You are on page 1of 15

1.

TỔNG QUAN, TRIẾT HỌC


Triết học chính trị nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền,
chính trị, tự do, công lý, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ
quan thẩm quyền. Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối
quan hệ cũng như sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết
học; cụ thể là trả lời các câu hỏi như những yếu tố kể trên là gì, tại sao lại phải có
chúng, cái gì khiến cho chính quyền là hợp pháp, những quyền và tự do nào cần
được bảo vệ và tại sao, luật pháp là gì và khi nào có thể hủy bỏ luật một cách hợp
lẽ.
1.1. Triết học chính trị
Triết học chính trị nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền,
chính trị, tự do, công lý, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ
quan thẩm quyền. Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối
quan hệ cũng như sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết
học; cụ thể là trả lời các câu hỏi như những yếu tố kể trên là gì, tại sao lại phải có
chúng, cái gì khiến cho chính quyền là hợp pháp, những quyền và tự do nào cần
được bảo vệ và tại sao, luật pháp là gì và khi nào có thể hủy bỏ luật một cách hợp
lẽ.
1.2. Thực tiễn chính trị
Thực tiễn chính trị là toàn bộ hoạt động chính trị có mục đích mạng tính lịch
sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội.
1.3. Đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp, hay còn gọi là mâu thuẫn giai cấp, là sự căng thẳng hoặc
đối kháng tồn tại trong xã hội do cạnh tranh về lợi ích kinh tế xã hội và mong
muốn giữa người dân của các tầng lớp khác nhau.
Đấu tranh giai cấp có thể có nhiều hình thức khác nhau: bạo lực trực tiếp,
chẳng hạn như các cuộc chiến tranh tranh giành các nguồn tài nguyên và lao động
rẻ; bạo lực gián tiếp, chẳng hạn như tử vong vì nghèo đói, đói khát, bệnh tật hoặc
điều kiện làm việc không an toàn; ép buộc, chẳng hạn như nguy cơ mất việc làm
hoặc một khoản đầu tư quan trọng;
2. KHÁI QUÁT CÁC QUAN ĐIỂM VỀ CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC
2.1. Các quan điểm về chính trị và thực hành chính trị trước Mác
2.1.1. Quan niệm về chính trị trong lịch sử triết học phương Đông
- Trong triết học Ấn Độ cổ - trung đại, đạo Bàlamôn cho rằng chính trị là sự
phân chia chủng tính, đẳng cấp trong xã hội nhưng sự phân chia này có tính thiên
định, do đấng tối cao tạo ra, do đó mà mọi người phải tuân theo. Đối với Phật giáo
nguyên thủy thì chính trị là sự bất bình đẳng giữa con người với con người trong
xã hội; con người không nên có những dục vọng về quyền lực chính trị vì chúng sẽ
gây ra đau khổ cho con người.
- Triết học Trung Quốc cổ - trung đại.
Người sáng lập nho giáo, Khổng tử cho rằng Chính trị là công việc của
người quân tử, là làm cho chính đạo, chính danh. Ông xây học thuyết về Nho gia
với các quan điểm Tam cương, Ngũ thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội
phong kiến phương Đông lúc bấy giờ và cả sau này. Theo quan điểm của ông, quân
tử là người cầm quyền, nên học tự kỷ luật, nên cai trị người dân của mình bằng
chính gương của mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm.
Niềm tin chính trị của ông gắn chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân.
Ông cho rằng chỉ những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân
tử thì mới được cầm quyền, và những tư cách của những nhân vật đó phải kiên
định với địa vị trong xã hội. Tóm lại theo ông, làm chính trị là để xã hội ổn định,
để xây dựng “Đạo” trong thiên hạ, muốn vậy phải theo nguyên tắc: chính danh –
phục lễ - trọng nhân.
Đối với Mạnh tử, ông cho rằng chính trị là nghệ thuật cai trị xã hội, là quan
hệ giữa vua với thần dân. Ông coi trọng vương đạo, phản đối bá đạo. Vương đạo
đề cao nhân nghĩa, lấy đạo để trị dân, do đó phép trị nước phải thể hiện nhân nghĩa,
thương dân, trọng dân.
Mặc tử cho rằng chính trị là làm cho xã hội không còn loạn lạc, người dân
bớt đau khổ. Còn đối với Hàn Phi thì quan niệm chính trị trước hết là sự thiết lập
sự cai trị của nhà vua đối với xã hội bằng biện pháp cụ thể, cứng rắn; để thực hiện
hoạt động chính trị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết
nổi tiếng về thế, thuật và pháp - ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia.
2.1.2. Quan niệm về chính trị trong lịch sử triết học phương Tây
- Trong triết học Hy lạp cổ đại:
Herodotus: Được mệnh danh là người "cha của chính trị học". Từ chỗ nghiên
cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể: Quân chủ, Qúy tộc và
Dân chủ, ông khẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể
này.
Platon: Chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp của người anh
hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng
và tinh thần hữu ái. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài,
cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực. Ông cho rằng tất cả những chế độ chính trị
theo truyền thống như (dân chủ, quân chủ, …) vốn đã đồi bại, tham nhũng và nhà
nước nên được điều hành bởi tầng lớp những người cầm quyền cũng là triết gia
được giáo dục tốt. Họ được đào tạo từ lúc chào đời và được chọn dựa trên năng
lực: "những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội."
Aristotle: Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên- là hình thức giao
tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực chính trị có
thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ông ta cho rằng luân
thường và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và một đời sống thật sự đạo đức
chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị. Theo ông, chế độ quân chủ, có
một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm nhỏ
người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; và xã hội có tổ chức do nhiều người
dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ.
- Phương Tây thời trung đại
Quan niệm chính trị thời này là quan niệm của các cha cố cho rằng chính trị
là quyền lực của nhà nước nhưng nhà nước đó thuộc giáo hội.
Chính trị được các nhà Thần học quan niệm chính trị không phải là kết quả
của bản năng mà là của lý trí và ý chí.
- Vào thời cận đại
Gi. Lốccơ quan niệm chính trị là sự thực hiện và bảo vệ pháp quyền tự nhiên
trong đời sống xã hội. Giá trị chủ đạo của chính trị là ý chí tự do của con người, do
đó chính trị có nghĩa vụ bảo vệ các quyền tự nhiên của con người như quyền sống,
quyền tự do và quyền được chiếm hữu.
S.L. Môngtexkiơ coi chính trị là giải quyết mối quan hệ giữa quyền con
người với pháp luật. Con người được phép làm mọi cái trong khuôn khổ pháp luật
và pháp luật chính là thước đo của tự do.
- Giai đoạn đương đại
Max Weber xem chính trị là quá trình giành lấy quyền lực và ảnh hưởng đến
việc phân phối quyền lực giữa các thành phần trong một quốc gia hoặc giữa các
quốc gia với nhau.
Bernard Crick quan niệm chính trị là sự dung hòa các đòi hỏi chính đáng về
phân phối hàng hóa và dịch vụ; chính trị là hoạt động mà qua đó các tập thể cùng
chung một số quyền lợi được hòa giải bằng cách chia cho nhau một phần quyền lực
tương xứng với tầm quan trọng của họ đối với sự tồn vong và lợi ích của cộng
đồng. Chính trị là đạo đức được thực hiện công khai.
Cannada David Eastin cho rằng chính trị là sự phân phối thẩm quyền các giá
trị. Đây là quan niệm được sử dụng khá phổ biến ở Mỹ và các nước phương Tây
khi nó tập trung giải quyết vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước.
2.2. Các quan điểm về chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin
2.2.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì chính trị là hình thức hoạt
động cơ bản của các tổ chức cộng đồng người trong xã hội có giai cấp như đảng
phái, giai cấp, dân tộc, … để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước nhằm thỏa
mãn lợi ích của các tổ chức đó.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi
ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp.
Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự tham
gia vào công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội
dung, nhiệm vụ của Nhà nước.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể
không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng
triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
Các quyết sách chính trị của chủ thể chính trị đòi hỏi phải đúng đắn, phù hợp và
logic với những vấn đề chính trị cụ thể. Không đưa ra các quyết định một cách
máy móc, cứng nhắc. Các chủ thể cần đưa ra những phương pháp tối ưu nhất để
giai quyết một vấn đề chính trị cụ thể. Xác định đúng mục tiêu và có sự mềm dẻo,
linh hoạt về sách lược cũng như có phương pháp phù hợp với hoàn cảnh.
Quan niệm về hệ thống chính trị
Khái niệm hệ thống chính trị không xuất hiện ngay từ đầu mà chỉ ra đời
trong thời kỳ giai cấp vô sản xây dựng chuyên chính vô sản. Hệ thống chính trị
phản ánh hệ thống tổ chức xã hội hợp pháp, bao gồm các đảng phái chính trị, nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác được liên kết chặt chẽ với nhau nhằm
thực thi quyền lực của giai cấp cầm quyền đối với quá trình của đời sống xã hội đề
củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm
quyền đó.
Hệ thống chính trị là hệ thống tổ chức xã hội hợp pháp, tức được xã hội thừa
nhận, có một vị trí nhất định trong xã hội.
Các tổ chức đó bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội hợp pháp khác.
Các tổ chức đó liên kết với nhau chặt chẽ nhằm thực thi quyền lực của giai
cấp cầm quyền mà đại diện giai cấp đó là đảng chính trị và nhà nước do giai cấp đó
lập ra.
Việc thực thi quyền lực chính trị đó nhằm mục tiêu củng cố, duy trì, phát
triển chế độ chính trị phù hợp.
2.2.2. Quan điểm của Mác – Lênin về giai cấp và phương pháp luận của quan điểm
này
C Mác, Ph. Ăngghen cho rằng, giai cấp không phải là hiện tượng bẩm sinh
của xã hội, không xuất hiện cùng sự xuất hiện cùng sự xuất hiện xã hội mà giai cấp
gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sản xuất; sự phát triển của sản
xuất phải đạt đến một trình độ nhất định mới tạo ra những điều kiện cho giai cấp ra
đời; giai cấp sẽ mất đi khi điều kiện kiện kinh tế xã hội cho sự tồn tại của nó không
còn. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản.
Còn theo Lênin, giai cấp là những tập đoàn to lớn, khác nhau về địa vị của
họ trong những hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động
xã hội; khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, những tập đoàn người này có thể
chiếm đoạt lao động của những tập đoàn người khác do có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
Từ định nghĩa có thể thấy, các giai cấp có quan hệ khác nhau đối với việc sở
hữu tư liệu sản xuất. các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức, quản lý
lao động xã hội. Các giai cấp này có phương thức và quy mô thu nhập của cải xã
hội khác nhau.
Giai cấp nào nắm được quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, giai cấp đó sẽ
nắm được quyền quản lý, tổ chức sản xuất và quyền cho phối sản phẩm, từ đó có
địa vị thống nhất trong xã hội. Sự khác nhau về địa vị sẽ quyết định giai cấp nào
chiếm đoạt lao động của giai cấp khác.
Theo Lênin đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức bóc lột và lao động chống bọn có đặc quyền, bọn áp bức và bọn
ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
Đấu tranh giai cấp là quá trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức giai
cấp, bởi giai cấp thống trị và giai cấp bị trị có lợi ích căn bản đối lập nhau, không
thể điều hoà được. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa
một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất mới đang
đòi hỏi một quan hệ sản xuất mới thích hợp, với một bên là giai cấp thống trị bóc
lột bảo thủ. Do đó mà cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng
nhân dân bị áp bức bóc lột với giai cấp thống trị nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi
ích.
Đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ những chế độ xã hội cũ, giai cấp thống trị
lỗi thời, xây dựng mối quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy sản xuất mới cao
hơn.
Giai cấp không tồn tại mãi mãi, chúng sẽ mất đi khi điều kiện kinh tế xã hội
thay đổi. Đến một giai đoạn nào đó khi trình độ sản xuất phát triển cao sẽ tạo điều
kiện để giai cấp mất đi. Chủ nghĩa tư bản với lực lượng sản xuất khổng lồ và đạt
trình độ rất cao sẽ tạo cơ sở vật chất để đi đến xã hội không còn giai cấp, không
còn đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp được diễn ra rất phức tạp và gay gắt dưới nhiều hình thức
và đa dạng, phong phú nhưng chủ yếu dưới hình thức đấu tranh kinh tế, đấu tranh
chính trị và đấu tranh tư tưởng.
2.2.3. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về quan hệ giữa giai cấp dân
tộc với dân tộc
Về quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử, chúng có mối quan hệ
mật thiết, không tách rời nhau và cũng không thay thế được cho nhau.
Giai cấp cơ bản là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất đang tồn tại;
giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian.
Giai cấp cơ bản giữ vai trò quy định tính chất, xu hướng mối quan hệ giữa
các dân tộc và xu hướng phát triển của dân tộc.
Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài và vấn đề giai cấp được giải quyết theo
quan điểm của một giai cấp nhất định.
Vai trò to lớn của vấn đề dân tộc trong sự phát triển của lịch sử và vai trò
của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng giải phóng giai cấp vô sản.
2.2.4. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc, bản chất của
nhà nước
Theo Lênin, nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được. Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn
giai cấp là không thể điều hòa.
Trong xã hội nguyên thủy, quan hệ giữa con người với người còn hết sức
thuần phác, chưa có mâu thuẫn giai cấp, do vậy mà nhà nước chưa xuất hiện. Xã
hội cộng sản tương lai là một xã hội có thể chế tự quản. Ở đó không cần đến hình
thức tổ chức xã hội theo kiểu tổ chức nhà nước. Do đó, nhà nước không phải là bản
chất của mọi xã hội.
Sự xuất hiện của nhà nước có nguyên nhân trực tiếp từ mâu thuẫn đối kháng
giữa các giai cấp. Sự ra đời của nhà nước không phải để giải quyết mâu thuẫn này
mà để duy trì mâu thuẫn nhưng trong một giới hạn nhất định, nhằm duy trì các giai
cấp và thực hiện lợi ích của giai cấp chiếm hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp còn tồn
tại, do đó sự xuất hiện của nhà nước vẫn còn. Đây là nhà nước kiểu mới, nhà nước
này sẽ tự tiêu vong cùng với quá trình xây dựng thành công của chủ nghĩa cộng
sản.
Bản chất của nhà nước
Nhà nước là một yếu tố quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có
giai cấp đối kháng. Thực chất nhà nước chỉ là bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự
thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác; là cơ quan quyền lực của một giai
cấp đối với toàn thể xã hội và là giai cấp nắm được những tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội.
Do đó có thể nói, nhà nước không phải là một lực lượng để giải quyết mâu
thuẫn xã hội mà là một lực lượng bạo lực của giai cấp thống trị về kinh tế để thể
hiện sự thống trị của nó với các giai cấp khác. Nhà nước là công cụ chuyên chính
giai cấp trong điều kiện xã hội tồn tại những đối kháng giai cấp không thể điều hòa
được.
3. CÁC PHƯƠNG DIỆN CƠ BẢN VỀ CHÍNH TRỊ TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI
3.1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
Giai cấp là một phạm trù kinh tế-xã hội có tính lịch sử; luôn biến đổi cùng
với sự biến đổi của lịch sử. Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác-Lênin là công cụ lý luận để tìm hiểu bản chất xã hội có giai cấp và xây
dựng xã hội không có giai cấp. Nội dung lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp
do C.Mác đưa ra vào năm 1852, theo đó: sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với
những giai đoạn phát triển nhất định của sản xuất; đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn
đến chuyên chính vô sản. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến
tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp. Như vậy, các
giai cấp chỉ tồn tại trong những giai đoạn nhất định của lịch sử, trong mỗi phương
thức sản xuất cụ thể.
Định nghĩa đấu tranh giai cấp. “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ
phận nhân dân này chống lại bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi và bọn
ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. Như vậy, thực chất đấu tranh
giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau (lợi ích
cơ bản là những giá trị vật chất và tinh thần để thoả mãn nhu cầu nhất định của một
giai cấp). Do sự đối lập về lợi ích mang tính đối kháng nên đấu tranh giai cấp là tất
yếu.
3.2. Dân tộc và vấn đề quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại
Dân tộc theo nghĩa rộng dùng để chỉ các hình thức cộng đồng người trong
lịch sử như bộ lạc, bộ tộc, … Còn theo nghĩa hẹp thì dân tộc là hình thức cộng
đồng người ổn định bền vững, được hình thành trong lịch sử lâu dài, trên cơ sở
cộng đồng về ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, văn hóa biểu hiện trong tâm lý, tính
cách.
Quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại: giai cấp, dân tộc và nhân loại là
ba cấp độ phản ánh khác nhau trong tổ chức xã hội loài người, có mối quan hệ mật
thiết, chặt chẽ với nhau.
Giai cấp là cơ sở, nền tảng hình thành các đặc trưng cơ bản của dân tộc,
nhân loại. Giai cấp ra đời sớm hơn dân tộc. Tùy vào giai cấp cầm quyền trong một
dân tộc mà nó quyết định bản chát, xu hướng của dân tộc đó.
Dân tộc và nhân loại có tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại giai
cấp. Giai cấp mất đi thì dân tộc và nhân loại vẫn tồn tại, đồng thời tính dân tộc và
nhân loại ảnh hưởng tới sự ứng xử của giai cấp nhất định trong thực tế
3.3. Nhà nước – tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị

4. VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước,
Đảng ta thực hiện hai hình thức dân chủ là dân chủ nhân dân và dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Trong quá trình thực hiện dân chủ, nhận thức về dân chủ ngày càng được cải
thiện và phát triển.
Giai đoạn cách mạng từ năm 1945 đến năm 1954 và giai đoạn 1954 đến
1975 Đảng ta tiến hành xây dựng hình thức dân chủ nhân dân, đánh đuổi đế quốc,
phong kiến tay sai, thực hiện quyền dân chủ cho người lao động.
Giai đoạn cách mạng từ năm 1975 đến nay Đảng ta thực hiện hình thức dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Mặc dù có sự khác nhau về hình thức tiến hành, song mục
tiêu không hề thay đổi, thực hiện quyền dân chủ cho người lao động. Nước ta là
nước dân chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, lấy dân làm gốc. Công cuộc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Nội dung cơ bản nhất của dân chủ xã
hội chủ nghĩa là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là điểm mới, tích cực hơn
hẳn so với hình thức dân chủ trước.
Nhận thức về dân chủ ngày càng sâu sắc, đúng đắn:
Quan niệm về dân chủ được mở rộng và xem xét theo nhiều khía cạnh. Dân
chủ bao gồm cả dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế, dân chủ văn hóa, xã hội, …
Điều này cho thấy bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên áp lực, tuân thủ mệnh
lệnh sang thể chế hợp tác, đồng thuận. Dân chủ còn là mục tiêu, động lực cho sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa cần phải tiếp thu và phát triển những giá trị nhân
loại về dân chủ.
Dân chủ là kết quả của cả một quá trình lâu dài về giáo dục ý thức cũng như
nâng cao năng lực thực hành dân chủ nên không thể nóng vội, thoát ly thực tiễn.
Phải thực hiện dân chủ ở tất cả các cấp độ, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất,
đặc biệt chú trọng dân chủ cơ sở.
Phải tìm tòi, tổng kết thực tiễn để tìm ra và hoàn thiện các hình thức thực
hiện dân chủ thực chất, đúng hướng, có hiệu quả.
Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về
nhân dân.
Quan điểm đổi mới hệ thống chính trị:
Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đỏi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không
phải là hạ thấp hay thay đổi bản chất của nó mà nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, hiệu quả hơn, phù hợp vưới
đường lối.
Đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ có kế thừa, có bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Đổi mới mối quan hệ giữa các bộ pận cấu thành của hệ thống chính trị với
nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy
xã hội phát triển.
5. LIÊN HỆ
Trong giai đoạn mới thành lập, Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam - có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc. Người cho rằng: "Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết." Luận điểm
này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam.
Sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng
giữa dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mác - Lênin có tác dụng lớn lao đối với
việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở
các nước thuộc địa nói chung. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao
vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi
thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với
nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển
thành chủ nghĩa quốc tế vô sản, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu
lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hóa và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy
sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Đường lối cách mạng Việt Nam xuyên suốt và nhất quán qua các giai đoạn
cách mạng với quan điểm: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cụ thể hóa bằng
chính sách dân tộc trên 3 nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát
triển.
Đại hội IX đã đưa ra luận điểm mang tầm khái quát lý luận về quan hệ giai
cấp, lợi ích giai cấp và lợi ích giai cấp dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam: "mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ
hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp
công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: Độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh."
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Từ thực tiễn phong phú
của cách mạng, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn: nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.
Dân tộc, giai cấp và mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải đáp. Điều đó càng cho thấy
sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt quan điểm của các nhà
kinh điển, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới,
làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách,
vững bước trong quá trình xây dựng
biến đổi nổi bật trong thời đại ngày nay về dân tộc vè quan hệ với giai cấp
có thể nói đến, đó là:
Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển tạo ra những bước nhảy vọt về
chất của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hoá, quốc tế
hoá các kết cấu giai cấp; các quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại.
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đang
ở thế có lợi, có ưu thế hơn chủ nghĩa xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục tồn tại; tuy bị suy yếu nhưng tiếp tục thích
nghi, đổi mới để phát triển.
Ưu thế của cơ chế thị trường trên toàn thế giới và sự phát triển nhanh của
quá trình toàn cầu hoá.
Bới những biến đổi trên đây không làm mất tính chất của thời đại ngày nay
là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề độc lập dân
tộc; ngược lại, vấn đề xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, vấn đề
giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
trên thế giới.
Trong thời đại ngày nay, yếu tố dân tộc trong sự phát triển xã hội và trong
quan hệ dân tộc - giai cấp vận động theo hai xu hướng; Xu hướng giảm tương đối
vai trò yếu tố dân tộc và sự khác biệt giữa các dân tộc; tăng sự phụ thuộc, giao lưu
lẫn nhau giữa các dân tộc. Xu hướng khẳng định và tăng cường yếu tố dân tộc, bản
sắc dân tộc.

You might also like