Professional Documents
Culture Documents
Câu 1: Chính trị là gì? Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng nghiên cứu
của chính trị học?
Trả lời:
1. Chính trị là gì?
Chính trị:
- là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và
các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà
nước.
- là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội.
- là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm
kiếm khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm
thỏa mãn lợi ích.
- Để khái quát hóa những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống
chính trị, Chính trị học đi sâu nghiên cứu các hình thức hoạt động xã hội đặc
biệt có liên quan đến nhà nước.
+ Hoạt động xác định mục tiêu chính trị trước mắt, mục tiêu triển vọng
dưới dạng khả năng và hiện thực, cũng như những con đường giải quyết các
mục tiêu đó có tính đến tương quan lực lượng xã hội, khả năng xã hội ở giai
đoạn phát triển tương ứng của nó.
+ Hoạt động tìm kiếm, thực thi các phương pháp, phương tiện, những
thủ thuật, những hình thức tổ chức có hiệu quả đạt mục tiêu đã đề ra.
+ Việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp những cán bộ thích hợp nhằm hiện
thực hóa có hiệu quả mục tiêu.
- Đồng thời, với việc nghiên cứu các hoạt động của các chủ thể, Chính trị
học còn nghiên cứu các quan hệ giữa các chủ thể chính trị:
+ Quan hệ giữa các giai cấp, thực chất là quan hệ giữa các lợi ích chính
trị mà các giai cấp theo đuổi để hình thành lý luận về liên minh giai cấp, đấu
tranh và hợp tác các giai cấp vì yêu cầu chính trị.
+ Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống tổ chức quyền lực: đảng
chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội để hình thành lý luận về
đảng chính trị, nhà nước pháp quyền, và về hệ thống chính trị và cơ chế thực
thi quyền lực chính trị.
+ Quan hệ giữa các dân tộc để hình thành lý luận chính trị về vấn đề dân
tộc trong sự vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Quan hệ giữa các quốc gia để hình thành học thuyết về chính trị quốc
tế trong thời đại quốc tế hóa hiện nay.
Câu 2: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ? Phân
tích mặt tích cực và hạn chế của nó? Liên hệ với Việt Nam?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân
tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà
nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt
động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm thực hiện đường
lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ:
Tư tưởng Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng
chính trị Trung Quốc. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội
Trung Quốc và các nước láng giềng trong suốt hơn 2000 năm lịch sử. Hai
nhân vật tiêu biểu của trường phái Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.
a. Khổng Tử:
* Tiểu sử: Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho gia. Ông tên là
Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước Lỗ.
Thời trẻ, ông đã từng mở trường dạy học, ra làm quan. Vì không được trọng
dụng, ông dẫn các học trò đi chu du các nước hơn 10 năm. Cuối đời, ông trở
về nước Lỗ tiếp tục dạy học và chỉnh lý, san định các thư tịch cổ như ngũ
kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và viết kinh Xuân Thu. Luận ngữ là bộ sách
do học trò của Khổng Tử ghi lại.
* Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội – một
xã hội “thái bình thịnh trị”. Theo ông, chính trị là chính đạo, đạo của người
làm chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân, nhà Nho
phải tham chính… Từ nhận thức đó, Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn lạc là
do mỗi người không ở đúng vị trí của mình, Lễ bị xem nhẹ. Để thiên hạ có
“đạo”, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng Lễ nghĩa, mỗi người
phải hành động trong khuôn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định. Để thực
hiện lý tưởng chính trị của mình, ông đề ra học thuyết “Nhân – Lễ - Chính
danh”
- Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nó
là thước đo, là chuẩn mực quyết định thành hay bại, tốt hay xấu của chính
trị. Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề về đạo đức, lý luận xã
hội. Trong chính trị, điều Nhân thể hiện ở các nội dung:
+ Thương yêu con người, trong đó thương yêu người thân của mình hơn
và yêu người nhân đức hơn. Từ thương người đi đến hai nguyên tắc: “Điều
mình không muốn thì đừng đối xử với người khác” và “Mình muốn thành
đạt thì phải làm cho người khác thành đạt”
+ Tu dưỡng bản thân, sử mình theo lễ.
+ Tôn trọng và sử dụng người hiền.
Nhân là trung thành, là vị tha. Người có Nhân phải thực hiện 5 điều:
Cung kính, khoan nhượng, giữ chữ tín, siêng năng, làm lợi cho người khác.
Hiều với cha mẹ và hữu ái là gốc của đức Nhân.
=> Như vậy, nội dung Nhân là nhân đạo, yêu thương con người, coi
người như mình, giúp đỡ lân nhau. Khi điều Nhân đã bao trùm thì không còn
mâu thuẫn, xung đột, lễ nhà Chu được phục tùng, xã hội sẽ tự ổn định. Theo
Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người mà chỉ có ở người
“quân tử” (quý tộc, trí thức thuộc giai cấp thống trị), còn kẻ “tiểu nhân”
(người lao động, giai cấp bị trị) thì không bao giờ có. Để đạt được điều
Nhân, cần phải có Lễ.
- Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận
hóa, biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội,
được thể hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục,
nhà cửa…
+ Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn mẫu cho mọi hành động của cá
nhân và các tầng lớp trong xã hội. Lúc này, Lễ mang tính pháp lý, có tác
dụng khống chế các hoạt động thái quá. Ai ở địa vị nào thì chỉ được dùng Lễ
ấy, tùy vào tính chất công việc khác nhau. Lễ là bộ phận của Nhân. Lễ là
ngọn, Nhân là gốc. Người có đức Nhân là người “không nhìn cái không hợp
Lễ, không nghe cái không hợp Lễ, không nói những điều không hợp Lễ,
không làm những điều không hợp Lễ”…
+ Lễ tạo cho con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trò,
địa vị của mình trong xã hội, biết phục tùng làm theo điều lành và xa rời
điều ác.
+ Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ
cơ bản: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn bè. Các quan hệ này
đều có hai chiều, phụ thuộc vào nhau. “Vua sai khiến bề tôi phải theo Lễ, bề
tôi thờ vua theo đạo trung, cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải
hiếu thảo…” Nhưng ông cũng coi việc bề dưới lật đổ bề trên là hợp lý, khi
bề trên không xứng đáng với danh vị của mình nữa. Việc vua Kiệt nhà Hạ,
vua Trụ nhà Thương bị lật đổ là hợp mệnh trời, vì đó là những ông vua ác,
thất nhân tâm.
+ Khổng Tử xem Lễ như luật lệ. “Một ngày sửa mình theo Lễ thì thiên
hạ sẽ theo về”. Lễ không phải dùng cho tất cả mọi người mà chỉ đem áp
dụng cho người có Nhân. Cung kính là gốc của Lễ. Nhân có trước, Lễ có
sau.
- Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Đây là phạm trù cơ bản
trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Chính danh là xác định và phân
biệt quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa các giai cấp, thực chất là khẳng định
tính hợp lý của giai cấp quý tộc trong việc thực thi quyền lực của mình. Nó
vừa là điều kiện, vừa là mục đích của chính trị. Chính danh thể hiện ở các
nội dung:
+ Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân, tầng lớp
trong xã hội. Ai ở vị trí nào thì làm tròn bổn phận ở vị trí ấy: vua phải giữ
đúng đạo làm vua, tôi phải giữ đúng đạo làm tôi, cha phải giữ đúng đạo làm
cha, con phải giữ đúng đạo làm con; không được làm quá chức năng, bổn
phận của mình.
+ “Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phải phù hợp với hình
thức. Trong chính trị, lời nói phải đi đôi với việc làm.
+ Đặt con người vào đúng vị trí và chức năng. Phải xác định “danh”
trước khi có “thực” vì “danh” là điều kiện thi hành “thực”. Khi có danh thì
thực mới có ý nghĩa “danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không
thuận thì việc không thành”.
+ Giữa Chính danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: muốn
“danh” được “chính” (đúng đắn, phù hợp với thực) thì phải thực hiện Lễ.
Chính danh là điều kiện để thực hiện, trau dồi Lễ.
+ Chính danh là một biện pháp quy định và giúp mọi người nhận rõ
cương vị, quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và
đẳng cấp tương ứng. Có xác định được danh phận thì mới điều hòa được các
mối quan hệ. Đây là vấn đề cơ bản của cách ứng xử chính trị.
=> Học thuyết chính trị của Khổng Tử được xây dựng trên ba phạm trù cơ
bản: Nhân – Lễ - Chính danh. Nhân là cốt lõi của vấn đề, vừa là điểm xuất
phát nhưng cũng là mục đích cuối cùng của hệ thống. Do vậy, có thể gọi học
thuyết của chính trị của Khổng Tử là “đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc hay
“nhân trị”. Điều nhân được biểu hiện thông qua lễ, chính danh là con đường
đạt đến điều nhân. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên
tính chặt chẽ của học thuyết. Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử
là duy tâm và phản động, vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội
mà chỉ khai thác yếu tố tinh thần – đạo đức. Mục đích của học thuyết này là
bảo vệ chế độ đẳng cấp, củng cố địa vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi
thời, đưa xã hội trở về thời Tây Chu.
b. Mạnh Tử:
Mạnh Tử là người nước Trâu. Ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo
những tư tưởng của Khổng Tử, xây dựng học thuyết “Nhân chính” (chính trị
nhân nghĩa) của mình. Tư tưởng chính trị của ông có những nội dung cơ bản
sau:
- Thuyết tính thiện: Theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là
thiện. Con người có lòng trắc ẩn thì tự nhiên biết xấu hổ, nhường nhịn, biết
phải trái. Lòng trắc ẩn là nhân, biết xấu hổ là nghĩa, biết nhường nhịn là lễ,
biết phải trái là trí. Nhân, lễ, nghĩa, trí là bốn thứ vốn có ở tâm ta. Con người
trở thành ác vì không biết tu tâm, dưỡng tính, để cho vật dục chi phối, chạy
theo lợi ích cá nhân.
- Quan niệm về vua – tôi – dân: Mạnh Tử cho rằng, Thiên từ là do mệnh
trời trao cho thánh nhân và vận mệnh trời nhất trí với ý dân. Trời ngấm
ngầm trao quyền cho người có đức, hợp lòng dân. Quan hệ vua – tôi là quan
hệ hai chiều: “Vua coi bầy tôi như chân tay thì bầy tôi coi vua như ruột thịt,
vua coi bầy tôi như chó ngựa thì bầy tôi coi vua như người dưng, vua coi
bầy tôi như cỏ rác thì bầy tôi coi vua như cừu địch”. Tiến thêm một bước,
ông cho rằng: “Ta phải hiểu là giết thằng Trụ chứ không nên hiểu là giết vua
vậy”. Mạnh Tử đề xuất tư tưởng “nhường ngôi”. Thiên tử có thể nhường
ngôi cho vua chư hầu, căn cứ vào đức hạnh và khăn năng thực hành nhân
chính của ông ta.
+ Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng nhân dân: “Dân
là quý nhất, quốc gia đứng thứ hai, vua là không đáng trọng”. Như dân ở đây
là chỉ thần dân, kẻ phụ thuộc, bị thống trị. Coi trọng dân chỉ là thủ đoạn
chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi.
- Quan niệm về quân tử - tiểu nhân: Quân tử là hạng người lao tâm, cai trị
và được cung phụng. Tiểu nhân là hạng người bạo lực, bị cai trị và phải cung
phụng người. Mạnh Tử đề xuất chủ trương dùng người hiền để thực hành
chính trị nhân nghĩa. Trị nước là nghề cao quý và quan trọng nhất, nên người
cai trị phải được tuyển chọn công phu, chu đáo. Nhưng bất đắc dĩ mới để
cho có ngoại lệ “kẻ hèn vượt người tôn quý”.
- Chủ trương vương đạo: Mạnh Tử kịch liệt phản đối chiến tranh, bạo lực,
nguồn gốc của mọi rối ren, loạn lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính,
lấy dân làm gốc. “Vương đạo” chỉ nhằm vào nhân nghĩa để mỗi người “tự
nuôi lấy bản thân mà chờ số mệnh” thì thiên hạ sẽ bình yên vô sự. Muốn cho
tâm trí dân ổn định không làm loạn, thì phải tạo điều kiện cho họ có một
mức sống vật chất tối thiểu. Thực chất của “”vương đạo” là người cai trị
phải giáo dục dân tuyệt đối phục tùng bề trên, thực hiện “tam cương, ngũ
thường”, trói buộc ý thức và luân lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ.
=> Học thuyết “chân chính” của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ hơn so với
Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng ông
đã nhìn thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính,
vương đạo. Đó là những yếu tố dân chủ, tiến bộ. Điểm hạn chế của ông là
còn tin vào mệnh trời và tính thần bí trong lý giải vấn đề quyền lực.
2. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta hiện nay
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ
phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt
Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời
kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo
càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong
kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong
kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu
rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ
sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó
vẫn còn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử
nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định
chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ
bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có
tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay
chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ
(luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có
trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới
nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ
và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ
xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức
cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có
chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức
được một thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì
không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để
tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh
hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên
người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc
đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã
tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã
có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng
hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức,
phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai
trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan.
Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ
trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu,
kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để
dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo
đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị,
người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu
cực, cụ thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các
công việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép
nước và vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối
hóa vai trò của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống
trọng đức của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”,
“thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo
cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp
xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của công việc
mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong
công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục
bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh
với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân
Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái
độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi,
móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia
trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất của
người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán,
chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng
nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao
địa vị, coi thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại
trong suy nghĩ và hành động của không ít người. Những tư tưởng trên phản
ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu
gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là
trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống
quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình
lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào
“gia trưởng”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục
tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ
xã hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người
cha, người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng”
(chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh
đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó
quần chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động
được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đang rất cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm và dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc
nên nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan
hệ “chú cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và
đấu tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và
giải quyết các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn
đến những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng
nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của
phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người
thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc
đấu tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm
chạy theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh
vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi
có chức, không những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một người làm
quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng quan,
tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc học tập theo
họ cũng là “học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng
nhắc đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một
cách thụ động. Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó
khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức
Nho giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở
hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta
cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được
tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài.
Câu 3: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Liên hệ với Việt
Nam?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân
tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà
nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt
động thực tiễn của các giai cấp, đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm những
khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi
ích.
Câu 4: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân
tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà
nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt
động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những
khả năng thực hiện đường lỗi và những mục đích đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi
ích.
Văn minh Hy Lạp cổ đại đã tạo tiền đề hình thành và phát triển khá sớm
những tư tưởng chính trị của nhân loại. Những vấn đề căn bản của chính trị,
tư duy chính trị đã được đặt ra và luận giải trên những nét chính ngay ở thời
kỳ này. Trong quá trình phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy sáng
chiếm hữu nô lệ, ở Hy Lạp đã xuất hiện các quốc gia thành thị chiếm hữu nô
lệ. Mâu thuẫn xã hội giữa các tập đoàn trong giai cấp chủ nô nhằm tranh
giành quyền lực và mâu thuẫn giữa chủ nô với nô lệ và tầng lớp thị dân tự do
ngày càng gay gắt dẫn đến hình thành các phe phái chính trị và xuất hiện
những chính trị gia xuất sắc.
=> Tư tưởng chính trị của Arixtốt chứa đựng những giá trị tích cực sau:
- Con người có khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Do
đó, con người là động vật công dân, động vật chính trị, sống có trách nhiệm
với cộng đồng.
- Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao cả hơn cái
cá nhân riêng biệt, con người sống ngày càng tốt hơn.
- Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm chất cao thượng cho công dân.
- Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của
mọi công dân.
- Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý chí cá
nhân thay thế pháp luật, chế độ bị trao cho những tên nịnh bợ, gian xảo, ham
quyền lực…
- Không thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự dốt
nát chế ngự.
- Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vì không có ai uy tín bằng lãnh tụ
chiến thắng. Nhưng khi xã hội phát triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì
chế độ chính trị phải thay đổi.
Mặc dù hạn chế bởi mục tiêu giai cấp, bởi quan điểm cổ đại hẹp hòi về
quyền tự do cá nhân cho những người nô lệ và lao động… song với nhãn
quan uyên thâm và sâu sắc, tư tưởng chính trị của Arixtốt có ý nghĩa là sự
tổng hợp và khái quát hóa những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Hy
Lạp cổ đại.
Câu 5: Trình bày sự hình thành và phát triển của thuyết: “Tam quyền phân
lập”?
Trả lời:
Tam quyền phân lập hay còn hiểu theo nghĩa phân chia quyền lực là một
mô hình quản lý nhà nước với mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm
quyền, bảo vệ tự do và công bằng pháp luật. Mô hình và khái niệm này được
biết đến từ lâu, ít nhất là từ thời La Mã cổ đại và được thể chế hóa trong hiến
pháp hiện đại của nhiều quốc gia, trong đó có Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp
CHLB Đức hay các nước cộng sản khác. Trong mô hình này, quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được tách biệt và giao cho 3 cơ
quan độc lập khác nhau thực hiện và qua đó ràng buộc, kiểm tra và giám sát
hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không một cơ quan hay cá nhân nào
có quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của một quốc gia.
Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực
nhà nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên
cho mọi hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì vậy,
muốn chống chế độ này, một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu
ra, đó là thuyết phân chia quyền lực.
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây mà
điển hình là nhà nước cộng hòa La Mã. Cộng hòa La Mã hàng năm đã bầu
lãnh sự đã được lựa chọn bởi một cơ thể của công dân, Thượng viện quản lý
pháp luật, nghị định được ban hành bởi các viên chức lãnh sự và ban hành
nghị quyết về những vấn đề quan trọng và cũng tham gia vào các quan hệ
đối ngoại, và các hội đồng đã được thực hiện bởiCông dân có vai trò khác
nhau trong chính phủ.Các viên chức lãnh sự phụ trách của chính phủ và của
quân đội. Có 300 công dân Thượng viện khuyên họ ở tất cả các lần. Trong
lịch sử của Cộng hòa La Mã Thượng viện luôn luôn là nhóm mạnh nhất. Chỉ
có Đại hội có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận của pháp luật và chỉ có
ứng cử đại biểu được bầu chọn cho văn phòng của lãnh sự.Hiến pháp của La
Mã luôn luôn là một khái niệm cơ bản của kiểm tra và cân bằng.
Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển
thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17 – 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng
lớn là John Locke và C.L. Montesquieu.
John Locke (1632 - 1704), một nhà triết học người Anh, ông là người đầu
tiên khởi thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân
quyền, và được thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính
quyền.” Về quyền lực nhà nước, ông cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực
tối cao, là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là,
những cái phụ thuộc vào nó.” Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất quyền
lực nhà nước với quyền lập pháp.
Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên
minh. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước, và
phải thuộc về nghị viện; nghị viện phải họp định kỳ thông qua các đạo luật,
nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải
thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các
chức vị, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc
vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm
không cho phép vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm
vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh,
tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.
Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được nhà khai sáng người
Pháp, C.L. Montesquieu (1689 – 1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển
một cách toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nhắc tới thuyết
phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông.
Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy
giờ. Chế độ quân chủ chuyên chế là một tổ chức quyền lực tồi tệ, phi lý, vì:
nhà nước tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung, nhưng trong chế độ chuyên
chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp
luật và nhu cầu pháp luật. Montesquieu nhận thấy pháp luật gồm nhiều lĩnh
vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với
bản chất của nó; gắn với bản chất chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền.
Vì vậy việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời, là sự
thanh toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu, một khi quyền lực tập
trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên
chế vẫn còn.
Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế và
chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định:
“Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi
hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều
trong luật dân sự.” Ta có thể nhận ra sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền
của Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi tách quyền lực xét xử -
quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác.
Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên
chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người
bị trị và đảm bảo quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi mà
quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện
Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta
hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng
không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp
và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người
ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là
người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan
tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của
quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền
lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết."
Tóm lại, theo Montesquieu, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc gia
là: “Cơ quan lập pháp trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng
buộc phần kia do năng quyền ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần sẽ bị quyền
hành pháp ràng buộc và quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc.”
Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến,
đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc. Nhưng nó vẫn là nền móng cho tư
tưởng phân chia quyền lực sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan
niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của các nhà
nước tư bản. Ví dụ như đa số Hiến pháp của các nhà nước tư bản hiện nay
đều khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản của việc
tổ chức quyền lực nhà nước. Như điều 10 Hiến pháp liên bang Nga quy
định: “Quyền lực nhà nước ở Liên bang Nga được thực hiện dựa trên cơ sở
của sự phân quyền thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ
quan của các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập.” Điều 1 của
Hiến pháp Ba Lan cũng trực tiếp khẳng định việc tổ chức bộ máy nhà nước
theo nguyên tắc phân chia quyền lực thành ba quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Tiếp nối Montesquieu, J.J. Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã
hội,” đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia
quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Rousseau (1712 – 1778) chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả
quyền lực nhà nước nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao tức toàn thể
công dân trong xã hội. Nhưng ông lại chỉ ra rằng phân chia quyền lực nhà
nước thành quyền lập pháp và quyền hành pháp, giao chúng vào tay cơ quan
quyền lực tối cao và chính phủ là cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự
hoạt động có hiệu quả cho nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu hướng
lạm quyền. Ngoài ra ông còn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp
trong việc đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự
cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân.
Nhưng cách phân quyền của Rousseau không giống với Locke và
Montesquieu, bởi ông luôn khẳng định một điều duy nhất rằng: “những bộ
phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao” và
“mỗi bộ phận chỉ thực hiện ý chí tối cao đó” mà thôi.
Câu 6: Trình bày nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự
tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước, là hoạt động thực tiễn của
các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Bản chất của chính trị, đấu tranh chính trị và cách mạng chính trị:
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, chính trị luôn mang bản chất giai cấp.
Bản chất giai cấp của chính trị được quy định bởi lợi ích, trước hết là lợi ích
kinh tế của giai cấp. Chính trị ra đời và tồn tại gắn liền với xã hội có phân
chia giai cấp. Khi cơ sở kinh tế làm cho nhà nước mất đi, giai cấp không
còn, khi đó, chính trị cũng không còn cơ sở tồn tại.
4. Xây dựng thể chế sau thắng lợi của cách mạng chính trị:
Đây là một hệ vấn đề rất lớn, cũng là trọng tâm tư tưởng chính trị của
C.Mác, Ph. Ăngghen và Lênin. Nó bao gồm một số nội dung sau:
- Xác lập cơ sở kinh tế - xã hội của thể chế mới. Đó là việc xác lập quan
hệ sản xuất mới – thay sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng sở hữu xã hội,
tạo cơ sở xoa bỏ mọi áp bức, bóc lột, đồng thời phát triển lực lượng toàn xã
hội. Lênin cho rằng, khi bắt tay vào xây dựng chế mới thì vấn đề chính trị
lớn nhất và lý thú nhất là “làm kinh tế”. Xây dựng cơ sở kinh tế đồng thời
với việc xây dựng cơ sở xã hội, mở rộng khối liên minh với tất cả mọi người
(không phân biệt tôn giáo, thành phần giai cấp…) miễn họ đồng ý với chủ
nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển cũng đặc biệt lưu ý phải giải quyết tốt các
quan hệ lợi ích bằng cách sử dụng tổng hợp các biện pháp kích thích.
- Đấu tranh chống nạn quan liêu, tham nhũng, hối lộ, thực hành dân chủ.
Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn coi quan liêu, tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm
nhất của chủ nghĩa xã hội và không giờ nương nhẹ cuộc đấu tranh chống
quan liêu, hối lộ, thực hành dân chủ rộng rãi. Lênin viết: “Toàn bộ công việc
của tất cả các cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan
liêu… Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó” và “Hiện giờ
có ba kẻ thù đang đứng trước mọi người, bất kể người đó làm việc gì, ở
cương vị nào… Kẻ thù lớn nhất – tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, kẻ thù
thứ hai – nạn mù chứ, kẻ thù thứ ba – nạn hối lộ”. Lênin giải thích rằng:
“Nếu còn có thể hối lộ, thì cũng không thể nói đến chính trị được. Trong
trường hợp này phải thậm chí cũng không thể nói đến làm chính trị được, vì
mọi biện pháp sẽ đều lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại
kết quả gì cả. Một đạo luật chỉ có thể đưa đến một kết quả xấu hoen, nếu
trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện làm hối lộ còn được
dung thứ và được thịnh hành”
Để khắc phục quan liêu độc đoán, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác –
Lênin chủ trương phải thi hành dân chủ rộng rãi trong chính trị và kinh tế, cả
trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, đồng thời dân chủ gắn liền với pháp luật.
Đặc biệt các ông đề cập rất kỹ nguyên tắc “tập trung dân chủ”, xem tập trung
dân chủ là cái bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của thế chế mới đi tới
thắng lợi cuối cùng và triệt để là chủ nghĩa cộng sản.
- Đề cập đến thể chế dân chủ vô sản, các nhà kinh điển Mácxít chỉ rõ: Đó
là nền dân chủ hơn triệu lần dân chủ tư sản. Các ông cho răng, dân chủ, đó là
quyền lực nhân dân, nhân dân phải giành lấy quyền lực đó và tự tổ chức
quyền lực đó. Dân chủ còn được xem như một giá trị giải phóng, một thể
chế, một hình thức tổ chức nhà nước.
- Về xây dựng đảng cộng sản cầm quyền, chủ nghĩa Mác – Lênin đã
khẳng đinh rằng, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản phải phát triển
thành tự giác, và một trong những yêu cầu quan trọng nhất là giai cấp công
nhân phải tổ chức ra chính đảng của mình. Điều đó càng cực kỳ quan trọng
sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền. Việc xây dựng đảng
đạt tầm cao trí tuệ, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức là bảo đảm tiên
quyết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Khi đã cầm quyền, nếu đảng thoái hóa, xa dân, phai nhạt về tư tưởng
chính trị, biến dạng về đạo đức, lối sống, rạn nứt về tổ chức là nguy cơ trực
tiếp cho sự thất bại không tránh khỏi của cách mạng. Bởi vậy, Chủ nghĩa
Mác – Lênin thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, vững mạnh về đội ngũ cán bộ chủ chốt của
đảng và coi đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho việc giành, giữ và sử
dụng quyền lực nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
5. Chuyên chính vô sản là hình thức tổ chức quyền lực chính trị quá độ đi tới
xã hội không còn giai cấp và nhà nước.
Sự thống trị của giai cấp vô sản (tức là chuyên chính vô sản) theo các ông
là nhằm:
- Dùng sự thống trị của mình mà từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản vào
tay mình.
- Quốc hữu hóa: tập trung tất cả các công cụ sản xuất vào tay nhà nước,
tức trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị.
- Phát triển kinh tế: tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.
- Xóa bỏ nạn người bóc lột người, xóa bỏ áp bức dân tộc.
- Xây dựng quan hệ xã hội mới, tốt đẹp, tự do và phát triển.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, giai cấp vô sản phải nhất thiết trải qua
một thời kỳ quá độ chính trị, thời kỳ chuyên chính vô sản. Thích ứng với
thời kỳ quá độ - thời kỳ đau đẻ kéo dài, để loại bỏ dần những cái cũ, xây
dựng và củng cố dần những cái mới, tạo ra những tiền đề vật chất cho việc
hình thành nền chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản không phải là để
duy trì sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp mà là để thủ tiêu hoàn
toàn sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp nói chung, trong đó có giai
cấp vô sản.
Lênin khẳng định: Khi nào không còn tình trạng người bóc lột người nữa,
khi ấy sẽ không có nhà nước, không có bóc lột.
Vì lẽ đó, chuyên chính vô sản không chỉ là bạo lực, mà nhiệm vụ chủ yếu
của nó – quyết định thắng lợi toàn diện của chủ nghĩa cộng sản, là tổ chức
xây dựng. Do đó, nhà nước chuyên chính vô sản đã không còn là nhà nước
“theo nguyên nghĩa” mà là “nửa nhà nước”, “nhà nước quá độ” trên con
đường đi tới sự “tiêu vong”.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự thống trị của giai cấp công
nhân như vậy hoàn toàn cho thấy rõ mục đích của giai cấp công nhân giành
quyền lực chính trị về tay mình không phải là để tiếp tục duy trì sự thống trị,
thay thế áp bức này bằng một áp bức khác mà sự thông trị ấy chỉ là một
phương tiện, một điều kiện cần thiết để đi tới hủy bỏ mọi sự thống trị, đi tới
giải phóng con người.
Câu 7: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các
quốc gia trong vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là
sự tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước và hoạt động thực tiễn
của các giai cấp, đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực thi
những đường lối, những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người.
Là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ: Bản thân Hồ Chí Minh là
một “nhà chính trị chuyên nghiệp”. Lĩnh vực chính trị Việt Nam gắn liền với
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh để tâm nhiều hơn cả.
Chính trị là một lĩnh vực mà Hồ Chí Minh có nhiều sáng tạo độc đáo, nhất là
sự sáng tạo ấy có ảnh hưởng tích cực tới cách mạng thế giới, được quốc tế
thừa nhận.
Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh như
sau:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Trong toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng bao
trùm là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng đó được
Người quán triệt và thể hiện trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng là
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đây là hạt nhân cốt lõi nhất
trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời là tư tưởng trọng tâm xuyên
suốt toàn bộ hệ thống.
Độc lập dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung:
- Dân tộc đó phải thoát khỏi nô lệ (dưới mọi hình thức) bằng con đường
cách mạng do chính dân tộc đó tiến hành.
- Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự
quyết định sự phát triển của dân tộc mình.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự chứ không phải giả hiệu, phải
thực hiện các giá trị như tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng đối với nhân
dân chứ không phải chỉ là những lời tuyên bố hoa mỹ.
- Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh về mọi mặt: kinh tế,
văn hóa, xã hội.
- Phải tự giành lấy con đường cách mạng, tự lực tự cường và tự trọng.
Người cho rằng, một dân tộc không có khả năng ý thức độc lập, tự lực tự
cường thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập.
Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc
phải thực sự gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó độc lập là tiền đề, là
điều kiện để đi đến chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là bảo đảm chắc
chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân tộc. Điều này bắt nguồn từ bản
chất của sự vận động lịch sử mà sau những tìm tòi công phu cùng sự nếm
trải thân phận của một người dân mất nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức
được. Người chỉ rõ rằng, giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản cũng giành
độc lập, nhưng sau đó nó quay lại thống trị dân tộc, áp bức nhân dân. Chỉ có
giai cấp công nhân sau khi giành độc lập dân tộc thì không chỉ giải phóng
mình mà còn giải phóng toàn xã hội. Do đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trở thành xu hướng mang tính cách mạng phổ biến của cách
mạng thể giới, mang tính quy luật của thời đại. Người khẳng định: “Chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải
phong này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế
giới”. Đó là con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc ta và các dân
tộc bị phụ thuộc. Tư tưởng cách mạng đó của Người đã đặt nền tảng vững
chắc cho đường lối xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam.
=>> Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội” cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của
người là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điểu kiện Việt
Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh
thần quý báu của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó đã và đang biến thành lực
lượng vật chất hùng hậu và là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Trải
qua bao khúc quanh của lịch sử và những biến cố khắc nghiệt của thời đại,
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị của người nói riêng vẫn
có trong hành trang của dân tộc ta đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng việc học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh là học tập tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả của Hồ
Chí Minh, là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của Hồ Chí
Minh để xử trí trước mọi việc.
Câu 8: Quyền lực chính trị là gì? Phân tích sự hình thành quyền lực chính trị
và sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước?
Trả lời:
3. Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị, là bộ phận cơ bản
của quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Trong xã hội có giai cấp và còn đối kháng giai cấp, về cơ bản tồn tại hai
quyền lực chính trị:
- Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị (quyền lực nhà nước)
- Quyền lực chính trị của các giai cấp và các nhóm xã hội không ở địa vị
thống trị. Nhóm quyền lực thứ hai này có thể chia thành hai phân nhóm nhỏ
hơn:
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp và các tầng lớp xã hội
tuy có lợi ích khác biệt (đối lập) nhưng không đối kháng với lợi ích cơ bản
của giai cấp hay tầng lớp cầm quyền. Xét về bản chất thì nhóm quyền lực
này vẫn nằm trong cùng một phạm trù với quyền lực chính trị của nhóm cầm
quyền, và vì thế, không có sự khác biệt về chất với quyền lực chính trị của
giai cấp thống trị. Và do vậy, nó vẫn tồn tại dường như trong sự “đối lập một
cách dung hòa” với quyền lực nhà nước hiện tồn. Cái gọi là nền chính trị “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở các nước tư bản hiện đại là nền chính trị
với các lực lượng chính trị và các quyền lực chính trị khác nhau nhưng lại
thuộc cùng một phạm trù này mà thôi, chứ không hề có nền “đa nguyên
chính trị, đa đảng chính trị đối kháng”.
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp hay các tầng lớp xã
hội có lợi ích đối kháng với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Về bản chất,
nhóm này đối kháng với nhà nước hiện tồn, và vì vậy, đó là đối tượng phải
bị trấn áp, phải được xóa bỏ trong nhà nước ấy. Như vậy, phân nhóm quyền
lực chính trị này sẽ có một trong hai kết cục sau đây trong sự vận động của
nó:
▪ Hoặc là nó sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực nhà
nước hiện tồn.
▪ Hoặc là nó sẽ ngày càng mạnh lên, bất chấp sự trấn áp của nhà nước
hiện tồn, cho tới lúc nó đủ sức lật đổ quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền, xóa bỏ quyền lực nhà nước và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp
ấy, thiết lập bộ máy nhà nước mới dùng vào việc tổ chức lại xã hội theo cách
mới phù hợp với lợi ích giai cấp của nó. Khi đó, người ta nói quyền lực
chính trị đã chuyển hóa thành quyền lực nhà nước.
- Ngoài hai hình thức vận động cổ điển này, còn có hình thức đảo chính
trung tính nhằm giành giật và chuyển giao quyền điều khiển nhà nước giữa
các nhóm xã hội khác nhau trong nội bộ giai cấp cầm quyền vẫn thường thấy
ở nửa cuối thế kỷ XIX ở Liên Xô và Đông Âu. Đây cũng là một hình thức và
một bài học chính trị về quá trình chuyển hóa quyền lực chính trị thành
quyền lực nhà nước bất lợi cho giai cấp công nhân mà các thể chế chống chủ
nghĩa xã hội đang cố gắng thực hiện trong chiến lược “diễn biến hòa bình”
phản cách mạng của chúng hiện nay.
Câu 9: Đảng chính trị là gì? Trình bày vai trò của Đảng chính trị?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự
tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực tiễn của
các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
b. Vai trò của đảng chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa:
* Vai trò tích cực của Đảng cầm quyền:
- Ở các nước tư bản chủ nghĩa, vai trò của đảng chính trị thể hiện rõ nhất
trong các cuộc bầu cử giành quyền lực nhà nước. Đó là tổ chức bầu cử, đảm
bảo thay đổi chính quyền bằng cách hòa bình, hợp pháp, hợp hiến.
- Sau khi đắc cử, Đảng cầm quyền đề ra đường lối, định hướng phát triển
kinh tế - xã hội thông qua cương lĩnh chính trị, đào tạo, bố trí tuyển lựa
thành viên của đảng vào các cương vị chủ chốt của chính quyền, chuẩn bị
các chính sách, chiến lược hoạt động của nhà nước.
* Vai trò tích cực của Đảng không cầm quyền:
- Đảng không cầm quyền kiềm chế, đối trọng, giám sát đảng cầm quyền,
là “cái van” điều chỉnh hoạt động của đảng cầm quyền.
- Đảng không cầm quyền tập hợp giai cấp, tổ chức giai cấp, tập hợp lực
lượng để đấu tranh chính trị nhằm giành quyền lực nhà nước về tay mình.
=> Đảng không cầm quyền tăng cường tính tích cực cho công dân.
* Ảnh hưởng tiêu cực:
- Mặt tiêu cực của đảng chính trị bộc lộ rõ khi nó chia rẽ nhân dân, tách
nhân dân ra khỏi chính trị.
- Để đạt được mục đích, đảng chính trị hành động kể cả những thủ đoạn,
kích thích sự thèm khát quyền lực chính tri và tạo thêm những điều kiện cho
tham nhũng, tước bỏ quyền dân chủ của nhân dân.
c. Vai trò của đảng chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa:
* Vai trò tích cực:
- Trong hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản là
lực lượng duy nhất lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai
cấp công nhân để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng
sản chịu trách nhiệm hoàn toàn trước vận mệnh phát triển của dân tộc, lãnh
đạo mọi mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
- Sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản trong điều kiện Đảng cầm
quyền thực chất là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế. Bởi vậy, quyền lực
của Đảng không mâu thuẫn và không thay thế quyền lực nhà nước, tập trung
vào việc lãnh đạo xây dựng nhà nước để quản lý kinh tế - lĩnh vực suy cho
cùng quyết định đến sự phát triển của xã hôi, quyết định vai trò lãnh đạo của
Đảng.
=> Như vậy, Đảng Cộng sản có vai trò tích cực, gần như không có ảnh
hưởng tiêu cực bởi mục tiêu cuối cùng là vì nhân dân, đưa xã hội đi lên cộng
sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không còn bóc lột, con người sống trong
hòa bình, tình yêu.
* Ảnh hưởng tiêu cực:
Tuy nhiên, trong những tình hình cụ thể, Đảng Cộng sản cũng có những
biểu hiện tiêu cực trong lãnh đạo xã hội khi nội bộ Đảng tha hóa, biến chất,
xã rời lợi ích giai cấp, mất sức chiến đấu. Do đó, cần phải làm trong sạch và
chỉnh đống Đảng.
Câu 10: Thủ lĩnh chính trị là gì? Trình bày những phẩm chất và vai trò của
thủ lĩnh chính trị?
Trả lời:
Câu 11: Trình bày bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế? Vì sao Đảng
ta chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự
tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực tiễn của
các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Kinh tế là một phạm trù khoa học, cần được hiểu đầy đủ với những nội
dung:
- Kinh tế là tổng hoà các quan hệ dựa trên một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất, tạo thành cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội nhất định. Nền
tảng kinh tế được tạo bởi các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ
chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối.
- Kinh tế là cái, suy cho cùng, quyết định mọi biến đổi xã hội, mọi đảo lộn
chính trị. Mọi biến đổi xã hội, đảo lộn chính trị là kết quả tất yếu của sự phát
triển kinh tế.
- Kinh tếm trong mỗi chế độ xã hội, là nền kinh tế quốc dân, với đầy đủ
nội dung của nó.
=> Thực chất của kinh tế là lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế và sự phát
triển của lực lượng sản xuất gắn liền với mỗi thành viên tham gia các quá
trình sản xuất và tái sản xuất, cũng như lợi ích kinh tế của mỗi tập đoàn, giai
cấp và các nhóm xã hội.
Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là quan hệ cơ bản nhất của đời sống xã
hội – nói một cách khái quát, là quan hệ giữa quyền lực chính trị (tập trung ở
quyền lực nhà nước) đối với kinh tế với tư cách là cơ sở nền tảng của quyền
lực chính trị và của toàn xã hội. Nói một cách thực chất hơn, ngắn hơn là
quan hệ giữa quyền lực nhà nước với kinh tế, hướng tới sự phát triển kinh tế
- xã hội, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
b. Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế:
- Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, là điều kiện tiên quyết cho
những biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này, hoàn
toàn rõ ràng đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và
nhân dân lao động muốn giải phóng mình khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi
quan hệ tư sản và tiền tư sản, trước hết phải giành được quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước. Chỉ sau đó họ mới có tiền đề để cải tạo quan hệ kinh tế,
biến mình trở thành chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản. Sẽ không thể có
sự biến đổi và phát triển nào của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nếu như giai
cấp vô sản chưa giành được chính quyền nhà nước – điều kiện tiên quyết để
thiết lập nền tảng kinh tế mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu xã hội về
tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Với tính độc lập tương đối, chính trị có tác động trở lại đối với kinh tế
theo những hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm. Tác động ngược lại
của quyền lưc nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại: Nó có
thể tác động cùng chiều hướng – khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn, nó
có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi
dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định hoặc là nó có thể cản
trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở
những hướng khác.
Bởi vậy, muốn để kinh tế phát triển đồng thuận với sự tác động của
chính trị vào kinh tế, đòi hỏi phải quan tâm tới cả ba phương diện: đường lối
chính sách kinh tế, thể chế kinh tế, và chủ thể kinh tế.
- Hệ thống các quan hệ kinh tế cũng như những quan hệ kinh tế cơ bản
cho chính trị thiết lập ra là cơ sở cho sự tồn tại, ổn định, bền vững của chính
trị. Do đó, chính trị trước hết phải bảo vệ những thành quả kinh tế mà chính
trị đã đạt được nhằm duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Thông qua tổ chức,
chức năng và những năng lực vật chất, tinh thần, chính trị nói chung và đặc
biệt là nhà nước nói riêng, có thể nhận thức vượt trước so với kinh tế, có thể
tiên đoán được tương lai vận động của đời sống kinh tế. Đồng thời, chính trị
có thể tạo ra những nhân tố, những hình thức, những điều kiện tác động vào
kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định.
- Chính trị đóng vai trò định hướng và trường chính trị - xã hội ổn định
cho phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị thể hiện trên tất cả các khâu
của quá trình phát triển kinh tế: xây dựng, thể chế hóa đường lối phát triển
kinh tế, định hướng quá trình tổ chức định hướng xã hội cho phát triển kinh
tế để không có sự hy sinh cái này cho cái kia, và để lợi ích của giai cấp
thống trị không bị vi phạm. Hơn nữa, sự ổn định chính trị là điều kiện thuận
lợi cho mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế.
- Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ
những vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế: ngân sách, vốn, hoạt động tài
chính tiền tệ, chính sách kinh tế, đối ngoại… Sự lãnh đạo của chính trị đối
với kinh tế không chỉ mang tính định hướng, tạo sự ổn định cho phát triển
kinh tế mà hơn nữa chính trị còn tham gia quản lý nền kinh tế, điều chỉnh cơ
cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
=> Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ cơ bản, nhạy cảm và
phức tạp trong các quan hệ xã hội. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần
phải tránh cả hai khuynh hướng sai lầm: tuyệt đối hóa kinh tế và tuyệt đối
hóa chính trị. Đi theo hướng thứ nhất, kinh tế sẽ phát triển tự phát, vô chính
phủ. Đi theo hướng thứ hai, nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng áp đặt,
không theo quy luật khách quan. Nhưng nếu đồng nhất chính trị với kinh tế
thì sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Thực chất của sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo môi trường
xã hội ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và
định hướng phát triển. Sự phát triển xã hội còn đòi hỏi phải có sự ưu tiên của
chính trị đối với kinh tế, phải có giải pháp chính trị để phát triển kinh tế.
Kinh tế càng phát triển thì chính trị càng phải mở rộng, đổi mới, tạo tiền đề
tiên quyết cho kinh tế phát triển.
3. Vì sao Đảng ta chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội?
Câu 12: Văn hóa chính trị là gì? Phân tích cấu trúc của văn hóa chính trị?
Trình bày cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở Việt Nam và phương thức
giáo dục văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ và nhân dân?
Trả lời:
Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội, trình độ phát
triển năng lực và khả năng sáng tạo của con người biểu hiện trong các
phương thức tổ chức đời sống xã hội và hoạt động của con người cũng như
toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên trong
tiến trình lịch sử vì lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống.
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự
tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực tiễn của
các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
3. Trình bày cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở Việt Nam?
a. Cơ sở văn hóa chính trị truyền thống:
Việt Nam là một nước văn hiến. Văn hóa chính trị Việt Nam là toàn bộ
những thái độ, lòng tin, chủ nghĩa yêu nước, tình cảm của con người Việt
Nam với tư tưởng cốt lõi là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Nó là
thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh ngoan cường dựng
nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả của giao lưu và tiếp thu của nhiều
nền văn minh thế giới.
Văn hóa chính trị Việt Nam hình thành từ khi nhà nước sơ khai đầu tiên –
nhà nước Văn Lang, dưới thời đại các vua Hùng ra đời. Tư tưởng giữ vững,
bảo vệ nền độc lập dân tộc gắn liền với giữ nước, là vấn đề chính trị lớn
nhất, thường xuyên đặt ra trước tất cả các nhà nước Việt Nam trong lịch sử.
Có thể khái quát những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt
Nam:
- Nêu cao tinh thần dân tộc và truyền thống yêu nước, động viên sức
mạnh toàn dân vì độc lập tự do.
- Đề cao vai trò nhân dân, dựa vào dân để giữ nước.
- Thể hiện tinh thần nhân bản sâu sắc. Trọng nhân nghĩa, yêu thương con
người bị áp bức, bóc lột, yêu hòa bình, lên án bất công, tàn bạo, phi nhân
tính, chống chiến tranh xâm lược và nô dịch dân tộc.
- Đề cao trí tuệ, trọng dụng nhân tài.
- Nêu cao pháp luật để trị nước, phát huy tinh thần dân chủ trong tổ chức
xã hội và bảo tồn văn hóa dân tộc…
Những hạn chế:
- Tính vô chính phủ của người tiểu nông khá rõ.
- Chế độ chuyên chế đã sản sinh ra tất cả những thiết chế, lễ nghi… rườm
rà, phức tạp và bộ máy quan liêu. Bộ máy đó không trực tiếp quản lý mà
nặng về bóc lột, áp bức.
- Văn hóa chính thống thường là độc quyền của vua, dân chỉ biết lắng
nghe và cam chịu hơn là chủ động sáng tạo.
b. Những cơ sở hình thành văn hóa chính trị Việt Nam thời hiện đại:
Văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại bắt đầu được hình thành từ sau khi
thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị, Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm
quyền, nhà nước kiểu mới ra đời.
- Cơ sở kinh tế của văn hóa chính trị:
Xét về bản chất nền văn hóa chính trị hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đối với nước ta hiện nay, với sự thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, cũng có nghĩa là thừa nhận tính đa dạng của các hình thức sở
hữu, song với việc khẳng định vị trí chủ đạo của chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu là đảm bảo định hướng xã hội cho sự phát triển kinh tế,
đồng thời cũng là bảo đảm về mặt kinh tế cho việc hình thành và phát triển
văn hóa chính trị.
- Cơ sở chính trị của văn hóa chính trị:
Hệ thống chính trị mà trụ cột của nó là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước
hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo toàn bộ quyền lực thuộc
về nhân dân là cơ sở chính trị cho nền văn hóa chính trị hình thành và phát
triển.
- Cơ sở xã hội của văn hóa chính trị:
Do việc thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nên trong xã
hội tất yếu còn tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội. Trên cơ sở củng cố
khối liên minh giai cấp giữa các giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để tạo ra khả năng khách quan,
thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, hình thành quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc từng bước khắc
phục sự bất bình đẳng, sự bất công, cùng với nền giáo dục mới hướng vào
mục đích toàn xã hội mà trực tiếp là nâng cao dân chủ, là cơ sở xã hội cho
việc hình thành và phát triển văn hóa chính trị.
- Cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị:
Chân lý khoa học, bản chất nhân văn và nhân đạo của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những giá trị văn hóa truyền thống
chính là cơ sở khoa học cho những thái độ Mácxít đối với việc nhận thức và
phát triển xã hội. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tinh thần của xã hội, cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị.
4. Phương pháp giáo dục văn hóa chính trị trong thời kỳ đổi mới:
Câu 13: Chính trị quốc tế là gì? Trình bày cấu trúc của chính trị quốc tế?
Trình bày vai trò của Liên hợp quốc và cấu trúc 6 tổ chức của Liên hợp
quốc? Quan hệ Liên hợp quốc với Việt Nam?
Câu 14: Định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Vì sao nói
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để thực hiện bước quá độ đó?