mạnh khởi động và điều chỉnh hành vi: tâm thế là trạng thái tâm
lý tích cực. Nó thực hiện chức năng khởi động và hướng dẫn hành vi của
nhóm xã hội.

- Tính tương đối bền vững: tâm thế xã hội có thể tồn tại rất lâu dài, từ
thế hệ này sang thế hệ khác.

- Xét định giá trị (đánh giá): tâm thế thể hiện khuynh hướng đối phó của
chủ thể với đối tác dưới góc độ thiện cảm hay ác cảm, hài lòng hay không hài
lòng, nhất trí hay phản đối,. Góc độ này thể hiện ý nghĩa, giá trị của đối tác đối
với chủ thể. Tải bản FULL (file doc 135 trang): bit.ly/3cDtZLe
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
* Tâm thế xã hội là một kết cấu gồm 3 thành phần:
- Thành phần nhận thức: Đó là quan niệm, nhận định của chủ thể và đối
tác

- Thành phần tình cảm: tâm trạng, cảm tưởng, cảm xúc của chủ thể với
đối tác.

- Thành phần ý chí: đó là xu hướng hành động của chủ thể nhằm đối
phó với đối tác.

Tâm thế là biến số không thể quan sát được mà chỉ có thể được rút ra
bằng con đường suy luận. Điều này có thể được biểu thị qua sơ đồ sau:

Tâm thế xã hội gắn với khuôn mẫu tư duy, thói quen, nếp nghĩ, các
định hướng giá trị trong xã hội. Tâm thế xã hội liên kết với nhau theo hệ
thống. Trong hệ thống này có những tâm thế giữ vị trí trung tâm, có sức mạnh
chủ đạo. Có những tâm thế có độ ổn định lớn như những tâm thế có liên quan
đến tâm lý nền (gắn với phong tục, tập quán, truyền thống, thành kiến, định
kiến, ca dao, tục ngữ, huyền thoại,..). Vì vậy, việc phân tích dư luận xã hội
không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra cơ sở của tâm thế xã hội của nó, mà còn phải
làm rõ vai trò của tâm thế này trong hệ thống các tâm thế của chủ thể.

*Định hướng dư luận xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ


quốc xã hội chủ nghĩa.

Định hướng dư luận xã hội là làm cho dư luận có tính tích cực, tính tư
tưởng, tính chiến đấu, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều đó phụ thuộc vào vai trò, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức
xã hội, các cơ quan truyền thông đại chúng,... trong nhận thức quy luật hình
thành dư luận xã hội để tác động phù hợp vào nó theo những mục đích và nội
dung nhất định.

Mục đích của định hướng dư luận xã hội trước hết nhằm xác định
phương hướng đúng cho dư luận. Bởi vì, dư luận xã hội thường diễn biến
phức tạp, có thể tích cực hoặc tiêu cực, đúng đắn hoặc giả tạo, tiến bộ hoặc
lạc hậu, nên có thể có tác dụng giáo dục hoặc phản giáo dục. Do vậy, phải

4214646

You might also like