You are on page 1of 43

1

Xin chào các đồng chí,


Xin phép các đồng chí chúng ta bắt đầu làm việc!
Được sự phân công của BGH nhà trường cũng như lãnh đạo khoa, hôm nay
tôi sẽ trao đổi với các đồng chí những nội dung cơ bản của chuyên đề đầu tiên
trong phần pháp luật đó là pháp luật và hệ thống pháp luật XHCNVN, trước khi
đi vào nội dung bài học ngày hôm nay, xin mời đồng chí lớp trưởng báo cáo sĩ
số lớp….xin cảm ơn đồng chí! Lớp chúng ta hôm nay đi học khá đầy đủ tôi rất
hoan nghênh tinh thần học tập của các đồng chí!
Ở nội dung của các chuyên đề trước thì các đồng chí đã được tìm hiểu về hệ
thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị ở VN, Nhà nước pháp quyền
XHCNVN, HĐND và UBND vậy đồng chí nào hãy nhắc lại trong HTCT ở VN
bao gồm những tổ chức nào? Xin mời đồng chí…xin cảm ơn câu trả lời của đồng
chí!
Trong hệ thống chính trị ở VN bao gồm các tổ chức đó là ĐCSVN,
NNCHXHCNVN, MTTQVN, và các tổ chức chính trị XH. Trong đó Đảng đóng
vai trò là lực lượng lãnh đạo, NN là trụ cột của HTCT, MTTQ là cơ sở và nền
tảng của HTCT.
Như vậy, Đảng lãnh đạo thông qua chủ trương và đường lối, và để lãnh đạo
được thì phải chuyển hóa quyền lực chính trị của mình thành quyền lực nhà
nước. Có nghĩa là Đảng thông qua chủ trương đường lối và những chủ trương
đường lối đó chỉ đi vào thực tiễn khi và chỉ khi được NN cụ thể hóa, thể chế hóa
thành chính sách pháp luật để tổ chức triển khai trong đời sống thực tiễn.
Như vậy pháp luật là gì và có nguồn gốc từ đâu thì chúng ta sẽ tìm hiểu
từng nội dung cụ thể của chuyên đề ngày hôm nay! Nội dung của chuyên đề
ngày hôm nay bao gồm 3 nội dung chính:
+ Nội dung thứ nhất: pháp luật xã hội chủ nghĩa, trong nội dung này bao
gồm: nguồn gốc và bản chất của pháp luật, bản chất pháp luật XHCN, mối quan
hệ và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
+ Nội dung thứ 2: hệ thống pháp luật XHCN, trong nội dung này bao gồm:
khái niệm hệ thống pháp luật XHCN, cấu trúc của HTPL XHCN, các ngành luật
trong HTPL Việt Nam
+ Nội dung thứ 3: mục tiêu, quan điểm xây dựng và hoàn thiện hệ thống
2

pháp luật XHCNVN.


Thưa các đồng chí chúng ta khi nghiên cứu về một vấn đề, một nội dung
nào đó chúng ta thường đưa ra mục tiêu nghiên cứu. Bây giờ tôi sẽ trình bày về
mục tiêu nghiên cứu của nội dung chuyên đề ngày hôm nay bao gồm 3 mục tiêu:
kiến thức, kỹ năng, thái độ.
+ Về kiến thức: nội dung chuyên đề ngày hôm nay giúp cho các đồng chí
nắm vững kiến thức về nguồn gốc, bản chất của pháp luật, tính ưu việt của bản
chất pháp luật XHCN, mối quan hệ và vai trò của pháp luật đối với các lĩnh vực
khác trong đời sống xã hội. Nắm vững khái niệm hệ thống pháp luật, cấu trúc của
hệ thống pháp luật, các ngành luật trong hệ thống pháp luật VN, mục tiêu quan
điểm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCNVN.
+ Về kỹ năng: nội dung bài học ngày hôm nay giúp các đồng chí rèn luyện
tư duy, phân tích tổng hợp, đánh giá vấn đề trong các tình huống pháp luật để
thực thi công vụ
+ Về thái độ: nội dung chuyên đề ngày hôm nay giúp các đồng chí nhận
thức đúng đắn, tránh những chủ quan duy ý chí trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ đồng thời nắm vững phương hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật XHCNVN trong giai đoạn hiện nay, từ đó có biện pháp thực hiện tốt
ngay tại cơ quan mình.
Về tài liệu phục vụ học tập, tài liệu các đồng chí đã có đó chính là giáo
trình trung cấp lý luận chính trị hành chính, những vấn đề cơ bản về hệ thống
chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN, của nhà xuất bản lý luận chính trị HN,
ngoài tài liệu các đồng chí đã có thì các đồng chí có thể tham khảo các tài liệu
khác như: HP nước CHXHCN VN năm 2013, luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015, giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của đại học luật
TPHCM, hoặc là ĐH luật HN.
Bây giờ chúng ta bắt đầu tìm hiểu từng nội dung cụ thể của chuyên đề ngày
hôm nay.
Đầu tiên đó là nội dung pháp luật XHCN, phần 1.1 nguồn gốc và bản chất
của pháp luật.
Chúng ta tìm hiểu trước hết về nguồn gốc của pháp luật.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mac – lenin, lịch sử phát triển loài người đã có
thời kỳ chưa có nhà nước và chưa có pháp luật.
3

Hỏi:Vậy theo các đồng chí đó là thời kỳ nào?


Đó chính là thời kỳ công xã nguyên thủy, trong thời kỳ này con người
muốn tồn tại và phát triển nên họ đã phải chung sống với nhau trong một cộng
đồng nhất định, và những cộng đồng đó gọi là những tổ chức thị tộc bộ lạc, và
cuộc sống trong thị tộc bộ lạc đó con người sở hữu chung về tư liệu sản xuất,
công cụ lao động rất là thô sơ, các đồng chí thấy trên hình ảnh con người họ chỉ
sử dụng thân cây, đá để làm công cụ lao động, họ cùng nhau sản xuất cùng nhau
hưởng thụ sản phẩm lao động mà họ làm ra, một xã hội chưa có giai cấp, chưa có
mâu thuẫn giai cấp.
Như vậy, thời kỳ này chưa có nhà nước chưa có pháp luật, nhưng trong xã
hội vẫn có các mối quan hệ giữa con người với con người với nhau.
Hỏi:Vậy theo các đồng chí thì họ sử dụng phương tiện gì để họ điều chỉnh
các quan hệ trong xã hội?
Họ đã sử dụng những quy tắc xã hội chung để điều chỉnh hành vi của con
người, và những quy tắc xã hội chung đó là những tập quán và tính điều tôn giáo.
Tập quán, như thế nào là tập quán? Tập quán đó là những thói quen đã thành nếp
trong đời sống sinh hoạt, trong sản xuất hằng ngày, nó được cộng đồng nơi có tập
quán đó thừa nhận và nó được làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.
Tôi ví dụ ở Việt Nam, một số đồng bào dân tộc ở các tỉnh miền Bắc hay là
Miền Trung thì họ vẫn giữ được một số phong tục tập quán từ xưa cho đến ngày
hôm nay đó là: tục kéo vợ của người H’mông, bát canh riêu đá của người Thái,
củi hứa hôn của người Giẻ Triêng… và còn nhiều tập quán khác nữa thì các đồng
chí có thể về tìm hiểu thêm. Như vậy đối với các quy tắc xã hội chung trong thời + Thể hiện ý chí của
kỳ công xã nguyên thủy này có một số đặc điểm: toàn thị tộc bộ lạc
+ Thể hiện ý chí của toàn thị tộc bộ lạc (tất cả thành viên trong thị tộc bộ + Điều chỉnh hành
lạc điều tôn trọng thừa nhận quy tắc xử sự chung này) vi của các thành
+ Điều chỉnh hành vi của các thành viên trong thị tộc bộ lạc (quy định về viên trong thị tộc bộ
điều chỉnh hành vi, khuôn mẫu cách xử sự, quy tắc xử sự của các thành viên lạc
trong xã hội) + Không thể hiện
+ Không thể hiện thành văn (có nghĩa là truyền đạt từ thế hệ này sang thế thành văn
hệ khác) + Được thực hiện
+ Được thực hiện một cách tự nguyện và theo thói quen của mỗi thành viên theo thói quen của
trong thị tộc bộ lạc mỗi thành viên
4

Như vậy trong thời kỳ công xã nguyên thủy chưa có nhà nước và chưa có trong thị tộc bộ lạc
pháp luật, thì con người họ đã sử dụng những quy tắc xã hội chung để điều chỉnh
hành vi của con người trong xã hội.
Và khi nền kinh tế vận động và phát triển thì lúc này các điều kiện xã hội có
sự thay đổi: chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành giai cấp và nhà nước
ra đời. Khi nhà nước ra đời đã ban hành ra pháp luật.
Nhà nước và pháp luật có cùng điều kiện ra đời đó là điều kiện kinh tế và
điều kiện xã hội:
Kinh tế: khi xã hội trải qua 3 lần phân công lao động:
+lần phân công lao động thứ nhất đó chính là chăn nuôi tách khỏi trồng trọt
+lần phân công lao động thứ hai: tiểu thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp
+lần phân công lao động thứ 3: thương mại
Xã hội: trong xã hội phân chia thành các giai cấp đối lập nhau, xảy ra mâu
thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp.
Như vậy khi xã hội trải qua ba lần phân công lao động thì lúc đó sản phẩm làm
ra sẽ dư thừa so với nhu cầu tối thiểu. có nghĩa là một số người họ chuyên về
chăn nuôi thì họ chỉ có sản phẩm về thịt, cá,v.v..và sản phẩm dó dưa thừa so với
nhu cầu sản phẩm của họ, nhưng trong khi đó họ lại thiếu sản phẩm về lương
thực, còn một số bộ phận khác khi mà họ chuyên về trồng trọt thì sẽ dư thừa về
lương thực và thiếu sản phẩm thịt, cá, v.v…, vậy thì trong khi đó nhu cầu vượt
quá mức cần thiết tối thiểu của họ đòi hỏi họ có sự trao đổi sản phẩm của nhau
Tức là tôi có lúa, gạo, các đồng chí có thịt, cá và tôi cần sản phẩm về thịt cá
tôi sẽ trao đổi với các đồng chí, ngược lại các đồng chí cần lúa gạo thì các đồng
chí trao đổi lại với tôi chẳng hạn. Và mục đích của việc trao đổi đó là để đáp ứng
nhu cầu của cuộc sống.
Tuy nhiên muốn trao đổi được sản phẩm thì yếu tố cơ bản nhất đó là sản
phẩm phải thuộc sở hữu của họ. Như vậy trong lúc này tư hữu xuất hiện, và các
đồng chí lưu ý rằng quá trình trao đổi này nó diễn ra từ lần phân công lao động
thứ nhất và từ từ đến lần 2, lần 3 và quá trình tư hữu cũng diên ra từ từ từng bước
Như vậy khi chế độ tư hữu xuất hiện, và khi đó trong xã hội có người giàu
người nghèo. Đặc biệt sau lần phân công lao động thứ 3 có một bộ phận họ
không tham gia vào quá trình sản xuất nữa nhưng họ vẫn có tài sản thông qua
5

việc trao đổi mua bán, thì từ đó trong lòng xã hội xuất hiện tình trạng tước đoạt
sản phẩm của nhau. trong xã hội phân chia thành các giai cấp người giàu người
nghèo, mâu thuẫn giai cấp xuất hiện và trong xã hội xảy ra các cuộc đấu tranh
giai cấp. Thì lúc này tổ chức thị tộc bộ lạc trong thời kỳ công xã nguyên thủy có
nguy cơ bị tan rã, và trong xã hội cần phải có một tổ chức để đều hòa các cuộc
đấu tranh giai cấp và làm cho nó diễn ra trong vòng trật tự.
Cho nên giai cấp thống trị xã hội đã thiết lập nên nhà nước, từ đó nhà nước
ra đời. Như vậy khi mà tổ chức thị tộc bộ lạc ở thời kỳ công xã nguyên thủy tan
rã và đến thời kỳ CHNL đã có nhà nước, và nhà nước đầu tiên đó chính là nhà
nước chiếm hữu nô lệ
Vậy thì khi nhà nước ra đời và cùng với đó là sự phát triển của kinh tế xã
hội, sự phân công lao động ngày càng tăng lên và lực lượng sản xuất phát triển
đến một trình độ nhất định, xã hội phân chia thành các giai cấp đối lập nhau vậy
theo các đồng chí những quy tắc xã hội chung trước đây mà con người sử dụng
nó có còn phù hợp trong điều kiện lịch sử mới này không?
Nó không còn phù hợp nữa, cho nên đòi hỏi nhà nức phải ban hành ra
những quy định pháp luật, và những quy định đó phải phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị. Cho nên khi nói về sự ra đời của pháp luật thì pháp luật ra đời
từ 2 con đường:
Thứ nhất: nhà nước
thừa nhận sự tồn tại
của các tập quán
phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống
Ví dụ: phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam ta từ xưa đến có truyền trị
thống là con cái phải có bổn phận yêu quý kính trọng ông bà cha mẹ, và đạo đức
truyền thống đó được nhà nước nhận thấy rằng phù hợp với điều kiện thực tế và
thừa nhận và sau này được quy định trong luật HNVGĐ năm 2000 và kế thừa
phát triển đến năm 2014
Hay là chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự cũng được thể chế từ tập
quán thuận mua vừa bán.
Con đường thứ 2 hình thành nên pháp luật đó là: Nhà nước đặt ra các
quy phạm mới phù
6

Các đồng chí thấy rằng đối với giai đoạn đầu các tầng lớp giàu có họ tìm hợp với lợi ích giai
cách giữ lại những tập quán có lợi cho họ và bằng được sự thừa nhận của nhà cấp và điều kiện xã
nước các tập quán được nâng lên thành pháp luật. Thì bên cạnh đó, nhà nước hội
cũng tiến hành xây dựng các quy phạm pháp luật mới. Bởi vì, khi nền kinh tế xã
hội phát triển thì trong xã hội sẽ phát sinh nhiều mối quan hệ mới, nếu như chỉ áp
dụng những tập quán được chuyển hóa lên thành pháp luật để điều chỉnh thì nó
sẽ không phù hợp với các mối quan hệ mới phát sinh này,
Ví dụ luật HSVN năm 1999, và năm 2009 không có những quy định về
pháp nhân thương mại phạm tội trước đây pháp nhân thương mại pháp tội, các
nhà chức năng chủ yếu sử dụng chế tài hành chính để xử lý, nhưng thời sau này
hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại ngày càng tinh vi mà hậu quả để lại
rất nặng về, điển hình sự kiện Formosa ở Vũng Án Hà Tĩnh đã làm cho vùng
biển ở vùng biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế) bị ô nhiễm cá chết hàng loạt cuộc sống người dân rơi vào khó
khăn, trước tình hình đó các nhà chức năng nhận thấy rằng, nếu như chỉ áp dụng
chế tài hành chính để mà sử lý hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại thì
không có đủ sức để răng đe, cho nên khi BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đã bổ
sung thêm những quy định về pháp nhân thương mại phạm tội để xử lý. Đây là
nhà nước đặt ra các quy phạm pháp luật mới phù hợp với lợi ích giai cấp và điều
kiện xã hội
Như vậy khi nói về nguồn gốc ra đời của pháp luật thì pháp luật ra đời từ 2
con đường khác nhau: nhà nước công nhận sự tồn tại của các tập quán phù hợp
với lợi ích giai cấp thống trị, nhà nước đặt ra các quy phạm pháp luật mới phù
hợp với lợi ích giai cấp và điều kiện xã hội. Pháp luật là công cụ của Nhà nước,
được Nhà nước thống trị ban hành thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều
chỉnh mọi hoạt động cơ bản của xã hội, giữ cho xã hội ổn định phát triển theo
định hướng của giai cấp thống trị.
Như vậy pháp luật ra đời và có bản chất như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu
phần kế tiếp đó là bản chất của pháp luật. Khi nghiên chúng ta nghiên cứu về sự
ra đời của nhà nước thì chúng ta thấy rằng, nhà nước mang bản chất đó là tính
giai cấp và tính xã hội, như vậy pháp luật có chung nguồn gốc ra đời với Nhà
nước cho nên bản chất của pháp luật cũng có 2 thuộc tính đó là tính giai cấp và
tính xã hội:
7

Chúng ta tìm hiểu trước hết đó là tính giai cấp của pháp luật

Pháp luật phản ánh


ý chí nhà nước của
giai cấp thống trị

Các đồng chí thấy rằng trong một nhà nước, giai cấp nào cầm quyền thì
trước hết pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp đó. Theo nghĩa thông thường, ý
chí được hiểu là khả năng tự xác định mục tiêu, mục đích của mình và bằng
những hành động cụ thể biến những mục đích đó thành hiện thực . Cho nên các
giai cấp thống trị trong lich sử luôn có mục đích cao nhất là bảo vệ giai cấp mình
và họ luôn tìm mọi cách để đạt được mục đích đó. Cách hiệu quả nhất mà giai
cấp thống trị sử dụng đó là biến ý chí của họ thành ý chí của nhà nước và từ ý
chí của nhà nước sẽ thể hiện thành các quy định cụ thể của pháp luật, tức là thành
các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung buộc mọi người phải tôn trọng hoặc
thực hiện trong toàn xã hội
Ví dụ: đối với nhà nước chiếm hữu nô lệ có 2 giai cấp đó chính là giai cấp
chủ nô và giai cấp nô lệ, thì pháp luật nó sẽ thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
là chủ nô cụ thể công khai bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô cụ thể là giai cấp
chủ nô chiếm hữu đất đai, công cụ phương tiện lao động và cả nô lệ, chỉ chủ nô
mới được coi là công dân và được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong pháp
luật chủ nô chỉ có giai cấp chủ nô mới được xem là chủ thể, còn nô lệ bị xem như
là đã chết, họ chỉ được coi là khách thể của chế độ sở hữu, hành vi giết chết hoặc
gây thương tích cho nô lệ chỉ bị coi là đã gây thiệt hại cho chủ sở hữu (chủ nô)
mà không bị xem là đã phạm tội. Bên cạnh đó, pháp luật chủ nô ghi nhận sự
thống trị tuyệt đối của gia trưởng đối với vợ và các con trong gia đình. Trong gia
đình chủ nô, người gia trưởng (chủ nô) có nhiều quyền hơn so với những thành
viên khác. Ngoài ra trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ pháp luật cho phép chủ nô giết
chết nô lệ nếu như nô lệ đó được xem là thông minh khỏe mạnh (nhằm đề phòng
sự chống đối) và ghi nhận những hình phạt hà khắc, như là nô lệ trộm cắp, đốt
nhà…đều có thể bị tử hình
Hoặc là đối với nhà nước phong kiến , thì pháp luật phong kiến thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị là địa chủ cụ thể là pháp luật công khai phân biệt đối xử
8

giữa các giai cấp. ví dụ như là hành vi giết một người dân thường, và giết một
người địa chủ thì sẽ bị trừng trị bằng các hình phạt khác nhau, ngoài ra pháp luật
phong kiến cho phép địa chủ sử dụng bao lực đối với người nông dân và những
người lao động khác, hay là trong quốc triều hình luật ghi nhận hình phạt ngũ
hình đó là: suy, trượng (chỉ áp dụng cho địa chủ), đồ, lưu tử (áp dụng đối với
nông dân) (đánh bằng roi, đánh bằng gậy, tù khổ sai, lưu đày, giết chết).
Còn đối với pháp luật tư sản thể hiện ý chí của giai cấp tư sản là bằng mọi
giá phải duy trì và củng cố chế độ tư hữu và sự chi phối không hạn chế của nó
đối với các yếu tố xã hội, kinh tế và chính trị. Mác và Ăngghen đã vạch rõ bản
chất của pháp luật tư sản trong Tuyên ngôn đảng cộng sản như sau: "Pháp luật
của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành pháp luật, cái ý
chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông
quyết định".
Pháp luật tư sản tuyên bố bảo vệ quyền tư hữu của tất cả mọi người. Nhưng
thực chất, pháp luật tư sản chỉ bảo vệ chế độ tư hữu tư sản. Giai cấp công nhân
thì không có gì để mà tư hữu ngoài sức lao động của mình và dĩ nhiên là "sự
thiêng liêng, bất khả xâm phạm" của quyền tư hữu không hề tồn tại đối với họ.
Mác đã nói: "Lao động làm thuê, lao động của người vô sản liệu có tạo ra sở hữu
cho người vô sản không? Tuyệt đối không. Nó tạo ra tư bản, tức là tạo ra cái sở
hữu bóc lột lao động làm thuê".
→ Đó chính là sự thể hiện pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị

Pháp luật là nhân tố


điều chỉnh các quan
Các đồng chí thấy rằng pháp luật ra đời là để điều chỉnh quan hệ giữa các hệ xã hội vì lợi ích
giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, cho nên pháp luật nó là nhân tố để điều chỉnh của giai cấp thống
về mặt giai cấp các quan hệ xã hội phát triển theo một trật tự phù hợp với ý chí trị
của giai cấp thống trị.
→ Đó là tính giai cấp của pháp luật
Ngoài tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội, như vậy tính xã hội của
9

pháp luật được thể hiện như thế nào?

Các đồng chí thấy rằng từ khi xuất hiện pháp luật bao giờ cũng là công cụ Pháp luật thể hiện ý
hữu hiệu để bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị. Nhưng mặt khác, pháp luật còn chí và bảo vệ lợi ích
là công cụ, phương tiện để tổ chức đời sống xã hội. Ở mức độ khác nhau, ngoài của các giai cấp,
việc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị thì pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích tầng lớp khác trong
của các giai cấp khác trong xã hội. Các đồng chí thấy rằng trong một nhà nước, xã hội
trong một chế độ lúc nào cũng có 2 giai cấp, nhà nước chiếm hữu nô lệ thì có
giai cấp chủ nô, và giai cấp nô lệ, nhà nước phong kiến thì có giai cấp địa chủ và
nông dân, nhà nước tư bản chủ nghĩa thì có giai cấp tư sản và vô sản. Như vậy
theo các đồng chí ai trong nhà nước là người lao động tạo ra tư liệu sản xuất cơm
ăn áo mặc, đó có phải là giai cấp nô lệ, giai cấp nông dân, giai cấp vô sản
không?....đó chính là những giai cấp này. Như vậy ngoài việc bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị ( CN, ĐC, TS) thì pháp luật còn bảo vệ lợi ích của các giai cấp
khác trong xã hội (NL,ND,VS)
Ví dụ: ở nhà nước chiếm hữu nô lệ pháp luật chủ nô ngoài việc công khai
bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô thì pháp luật chủ nô còn ghi nhận những quy
tắc hoạt động chung trong quá trình sản xuất, trao đổi, buôn bán, sinh hoạt để
duy trì đời sống cộng đồng xã hội. Còn đối với pháp luật phong kiến có bước tiến
bộ hơn đó là thi hành những công việc chung cho toàn xã hội như: phòng chống
lũ lụt, thiên tai, bảo vệ mùa màng, khai hoang, tăng cường sản xuất nông
nghiệp… ghi nhận một số quyền của người nông dân và những người lao động
khác như: quyền có gia đình riêng, có một số tài sản riêng, còn đối với pháp luật
tư sản thì pháp luật cho phép xây dựng nền dân chủ tư sản, xây dựng các chế
định về quyền con người, địa vị pháp lý của công dân…
Như vậy chúng ta đã nghiên cứu về bản chất của pháp luật bao gồm tính
giai cấp và tính xã hội. Các đồng chí lưu ý rằng, bất kỳ một nền pháp luật nào nó
cũng phải tồn tại 2 thuộc tính đó là tính giai cấp và tính xã hội. Nếu mất đi một
thuộc tính thì pháp luật sẽ không thể nào trở thành công cụ phương tiện để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Cho nên bất kỳ nhà nước nào, một pháp luật nào cũng
điều phải tồn tại 2 thuộc tính đó là tính giai cấp và tính xã hội.
Như vậy từ phân tích nguồn gốc và bản chất của pháp luật, ta có khái niệm
10

về pháp luật

Pháp luật là hệ
thống các quy tắc
xử sự chung do nhà
nước ban hành hoặc
thừa nhận, thể hiện
ý chí của giai cấp
thống trị và được
đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà
nước, là yếu tố bảo
đảm sự ổn định và
Các đồng chí thấy rằng trong khái niệm trên thể hiện 3 ý chính: trật tự của xã hội
+ Thứ nhất: pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, vậy như thế nào
là quy tắc xử sự chung (quy tắc xử sự chung là những quy định được sử dụng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội trên một phạm vi lãnh thổ nhất định và bắt buộc
mọi người phải thực hiện theo không có ngoại lệ
Ví dụ: bộ luật Dân sự quy định các mối quan hệ về quyền nhân thân về
quyền sở hữu và quyền thừa kế v.v…được áp dụng toàn lãnh thổ Việt Nam,
không phân biệt dân tộc, vùng miền và không có ngoại lê.
+ Thứ hai: thể hiện ý chí giai cấp thống trị giống như chúng ta đã phân tích
vừa rồi pháp luật CN,PK,TBCN thì nó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là
(CN,ĐC,TS)
+ thứ 3: được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước: nghĩa là
khi pháp luật được ban hành thì được tất cả mọi người phải thực hiện theo, nếu
như một người nào đó một chủ thể một cá nhân nào đó không thực hiện, hoặc
thực hiện không đúng những quy định của pháp luật thì phải chịu những biện
pháp chế tài đo NN đặt ra
Như vậy, từ khái niệm pháp luật theo các đồng chí so với các quy tắc xử sự
chung thời kỳ công xã nguyên thủy khác nhau ở điểm nào?
11

→các điểm khác nhau giữa pháp luật và các quy tắc xử sự chung thời công
xã nguyên thủy:
+ thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
+được đảm bảo bằng tính cưỡng chế của nhà nước
+thể hiện thành văn
+có tính bắt buộc chung áp dụng đối với những đối tượng cụ thể và phạm vi
áp dụng cụ thể có hệ thống và tính thống nhất cao
Như vậy tôi đã vừa trình bày với các đồng chí nội dung phần 1.1
Bây giờ chúng ta sang nội dung phần kế tiếp đó là 1.2
Chúng ta đã vừa nghiên cứu xong nguồn gốc và bản chất của pháp luật,

Các đồng chí thấy rằng khi bộ máy nhà nước XHCN được thiết lập, thì
pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng được xây dựng tương ứng với hình thái kinh tế
xã hội, đáp ứng nhu cầu quản lý trật tự xã hội mới. Ở Việt Nam, ngay sau khi
CM T8 thành công, Đảng chính quyền còn non trẻ đã nhận thấy sự cần thiết phải
có hệ thống pháp luật để quản lý đất nước, xóa bỏ tàn tích của chế độ thực dân –
phong kiến, nhưng nhận thấy rằng việc xây dựng pháp luật không phải là công
việc một sớm một chiều. Vì vậy, Nhà nước ta đứng đầu là chủ tịch HCM người
đã chủ trương tạm thời áp dụng các quy định của pháp luật cũ, miễn là nội dung
không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể cộng hòa theo sắc lệnh số 47 ngày
10-10-1945. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã khẩn trương xây
dựng những văn bản pháp luật mới. Nhờ vậy, Nhà nước ta đã có công cụ quản lý
trong giai đoạn mới này, đồng thời, từng bước xây dựng nên hệ thống pháp luật
như ngày nay.
Như vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì chúng ta tìm hiểu trước hết về
khái niệm
Pháp luật xã hội
chủ nghĩa là hệ
thống các quy tắc
xử sự chung do nhà
nước xã hội chủ
nghĩa ban hành
hoặc thừa nhận, thể
12

hiện ý chí của giai


cấp công nhân và
đại đa số nhân dân
dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng
sản ,được đảm bảo
thực hiện bằng bộ
máy nhà nước và
phương thức tác
động của nhà nước
trên cơ sở giáo dục,
thuyết phục và
So với các kiểu nhà nước trước (CN,PK,TBCN) thì giai cấp thống trị đó là cưỡng chế của nhà
giai cấp CN,ĐC,TS nước nhằm xây
Hỏi:vậy theo các đồng chí nhà nước XHCN giai cấp thống trị là giai cấp dựng chế độ xã hội
nào? chủ nghĩa.
TL: giai cấp công nhân, nhân dân, nông dân và tầng lớp liên minh trí thức
Như vậy trong nhà nước XHCN, pháp luật XHCN thì giai cấp thống trị là
giai cấp công nhân, nhân dân và tầng lớp liên minh trí thức đây là những người
chiếm số đông trong XH đây chính là sự biểu hiện của nhà nước kiểu mới, pháp
luật kiểu mới . Nếu như ở nhà nước CHNL,PK,TBCN thì giai cấp thống trị đó là
CN,ĐC,TS thì những giai cấp này là những giai cấp chiếm số ít trong xã hội thì
nhà nước XHCN giai cấp thống trị chiếm số đông trong XH.
Trong một nhà nước trong 1 chế độ lúc nào cũng có 2 giai cấp thống trị và
bị trị, nếu như nhà nước XHCN giai cấp thống trị là giai cấp công nhân, nhân dân
và tầng lớp liên minh trí thức
Hỏi: Vậy theo các đồng chí giai cấp bị trị là giai cấp nào?
Là những người bị ảnh hưởng tàn dư của chế độ cũ, những người có hành
vi chống phá nhà nước.

Vậy thì pháp luật XHCN có bản chất như thế nào, có giống với các kiểu
pháp luật trước không, chúng ta sẽ tìm hiểu về bản chất pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
13

Như lúc đầu tôi đã nói một nền pháp luật không tồn tại được nếu chỉ có tính
giai cấp, hoặc chỉ có tính xã hội. Cho nên pháp luật XHCN cũng thể hiện ở 2
thuộc tính đó là tính giai cấp và tính xã hội. Nhưng sự biểu hiện bản chất đó có
những điểm khác với bản chất pháp luật nói chung
Thứ nhất đó là tính giai cấp:

Dưới xã hội xã hội chủ nghĩa, pháp luật là sản phẩm của hoạt động Nhà Pháp luật xã hội
nước xã hội chủ nghĩa – nhà nước kiểu mới – nhà nước của dân, do dân, vì dân. chủ nghĩa mang bản
Vậy theo các đồng chí như thế nào là nhà nước của dân, như thế nào là nhà nước chất của giai cấp
do dân, như thế nào là nhà nước vì dân? ( nhà nước của dân là dân lập ra , nhà công nhân
nước do dân là dân bầu ra những vị đại biểu của mình, nhà nước vì dân là nhà
nước hoạt động vì lợi ích của nhân dân) cho nên pháp luật XHCN thể hiện trước
hết lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của nhân dân lao động. Nếu so với
các kiểu pháp luật trước đều có chung bản chất là thể hiện ý chí của thiểu số giai
cấp bóc lột trong xã hội, là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, dựa trên
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thì ngược lại pháp luật XHCN lại thể hiện ý chí
của đại đa số nhân dân trong xã hội, đó là ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Pháp luật XHCN là
pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân
dân lao động.
Ví dụ: pháp luật XHCN ghi nhận và bảo vệ nhiều hình thức sở hữu; trong
đó nền tảng là hình thức sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý cụ thể tại điều 53 HP năm 2103 quy định “đất đai, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên
nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nươc đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”
→ Đó là tính giai cấp của pháp luật XHCN
Bên cạnh tính giai cấp pháp luật XHCN còn mang tính xã hội. Tính xã hội
của pháp luật XHCN thể hiện

Pháp luật xã hội


14

Các đồng chí thấy rằng bất kỳ kiểu pháp luật nào cũng có tính cưỡng chế chủ nghĩa mang tính
tức là tính bắt buộc đối với người thực hiện. Tuy nhiên pháp luật XHCN có bản nhân đạo xã hội chủ
chất nhân đạo sâu sắc, một mặt pháp luật nghiêm khắc trong việc ngăn chặn, đấu nghĩa
tranh chống lại mọi hành vi vi phạm pháp luật. Mặt khác rất khoan hồng đối với
những người phạm tội khi biết hối cải, trở thành người công dân lương thiện.
Ví dụ: đối với phạm nhân phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị phạt tù 10
năm, trong thời gian chấp hành bản án thì phạm nhân có thái độ cải tạo tốt, và cố
gắng để trở thành người lương thiện thì nhà nước sẽ xem xét để cho phạm nhân
đó được mãn hạn tù trước thời hạn.
Về nguyên tắc, tất cả những ngành luật phải được xây dựng với mục tiêu là
hướng về con người, phát huy quyền tự do của con người. Các đồng chí thấy
rằng thật ra việc truy cứu trách nhiệm pháp lý của chủ thể đó, hoặc trừng phạt họ
một cách nặng nề, mà trước hết là để giáo dục, cải tạo họ hoàn thành người
lương thiện, có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Hoặc là trong bộ luật hình sự Việt Nam, không phải người nào phạm tội đều
cũng phải bị trừng phạt nghiêm khắc, mà bên cạnh đó Bộ luật HS VN còn có
những quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm như: người phạm tội đã ngăn
chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm, người phạm tội tựn nguyện sửa
chữa bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;…v.v…
Bên cạnh đó tính xã hội của pháp luật còn thể hiện

Pháp luật XHCN có tính nhân dân tính dân tộc, bản chất này của pháp luật Pháp luật XHCN
là do bản chất nhà nước và mục tiêu của xã hội chủ nghĩa đó là mục tiêu xây mang tính nhân dân,
dựng nước “ Việt Nam dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn tính dân tộc
minh”. Cho nên nhà nướ ta luôn có những chủ trương chính sách cho dân chẳng
hạn như: làm đê ngăn mặn, cứu trợ thiên tai lũ lụt, các chế độ dành cho người
nghèo gia đình chính sách, mẹ VNAH..v.v…..
→ đó chính là tính xã hội của pháp luật
Tôi vừa thông qua với các đồng chí phần pháp luật xã hội chủ nghĩa để các
đồng chí thấy được sự khác biệt giữa pháp luật xã hội chủ nghĩa và các kiểu pháp
luật nói chung như thế nào? Vậy bây giờ chúng ta sang phần kế tiếp đó chính là
15

mối quan hệ của pháp luật. Đối với mối quan hệ của pháp luật thì pháp luật có
các mối quan hệ như: quan hệ với kinh tế, quan hệ với chính trị, quan hệ với nhà
nước. Trước hết ta tìm hiểu về mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế.

Pháp luật là yếu tố


của kiến trúc
thượng tầng xã hội.
Do đó, pháp luật
trước hết được ra
Như thế nào là kiến trúc thượng tầng: đời trên cơ sở hạ
kiến trúc thượng tầng hay Thượng tầng kiến trúc là một khái niệm trong tầng và được quy
chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx và Ph.Ăng-ghen đưa ra dùng để mô tả toàn định bởi cơ sở hạ
bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị-xã tầng.
hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Theo đó, kiến
trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v.
Như thế nào là cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định.
Như vậy trong mối quan hệ này, các điều kiện kinh tế không chỉ là nguyên
nhân trực tiếp quy định sự ra đời của pháp luật, mà còn quyết định toàn bộ nội
dung và sự phát triển của nó.
Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế biểu hiện cụ thể ở các mặt sau đây:

Cơ cấu kinh tế, hệ


thống kinh tế quyết
định cơ cấu của hệ
thống pháp luật
16

Tính chất của các


quan hệ kinh tế, của
cơ chế kinh tế quyết
định tính chất của
quan hệ pháp luật,
mức độ và phương
pháp điều chỉnh
pháp luật.
Tức là sự thay đổi của chế độ kinh tế - xã hội sớm muộn cũng dẫn đến sự Các tổ chức và thiết
thay đổi của pháp luật, và pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ chế pháp lý chịu
kinh tế, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn sự phát triển đó. Sự phụ thuộc của ảnh hưởng quyết
pháp luật vào kinh tế biểu hiện cụ thể ở các mặt sau đây: định từ chế độ kinh
tế.

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân năm 1990 là bước đột phá nhằm thể chế hóa chính sách mới và
ghi nhận nhiều điểm mới so với pháp luật hiện hành thời kỳ trước. Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam cho phép chủ đầu tư huy động nguồn vốn từ nước ngoài
vào kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động đầu tư… Luật Doanh nghiệp
tư nhân, Luật Công ty quy định quyền sở hữu tư liệu sản xuất, quyền thừa kế
vốn, tài sản, lợi ích hợp pháp khác của chủ doanh nghiệp; thừa nhận sự tồn tại và
phát triển lâu dài của doanh nghiệp tư nhân.
17

Mặc dù ra đời từ
các điều kiện và tiền
đề kinh tế, nhưng
pháp luật không
phản ánh một cách
Điều đó thể hiện cụ thể ở các mặt sau đây: thụ động các quan
Nếu pháp luật được xây dựng phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội thì hệ kinh tế mà nó
sẽ tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, đến các tổ chức và vận hành toàn còn có tính độc lập
bộ nền kinh tế cũng như cơ cấu bên trong của nền kinh tế một cách hiệu quả. tương đối tác động
Nếu pháp luật được xây dựng không phù hợp với các quy luật kinh tế - xã trở lại đối với kinh
hộ, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của toàn nền kinh tế hoặc một trong các yếu tố tế
hợp thành của hệ thống kinh tế.
Ví dụ: Trước đây tp HCM đưa ra quy định một người không thể đồng thời
cùng sử sở 2 xe máy, thì quy định đó trái ngược lại những quy định của pháp luật
về sở hữu, và nó sẽ kìm hãm lại sự phát triển của kinh tế. Bởi vì nếu như quy
định một người chỉ được sở hữu 1 chiếc xe máy thì hoạt động sản xuất kinh
doanh xe máy sẽ không phát triển được
Hoặc là trong thời đại hiện nay, việc pháp luật tác động đến kinh tế có thể
dễ dàng nhận thấy. Trong lĩnh vực Bất động sản, với chính sách phát triển kính tế
tại các đảo hướng tới trở thành đặc khu kinh tế, đơn cử như Phú Quốc. Với định
hướng trở thành đặc khu kinh tế giúp Phú Quốc thu hút nguồn đầu tư khủng, giá
nhà đất tăng vọt. Từ đây có thể thấy, pháp luật có tác động vô cùng lớn đến sự
phát triển của kinh tế.
→tóm lại pháp luật được hình thành trên cơ sở các quan hệ kinh tế, do các
quan hệ kinh tế quyết định. Một mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác,
có khả năng tác động trở lại đối với nền kinh tế theo hai chiều hướng tích cực
hoặc tiêu cực.
Chúng ta mối quan hệ kế tiếp đó là quan hệ giữa pháp luật với chính trị
18

Chính trị là những chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, và từ những
chủ trương, chính sách đường lối đó được nhà nước cụ thể hóa thành những văn
bản quy phạm pháp luật để đưa vào thực tiễn cuộc sống
Ví dụ: NQ số 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 có đưa ra tiêu chí rằng
Đến năm 2020 phải Sửa đổi, bổ sung các chính sách hình sự và từng bước
sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính. Trên cơ sở đó bộ luật Dân sự 2015 thay thế bộ luật dân sự 2005 và bộ luật
hình sự 2015 sửa đổi bỏ sung 2017 thay thế bộ luậ hinh sự 2009.

Pháp luật thể chế


hóa đường lối,
chính sách của đảng
thành ý chí
chung,thành ý của
nhà nước. Ngoài ra
pháp luật còn chịu
ảnh hưởng nhất
định của đường lối
chính trị của các
giai cấp và tầng lớp
Pháp luật là phương tiện để thực hiện hóa mục tiêu, chính sách của lực lượng khác trong xã hội.
cầm quyền (đảng phái, nhà nước, giai cấp..). Các đảng phái chính trị luôn mong
muốn đường lối, chính sách của mình được Nhà nước thể chế hóa thành pháp
luật. Dưới hình thức pháp luật, đường lối chính sách của các lực lượng chính trị
được nâng lên thành cái phổ biến, có tính chất bắt buộc chung đối với toàn xã hội
và được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp nhà nước, trong đó có các biện pháp
cưỡng chế rất nghiêm khắc. Do vậy, mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị
được thể hiện tập trung trong mối quan hệ giữa Nhà nước với pháp luật, giữa
đưuòng lối chính sách của Đảng cầm quyền với pháp luật của nhà nước
→ đó chính là mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị
Chúng ta sang mối quan hệ kế tiếp đó là mối quan hệ giữa pháp luật với nhà
nước. Trong mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước thể hiện
19

Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, được gia cấp thống trị
thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình.

Pháp luật và Nhà


nước là hai thành tố
của thượng tầng
chính trị - pháp lý,
luôn có mối quan hệ
chặt chẽ, không thể
tách rời nhau. Cả
- Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung mang tính chất bắt buộc chung do hai hiện tượng pháp
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo luật và Nhà nước
mục tiêu, định hướng cụ thể đều có chung nguồn
Pháp luật và nhà nước là hai thành tố của kiến trúc thượng tầng, luôn có mối gốc cùng phát sinh
quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Cả hai hiện tượng pháp luật và Nhà nước và phát triển.
đều có chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đố
chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu quả trên cơ sở của pháp luật. Pháp
luật là hệ thống các quy tắc ứng xử do nhà nước ban hành, luôn phản ánh những
quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và bảo
đảm cho quyền lực đó được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội. Với
ý nghĩa đó nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật;
ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức
mạnh của quyền lực nhà nước.
Vì vậy không thể nói pháp luật đứng trên hay nhà nước đứng trên pháp luật.
Đồng thời khi xem xét các vấn đề nhà nước và pháp luật, phải đặt chúng trong
mối quan hệ lẫn nhau.
Khi xem xét mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước phải xem xét đến một khía
cạnh thứ hai, đó là cần xuất phát từ tính chất đặc thù về giá trị xã hội của mỗi
hiện tượng để luật giải. Pháp luật mặc dù do nhà nước banh hành, nhưng khi nó
20

được công bố thì nó trở thành một hiện tượng có sức mạnh công khai, bắt buộc
đối với mọi chủ thể, trong đó có nhà nước. Nhà nước nói chung và mỗi cơ quan
của nó nói riêng đều phải tôn trọng pháo luật. Nhà nước có quyền ban hành pháp
luật, nhưng pháp luật bên cạnh việc thể hiện bản chất giai cấp còn phản ánh
những nhu cầu khách quan phổ biển cúa các mối quan hệ xã hội.
Vì vậy nhà nước cũng không thể ban hành pháp luật 1 cách chủ quan, duy ý chí
không tính đề những nhu cầu tâm lý xã hội. Khi một bộ phận của pháp luật
không còn phù hợp với thực tiễn nữa thì nhà nước phải tiến hành sửa đổi bổ sung
hoặc ban hành hủy bỏ để ban hành pháp luật mới.
Ví dụ: quốc hội ban hành luật nhưng quốc hội vẫn họat động trong khuôn
khổ của pháp luật (Luật Tổ chức quốc hội)
Các cơ quan nhà nước tổ chức hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật:
luật tổ chức tòa án, luật tổ chức HĐND,UBND…….
Các đồng chí thấy rằng pháp luật ra đời cùng với nhà nước, là công cụ sắc
bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì và bảo về lợi ích của giai cấp thống
trị. Nhà nước ban hành ra pháp luạt đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Với
bản chất và những đặc điểm đặc thù của mình pháp luật có nhiều vai trò trong
đời sống xã hội. Vai trò của pháp luật thể hiện ở nhiều gốc độ khác nhau:
Trước hết đó là vai trò của pháp luật đối với kinh tế.

Pháp luật là phương


tiện hàng đầu xác
định địa vị pháp lý
bình đẳng đối với
các chủ thể tham
Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, nhà nước không thể quan hệ kinh tế, tạo
quản lý được nền kinh tế phức tạp nếu như không dựa vào pháp luật. Chỉ có pháp ra các khung pháp
21

luật với những thuộc tính đặt thù của mình mới có khả năng đảm bảo cho nhà lý để cho các cơ
nước thực hiện được chức năng quản lý trong lĩnh vực kinh tế, trật tự hóa các quan quản lý nhà
hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân, định hướng cho các nước về kinh tế tiến
quan hệ kinh tế phát triển theo những mục đích mong muốn. hành quản lý hoạt
Ví dụ: một công ty dược sản xuất ra một sản phẩm chức năng và công ty động sản xuất kinh
muốn công bố sản phẩm đó ra thị trường thì phải tuân thủ các quy định về công doanh.
bố sản phẩm của Nghị định số 15 năm 2018 của Chính phủ nghị định quy định
chi tiết thi hành một số điều của luật an toàn thực phẩm
Hoặc là Luật An toàn thực phẩm năm 2010, “ An toàn thực phẩm” nghiêm
cấm hành vi sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm để chế
biến thực phẩm; sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm
ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc trong danh mục được phép sử dụng
nhưng vượt quá giới hạn cho phép, sử dụng hóa chất bị cấm sử dụng trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh thực phẩm...
Và nếu như tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp
luật về an toàn thực phẩm thì tùy tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý vi phạm
hành chính, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Đây là chế tài nghiêm khắc nhằm bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người
tiêu dùng, đồng thời đảm bảo quyền của con người
Thứ hai

Ví dụ: trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang tiếp tục xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế. Hiện nay nước ta có 5 thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Pháp luật là phương
Khi đó pháp luật xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền tiện làm cho các
và nghĩa vụ cũng như khách thể mà các bên tham gia hoạt động kinh tế. quan hệ kinh tế trở
thành quan hệ pháp
22

luật

Pháp luật là phương


tiện cũng cố và bảo
vệ những nguyên
tắc vốn có của nền
Thứ ba kinh tế thị trường
Pháp luật đưa ra những biện pháp kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động
kinh tế của các tổ chức và cá nhân như chủ thể nào có thẩm quyền kiểm tra, giám
sát? Kiểm tra giám sát những hoạt động kinh tế gì? Với các tổ chức và đơn vị
kinh tế nào? Quy định các biện pháp bảo vệ lợi ích của các chủ thể sản xuất kinh
doanh, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của toàn xã hội.
Ví dụ: Để thu hút đầu tư vào sản xuất, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, năm
2018 Luật đầu tư được ban hành. Một mặt, tạo môi trường pháp lý cho các chủ
đầu tư; mặt khác, biến quan hệ giữa các chủ đầu tư thành quan hệ pháp luật.
Hoặc trong quá trình sản xuất kinh doanh, khi xảy tra tranh chấp vi phạm hợp
đồng kinh tế, không đúng thời gian, mẫu mã, chất lượng theo hợp đồng, khi đó
các bên tranh chấp có thể giải quyết trên cơ sở pháp luật.
Ví dụ: điều 8 luật doanh nghiệp với các khoản quy định những quyền mà
doanh nghiệp được làm như là: Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành,
nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và
ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện
thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, lựa chọn hình
thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn, chủ động tìm kiếm thị
trường, khách hàng và ký kết hợp đồng.
Ngoài ra pháp luật còn là phương tiện xử lý những tiêu cực trong quá trình
hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế. Pháp luật thường xác định chủ thể
thẩm quyền xử lý và các biện pháp mà họ có thể áp dụng để ngăn ngừa và trừng
phạt những hành vi vi phạm pháp luật, những hiện tượgn tiêu cực trong các hoạt
động kinh tế, bảo đảm tôn trọng sự cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh.

→ đó là những vai trò của pháp luật với kinh tế


23

Chúng ta sang phần kế tiếp chính là vai trò của pháp luật đối với chính trị.
Vai trò của pháp luật đối với chính trị thể hiện cụ thể là đối với sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Trước hết, ta tìm hiểu về vai trò
của pháp luật đối với sự lãnh đạo của Đảng: Pháp luật là phương
tiện để thể chế hóa
đường, chủ trương,
chính sách của
đảng, đồng thời
pháp luật là phương
tiện để đảng kiểm
tra đường lối của
mình trong thực tiễn
Các đồng chí thấy rằng, chủ trương của Nhà nước ta là Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý và nhân dân làm chủ. Như vậy, để thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình Đảng đã ban hành những chủ trương, đường lối đúng đắn để quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Thông qua pháp luật mà nhà nước thể chế hóa những quan
điểm của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống, những đường lối chủ trương này trở
thành những mệnh lệnh, chỉ thị mang tính chất quyền lực được nhà nước đảm
bảo thực hiện thông qua hệ thống pháp luật, và cũng dựa vào pháp luật có thể
phân biệt được đâu là những hành vi không tuân thủ đường lối chính sách của
Đảng và nhà nước. Từ đó, có những biện pháp điều chỉnh thích hợp nghĩa là
pháp luật cũng chính là thước đo khuôn mẫu cho Đảng kiểm tra việc thực hiện
những chủ trương, đường lối của mình trong đời sống xã hội.
Ví dụ: Đảng đưa ra chủ trương đường lối, và những chủ trương đường lối
đó được nhà nước cụ thể hóa thành pháp luật để đưa vào thực tiễn (cụ thể trên cở
sở NQ số
Việc ban hành Luật an ninh mạng là nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ
trương, đường lối của Đảng về an ninh mạng được nêu tại một số văn bản như:
Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị TW4 khóa XI về
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành Đối với nhà nước
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; Chỉ thị số 46-CT/TW của pháp luật là cơ sở
Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác bảo đảm an pháp lý tổ chức và
ninh, trật tự trong tình hình mới; Nghị định 66/2017/NĐ-CP quy định điều kiện hoạt động của chính
24

kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình, định vị. mình , là sự ghi
Thứ hai đó là vai trò của pháp luật đối với nhà nước: nhận về mặt pháp lý
trách nhiệm của nhà
nước đối với xã hội
và cá nhân, công
dân, là phương tiện
quản lý có hiệu lực
đối với mọi mặt đời
sống xã hội

Để bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi phải phân định rõ chức
năng, thẩm quyền của mỗi cơ quan, do đó pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn
thiện bộ máy nhà nước.
Dựa vào pháp luật, nhà nước có thể quản lý xã hội hiệu quả hơn, nói đúng
hơn, nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trở nên trật tự,
ổ định, và pháp luật là phương tiện để nhà nước triển khai các chính sách của nhà
nước được đi vào đời sống một cách nhanh nhất.
Ngoài ra pháp luật còn là công cụ bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của
xã hội và mọi người dân, nhân dân muốn đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình
cũng phải tuân theo các quy định pháp luật. Dựa vào pháp luật, nhà nước giải
quyết những tranh chấp mâu thuẫn trong xã hội, đồng thời đấu tranh chống lại
những hiện tượng tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba đó là vai trò của pháp luật đối với các tổ chức chính trị - xã hội

Pháp luật là cơ sở
pháp lý bảo đảm
25

cho nhân dân tham


Pháp luật thể chế và phát triển nề dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tất gia vào quản lý nhà
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dựa vào pháp luật để phản nước, quản lý xã hội
ứng đấu tranh với các hành vi lạm quyền, cưỡng chế ngoài quy định của pháp thông qua các tổ
luật. chức chính trị - xã
hội của mình.
→ đó chính là vai trò của pháp luật đói với chính trị
Chúng ta sang phần tiếp theo đó là vai trò của pháp luật đối với đạo đức và
tư tưởng
Đối với đạo đức.
Trước hết ta hiểu như thế nào là đạo đức?
Đạo đức: là 1 hình thái ý thức xã hội, bao gồm những quan điểm, quan
niệm, những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.
Nhờ đó con người tự nhận thức, tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp trước những lợi ích đặt ra.
Pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được thực hiện bằng sức mạnh Pháp luật bảo vệ,
cưỡng chế của nhà nước. cũng cố và phát
Như vậy vay trò của pháp luật đối với đạo đức được thể hiện như thế nào? triển các nguyên tắc
Pháp luật góp phần giữ gìn và phát huy những quan niệm, quy tắc đạo đức cơ bản của đạo đức
tiến bộ, tốt đẹp của dân tộc, ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức.
Nhiều quy tắc đạo đức đã được luật hóa để bảo vệ giữ gìn truyền thống, tranhswj
xuống cấp về đạo đức
Ví dụ những quy định trong luật hôn nhân và gia đình có những quy tắc
được chuyển hóa từ đạo đức như: con cái phải có bổn phận yêu quý kính trọng
ông bà cha mẹ, những quy định về nghĩa vụ giữa cha mẹ con, giữa vợ chồng giữa
các thành viên trong gia đình
Hoặc là các quy ước về đạo đức nghề nghiệp như đạo đức người thẩm phán,
đạo đức của kiểm sát viên là những quy định trong luật tổ chức tòa án, luật tổ
chức kiểm sát.
Pháp luật góp phần hạn chế, loại trừ dần những quan điểm, quan niệm, quy
tắc đạo đức cũ lạc hậu, trái với sự tiến bộ xã hội văn minh
Pháp luật dã góp phần ngăn chặn những quan niệm đạo đức không lành Pháp luật có vai trò
26

mạnh, đồng thời tác động để hình thành những tư tưởng, quan niệm đạo đức mới quan trọng trong
trong xã hội. cũng cố và nâng cao
Ví dụ: quan niệm của người xưa là trọng nam kinh nữ, chỉ có nam mới nhận thức của con
được học hành thi cử. Nhưng hiện nay pháp luật quy định nam nữ đều bình đẳng người là phương
cụ thể khoản 1 điều 26 HP 2013 quy định 1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi tiện đăng tải thế
mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. giới quan khoa học,
Hay là trong mối quan hệ vợ chồng thì người chồng là gia trưởng chỉ có các tư tưởng tiến bộ
người chồng mới có quyền quyết định tất cả mọi việc trong gia đình. Nhưng và các giá trị nhân
trong luật HNGĐ năm 2014 quy định rõ về quan hệ giữa vợ và chồng cụ thể tại loại
điều 17 của luật quy định vợ chồng bình dẳng về quyền và nghĩa vụ.

Đối với tư tưởng

Vì thế, pháp luật có vai trò quan trọng trong cũng cố và nâng cao nhận thức
tư tưởng cho con người. Điều đó thể hiện: một mặt pháp luật thừa nhận và
khuyến khích sự phát triển của một hoặc nhiều hệ tư tưởng mặt khác pháp luật Pháp luật là công
không ghi nhận hoặc cấm sự tồn tại, hạn chế sự phát triển của những hệ tư tưởng cụ, phương tiện
không phù hợp với hệ tư tưởng giữ địa vị thống trị với lợi hoặc mục đích của giai thực hiện chủ
cấp thống trị trương, chính sách
Ví dụ: quyền được hiến nội tạng, trước đây mọi người luôn quan niệm rằng đối ngoại của các
một người khi mất đi thì toàn bộ cơ thể phải đầy đủ nhưng ngày nay y học ngày quốc gia trên
càng phát triển có một số người có ý định hiến nội tạng cho người đang mắc trường quốc tế,
bệnh đó là việc thể hiện nghĩa cử cao quý của con người. Và việc hiến tạng cũng đồng thời pháp luật
được quy định bằng pháp luật (luậthiến, lấy, ghép mô, bộ phậncơ thể người và là phương tiện bảo
hiến, lấy xáccủa quốc hội khóa xi, kỳ họp thứ 10số 75/2006/qh11 ngày 29 tháng vệ lợi ích hợp pháp
11 năm 2006) để tránh những trường hợp mua bán nội tạng trái phép. cho các chủ thể
27

→ đó chính là vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng trong quá trình hội
Chúng ta sang phần kế tiếp vai trò của pháp luật đối với quá trình hội nhập nhập quốc tế.
quốc tế
Đối với kết hôn đồng giới:

Các đồng chí thấy rằng trong thời đại hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế là
tất yếu khách quan của mỗi quốc gia. Cùng với những tuyên bố chính trị, các
quốc gia đang hướng xây dựng một hệ thống pháp luật tạo cơ sở vững chắc cho
quá trình hội nhập. Pháp luật tạo môi trường ổn định cho việc thiết lập mối quan
hệ giao giữa các quốc gia.
Ví dụ: điều 12 HP 2013 đã thể hiện Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế thì cánh cổng ngoại
giao của Việt Nam ngày càng được mở rộng và mối quan hệ giữa VN với các
nước trên thế giới ngày càng phát triển.
Pháp luật cùng với các đường lối, chính sách khác nhau của nhà nước góp
phần tạo dựng quan hệ mới.
Ví dụ: từ khi VN chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
năm 2007 và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này các quan hệ thương
kinh doanh trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng.
Hiện nay nước ta đang tiến hành hội nhập quốc tế sâu sắc, quan hệ ngoại
giao 187 quốc gia, quan hệ kinh tế trên 200 quốc gia vùng lãnh thổ, hội nhập
phải tuân thủ theo pháp luật, pháp luật phải phù hợp với pháp luật quốc tế để
thúc đẩy phát triển. Vì vậy, pháp luật là phương tiện thực hiện chủ trương, chính
sách đối ngoại là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quá
trình hội nhập quốc tế.
28

Tôi đã vừa trình bày với các đồng chí nội dung thứ nhất của chuyên đề đó
là pháp luật XHCN, trong nội dung này phần quan trọng đó chính là bản chất của
pháp luật và bản chất của pháp luật XHCN. Bây giờ chúng ta sẽ sang nội dung kế
tiếp đó là hệ thống pháp luật XHCN.
Các đồng chí thấy rằng khi nhà nước tiến hành quyền lực quản lý xã hội,
Nhà nước đã ban hành ra một số lượng lớn các văn bản, quy định các chuẩn mực
chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Những quy định đó không tồn tại
một cách rời rạc mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành một thể thống nhất gọi là hệ thống pháp luật. Vậy hệ thống pháp luật là gì
chúng ta sẽ cùng tìm hiểu phần đầu tiên của nội dung đó chính là khái niệm hệ
thống pháp luật.
Để hiểu được hệ thống pháp luật là gì trước hết ta hiểu như thế nào là hệ
thống? Theo các đồng chí như thế nào là hệ thống?........hệ thống là tập hợp nhiều
phần tử cùng loại, cùng chức năng có mối liên hệ hoặc quan hệ chặt chẽ với nhau
tạo thành một thể thống nhất. Các đồng chí nên lưu ý rằng tất cả các hệ thống
đều phải có đầy đủ cấu trúc để cấu thành nên một hệ thống. Nếu thiếu đi bất kỳ
bộ phận nào thì hệ thống đó không hoạt động được
Ví dụ: trong một cổ máy thì có đầy đủ các bộ phận cấu thành nên hệ thống
của cổ máy để thực hiện chức năng của nó, hay là trong hệ thống lớp học thì có
giảng viên và học viên, nếu lớp học chỉ có giảng viên mà không có học viên thì Hệ thống pháp
không thể nào thực hiện buổi học đó. XHCN là tổng thể
Như vậy, đối với hệ thống lúc nào cũng có cấu trúc cấu thành nên nó, vậy các quy phạm pháp
thì đối với hệ thống pháp luật thì cấu trúc của hệ thống pháp luật bao gồm những luật có mối quan hệ
bộ phận nào? Chúng ta tìm hiểu về khái niệm HTPL chặt chẽ với nhau,
được phân định
thành các chế định
pháp luật, các
ngành luật và được
thể hiện trong các
văn bản quy phạm
pháp luật do các cơ
quan nhà nước có
thẩm quyền ban
29

hành theo những


trình tự, thủ tục và
hình thức nhất định

Đó chính là hệ thống pháp luật XHCN, vậy cấu trúc của hệ thống pháp luật
bao gồm những bộ phận nào? Các đồng chí thấy rằng trong khái niệm hệ thống
pháp luật có nhắc đến một số thuật ngữ như: quy phạm pháp luật, chế định pháp
luật, ngành luật, văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy ở mức độ khái quát thì
khái niệm HTPL vừa phản ánh cấu trúc bên trong của hệ thống đó là (quy phạm
pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật)vừa phản ánh cấu trúc bên ngoài đó
chính là văn bản quy phạm pháp luật.
Vậy cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài của HTPL như thế nào, chúngQuy phạm pháp luật
ta sẽ tìm hiểu phần tiếp theo là những quy tắc xử
Trước hết là hệ thống cấu trúc bên trong. Chúng ta sẽ tìm hiểu bộ phận nhỏ
sự mang tính bắt
nhất của cấu trúc bên trong đó chính là quy phạm pháp luật buộc chung do các
Như thế nào là một quy phạm pháp luật? cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đặt
ra hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí và
bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị để
điều chỉnh các quan
hệ xã hội với mục
Ví dụ: khoản 1 điều 124 BLHS 2015 quy định “Người mẹ nào do ảnh hưởng đích xây dựng xã
nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết hội ổn định và trật
con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” tự
Trên đây là một quy phạm pháp luật
ở đây các đồng chí nên phận biệt rõ giữa quy phạm và vi phạm
+ quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, là tiêu
30

chuẩn để đánh giá hành vi của con người.


+ vi phạm pháp luật: là hành vi trái luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiện pháp lý thực hiện xâm hại đến các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Chỉ
được xem hành vi vi phạm pháp luật khi hội đủ 4 yếu tố sau:
Phải là hành vi trái luật: hành vi này hành động hoặc không hành động,
nhưng đi ngược lại những đều mà pháp luật quy định, gây phương hại cho xã hội
Phải xâm hại đến các quan hệ mà pháp luật bảo vệ
Hành vi có lỗi, có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý.
Phải do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
Ví dụ: A tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm thì bị phạt tiền từ
100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
Người điều khiển, người ngồi trên xe "không đội mũ bảo hiểm cho người đi
mô tô, xe máy" hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài
quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ
Ví dụ trên đây cho thấy A có biểu hiện hành vi trái pháp luật là không đội
mũ bảo hiểm, và bị CSGT sử dụng những quy định pháp luật trong NĐ 46/ NĐ-
CP để xử lý hành vi vi phạm của A.
Như vậy quy phạm pháp luật trước hết là một quy phạm xã hội, vì vậy nó Quy phạm pháp luật
mang những tính chất vốn có của một quy phạm xã hội: là quy tắc xử sự chung, chỉ do nhà nước đặt
là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Tuy nhiên QPPL có một số đặc ra hoặc thừa nhận
điểm.

Ngoài ra quy phạm pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp
cưỡng chế của nhà nước. Nhà nước thiết lập ra hệ thống các cơ quan chuyên môn
như: tòa án, viện kiểm sát, công an, v.v… để đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện chính xác và triệt để. Bất kỳ chủ thể nào vi phạm pháp luật cũng đều phải bị Quy phạm pháp luật
truy cứu trách nhiệm pháp lý là quy tắc xử sự
mang tính bắt buộc
chung
31

Các đồng chí thấy rằng trong đời sống, một cách tự nguyện hoặc bắt buộc, con
người tuân thủ rất nhiều quy phạm xã hội như đạo đức, tập quán, tôn giáo, v.v…
Tuy nhiên chỉ có những quy phạm do Nhà nước ban hành hoặc công nhận mới có Quy phạm pháp luật
thể được xem là quy phạm pháp luật. Đây là một trong những dấu hiệu cơ bản để được lặp đi lặp lại
phân biệt quy phạm pháp luật với tất cả các quy phạm khác trong xã hội. nhiều lần trong
không gian và thời
gian

Nội dung của mỗi


quy phạm pháp luật
là rõ ràng chính
Tính bắt buộc chung của quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc đối với xác, thể hiện thành
tất cả mọi chủ thể nằm trong hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đó quy văn
định. Quy phạm pháp luật chỉ ra cách xử sự mà chủ thể bắt buộc phải làm theo. Quy phạm pháp luật
Tính bắt buộc ở đây thể hiện tính quyền lực nhà nước và cũng nhằm bảo đảm các vừa mang tính giai
quy phạm pháp luật được thực hiện trên thực tế. cấp, vừa mang tính
xã hội

Hiệu lực của quy phạm pháp luật chỉ thay đổi hay chấm dứt khi cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước ban hành sửa đổi hay đặt ra quy phạm pháp luật mới,
tuyên bố hủy bỏ hoặc thời hạn áp dụng nó đã hết.

Quy phạm pháp luật xác định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên
tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, về mặt hình thức quy phạm pháp luật
là quy phạm thành văn được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước
32

Tức là quy phạm pháp luật vừa thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích giai cấp
thống trị, vừa duy trì, bảo vệ đời sống cộng đồng nói chung.
→ đó là quy phạm pháp luật.
Các đồng chí thấy rằng, quy phạm pháp luật là bộ phận nhỏ nhất trong hệ
thống cấu trúc bên trong của hệ thống pháp luật, nhưng QPPL vẫn có cấu trúc
cấu thành nên một quy phạm pháp luật. Vậy thì cấu trúc của quy phạm pháp luật
là gì?

Cấu trúc của quy phạm pháp luật gồm 3 bộ phận: giả định quy định chế tài.
Vậy như thế nào là giả định, quy định, chế tài?

Cấu trúc của quy


phạm pháp luật
được hiểu là các bộ
phận hợp thành quy
phạm pháp luật.

Giả định là một bộ


phận của quy phạm
pháp luật nêu lên
chủ thể (cá nhân
hay tổ chức), những
hoàn cảnh điều
kiện, địa điểm thời
gian xảy ra hành vi
33

(hành động hoặc


không hành động)
trong cuộc sống mà
con người gặp phải
và cần phải xử sự
theo những quy định
của Nhà nước.
Quy định là bộ phận quan trọng, là yếu tố trọng tâm của quy phạm pháp Quy định là một bộ
luật. Bởi vì, quy định chính là bộ phận thể hiện ý chí và lợi ích của nhà nước, xã phận của quy phạm
hội và cá nhân con người trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội nhất định. Nó thể pháp luật, trong đó
hiện một cách chính xác, trực tiếp bản chất, chức năng của quy phạm và vai trò nêu ra cách xử sự
xã hội của nó. Quy định chính là mệnh lệnh của nhà nước buộc mọi chủ thể (tổ buộc chủ thể phải
chức, hay cá nhân, v.v..) phải tuân theo nghiêm chỉnh. theo khi ở vào hoàn
Theo pháp luật hiện hành của VN hiện nay có các loại chế tài sau: cảnh điều kiện đã
Chế tài hình sự bao gồm các hình phạt như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo nêu trong phần giả
không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Ngoài ra, còn định của quy phạm
có các hình phạt bổ sung đó là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc pháp luật
làm công việc nhất định; cấm cư trú, quản chế;….phạt tiền khi không áp dụng là
hình phạt chính, trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính
Chế tài dân sự: theo quy định của bộ luật Dân sự VN, chế tài dân sự bao
gồm: công nhận quyền dân sự, buộc chấm dứt hành vi dân sự, buộc xin lỗi, cải
chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, phạt vi phạm, bồi thường thiệt
hại xảy ra Chế tài là một bộ
Chế tài hành chính: bao gồm các biện pháp: cảnh cáo, phạt tiền. Ngoài ra, phận của quy phạm
còn có các biện pháp bổ sung: tước quyền sử dụng giấp phép (tước bằng lái các pháp luật, nêu lên
phương tiện giao thông, phương tiện vận tải, giấy phép kinh doanh hoặc các loại những biện pháp tác
giấy phép khác), tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm và một số biện pháp động mà Nhà nước
hành chính khác dự kiến sẽ áp dụng
Chế tài kỷ luật: bao gồm các biện pháp khiển trách, cảnh cáo, hạ tầng công với chủ thể nào
tác, hạ bậc lương, chuyển đi làm việc khác, buộc thôi việc, cách chức. không thực hiện
→ đó là những chế tài của quy phạm pháp luật trong pháp luật VN hiện đúng bộ phận quy
hành định của quy phạm
Một vấn đề lưu ý với các đồng chí không phải lúc nào một quy phạm pháp pháp luật.
34

luật cũng đầy đủ 3 bộ phận mà phổ biến là một trong 3 trường hợp sau đây:
Quy phạm pháp luật chỉ có quy định
Ví dụ:
Quy phạm pháp luật gồm giả định và quy định
Ví dụ: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách
đảm bảo quyền và cơ hội bình đẳng giới ( khoản 1 Điều 26 Hiến pháp 2013).
Đáp án: -QPPL trên gồm 2 bộ phận: giả định và quy định, khuyết (ẩn) chế
tài.
-Giả định: “Công dân nam, nữ”; “Nhà nước”.
-Quy định: “bình đẳng về mọi mặt”; “có chính sách đảm bảo quyền và cơ
hội bình đẳng giới”
Quy phạm pháp luật chỉ có giả định và chế tài
Ví dụ: Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng
đến 02 năm.
Đáp án: -QPPL trên gồm 2 bộ phận: giả định và chế tài, khuyết (ẩn) quy
định.
-Giả định: “Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng”
-Chế tài: “thì phải bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt
tù từ 03 tháng đến 2 năm.
Bây giờ chúng ta sang bộ phận kế tiếp của cấu trúc bên trong đó chính là
chế định pháp luật
Như thế nào là chế định pháp luật
35

Hay nói cách khác chế định pháp luật là nhóm các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại và cùng nhóm nội dung. Việc xác định và
phân chia các chế định pháp luật có ý nghĩa quan trọng vì nó góp phần thiết lập
hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với đời sống xã hội
Có thể nói đây là bộ phận ở cấp độ thứ 2 trong hệ thống pháp luật, cấp độ
nhỏ nhất đó là quy phạm pháp luật còn chế định pháp luật bao gồm một nhóm
các quy phạm pháp luật. Chế định pháp luật mang tính chất nhóm, và tính chất
của mỗi chế định pháp luật được quy định bởi tính chất của nhóm quan hệ xã hội
tương ứng mà nó điều chỉnh
Ví dụ: ngành luật HP có các chế định pháp luật như: chế độ chính trị, chế
độ kinh tế…chế định sở hữu tỏng luật dân sự bao gồm một nhóm các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt.
chế định ly hôn trong luật HNVGĐ, chế định tiền lương trong luật lao
động……
→đó là chế định pháp luật
Chúng ta sang bộ phận cuối cùng của hệ thống cấu trúc bên trong đó là
ngành luật. Như thế nào là ngành luật?

Chế định pháp luật


là một nhóm các
quy phạm pháp luật
Hay nói cách khác ngành luật là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh điều chỉnh quan hệ
một loại quan hệ xã hội có cùng tính chất hoặc trong một lĩnh vực quan hệ xã hội xã hội, có những
nhất định. đặc điểm chung và
Như vậy có thể nói ngành luật là một bộ phận ở cấp độ thứ 3 tạo nên hệ có quan hệ mật thiết
thống pháp luật. Nếu quy phạm pháp luật được xem là tế bào của hệ thống pháp với nhau thuộc cùng
luật, chế định pháp luật mang tính chất nhóm thì ngành luật mang tính chất loại. một loại quan hệ xã
Ví dụ: Luật Hiến pháp là một ngành luật gồm tổng thể các quy phạm pháp hội do ngành luật
36

luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ điều chỉnh
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ của công
dân, về quốc tịch. Ngoài ra còn có các ngành luật như là ngành luật dân sự,
ngành luật hình sự, ngành luật hành chính…..
Để phân biệt các ngành luật phải dựa trên 2 yếu tố chính đó là: đối tượng
điều chỉnh, và phương pháp điều chỉnh
Như thế nào là đối tượng điều chỉnh?
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những quan hệ xã hội cùng loại
thuộc một lĩnh vực của đời sống xã hội cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật
Các đồng chí thấy rằng quan hệ xã hội rất là đa dạng, song có thể phân loại
chúng để xác định chúng thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật nào thì dựa
vào đặc điểm, tính chất giống nhau của quan hệ đó
Ví dụ: trong ngành luật hôn nhan và gia đình đối tượng điều chỉnh là các
quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì khác với những quan
hệ mang tính chấp hành và điều hành trong quản lý hành chính nhà nước.
Bởi vì, những quy phạm điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân
giai đình hợp lại thành ngành luật hôn nhân và gia đình, còn những quy phạm
điều chỉnh các quan hệ mang tính chấp hành và điều hành trong quản lý hành
chính nhà nước hợp lại thành ngành luật hành chính.
→ đó là đối tượng điều chỉhn của ngành luật Ngành luật là tổng
Chúng ta sang yếu tố thứ 2 đó là phương pháp điều chỉnh. thể các quy phạm
Như thế nào là phương pháp điều chỉnh? pháp luật điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là những cách thức tác động một loại quan hệ xã
vào quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật đó. hội có cùng tính
Thông thường, mỗi ngành luật có phương pháp điều chỉnh riêng đặc thù chất, thuộc một lĩnh
Ví dụ: ngành luật hành chính có phương pháp điều chỉnh là mệnh lệnh – vực nhất định của
phục tùng, ngành luật dân sự có phương pháp điều chỉnh là bình đẳng phối hợp. đời sống xã hội
Tuy nhiên để điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội trong
phạm vi đối tượng điều chỉnh mỗi ngành luật có thể kết hợp sử dụng các phương
pháp khác nhau:
Ví dụ ngành luật hành chính ngoài phương pháp mệnh lệnh phụ tùng còn sử
dụng phương pháp khác như là giáo dục thuyết phục.
Như vậy, để phân định các ngành luật thì dựa vào 2 căn cứ chủ yếu đó là
37

đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Tuy nhiên trong đó đối tượng
điều chỉnh là căn cứ quan trọng hơn so với phương pháp điều chỉnh. Tùy thuộc
vào tính chất các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật mà xác
lập phương pháp sao cho phù hợp.
Ví dụ: đối tượng điều chỉnh của ngành luật hình sự là mối quan hệ giữa nhà
nước với người phạm tội, vì tính chất của quan hệ này là bất bình đẳng do một
bên trong quan hệ là nhà nước, nên ngành luật hìhn sự sử dụng phương pháp điều
chỉnh là quyền uy mệnh lệnh. Trong khi đó, đối tượng điều chỉnh của ngành luật
dân sự là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, nên ngành luật này sử dụng
phương pháp là bình đẳng thỏa thuận.
Tôi đã vừa trình bày với các đồng chí nội dung của cấu trúc bên trong hệ
thống pháp luật. Cấu trúc bên ngoài
Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu cấu trúc bên ngoài của hệ thống pháp luật hay của hệ thống pháp
nói cách khác nó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật luật là hệ thống các
Đầu tiên ta có khái niệm về cấu trúc bên ngoài của hệ thống pháp luật văn bản quy phạm
pháp luật. Văn bản
quy phạm pháp luật
được ban hành theo
thẩm quyền, hình
thức, trình tự, thủ
tục luật định.

Từ khái niệm trên cho thấy, văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm
sau:
-Văn bản quy phạm pháp luật là do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành khác nhau theo hình thức, trình tự, thủ tục luật định
Ví dụ: Quốc hội ban hành hiến pháp, luật, nghị quyết, chính phủ ban hành
nghị định, chánh án toàn án nhân dân tối cao ban hành thông tư…..
-Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp
luật.
38

Ví dụ: quốc hội ban hành luật HNGĐ như vậy trong luật hiến HNGĐ chứa
dựng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình
Đặc điểm này phân biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp
dụng pháp luật và các văn bản quản lý nhà nước khác.
Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật:
(học trong tài liệu)
-Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực về thời gian, không gian và đối
tượng
Hiệu lực về thời gian:
+ Thời điểm phát sinh hiệu lực:
Văn bản quy phạm pháp luật phát sinh hiệu lực từ ngày công bố hoặc
đăng công báo
Văn bản phát sinh hiệu lực là Sau một khoản thời gian nhất định kể từ
ngày ký văn bản;
Thời điểm bắt đầu có hiệu lực được ghi rõ trong văn bản đó
Ví dụ: luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03 – 06 – 2008 nhưng quy
định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009. Tuy nhiên thì sau này đã được sửa
đổi bổ sung được quốc hội thông qua ngày 22 tháng 6 năm 2015 và có hiệu lực
ngày 1/7/2016
+ Thời điểm chấm dứt hiệu lực:
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hay một phần thuộc
một trong các trường hợp sau:
Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản
Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền đã ban hành văn bản đó. Nếu được sửa đổi, bổ
sung thì văn bản chấm dứt hiệu lực phần được sửa đổi, bổ sung đó.
Bị hủy bỏ, bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền.
Không còn đối tượng điều chỉnh
Hiệu lực về không gian: là phạm vi lãnh thổ mà văn bản quy phạm pháp
luật tác động, điều chỉnh. Một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trên
phạm vi lãnh thổ rộng hay hẹp phụ thuộc vào nhiều yếu phụ thuộc vào nhiều yếu
39

tố khác nhau như thẩm quyền của cơ quan ban hành, tính chất, mục đích và nội
dung của văn bản đó.
Về nguyên tắc chung, văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà
nước trung ương có hiệ lực trong phạm vi cả nước
Văn bản địa phương có hiệu lực trên phạm vi địa bàn địa phương đó.
Như vậy, theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua 22-06-2015 hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay bao gồm các hình thức văn bản sau
đây:
(trình chiếu)
Như vậy tôi đã vừa trình bày với các đồng chính nội dung của hệ thống
pháp luật, bây giờ chúng ta sang phần kế tiếp đó là các ngành luật trong hệ thống
pháp luật.
Căn cứ vào phương pháp điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh, đến nay hệ
thống pháp luật VN có những ngành luật cơ bản sau:
Luật Hiến Pháp:
Luật Hiến Pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật của
nước CHXHCNVN bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất trên các lĩnh vực, làm nền tảng cho
tất cả các ngành luật khác.
Đối tượng điều chỉnh của ngành luật HP
- Thể chế nhà nước: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, giáo
dục, khoa học – công nghệ, chiến lược bảo vệ Tổ quốc VN XHCN
-Mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân: quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.
-Các bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước:
QH,CTN,CP,HĐND,UBND,TANDTC,VKSNDTC.
Phương pháp điều chỉnh: xác lập những nguyên tắc chung mang tính định
hướng cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Luật hành chính: là ngành luật trong HTPL của nước CHXHCNVN bao
gồm tổng thể các quy pham pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
40

Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính là các nhóm quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước bao gồm:
Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện hoạt động quản lý trong hệ hống bộ máy.
Nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện hoạt động quản lý trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đối với cá
nhân, tổ chức.
Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước khác (quốc
hội, HĐND,TA,VKS) thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong các trường hợp
luật định hoặc thực hiện cũng cố, tổ chức bộ máy.
Nhóm quan hệ cá biệt phát sinh trong quá trình cá nhân, tổ chức chính trị -
xã hôi, tổ chức xã hội khác thực hiện hoạt động quản lý nhà nước khi được giao
quyền theo pháp luật.
Phương pháp điều chỉnh: mệnh lệnh quyền uy phục tùng
Luật tài chính: là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của Nhà nước.
Đối tượng điều chỉnh là những hoạt động xây dựng, phê chuẩn, phân bố, sử
dụng, thu chi, ngân sách nhà nước, hoạt động tín dụng.
Phương pháp điều chỉnh: mệnh lệnh
Luật đất đai: là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý, sử dụng và bảo vệ đất đai nhằm cũng cố
quyền sở hữu nhà nước về đất đai, bảo đảm cho các tổ chức, cơ quan, xí nghiệp và
công dân thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình trong việc sở hữu đất đại
Đối tượng điều chỉnh: quan hệ giữa nhà nước và những người sử dụng đất,
quan hệ giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau
Phương pháp điều chỉnh: là kết hợp phương pháp mệnh lệnh với khuyết
khích động viên.
Luật lao động: là ngành luật trong HTPL, bao gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động và người
sử dụng lao động, các quan hệ phát sinh từ quan hệ lao động
Đối tượng điều chỉnh: quan hệ lao động, quan hệ phát sinh trong quá trình
sử dụng lao động như: quan hệ việc làm, quan hệ học nghề..
Phương pháp điều chỉnh: thỏa thuận, tự nguyện, bình đẳng
41

Luật hôn nhân và gia đình: là một ngành luật trong hệ thống pháp luật
VN, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản phát sinh do sự kiện kết hôn và nhận con nuôi.
Đối tượng điều chỉnh: quan hệ tài sản liên quan đến hôn nhân và gia đình,
quan hệ nhân thân liên quan đến hôn nhân và gia đình
Phương pháp điều chỉnh: tự nguyện, ngang quyền, bình đẳng thỏa thuận
Luật kinh tế: là ngành luật trong HTPLVN bao gồm các tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ
quan nhà nước quản lý các hoạt động kinh tế và các quan hệ giữa các đơn vị kinh
tế trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Đối tượng điều chỉnh: các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị kinh tế với nhau. Các quan hệ tài sản
trong ngành luật kinh tế.
Phương pháp điều chỉnh bình đẳng phối hợp
Luật hợp tác xã: là một ngành luật trong hệ thống pháp luât VN, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
nội bộ hợp tác xã
Đối tượng điều chỉnh: các quan hệ về quản lý và phân chia sản phẩm, lợi
nhuận thu được.
Phương pháp điều chỉnh: bình đẳng, hướng dẫn, tùy nghi.
Luật dân sự: là một ngành luật trong hệ thống pháp luật VN, bao gồm tổng
thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực dân sự:
Đối tượng điều chỉnh: quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân.
Phương pháp điều chỉnh: bình đẳng, thỏa thuận
Luật tố tụng dân sự: là một ngành luật trong HTPLVN, bao gồm tổng thể
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa tòa án, viện kiểm sát,
cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng phát sinh trong trong tố
tụng dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân
sự một cách nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, và lợi ích của Nhà nước.
Đối tượng điều chỉnh: các mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động tố
tụng dân sự
42

Phương pháp điều chỉnh: tự định đoạt, mệnh lệnh.


Luật hình sự: là một ngành luật trong hệ thống pháp luật VN, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác định các yếu
tố cấu thành tội phạm và hình phạt đối với những người phạm tội.
Đối tượng điều chỉnh: là các mối quan hệ phát sinh giữa nhà nước và người
có dấu hiện phạm tội
Phương pháp điều chỉnh: quyền uy
Luật tố tụng hình sự: là một ngành luật trong HTPLVN, bao gồm tổng thể
các quy phạm pháp luật quy định các nguyên tắc, điều kiện, thủ tục, giải quyết
một vụ án hình sự, từ việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự,
quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng
Đối tượng điều chỉnh: các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực
hiện các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự.
Phương pháp điều chỉnh: quyền uy, phối hợp.
Tôi vừa trình bày với các đồng chí những nội dung cơ bản của các ngành
luật trong HTPLVN
Bây giờ chúng ta sang nội dung thứ 3: mục tiêu quan điểm xây dựng và
hoàn thiện HTPLXHCNVN.
Thứ nhất là mục tiêu:ae
43

You might also like