You are on page 1of 36

Trường Đại học Kinh tế TP.

HCM
Lớp K27_2_TC6

Đề tài:
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
THỰC TIỄN HIỆN NAY

NHÓM TRÌNH BÀY:


1. Nguyễn Thị Thắm
2. Nguyễn Thị Khánh Hà
3. Ma Thị Hoàng Liên
4. Trần Thị Thu Tâm
5. Lê Tuấn Ngà

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 11 tháng 12 năm 2017


CHƯƠNG 6: TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ

Lời dẫn

Triết học chính trị nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền,
chính trị, tự do, công lý, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ
quan thẩm quyền. Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối
quan hệ cũng như sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết
học; cụ thể là trả lời các câu hỏi như những yếu tố kể trên là gì, tại sao lại phải có
chúng, cái gì khiến cho chính quyền là hợp pháp, những quyền và tự do nào cần
được bảo vệ và tại sao, luật pháp là gì và khi nào có thể hủy bỏ luật một cách hợp lẽ.

Chính trị là một hiện tượng xã hội ra đời gắn liền với sự ra đời của giai cấp và
Nhà nước. Từ khi xuất hiện, chính trị đã có ảnh hưởng to lớn tới quá trình tồn tại
và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Bởi vậy
nghiên cứu và định hình về chính trị cũng được các học giả Đông - Tây - kim - cổ
bàn luận không ít giấy mực. Trước khi chính trị học ra đời với tư cách là một khoa
học (political science) nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể, có đối tượng,
phương pháp, khái niệm, phạm trù..., đã có rất nhiều các quan niệm, quan điểm,
thậm chí là tư tưởng, học thuyết của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh
của chính trị. Dưới đây, sẽ trình bày một số quan niệm về chính trị, trong đó có các
quan niệm của các học giả trước Mác và quan niệm của chủ nghĩa Mác.
I. KHÁI QUÁT CÁC QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC:
1. Các quan điểm về chính trị trong lịch sử triết học ngoài Macxit
Triết học phương Đông
Một cách độc lập, những đại biểu tư tưởng của Nho giáo như Khổng Tử, Mạnh
Tử, Mặc Tử và những người theo trường phái Pháp gia ở Trung Quốc cũng như
Luật lệ của Manu[4] và Chanakya ở Ấn Độ đều tìm kiếm các phương tiện để bảo
đảm sự thống nhất và ổn định về chính trị. Nho gia Trung Quốc chủ trương xây
dựng xã hội ổn định thông qua việc giáo dục đạo đức và cai trị bằng nhân nghĩa,
trong khi Pháp gia thì muốn làm điều đó thông qua luật pháp.
Triết học phương Tây

Như là một lãnh vực học thuật, triết học chính trị phương Tây bắt nguồn từ thời
Hy Lạp cổ đại, khi các thành bang đang thử nghiệm với nhiều hình thức tổ chức
chính trị khác nhau bao gồm chế độ quân chủ, độc tài, quý tộc, thủ lĩnh, và dân
chủ. Một trong những tác phẩm kinh điển quan trọng nhất của triết học chính trị là
cuốn Cộng hòa của Plato.

Thời cổ đại

Trang 2
Văn minh Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại giống như văn minh Hy Lạp có nền văn
hóa thống nhất giữa các quốc gia cạnh tranh lẫn nhau. Ở Trung Quốc, các triết gia
thấy mình có nghĩa vụ đối đầu với những vấn đề chính trị xã hội, và đi tìm giải
pháp cho những cuộc khủng hoảng mà nền văn minh của họ đang gặp phải. Nho
gia giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội dựa trên cơ sở đạo đức trong khi các
trường phái khác có thể không tính đến khía cạnh đạo đức trong học thuyết của họ.
Tầng lớp cai trị Trung Quốc dần dần chấp nhận triết lý Nho giáo như là hệ tư
tưởng chính thống cho nền chính trị của họ.

Quan niệm chính trị của các nhà triết học:

- Triết học Hy Lạp cổ đại:

+ Hêrôđốt: chính trị là sự phân chia quyền lực của các chính thể: chính thể quân
chủ, chính thể dân chủ, chính trị quý tộc. Chính thể tối ưu là chính thể hổn hợp.

+ Xênôphôn: chính trị là thủ lĩnh: biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật.

+ Platôn: chính trị là sự thống trị của trí tuệ tối cao, được chia thành: pháp lý,
hành chính, tư pháp và ngoại giao.

+ Aritốt: người sáng lập ra khoa học chính trị, hai cuốn sách “Chính trị luận và
Hiến pháp Athen”: chính trị là khoa học lãnh đạo con người và kiến trúc xã hội công
dân.
- Phương Tây thời trung đại: chính trị thời này là quan niệm của các cha cố,
chính trị là quyền lực của nhà nước nhưng nhà nước đó phải thuộc về Giáo hội.
- Thời cận đại: xuất hiện nhiều tư tưởng thể hiện lập trường của giai cấp tư sản
về pháp quyền tự nhiên và chủ nghĩa tự do.
+ Gi.Lốccơ: chính trị là sự thể hiện và bảo vệ pháp quyền tự nhiên trong xã hội
+ S.L.Môngtexkicơ: chính trị là giải quyết mối quan hệ giữa quyền con người
với pháp luật.
- Phương Tây thời đương đại:
+ Max Weber (1864-1920): chính trị là giành lấy quyền lực.
+ Harold Lasswell (1902-1978): chính trị là hoạt động lợi ích.
+ Bernard Crick (1929-2008): chính trị là sự dung hòa về phân phối hàn hóa và
dịch vụ, chia nhau quyền lực tương xứng với vai trò trong cộng đồng.
+ David Easton: Chính trị là sự phân phối thẩm quyền các giá trị. Tập trung
giải quyết vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước.
+ Cuốn “Chính trị và kinh tế Nhật Bản”: Chính trị là khả năng áp đặt quyền
lực đẻ bảo vệ lợi ích của thế lực cầm quyền.

Trang 3
2. Quan niệm chính trị trong triết học Mác – Lênin
- Khái niệm: Chính trị là hình thức hoạt động cơ bản của các tổ chức cộng đồng
người trong xã hội có giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước
nhằm thỏa mãn lợi ích của các tổ chức đó.
- Các đặc trưng:
+ Chính trị là nói đến lợi ích, là quan hệ về lợi ích, là đấn tranh giai cấp vì lợi
ích giai cấp.
+ Bản chất của chính trị là tổ chức chính quyền nhà nước.
+ Chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế, là xây dựng nhà nước về kinh tế
+ Chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
Tính khoa học: chính trị có tính quy luật của nó.
Tính nghệ thuật: phải lựa chọn những giả pháp tối ưu, kiên định song phải
mềm dẻo, linh hoạt.
3. Quan niệm đương đại về hệ thống chính trị:
- Khái niệm: hệ thống chính trị bao gồm các đảng phái chính trị, nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội, được liên kết chặt chẽ với nhau nhằm thực thi
quyền lực của giai cấp cầm quyền để củng cố duy trì và phát triển chế độ chính
trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền đó.
- Các đặc trưng cơ bản:
+ Hệ thống chính trị: là tổ chức xã hội hợp pháp
+ Tổ chức xã hội bao gồm: đảng phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội hợp pháp khác.
+ Các tổ chức liên kết chặt chẽ nhằm thực thi quyền lực của giai cấp cầm quyền
mà đại diện là đảng chính trị và nhà nước do giai cấp đó tạo ra
+ Thực thi quyền lực chính trị nhằm mục tiêu cũng cố, duy trì, phát triển chế độ
chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
- Cấu trúc:
+ Đảng chính trị: là hiện tương đặc thù trong xã hội có phân chia giai cấp, là
yếu tố cơ bản của hệ thống chính trị, là công cụ tập hợp của một giai cấp với
nhiệm vụ lãnh đạọ giai cấp tiến hành đấu tranh vì mục tiêu giành, giữ, sử dụng
quyền lực nhà nước và định hương cho sự phát triển của xã hội.
+ Nhà nước: là công cụ quang trọng nhất mà giai cấp cầm quyền xây dựng để
thực thi quyền lực chính trị của mình.
+ Các tổ chức chính trị - xã khác: là các tổ chức quần chúng hợp pháp vừa mang
tính chính trị vừa mang tính xã hội. Đặc trưng của các tổ chức này là không tham
gia chính quyền mà chỉ hoạt động vì lợi ích của các thành viên tổ chức mình.

Trang 4
II. CÁC PHƯƠNG DIỆN CƠ BẢN VỀ CHÍNH TRỊ TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI:
1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp:
Quan điểm ngoài Macxit về giai cấp và đấu tranh giai cấp:
- Quan niệm duy tâm tôn giáo: giai cấp là do sự sáng tạo mang tính tiền định
của lực lượng siêu nhiên.
- Quan niệm duy vật ngoài Macxit: giai cấp là sản phẩm của lịch sử xã hội
song cũng không phải là sự phát triển của sản xuất. Giai cấp là lớp người cùng cấu
trúc sinh học hay sở thích, tâm lý, nghề nghiệp…
- Quan niệm của các nhà sử học người Pháp (G.Ph.Ghiđô, Chiêry, Ph.Minhê:
những thay đổi trong quan hệ sở hữu về tài sản (ruộng đất)-> thay đổi về quan hệ
giai cấp-> thay đổi chế độ chính trị
Họ quan niệm sự hình thành giai cấp trên cơ sở chinh phục bằng bạo lực và
sự tan rã của xã hội cũ.
- Quan niệm của M.Weber: giai cấp hình thành từ yếu tố của cải, địa vị, uy
tín, quyền lực.
Một số học giả Mỹ cho rằng do quan hệ sở hữu ở Mỹ đã thay đổi, mọi người
đều có quyền sở hữu và có lợi nhuận nên không còn đối lập về lợi ích cũng như sự
phân biệt giai cấp.

Quan điểm Macxit về giai cấp và đấu tranh giai cấp:


- Quan điểm về giai cấp, nguồn gốc giai cấp

Các Mác đi nghiên cứu về giai cấp từ việc phân tích kết cấu phương thức sản
xuất đã có cách tiếp cận khoa học: lấy lý luận về hình thái kinh tế - xã hội làm cơ
sở nghiên cứu xã hội. Mác đã đi tìm cái gốc của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó
là kinh tế
Các Mac, Ăngghen cho rằng:

1. Sự phát triển của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất
định của sự phát triển sản xuất.
2. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Bản thân sự chuyển
dịch này chỉ là bước quá độ tiến tới xoá bỏ mọi giai cấp và tiến lên xây dựng xã
hội không có giai cấp
Trên cơ sở lý luận của Các Mác, trong tác phẩm SÁNG KIẾN VĨ ĐẠI, V.I Lênin
đã đưa ra định nghĩa giai cấp:
V.I.Lênin định nghĩa giai cấp:

Trang 5
“Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau
về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật qui
định và thừa nhận đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức
lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà
tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có
địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”.
Theo định nghĩa của Lênin các giai cấp khác nhau về địa vị trong hệ thống
sản xuất. Đia vị đó do các quan hệ sau quyết định:
1. Các giai cấp có quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội.
2. Các giai cấp khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ
chức quản lý.
3. Các giai cấp có phương thức và qui mô thu nhập của cải xã hội khác nhau.
Tóm lại, bản chất của quan hệ giai cấp là sự khác nhau giữa các tập đoàn người
về địa vị trong hệ thống sản xuất xã hội, dẫn đến tập đoàn người này chiếm đoạt lao
động của tập đoàn người khác. Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch
sử.
Quan điểm về đấu tranh giai cấp

V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp: “là cuộc đấu tranh của một bộ phận
nhân dân này chống lại một bộ phận nhân dân khác, cuộc đấu tranh của quần
chúng bị tước hết quyền bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc
lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm
thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.

- Lịch sử loài người từ khi có giai cấp đối kháng đến nay là lịch sử đấu tranh
giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp có vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội có giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp là một hiện tượng lịch sử.
- Các hình thức bản của đấu tranh giai cấp: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính
trị, đấu tranh tư tưởng.
Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay
Cuộc đấu tranh giai cấp trên thế giới hiện nay diễn ra phức tạp và đan xen với
những xung đột khác trong tình hình quốc tế mới. Do:
- Lực lượng cách mạng tạm thời suy yếu hơn do Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
- CNTB đang phát triển, mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản không còn gay gắt
trong các nước TB phát triển.

Trang 6
- Cuộc cách mạng KHCN => khó nhận thức những biểu hiện của mâu thuẫn
giữa LLSX và QHSX
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản hiện nay không hề mất đi mà nó
có nội dung và hình thức mới do điều kiện thay đổi.
Trọng tâm cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trên thế giới hiên nay
là đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống lại các thế lực phản
động, đế quốc chủ nghĩa đang ráo riết thực hiện “diễn biến hòa bình”.
Cần có thái độ đúng đắn trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động chống CNTB trong bối cảnh quốc tế hiện nay.

Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
Đấu tranh giai cấp ở các nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện mới với
những nội dung mới, mục tiêu và bằng nhưng hình thức mới.

2. Dân tộc và vấn đề quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại

Khái niệm dân tộc:


Nghĩa hẹp : Dân tộc là hình thức cộng đồng người ổn định bền vững, được hình
thành trong lịch sử lâu dài, trên cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về kinh
tế và về văn hóa biểu hiện trong tâm lý, tính cách.
Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc - tộc người.
- Nghĩa rộng: dân tộc là khái niệm hầu nhu chỉ tất cả các hính thức cộng động
người trong lịch sử như: bộ lạc, bộ tộc…
Đặc trưng dân tộc:
Những đặc trưng của dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tác động biện
chứng với nhau trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc, trong đó xét cho cùng thì
nhân tố kinh tế - xã hội có vai trò quyết định, nhân tố chính trị có vai trò quan trọng.
Một là: cộng đồng về ngôn ngữ. Một phương tiện giao tiếp chung thống nhất trong
cộng đồng dân tộc.
Hai là: : cộng đồng về lãnh thổ - đó là vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo…
thuộc chủ quyền quốc gia dân tộc.
Ba là: cộng đồng về kinh tế - một thị trường thống nhất để thực hiện các hoạt động
kinh tế, các hoạt động này được củng ố bằng các thể chế chính trị là nhà nước tập
quyền.
Bốn là: cộng đồng về văn hóa, về tâm lý, tính cách
Như vậy, bốn đặc trưng: cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về lãnh thổ, cộng
đồng về ngôn ngữ về văn hóa, tâm lý, tính cách là bốn đặc trưng không thể thiếu
được của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, dân tộc không phải là phép cộng giản đơn của

Trang 7
bốn đặc trưng - bốn mối quan hệ cộng đồng trên mà chính là kết hợp một cách
biện chứng các mối quan hệ ấy. Nó vừa kết nối dân tộc thành một khối vừa tạo ra
động lực để liên kết và phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc. Các Mác và Ăng ghen
tập trung chú ý vào sự hình thành các quốc gia dân tộc ở châu Âu, vì đó là quá
trình điển hình. Hai ông đã chỉ rõ quá trình hình thành dân tộc hiện đại thường gắn
với quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Để hiểu khái niệm dân tộc một cách đầy đủ, cũng cần nghiên cứu quá trình
hình thành và phát triển dân tộc không gắn liền với chủ nghĩa tư bản như sự hình
thành dân tộc Việt Nam, Triều Tiên. Ở Việt Nam, dân tộc được hình thành sớm
hơn do điều kiện chống xâm lược và chống thiên nhiên.
Hình thức cộng đồng có vai trò to lớn đối với sự phát triển con người và xã
hội. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh tế văn hóa, mà còn là
động lực cho sự phát triển. Trong tương lai của loài người, dân tộc sẽ tồn tại lâu
dài ngay cả khi các giai cấp đã mất đi. Do vậy, đấu tranh chống lại sự nô dịch và
áp bức dân tộc chính là đấu tranh vì sự phát triển và tiến bộ chung của nhân loại.
Quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại:

Sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ giai cấp - dân tộc.
Giai cấp, dân tộc và nhân loại là ba cấp độ phản ánh khác nhau trong tổ chức
xã hội loài người. Mỗi bộ phận có vị trí, nhiệm vụ và chức năng khác nhau song
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong quan hệ này:

- Giai cấp là cơ sở, nền tảng hình thành những đặc trưng cơ bản của dân tộc, nhân
loại.
- Dân tộc và nhân loại có tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại giai cấp
Tính đặc thù của vấn đề giai cấp và dân tộc ở Việt Nam:

- Trong lịch sử Việt Nam, giai cấp và dân tộc ra đời từ phương thức sản xuất
Châu Á, cùng một tổ tiên, cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai để
tạo nên một nền văn hóa với các giá trị phong phú đáng được tự hào. Chính vì vậy,
lợi ích của các giai cấp cơ bản thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc.
- Ngày nay trong điều kiện toàn cầu hóa vô cùng phức tạp, Đảng Cộng sản
Việt Nam chú trọng giải quyết lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ với lợi ích
nhân loại. Theo đó vừa giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc, vừa mở rộng
quan hệ quốc tế nhằm tạo ra sự hài hòa lợi ích giữa các giai cấp trong cộng đồng
dân tộc và nhân loại.
Kết luận

Trang 8
Học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin đã lý giải
một các khoa học về các hiện tượng của xã hội có giai cấp. Học thuyết đã vạch rõ
những tiêu chí đưa đến sự tồn tại của các giai cấp, chỉ rõ nguyên nhân kinh tế của
sự xuất hiện giai cấp, nó cũng chỉ rõ kết cấu giai cấp - xã hội của xã hội có phân
chia giai cấp. Đặc biệt với học thuyết này, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai
trò của đấu tranh giai cấp - một trong những động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp
phát triển. Học thuyết cũng chỉ rõ mối quan hệ đan xen, phức tạp của giai cấp với
dân tộc, giai cấp với nhân loại trong điều kiện hiện nay. Học thuyết giai cấp đấu
tranh, giai cấp là cơ sở lý luận cho các Đảng cộng sản xây dựng đường lối, chiến
lược, sách lược trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã kết
hợp chặt chẽ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích của nhân loại. Trong khi
thực hiện nhiệm vụ giai cấp và nhiệm vụ dân tộc, Đảng, nhà nước và nhân dân ta
rất coi trọng và góp phần tích cực vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Trước hết là bảo vệ sự sống của con người trên trái đất, đấu tranh góp phần loại bỏ
chiến tranh hủy diệt, bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói nghèo, các căn bệnh
thế kỷ…Việt Nam chủ trương hợp tác chặt chẽ với các dân tộc, các lực lượng xã
hội có thiện chí trên thế giới để cùng phấn đấu vì tương lai tốt đẹp của nhân loại.
3. Nhà nước – tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị

a/ Các quan niệm về Nhà nước trong triết học ngoài Mácxit
Thời cổ đại , ở Hy Lạp:
Platon cho rằng nhà nước là sự tất yếu cần có để vừa duy trì trật tự xã hội vừa đảm
bảo những lợi ích của mọi công dân (trừ nô lệ). Chính vì nhà nước là một tất yếu
xã hội, cần thiết cho đời sống của mọi công dân cho nên các công dân phải vì nhà
nước chứ không phải nhà nước vì công dân. Ông đưa ra quan niệm của mình về
nhà nước lý tưởng dựa trên sự phê phán nhà nước dân chủ Aten đương thời. Theo
ông, có thể có ba mô hình nhà nước: nhà nước quân chủ với sự cầm quyền của một
người; nhà nước quí tộc với sự cầm quyền của một số người và nhà nước dân chủ
với quyền lực thuộc về đa số, thuộc về nhân dân. Trong đó hạn chế của Nhà nước
quân chủ là sự chuyên chế, độc tài; Nhà nước dân chủ thì dẫn tới tình trạng hỗn
loạn, vô chính phủ. Do đó, Nhà nước lý tưởng phải là nhà nước quí tộc được lãnh
đạo bởi các nhà thông thái, tức các triết gia.
Arixtốt quan niệm nhà nước là một cấu trúc xã hội nảy sinh một cách tất yếu và tự
nhiên từ đời sống con người xuất phát từ bản chất vốn có của con người. Theo
ông, con người là một động vật xã hội, động vật chính trị. Tổ chức gia đình với
quan hệ của người vợ và người chồng là tiền đề của sự hình thành nhà nước. Cơ
cấu tổ chức nhà nước gồm ba bộ phận là lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trang 9
Thời trung cổ: Xuất hiện thuyết thần quyền cho rằng, nhà nước là sản phẩm sáng
tạo của Thượng đế. Nhà nước có nhiệm vụ thực hiện ý muốn của thượng đế dưới
trần gian.
Thời phục hưng, Machiavelli, ủng hộ thuyết quyền lực, cho rằng bản chất của nhà
nước là tổ chức và thực thi quyền lực, không cần tính tới việc thực thi đó tốt hay
xấu, phục vụ lợi ích của ai. Người cầm quyền cần lựa chọn giữa hai khả năng :
được mọi người yêu mến và đạt mục đích trong lãnh đạo nhà nước. Theo ông,
thông thường hai khả năng này không dung hòa nhau, do đó tốt nhất là người cầm
quyền phải sử dụng quyền lực để đạt mục đích chính trị. Quan điểm mạnh mẽ của
ông về nhà nước hoàn toàn khác xa với quan điểm của các triết gia Hy lạp cổ đại
cũng như tư tưởng nhà nước thời trung cổ. Điều này cho thấy ông có những sự tiếp
cận nhất định tới vấn đề bản chất của quyền lực, bản chất của nhà nước. Trên thực
tế, ông cũng là người đầu tiên định nghĩa chính trị học là khoa học về quyền lực,
quan niệm này đang dần phổ biến ở phương Tây hiện nay. Đối với ông, nhà nước
là một chủ thể nắm quyền lực tối cao
Thời cận đại, Gi.Lốccơ, L.Môngtexkiơ, Gi.Gi.Rútxô,…ủng hộ thuyết khế ước xã
hội về nhà nước, coi nhà nước là sản phẩm tất yếu của một khế ước (hợp đồng)
giữa những cá nhân tự do, bình đẳng trên cơ sở mỗi người tự nguyện nhượng một
phần trong số quyền tự nhiên vốn có của mình giao cho một tổ chức xã hội đặc
biệt là Nhà nước nhằm để bảo vệ lợi ích chung của tất cả mọi người trong xã hội.
Thời hiện đại: Ở phương Tây và Bắc Mỹ cũng xuất hiện nhiều lý thuyết, nhiều
quan điểm khác về nhà nước, phản ánh xu hướng biến đổi phức tạp và đa chiều
của thế giới. Tiêu biểu hơn cả là thuyết nhà nước phúc lợi chung với quan niệm coi
nhà nước có nhiệm vụ hiện thực hóa những lợi ích của số đông người dân. Theo
thuyết này nhà nước phúc lợi chung có khả năng can thiệp và điều chỉnh các quan
hệ kinh tế - xã hội, không phân biệt đối xử với mọi giai cấp, tầng lớp, chỉ chăm lo
đến lợi ích chung của tất cả. Vậy xét về bản chất, nhà nước phúc lợi chung không
có tính giai cấp và không phải là công cụ thống trị giai cấp mà là tổ chức “phúc lợi
chung” phục vụ cho những giá trị nhân đạo của cả xã hội và mỗi cá nhân.
b/ Các quan niệm về Nhà nước của triết học Mác - Lênin
Về nguồn gốc nhà nước:
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”,
Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có nhà
nước, tổ chức đầu tiên của xã hội cộng sản nguyên thủy là thị tộc, bộ lạc. Đứng
đầu các bộ tộc, bộ lạc là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của
người đứng đầu dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín. Quyền hành và chức năng
của cơ quan lãnh đạo trong thời kỳ đó chưa mang tính chính trị. Hệ thống quản lý
của xã hội trong các thị tộc được quyết định bởi tộc trưởng, còn trong các bộ lạc
thường bao gồm:
- Hội đồng là cơ quan quyền lực thường trực. Trong những việc quan trọng, hội
đồng được quyền quyết định cuối cùng
Trang 10
- Đại hội nhân dân, do hội đồng triệu tập để quyết định các công việc quan trọng.
Tại đây, mỗi người đều có thể phát biểu ý kiến. Đại hội nhân dân có quyền
quyết định tối hậu mọi vấn đề.
- Thủ lĩnh quân sự chuyên đảm nhận công việc lãnh đạo các cuộc chiến tranh,
bảo vệ cộng đồng bộ lạc. Các thủ lĩnh quân sự không phải là người cai trị, họ
hoàn toàn thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của nhân dân.

Như vậy, trong xã hội nguyên thủy không có nhà nước mà chỉ có chế độ tự quản
của nhân dân. Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, cũng không có quí tộc
vua chúa, không có nhà tù và những vụ xử án. Do đó theo Ph. Ăng ghen, sự ra đời
của nhà nước là do 4 nguyên nhân:
- Một là: do sự phát triển của sản xuất ở cuối xã hội nguyên thủy đã dẫn tới sự
dư thừa tương đối của cải xã hội. Đây là cơ sở khách quan làm nảy sinh khát
vọng chiếm đoạt sản phẩm lao động của nhân dân ở những người đứng đầu thị
tộc, bộ lạc xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và chế độ người bóc
lột người.
- Hai là: Việc các thủ lĩnh, thị tộc, bộ lạc sử dụng quyền lực chiếm đoạt của nhân
dân đã thúc đẩy sự phân hóa giai cấp trong xã hội. Sự đối kháng giai cấp ngày
càng trở nên sâu sắc.
- Ba là: Chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc càng làm tăng quyền lực của thủ lĩnh
quân sự, càng làm tăng thêm mâu thuẫn xã hội.
- Bốn là: Các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ trong
nhân dân, từ chỗ là công cụ của nhân dân đã trở thành đối lập với nhân dân.
Toàn bộ những nguyên nhân trên đã làm tăng thêm những mâu thuẫn trong xã hội
và những mẫu thuẫn giai cấp này không chỉ tiêu diệt lẫn nhau mà còn có nguy cơ
tiêu diệt luôn cả xã hội. Để tránh nguy cơ đó cần có một cơ quan quyền lực đặc
biệt ra đời là nhà nước.
Theo Ph. Ăng ghen sự xuất hiện của nhà nước không phải để giải quyết các mâu
thuẫn giai cấp trong xã hội, cũng không phải để điều hòa mâu thuẫn giai cấp mà là
để duy trì mâu thuẫn giai cấp trong một giới hạn trật tự nhằm thực hiện được sự
bóc lột của giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất đối với người lao động.
Theo V.I. Lenin, nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
mà không thể điều hòa được. Do vậy khi mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được thì nhà nước xuất hiện và ngược lại sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ những
mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.
Từ những luận giải của Ph. Ăngghen và V.I. Lenin có thể khái quát mở rộng ở 3
điểm sau:
- Một là: Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, để thực hiện nhu cầu tổ chức thị
tộc, bộ lạc đã làm xuất hiện thể chế tự quản sơ khai nhất trong lịch sử nhân
loại. Điều này xuất phát từ các nguyên nhân sản xuất chưa phát triển, tổ chức

Trang 11
xã hội chưa phức tạp, quan hệ giữa con người thuần phát, chưa có mâu thuẫn
giai cấp, do đó cũng chưa có nhà nước.
- Hai là: Sự xuất hiện của nhà nước có nguyên nhân trực tiếp từ sự xuất hiện các
mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong xã hội. Sự ra đời của nhà nước
không phải để giải quyết hay điều hòa mâu thuẫn mà là để duy trì mâu thuẫn đó
trong giới hạn của những trật tự nhất định nhằm có thể duy trì được sự tồn tại
của các giai cấp và thực hiện được lợi ích của giai cấp chiếm hữu TLSX đối với
những giai cấp khác.
- Ba là: Trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn
còn tồn tại với những nội dung mới và hình thức mới, do đó sự tồn tại của nhà
nước là tất yếu. Nhưng đây là một kiểu nhà nước mới – nhà nước không còn
“nguyên nghĩa đen” mà là “nửa nhà nước”. Đồng thời, nhà nước đó sẽ “tự tiêu
vong” cùng với quá trình xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.
Về bản chất của nhà nước:
Theo quan niệm của triết học Mác – Lênin, nhà nước là một yếu tố đặc biệt quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng. Nó là một hệ
thống tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt gồm 3 bộ phận cấu thành là bộ phận
quyền lực; thực thi quyền lực và giám sát quyền lực. Xét về bản chất thì nhà nước
là một bộ máy quyền lực dùng để trấn áp và duy trì sự thống trị của giai cấp này
đối với giai cấp khác; thể hiện quyền lực của một giai cấp đối với toàn thể xã hội;
là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội.
Như vậy xét theo bản chất, nhà nước không phải là một lực lượng điều hòa các
mâu thuẫn xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp mà là một lực lượng
bạo lực của giai cấp thống trị về kinh tế để thể hiện thực sự thống trị của nó đối
với các giai cấp khác và thực tiễn được lợi ích của chính giai cấp đó trước sự phản
kháng của các giai cấp khác.
Vậy nhà nước là công cụ chuyên chính giai cấp trong điều kiện xã hội tồn tại
những đối kháng giai cấp không thể điều hòa được.
Đặc trưng của nhà nước:
Một là, nhà nước là bộ máy tổ chức quyền lực thực hiện việc quản lý dân cư theo
lãnh thổ quốc gia, đồng thời trong phạm vi lãnh thổ đó nhà nước quản lý dân cư
theo các khu vực địa lý hành chính để thực hiện sự thống nhất quyền lực cai trị.
Hai là, nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt được đảm bảo bằng
sức mạnh của những đội vũ trang chuyên nghiệp như quân đội, cảnh sát vũ trang,
nhà tù và những cơ quan hành chính thực hiện chức năng cai trị để buộc mọi công
dân phải phục tùng ý chí nhà cầm quyền có vị trí quan trọng bậc nhất.
Ba là, nhà nước xác lập chế độ thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị
của nó.
Chức năng của nhà nước:

Trang 12
Mỗi nhà nước đều có những chức năng cụ thể của nó nhưng bất cứ nhà nước nào
cũng đều phải thực hiện chức năng chính trị và xã hội; chức năng đối nội và đối
ngoại của nó.
- Chức năng chính trị và chức năng xã hội:
Chức năng chính trị của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai
cấp thống trị. Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi
ích chung của cộng đồng quốc gia trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị. Hai
chức năng này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, trong đó
chức năng chính trị quyết định tính chất, phạm vi, mức độ hiệu quả thực hiện chức
năng xã hội, nhưng chức năng xã hội của nhà nước lại giữ vai trò là cơ sở cho việc
thực hiện chức năng chính trị, đảm bảo cho việc thực hiện chức năng chính trị một
cách có hiệu quả.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, để giữ quyền lực nhà nước trong tay giai
cấp mình, giai cấp thống trị nào cũng phải nhân danh xã hội để quản lý các công
việc chung. Việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm của giai cấp cầm
quyền là phương thức và là điều kiện để nhà nước thực hiện được vai trò thống trị
giai cấp. Ph. Ăngghen từng khẳng định “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của
sự thống trị chính trị và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn
thực hiện chức năng xã hội đó của nó”
- Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
Chức năng đối nội của nhà nước là chức năng xây dựng, củng cố, phát triển và bảo
vệ một chế độ kinh tế - xã hội nhất định phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại của nhà nước là chức năng bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác.
Chức năng đối nội quyết định chức năng đối ngoại bởi vì nhà nước ra đời và tồn
tại là do cơ cấu giai cấp bên trong của mỗi quốc gia qui định. Tính chất của chức
năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, ngược lại, tính chất và
nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội
của nhà nước.
Mối quan hệ thống nhất giữa hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước
ngày càng nâng lên trong xã hội hiện đại vì quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế
- xã hội ngày càng được mở rộng và tăng cường. Nhưng muốn làm được điều đó
lại cần phải đổi mới và tăng cường chức năng đối nội, nhằm tạo nên nội lực đủ khả
năng đáp ứng các nhu cầu thực hiện chức năng đối ngoại.
Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử:
- Các kiểu và hình thức nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp:
Lịch sử nhân loại đã trải qua ba hình thái kinh tế-xã hội dựa trên sự đối kháng giai
cấp là hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; hình thái kinh tế - xã hội phong

Trang 13
kiến và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Tương ứng với ba hình thái đó
là ba kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô; nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản.
+ Nhà nước chủ nô: Là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên
chính đối với giai cấp nô lệ và tầng lớp dân tự do.
+ Nhà nước phong kiến: Là kiểu nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến nhằm
thống trị giai cấp nông dân và những người lao động khác
+ Nhà nước tư sản: Là kiểu nhà nước thích ứng với hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa, nó là kiểu nhà nước mang bản chất thống trị của giai cấp tư sản đối
với giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung.
- Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
Theo Ph. Ăngghen, đó là nhà nước không còn đúng theo nguyên nghĩa đen của nó
mà là “nửa nhà nước”. Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản có ba đặc điểm sau:
+ Một là, kiểu nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Nó
được xác lập sau khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động làm cách mạng xóa bỏ
nhà nước của các giai cấp bóc lột và nó tự tiêu vong khi xây dựng thành công
CNXH cộng sản.
+ Hai là, kiểu nhà nước mang bản chất giai cấp vô sản, được xây dựng và hoàn
thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý KT-XH; tổ chức nhân dân lao động xây
dựng thành công xã hội mới xã hội chủ nghĩa trên cơ sở liên minh công nông và trí
thức, đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản
+ Ba là, kiểu nhà nước không chỉ có chức năng trấn áp mọi thế lực chống đối công
cuộc xây dựng CNXH mà quan trọng hơn là tổ chức xây dựng một nền kinh tế mới
của xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
III. VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
1. Vấn đề phát huy dân chủ:

a/ Khái quát các quan niệm về dân chủ trong lịch sử triết học:

- Thời cổ đại: Thuật ngữ “dân chủ” có gốc từ chữ Hy lạp demokratia mang nghĩa
quyền lực của nhân dân, xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ V đến thế kỷ IV
TCN. Sau này, trên cơ sở thuật ngữ Hy lạp cổ, ở Anh xuất hiện từ democracy
để chỉ nền dân chủ hay chính thể dân chủ, với đặc trưng là chính quyền nhà
nước phải thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân.
- Thời cận đại: Gi.Lốccơ, Gi.Gi.Rútxô quan niệm “dân chủ” là thể chế chính trị,
một hình thức nhà nước trong đó công dân có những quyền tự nhiên, tất yếu
như tự do cá nhân, bình đẳng và quyền tư hữu. Về bản chất, dân chủ là biểu
hiện của một khế ước xã hội giữa các cá nhân tự do.

Trang 14
- Theo quan điểm Macxit: Dân chủ là mọi người được bình đẳng với nhau, được
quyền tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các quyết định quản lý xã hội của
nhà nước, qua đó, có quyền thụ hưởng lợi ích từ các quyết định đó một cách
bình đẳng.

b/ Những phát triển mới trong nhận thức về dân chủ của Đảng Cộng sản Việt
Nam:

- Ở nước ta, ĐCSVN lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng lật đổ chủ nghĩa
phong kiến, đánh đuổi chủ nghĩa thực dân đế quốc nhằm giành độc lập dân tộc,
dân chủ cho nhân dân. Để hướng đến mục tiêu dân chủ thật sự, trong quá trình
lãnh đạo đất nước, Đảng ta thực hiện hai hình thức dân chủ là dân chủ nhân dân
(giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc) và dân chủ xã hội chủ nghĩa (giai
đoạn xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN)
- Trong giai đoạn cách mạng từ năm 1945 đến năm 1954 (đối với cả nước) và từ
năm 1954 đến năm 1975 (đối với miền Bắc), Đảng ta tiến hành xây dựng hình
thức dân chủ nhân dân với mục tiêu: đánh đuổi thực dân, đế quốc và phong
kiến tay sai, thực hiện quyền dân chủ cho mọi người dân lao động, chuẩn bị cơ
sở vật chất khách quan cho dân chủ XHCN. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 1954
đến năm 1975 ở miền Bắc, Đảng ta tiến hành hình thức dân chủ nhân dân song
với nội dung thực hiện những nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.
- Trong giai đoạn cách mạng từ năm 1975 tới nay, Đảng ta thực hiện hình thức
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch HCM về dân
chủ luôn được quán triệt. Theo chủ tịch HCM nước ta là nước dân chủ, mọi
quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ, do đó
nội dung cơ bản nhất của dân chủ XHCN là tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân.
- Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức về dân chủ ngày càng sâu sắc
hơn, đúng đắn hơn và được khái quát mấy điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quan niệm về dân chủ được mở rộng và được xem xét theo nhiều
khía cạnh: dân chủ vừa là chế độ chính trị, là phương thức và nguyên tắc tổ
chức xã hội, vừa là quyền tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội của
công dân, dân chủ bao gồm cả dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ về
văn hóa, xã hội. Đặc biệt dân chủ còn là mục tiêu, là động lực mạnh mẽ cho sự
phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Thứ hai: dân chủ XHCN cần phải tiếp thu và phát triển những giá trị của nhân
loại về dân chủ, trong đó có cả giá trị dân chủ tư sản. Mặc dù có sự khác biệt về
bản chất giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN, song vẫn cần phải có sự tham

Trang 15
khảo các thành quả của các nước tiên tiến về quản lý nhà nước, hành chính
công, tronh đó nhận thức của người dân về trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân
là vấn đề ít được chú ý ở nước ta.
Thứ ba: nhận thức về tính tiệm tiến lâu dài trong quá trình phát triển dân chủ.
Dân chủ là kết quả của cả một quá trình lâu dài về giáo dục ý thức cũng như
nâng cao năng lực thực hành dân chủ nên không thể nóng vội, thoát ly thực
tiễn.
Thứ tư: Phải thực hiện dân chủ ở tất cả các cấp độ, từ cấp các cơ quan cao nhất
đến cấp cơ sở, đặc biệt chú trọng dân chủ cơ sở.
Thứ năm: Phải tìm tòi, tổng kết thực tiễn để tìm ra và hoàn thiện các hình thức
thực hiện dân chủ thực chất, đúng hướng, có hiệu quả
Thứ sáu: Trong quá trình thực hiện dân chủ, cần chống các biểu hiện lệch lạc,
dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để làm tổn hại lợi ích
nhà nước và lợi ích của công dân để thực hiện hành vi gây rối; kiên quyết bác
bỏ luận điệu giả dối về dân chủ, nhân quyền của các thế lực phản động.

c/ Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay:

- Dân chủ XHCN là một hình thức chính trị - nhà nước của XH. Nó thừa nhận
quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền
lực.
- Quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa mang tính pháp quyền, thành
nguyên tắc tổ chức và vận hành của nhà nước cũng như các thiết chế chính trị
khác, tạo nên chế độ dân chủ.
- Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiệm mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa
số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia
hoạch định và thi hành các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
- Phát huy dân chủ XHCN đòi hỏi tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân. Đồng thời
với phát huy dân chủ, cần đề cao trách nhiệm xã hội của công dân, đề cao kỷ
luật. kỷ cương xã hội, phê phán và nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, chống dân chủ hình thức.

2. Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay


Trang 16
Hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa; bao
gồm các tổ chức chính trị - xã hội mà nhờ đó nhân dân lao động thực thi quyền lực
của mình trong xã hội: Đảng cộng sản Việt Nam(‘Hạt nhân’ lãnh đạo hệ thống);
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (‘Trụ cột’ của hệ thống); Mặt trận
tổ quốc Việt Nam; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; các hiệp hội khác: Hội cựu
chiến binh Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam,…Hệ thống chính trị này bao trùm
và điều chỉnh mọi quan hệ chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; giữa các dân
tộc trong cộng đồng xã hội; giữa các yếu tố xã hội, tập thể cá nhân về vấn đề
quyền lực, về hoạch định đường lối, chủ trương chính sách phát triển xã hội Việt
Nam.

Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị: Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ
thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy
đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.

Quan điểm đổi mới hệ thống chính trị

Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
không phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả
hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù
hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa,
có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.

Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính
trị với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động,
thúc đẩy xã hội phát triển.

Phương hướng đổi mới hệ thống chính trị

Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị

Trang 17
+ Đại hội X, XI đã xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc”.

+ Vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991 của
Đảng xác định: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ
thống. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hành
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật”. Vai trò chức năng lãnh đạo của
Đảng là vạch ra đường lối, chiến lược phát triển, lãnh đạo nhân dân cả nước thực
hiện thành công sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của bộ phận cấu thành hệ thống. Trong đổi mới phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt là đổi mới phương thức của Đảng,
khắc phục cả hai khuynh hướng hoặc là Đảng bao biện, làm thay, hoặc Đảng
buông lỏng sự lãnh đạo. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối hoạt động
của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, tiến hành đồng bộ đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng với đổi mới
tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế của đất nước.

+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính
trị cao, đồng thời cận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút
kinh nghiệm, vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung vừa phải phù hợp với đặc
điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành.

Xây dựng nhà nước trong hệ thống chính trị

+ Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân”

+ Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng
định và thừa nhận nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử, sản phẩm của trí tuệ
của xã hội loài người. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân, vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự

Trang 18
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
mặt trận.

Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị

+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội có vai trò rất
quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân;
đại diện cho quyền và lợc ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương,
chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội; an ninh, quốc phòng.

+ Nhà nước cần ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội; thực hiện
tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn và Quy
chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các cấp tầng
lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

+ Đổi mới hoạt động của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục
tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phô trương, hình thức; nâng cao chất
lượng hoạt động; làm tốt công tác dân vận theo phong cách trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân.

3. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

a. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền – thành quả của nền văn minh nhân loại

Vào thời cổ đại

Ở Trung Quốc Hàn Phi đã tổng kết các tư tưởng về pháp – thế - thuật xây dựng
thuyết pháp trị với những lập luận về sự cần thiết phải có một hệ thống pháp luật
hiệu quả để quản lý và điều hành xã hội.

Ở Hy Lạp, theo Arixtốt nhà nước cần được xây dựng theo mô hình với ba bộệ
phận thực hiện ba chức năng riêng biệt: cơ quan lập pháp có chức năng xây dựng
hệ thống luật, cơ quan hành pháp có chức năng thực thi pháp luật, cơ quan tư pháp
thực thi nhiệm vụ giám sát, bảo vệ pháp luật.

Đến thời trung đại, T.Aquinơ cũng có những luận giải về nhà nước và pháp
quyền.

Đặc biệt sang thời cận đại- thời kỳ xác lập và phát triển nền kinh tế thị trường tư
bản chù nghĩa trong phạm vi các quốc gia dân tộc tư sản thời kỳ diễn ra cuộc đấu
tranh chính trị giành quyền lực nhà nước giữa gia cấp tư sản và giai cấp phong
Trang 19
kiến..., tư tưởng triết học về nhà nước và pháp quyền xuất hiện vào thời cổ đại đã
được nâng lên thành học thuyết triết học về nhà nước và pháp quyền. Các lý luận
triết học pháp quyền lần lượt ra đời đó là lý thuyết tổ chức nhà nước theo nguyên
tắc tam quyền phân lập.

+ B.Xpinôda là người sáng lập ra lý thuyết về pháp quyền tự nhiên.

(Thuyết pháp quyền tự nhiên là học thuyết chủ trương có một thứ pháp luật tự nhiên điều chỉnh
quan hệ giữa người với người khi con người tồn tại trong trạng thái tự nhiên. Theo học thuyết này,
pháp luật cũng như nhà nước không phải do Chúa trời tạo ra mà đó là do con người cùng nhau có
thỏa thuận xã hội mà làm ra.Thật ra, pháp quyền tự nhiên, cho đến nay, chỉ tồn tại như một giả
thuyết, trong quan niệm, học thuyết của các nhà tư tưởng. Quan niệm về pháp quyền tự nhiên của
các nhà tư tưởng cũng luôn luôn lấy con người trong trạng thái tự nhiên làm xuất phát điểm, từ bản
chất con người nói chung, từ "tính người", nhân tính của con người. Quyền tự nhiên là Các quyền
nảy sinh từ bản chất tự nhiên của con người kể từ khi con người mới sinh ra và lớn lên mà không
một ai, kể cả nhà nước, xã hội, có quyền ngăn cản hoặc tước đoạt.
Đó là các quyền được sống đến trọn đời mãn kiếp, quyền được ăn, uống, mặc, quyền được mưu
cầu hạnh phúc, quyền được kết hôn, quyền được tự do, vv. Việc phát hiện và đấu tranh nhằm xác
định và bảo vệ quyền tự nhiên của con người là một bước tiến bộ nhảy vọt về mặt ý thức)

+ Gi.Lốccơ cũng đứng trên quan điểm pháp quyền tự nhiên mà cho rằng ‘ Luật tự
nhiên là bắt buộc vì rằng nó là tự do’. Gi.Lốccơ cũng là một trong những nhà tư
tưởng triết học đặt nền móng lý luận cho sự ra đời của lý thuyết tam quyền phân
lập tư sản.

+ Những lý thuyết về tam quyền phân lập và khế ước xã hội của các nhà tư tường
khai sáng Pháp S.Môngtexkiơ và Gi.Gi.Rútxô đã có một ảnh hưởng lớn tới các lý
thuyết pháp quyền của các nhà triết học nước Đức ở cuối thế kỷ XVIII – đầu thế
kỷ XIX là I.Cantơ và Ph.Hêghen.

+ Theo I.Cantơ, chính con người mới là chủ thể quyền lực, ông cũng tán thành
quan điểm phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp độc lập với nhau. Như vậy, I.Cantơ có xu hướng đi vào những cơ sở triết
học của lý thuyết nhà nước pháp quyền tư sản, tìm những cơ sở triết học của lý
thuyết ấy từ bản tính tiên nghiệm của con người.

+ Sau I.Cantơ, Ph.Hêghen Nhà nước và pháp luật chỉ là sự thể hiện, sự tha hóa
trong đời sống hiện thực của các ý niệm đạo đức và ý chí tự do; Pháp luật trong
nhà nước pháp quyền là hiện thực của tự do và là tồn tại thực tế của ý chí tự do,
nhằm giúp con người vươn tới tự do. Ph.Hêghen cho rằng con người khi sinh ra
chưa có tự do; mà tự do của con người chỉ hình thành, phát triển trong quá trình
sống, nhờ vào nổ lực bản thân con người; trong đó, nhà nước pháp quyền là
phương thức để con người vươn tới tự do.

Trang 20
Có thể nói, nhà nước pháp quyền chính là một thành quả của nền văn minh nhân
loại trong quá trình phát triển vươn tới tự do, bình đẳng và công lý. Trong quá
trình đó, nhân loại đã nổ lực chống lại xu hướng chuyên chế, độc tài thể hiện rõ
trong lịch sử giai đoạn chiếm hữu nô lệ và nhất là thời kỳ phong kiến. Học thuyết
về nhà nước pháp quyền trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư sản Châu Âu
trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến. Do tính hợp lý, phù với
sự phát triển tiến bộ xã hội cho nên học thuyết về nhà nước pháp quyền được thực
hiện hóa phổ biến ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa.

Khái niệm nhà nước pháp quyền:

Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự
ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân. Nó
là một hình thức tổ chức nhà nước có tính đặc thù. Hơn nữa, nếu xét theo nội dung
và thực chất thì đó là hình thức tổ chức nhà nước thích hợp nhất với bản chất nhà
nước xã hội chủ nghĩa, bởi bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dựa trên nền
tảng liên minh công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức; là công cụ chủ yếu để
nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình trong việc quản lý mọi hoạt động
xã hội theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Đặc điểm của nhà nước pháp quyền

Thứ nhất, nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có
sự ngự trị cao nhất, tuyệt đối của pháp luật.

Thứ hai, nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó
quyền lực nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân.

Thứ ba, nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự
đảm bảo thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và
công dân.

Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của nhà nước pháp quyền

Thứ nhất, nhà nước pháp quyền hoạt động theo nguyên tắc: nhân dân là chủ thể
tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước

Thứ hai, nhà nước pháp quyền tôn trọng và bảo vệ quyền công dân, quyền con
người.

Trang 21
Thứ ba, nhà nước pháp quyền phải đảm bảo những điều kiện thiết yếu cho một
nền dân chủ.

Thứ tư, nhà nước pháp quyền thừa nhận và thực hiện nguyên tắc tối cao của pháp
luật.

Thứ năm, trong nhà nước pháp quyền có sự phân công và thực hiện các quyền
năng cơ bản của quyền lực công cộng (phân quyền), dùng chính quyền lực để
kiểm tra, giám sát quyền lực.

Thứ sáu, nhà nước pháp quyền luôn tuân thủ các cam kết và nghĩa vụ pháp lý
xuất phát từ các điều ước quốc tế mà nó ký kết hay công nhận; giải quyết các vấn
đề trong quan hệ quốc tế trên cơ sở pháp luật quốc tế.

b. Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam

Tính tất yếu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì
dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt
Nam; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một
quốc gia dân tộc độc lập xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa
bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mang bản chất “của
dân, do dân và vì dân”.

Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức
hoạt động của nhà nước thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự thống nhất tổ chức và hành động, phát
huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của
cả nước và từng địa phương, của cả toàn bộ hệ thông bộ máy và từng yếu tố cấu
thành nó. Tập trung dân chủ đòi hỏi phải chống lại tập trung quan liêu và phân tán,
cục bộ.

Trang 22
Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Một là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân.

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều
hành các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực cửa đời sống xã hội.

Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; thực hành dân chủ đồng
thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương.

Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước
quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận.

Nguyên tắc cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay, cần thiết phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau
đây:

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt
Nam phải trên cơ sở giữ vững bản chất giai cấp công nhân. Bản chất này thể hiện:

+Thứ nhất, nền tảng của tư tưởng nhà nước được xây dựng dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

+Thứ hai, nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

+Thứ ba, mọi chính sách cũng như hoạt động của nhà nước luôn quán triệt hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân. Biểu hiện, mọi văn bản pháp luật từ Hiến
pháp tới các đạo luật khác đều phản ánh đường lối, quan điểm chính trị của
Đảng.

Trang 23
+Thứ tư, Đảng lãnh đạo nhà nước là lãnh đạo chính trị đối với các tổ chức và
hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động của nhà nước đi đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo lợi ích chính đáng của nhân dân.

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt
Nam phải xuất phát từ yêu cầu kinh tế- xã hội phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội.

- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt
Nam phải dựa trên cở sở kế thừa có chọn lọc những ưu điểm của các nhà nước đã
có trong lịch sử.

Những định hướng chủ yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam: Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, đòi hỏi quán triệt những nguyên tắc cơ
bản trên nhằm hướng đến những mục tiêu chủ yếu sau đây:

Một là, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, đa dạng hóa các hình thức dân
chủ trong tổ chức, xây dựng và hoạt động của nhà nước.

Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của cơ quan nhà nước theo
hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội;.....

Bốn là, kế thừa có chọn lọc những phương thức tổ chức và hoạt động có hiệu
quả của các nước trong lịch sử Việt Nam cũng như trên thế giới.

Trang 24
LIÊN HỆ THỰC TIỄN:
I. Tìm hiểu về Hệ thống chính trị và bản chất các mối quan hệ trong hệ thống
chính trị các quốc gia trên thế giới:
Như đã trình bày ở phần I, HTCT cơ bản gồm: Đảng chính trị, Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội (hợp pháp);
1. Đảng chính trị
Ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại
- Đặc trưng cơ bản ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại là hệ thống “đa
đảng đối lập, đa nguyên chính trị”:
Hệ thống đa đảng ở các nuớc tư bản chủ nghĩa có thể chia thành các nhóm:
Hệ thống nhiều đảng không có sự độc quyền của đảng tư sản thống trị - các Đảng
phái liên minh để lập ra chính phủ liên hiệp (Italia, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch…); Hệ
thống đa đảng có đảng tư sản độc quyền - số ghế đa số trong Nghị viện thuộc về
một đảng và đảng này lập ra chính phủ một đảng (Pháp, Nhật Bản…); Hệ thống 2
đảng - bao gồm hai đảng thuần tuý là đảng của giai cấp tư sản thay nhau cầm
quyền (Hoa Kì)…
- Trong hệ thống đa đảng đối lập, hình thức đấu tranh chủ yếu để tranh
giành và chia sẻ quyền lực là hình thức Nghị trường: Đảng nào giành được đa số
ghế trong nghị viện theo luật định, thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền “chính
trường chủ yếu là nghị trường”. Về mặt hình thức phương thức giành quyền lực
này tỏ ra rất “dân chủ” và “bình đẳng”; nhưng trên thực tế hiến pháp và pháp luật
lúc nào cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các đảng phái lớn thắng cử (các đảng đại
diện cho giới tài phiệt và quan chức tư sản, được sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư
sản có thế lực).
- Tuy “đa đảng, đa nguyên”, nhưng về cơ bản cơ quan Lập pháp và Hành
pháp đều nằm trong tay các Đảng tư sản cầm quyền: Trong đó Nghị viện được
xem là chế độ dân chủ nhất nhưng hoạt động của nó lại mang tính đảng rất cao và
đó là nơi thực sự diễn ra cuộc đấu tranh công khai giữa các đảng phái - các nghị sĩ
do nhân dân bầu, với nhiều đặc quyền, đặc lợi, nhưng lại không chịu trách nhiệm
trước cử tri mà chỉ biểu quyết theo chỉ thị của Đảng và chịu trách nhiệm trước
Đảng. Chính phủ được xem như là “Ban Chấp hành Trung ương của Đảng cầm
quyền” - về hình thức thì Chính phủ được thành lập trên cơ sở Nghị viện và chịu
trách nhiệm trước Nghị viện; nhưng trên thực tế thì Đảng cầm quyền thường đứng
ra thành lập Chính phủ, thao túng toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

Trang 25
nước. Các Nhóm lợi ích chính trị, xét đến cùng, cũng chỉ là công cụ để giai cấp tư
sản thực hiện quyền lực chính trị của mình (về mặt lý thuyết các nhóm lợi ích chính
trị có vai trò trong việc giành quyền lực để đảm bảo lợi ích của quần chúng; nhưng
trên thực tế nó là thiết chế của tầng lớp thượng lưu và trung lưu có xu hướng thỏa
hiệp với nhà nước vì lợi ích của giới thượng lưu và nội bộ giai cấp tư sản).
- Một cách khái quát, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa chế độ “đa nguyên chính
trị” bề ngoài thì có vẻ dân chủ - các đảng đều có quyền tự do tranh cử, liên minh...
- nhưng về thực chất thì đều là “nhất nguyên chính trị”. Ngay cả trường hợp có
một số đảng liên minh cầm quyền; trong thực tế vẫn chỉ có đảng lớn nhất, có thế
lực nhất nắm quyền quyết định, và suy đến cùng là bảo vệ lợi ích của giai cấp tư
sản, bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa:
Ở nước Anh có nhiều Đảng; trong đó Đảng Lao động (LP) trên danh nghĩa
bảo vệ quyền lợi cho quần chúng lao động; đại diện cho giai cấp công nhân, tầng
lớp trung lưu dưới - Đảng Lao động thường đề ra mục tiêu đòi mở rộng chương
trình phúc lợi xã hội, quan tâm đến người nghèo và giai cấp công nhân, đòi thu
thuế cao đối với người giàu. Tuy nhiên, trên thực tế Đảng Lao động thực chất là
Đảng tư sản, họ vẫn đặt lợi ích của giai cấp tư sản lên hàng đầu và bảo vệ chế độ
Tư bản chủ nghĩa.
Trong thể chế chính trị của Đức, có các Đảng phái chính trị lớn là: Đảng xã
hội dân chủ (SPD), Liên minh dân chủ Thiên chúa giáo (CDU), Liên minh xã hội
Thiên chúa giáo (CSU), Đảng Dân chủ tự do (FPD), Đảng Xanh và các đảng nhỏ
khác (như Đảng dân tộc dân chủ, Đảng chủ nghĩa xã hội dân chủ, Đảng Nông dân
dân chủ Đức, Đảng cộng sản Đức, Alliance, Tự do dân chủ...). Và thực tế cho
thấy, hầu như từ trước đến nay chỉ có 2 đảng lớn thay nhau cầm quyền là Đảng xã
hội dân chủ (SPD), Liên minh dân chủ Thiên chúa giáo (CDU).
Trong thể chế chính trị của Nhật Bản có các Đảng phái chính trị là: Đảng
Dân chủ - Tự do (LDP), Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ), Đảng Dân chủ - Xã hội
(DSP), Đảng Kômâytô (Đảng Chính phủ trong sạch), Đảng Cộng sản, Đảng mới
Nhật Bản, Đảng Tiên phong, Đảng Dân chủ - Xã hội thống nhất. Và thực tế cho
thầy, hầu như từ trước đến nay chỉ có các đảng lớn thay nhau cầm quyền như
Đảng Dân chủ - Tự do (LDP), Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ)…
Ở các nước xã hội chủ nghĩa
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, thể chế Đảng chính trị có thể khái quát với
những đặc trưng sau:

Trang 26
- Chế độ “nhất nguyên chính trị” là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chống lại giai cấp tư sản.
- Đảng Cộng sản là đội tiên phong, là đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Khi đã trở thành lực lượng cầm quyền, Đảng
cộng sản có vai trò to lớn, trách nhiệm nặng nề đối với giai cấp và vận mệnh của
dân tộc; là lực lượng lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Để hoàn thành vai trò to lớn, nhiệm vụ vẻ vang đó, điều kiện tiên quyết là
Đảng phải không ngừng vươn lên mọi mặt để quần chúng “nhìn thấy ở đó trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại”.
- Hiện nay; ở một số nước xã hội chủ nghĩa, tùy theo điều kiện “đặc thù”
của mình đã thực hiện chế độ hợp tác đa đảng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản và với chế độ “nhất nguyên chính trị” (như ở Trung Quốc với điều kiện
“đặc thù” của mình đã thực hiện chế độ hợp tác đa đảng, hiệp thương chính trị,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và với chế độ “nhất nguyên
chính trị” - nhằm mục đích lắng nghe nhiều hơn những quan điểm khác nhau, tiếp
thu nhiều hơn sự giám sát của các đảng phái, giảm bớt những thiếu sót trong quyết
sách và chấp hành. Tuy nhiên; Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn là đảng cầm
quyền, còn các Đảng phái dân chủ chỉ là những đảng tham chính. Trung Quốc gọi
đó là “chế độ chính đảng kiểu mới có màu sắc Trung Quốc”.
2. Nhà nước
Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều hình thức Thể chế nhà nước, song có thể
quy thành 2 hình thức Thể chế nhà nước cơ bản là Quân chủ và Cộng hòa.

2.1. Thể chế quân chủ được chia thành các loại: Quân chủ tuyệt đối và
Quân chủ lập hiến
a. Thể chế Quân chủ tuyệt đối: là thể chế chính trị mà ở đó toàn bộ quyền
lực thuộc về nhà Vua (theo nguyên tắc thừa kế) và quyền lực này được chuyển
giao theo nguyên tắc “cha truyền - con nối”. Trong xã hội đương đại, thể chế này
hầu như không còn tồn tại.

b. Thể chế Quân chủ lập hiến: là loại hình thể chế mà trong nhà nước vẫn
tồn tại ngôi Vua, nhưng có Hiến pháp do Nghị viện ban hành. Hình thức chính thể
này thường tồn tại ở những nước, nơi mà cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống
giai cấp phong kiến kết thúc bằng sự thỏa hiệp; hiện nay hình thức chính thể quân
chủ vẫn tồn tại, song dần dần thích ứng với lợi ích của giai cấp tư sản đang nắm
chính quyền.
Trang 27
Thể chế Quân chủ lập hiến được chia thành 2 loại hình Quân chủ nhị
nguyên và Quân chủ đại nghị.
* Thể chế quân chủ nhị nguyên: Là thể chế chính trị mà quyền lực được chia
đều cho Vua và Nghị viện - tuy nhiên có khi quyền lực nhà Vua thường lấn át
Nghị viện và trong nhiều trường hợp nhà Vua có thể giải tán Nghị viện vô thời
hạn. Hình thức thể chế này hiện nay chỉ còn tồn tại ở một số ít nước như Brunây,
Arập Xêut, Tiểu Vương quốc Arập, Gioocđani…

* Thể chế quân chủ đại nghị: Với các đặc trưng:

- Vua đứng đầu nhà nước, nhưng quyền lực tập trung trong tay Nghị viện (cơ
quan quyền lực do nhân dân bầu). Quyền lực nhà Vua chủ yếu mang tính hình thức
“Vua trị vì, nhưng không cai trị”. Vua là người đứng đầu nhà nước được coi như
“chế định tiềm tàng” trong trường hợp có khủng hoảng chính trị. Về lý thuyết, Vua là
biểu tượng của sự thống nhất phi chính trị và không thiên vị; nhưng trên thực tế thì
Vua vẫn chịu ảnh hưởng của Đảng cầm quyền.

- Nghị viện là cơ quan quyền lực tối cao, có quyền thành lập và giải tán chính
phủ; chính phủ chịu trách nhiệm trước nghị viện. Song trên thực tế, quyền lực chủ
yếu tập trung vào người đứng đầu cơ quan Hành pháp (Thủ tướng).

- Tiêu biểu cho hình thức thể chế này là Vương quốc Anh, Nhật Bản, Úc,
Thái Lan, Campuchia...
2.2. Thể chế Cộng hòa
- Ở các nước tư bản chủ nghĩa và một số nước đang phát triển, hình thức thể
chế này có 3 loại: Cộng hòa Tổng thống, Cộng hòa Đại nghị, Cộng hòa hỗn hợp.
- Ở các nước xã hội chủ nghĩa phổ biến là mô hình Cộng hòa Xô viết;
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa.
a. Thể chế Cộng hòa Tổng thống: Điển hình là Mỹ, các nước Châu Mỹ La
tinh, Liên Bang Nga…
Đặc trưng tiêu biểu của thể chế này là: Tổng thống là nguyên thủ quốc gia
và là người đứng đầu cơ quan Hành pháp với quyền hạn vô cùng lớn. Tổng thống
lập ra Chính phủ, các thành viên Chính phủ do Tổng thống cử ra và chịu trách
nhiệm trước Tổng thống. Tổng thống, Chính phủ không chịu trách nhiệm trước
Quốc hội; tuy nhiên Tổng thống cũng không có quyền giải tán Quốc hội nếu Quốc
hội có thực quyền và trở thành đối tượng kiềm chế quyền hạn của Tổng thống
(ngoại trừ Liêng bang Nga: Tổng thống có quyền giải tán Đuma, mặc dầu Đuma
do dân bầu ra). Nhìn chung, trong thể chế này, quyền Hành pháp (đứng đầu là

Trang 28
Tổng thống) có phần lấn át quyền Lập pháp và Tư pháp. Để tránh hiện tượng lạm
quyền, độc tài; Hiến pháp nhiều nước thường có những điều khoản có tính chất
“kiềm chế, đối trọng” hoặc giới hạn nhiệm kỳ của Tổng thống.
b. Thể chế Cộng hòa đại nghị: Tiêu biểu cho thể chế này là các nước Đức,
Áo, Ý…
- Đặc trưng cơ bản của chính thể này là: Quyền lực nhà nước tập trung vào
Nghị viện (cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu
ra). Nghị viện có quyền lập ra Chính phủ (Chính phủ do nhân dân gián tiếp bầu ra
và chịu trách nhiệm gián tiếp trước nhân dân thông qua Nghị viện), bầu Tổng
thống; đồng thời Nghị viện có thể bãi miễn Chính phủ, Tổng thống và cơ quan Tư
pháp. Tổng thống, Chính phủ hoạt động và chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
- Mô hình thể chế này được xem là dân chủ nhất trong mô hình chính thể tư
sản - ít có khả năng biến thành chế độ độc tài hay nguy cơ bất ổn. Tuy nhiên, nền
hành pháp của chính thể này thường không mạnh như nền hành pháp ở mô hình
Cộng hòa Tổng thống.
c. Thể chế Cộng hòa hỗn hợp: Tiêu biểu là Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc,
Mông Cổ…
- Đặc điểm của loại hình thể chế này là: Tổng thống và Nghị viện đều do
nhân dân bầu ra. Tổng thống toàn quyền Hành pháp, có quyền giải tán Nghị viện.
Tuy vậy Nghị viện có quyền can thiệp vào quá trình thành lập Chính phủ, buộc
Tổng thống phải bổ nhiệm lãnh tụ của Đảng đa số trong Nghị viện làm Thủ tướng;
nghĩa là Tổng thống phải chia sẻ quyền lực với Nghị viện.
- Ưu điểm của thể chế này là hạn chế sự tập trung quyền lực vào tay Tổng
thống; tránh hiện tượng độc tài và vẫn đảm bảo một nền Hành pháp mạnh. Nhiều
nước ở Liên Xô (cũ), Đông Âu và Châu Phi sau khi cải cách thể chế đã áp dụng
mô hình chính thể này.
d. Thể chế chính trị Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (Socialist Republic):
Ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội
chủ nghĩa, thể chế chính trị được tổ chức theo mô hình Cộng hòa Xô viết (trước
đây), Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (hiện nay). Mô hình thể chế này, ở các nước khác
nhau có tên gọi khác nhau: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (Việt Nam), Cộng hòa dân
chủ nhân dân (Lào, Triều Tiên), Cộng hòa nhân dân (Trung Hoa), Cộng hòa
(CuBa). - Đặc trưng của mô hình thể chế này là: Quyền lực nhà nước là thống
nhất (thuộc về nhân dân); nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lực

Trang 29
tối cao thuộc về Quốc hội - Quốc hội có quyền thành lập Chính phủ, bầu Chủ tịch
nước, cơ quan Tư pháp, Hội đồng Quân sự Trung ương; có quyền quyết định
những vấn đề hệ trọng của đất nước như tuyên bố chiến tranh hay hòa bình; có
quyền giám sát tối cao việc thi hành pháp luật (đặc điểm này hơi giống Thể chế
chính trị Cộng hòa đại nghị). Chính phủ là cơ quan hành chính chịu trách nhiệm
trước Quốc hội, thực thi vai trò quản lý hành chính và bảo đảm sự thống nhất từ
trung ương đến địa phương. Tuy nhiên; khác với thể chế cộng hòa khác, trong hệ
thống Tư pháp của thể chế chính trị Cộng hòa xã hội chủ nghĩa có hệ thống cơ
quan Viện kiểm sát.
3. Các tổ chức chính trị - xã hội và các nhóm lợi ích
Tùy theo điều kiện , hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi nước; các các đoàn thể
nhân dân có đặc điểm riêng về tổ chức và phương thức hoạt động. Thông thường
các đoàn thể nhân dân không đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính quyền; mà
thường vì lợi ích của các thành viên trong tổ chức của mình tìm cách tác động, gây
ảnh hưởng đối với chính quyền và đảng phái chính trị
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị bên
cạnh Đảng cầm quyền, Nhà nước, còn có các Nhóm lợi ích chính trị:
- Nhóm lợi ích chính trị là tổ chức bao gồm nhiều thành viên của một xã hội
có cùng quan điểm, cùng nhu cầu lợi ích chung liên kết với nhau theo một chế độ
tự nguyện, hoạt động ảnh hưởng ở mức độ nhất định phương thức nhất định tác
động đến quyền lực nhà nước vì lợi ích, nhu cầu các thành viên của nhóm.
- Các nhóm lợi ích chính trị đấu tranh cho lợi ích của nhóm mình
bằng cách tác động vào việc hoạch định chính sách của các đảng chính trị và của
chính quyền. Đây là các nhóm của những người có cùng lợi ích liên kết với nhau
nhằm gây ảnh hưởng tới các quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách
chính trị của Đảng cầm quyền, việc thực thi pháp luật và các chính sách kinh tế -
xã hội của Nhà nước. Các nhóm lợi ích chính trị, ở một khía cạnh nào đó có thể
hiểu là các đoàn thể nhân dân (các tổ chức chính trị - xã hội). Tuy nhiên, các đoàn
thể nhân dân (các tổ chức chính trị - xã hội) là các tổ chức nằm ngoài nhà nước;
còn Nhóm lợi ích chính trị thì có thể tồn tại ngay bên trong nhà nước.
- Các Nhóm lợi ích chính trị là một loại thể chế chính trị (tổ chức) không thể
thiếu trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản. Về mặt lý
thuyết, các nhóm lợi ích chính trị có vai trò trong việc đấu tranh để đảm bảo lợi ích
của quần chúng; nhưng trên thực tế nó cũng chỉ là thiết chế của tầng lớp thượng
lưu và trung lưu có xu hướng thỏa hiệp với nhà nước vì lợi ích của giới thượng lưu

Trang 30
và nội bộ giai cấp tư sản. Do đó, xét đến cùng, nó cũng chỉ là công cụ để giai cấp
tư sản thực hiện quyền lực chính trị của mình.
- Một số nhóm lợi ích chính trị tiêu biểu ở các nước tư bản chủ nghĩa: Ở
Anh có: Nhóm lợi ích có tính thể chế (như Hội những quan chức thủ đô, Hội của
những người đồng tỉnh ở Nghị viện); Các tổ chức quốc gia (như Hiệp hội thương
mại; Các tổ chức công đoàn Anh (Liên đoàn công nghiệp Anh; Liên hiệp công
nhân Anh, Liên hiệp công đoàn, Hội các thành viên thương mại Anh).
Ở Mỹ có: Các nhóm thảo luận chính sách (Hội thống đốc toàn quốc, Hiệp
hội toàn quốc các chủ xưởng , Liên hiệp dân sự toàn quốc, Uỷ ban Đại hội, Ban
Hội thảo; Uỷ ban phát triển kinh tế; Hiệp hội các nhà sản xuất quốc gia, Phòng
Thương mại Hoa kỳ, Viện Doanh nghiệp Mỹ); Các tổ chức Công đoàn (Liên đoàn
lao động và đại hội các tổ chức công nghiệp Mỹ, gọi tắt là AFL - CIO); Các tổ
chức phi chính phủ (NGO - hoạt động vì mục đích nhân đạo, cứu trợ, từ thiện, trao
đổi văn hoá - kỹ thuật). Ở Pháp có: Hiệp hội theo nghề nghiệp (Tổng hiệp hội của
những người lao động; Hiệp hội dân chủ lao động Pháp; Liên minh giáo dục quốc
gia); Tổ chức công đoàn (Tổng liên đoàn lao động, Liên đoàn lao động dân chủ,
Liên đoàn giáo dục quốc dân, Tổng liên đoàn viên chức; Hiệp hội của nông dân
(Tổng liên đoàn của những người trồng củ cải...).
- Ở Singapore có Hiệp hội nhân dân Singapore (PA). PA thuộc Bộ phát
triển cộng đồng, thanh niên và thể thao của Chính phủ Singapore. Thủ tướng là
người đứng đầu Hiệp hội và Chủ nhiệm văn phòng chính phủ là Giám đốc điều
hành. Các chức năng hoạt động của PA bao gồm: Tổ chức và thúc đẩy sự tham gia của các
nhóm trong các hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục và thể thao cho người dân của Singapore
nhằm để họ có thể nhận ra rằng họ thuộc về một cộng đồng đa chủng tộc, tôn giáo và lợi ích của
cộng đồng thể hiện qua lòng trung thành của họ đối với hiệp hội. Truyền cho các nhà lãnh đạo
về ý thức của bản sắc dân tộc và tinh thần cống hiến cho một cộng đồng đa chủng tộc; qua đó
thực hiện mục đích đào tạo cán bộ lãnh đạo. Tạo lập sự liên kết cộng đồng và tăng cường sự gắn
kết xã hội giữa những người dân Singapore (giữa các dân tộc, tôn giáo).Là một kênh thông tin
liên lạc giữa các chính phủ cầm quyền và những người dân nhằm mở đường cho chính phủ đáp
ứng tốt hơn quá trình lãnh đạo của mình (cây cầu kết nối Chính phủ và người dân). Thực hiện
các chức năng khác (được dành cho Hiệp hội được quy định trong văn bản pháp luật). Các tổ
chức trong Hiệp hội nhân dân Singapore có thể kể đến là: Ủy ban tư vấn của công dân (CCCs);
Ủy ban Quản lý Câu lạc bộ cộng đồng (CCMCs); Uỷ ban khu dân cư chung (RCs); Ủy ban láng
giềng (NCs); Đoàn thanh niên (YEC); Câu lạc bộ thiếu niên; Câu lạc bộ thể thao cộng đồng
(CSCs) ; Ủy ban cứu trợ khẩn cấp (C2E); Hội phụ nữ (WECs); Hội người cao tuổi (SCEC); Ủy
ban điều hành hoạt động Ấn Độ (IAECs); Ủy ban điều hành hoạt động Malay (MAECs)
Ở nước ta có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội
của nhân dân lao động

Trang 31
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của
hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt
Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động
giữa các thành viên.
+ Các đoàn thể nhân dân(Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được
xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách;
chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội
viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc
sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích
của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh;
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng,
quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước. + Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích
cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn
thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội

II. Xung đột lợi ích và một số cách thức kiểm soát xung đột lợi ích

Hiện nay, khái niệm “xung đột lợi ích” (XĐLI), về cơ bản đã được các quốc
gia, tổ chức quốc tế và giới nghiên cứu đi đến sự thống nhất chung, là “mâu thuẫn
giữa chức trách nhà nước và lợi ích cá nhân của công chức, trong đó công chức có
những lợi ích ở phương diện cá nhân có thể gây ảnh hưởng không phù hợp đến kết
quả thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm công chức của mình”.
Với mục tiêu trở thành một quốc gia thịnh vượng cùng các thể chế hiện đại
vào năm 2035, việc kiểm soát XĐLI là rất quan trọng bởi chính quá trình cải cách
thể chế này sẽ quyết định hình thái nhà nước, thị trường, các quy định và luật lệ
cho thế hệ tiếp theo. Vì vậy, điều kiện tiên quyết hiện nay là phải phân định rõ
ràng ranh giới giữa khu vực công và tư, bảo đảm các quy định kiểm soát XĐLI
được ban hành và thực hiện một cách hiệu quả.
Trang 32
Các chuyên gia cho rằng, những giao dịch bên liên quan có trục lợi thường
là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nhiều doanh nghiệp lớn, phá hủy giá trị cổ
đông và làm mất lòng tin của nhà đầu tư vào tính liêm chính của thị trường. Việc
nhận diện và kiểm soát XĐLI góp phần phòng, ngừa tham nhũng đồng thời tạo
niềm tin của xã hội đối với sự liêm chính của tổ chức, cá nhân.

1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về kiểm soát xung đột lợi ích trong
hoạt động công vụ (khảo sát ở các nước thuộc khối OECD: hợp tác và phát triển
kinh tế)

Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC) tại Khoản 4,
Điều 7 quy định: “Mỗi quốc gia thành viên của công ước, trên cơ sở phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp nước mình, nỗ lực ban hành, duy trì và củng
cố các cơ chế tăng cường minh bạch và phòng ngừa xung đột lợi ích”.

Thứ nhất, kiểm soát về thu nhập và tài sản. Các biện pháp kiểm soát về thu
nhập và tài sản bao gồm các quy định liên quan đến nhận quà tặng, quyền nắm giữ
cổ phần, cổ phiếu trong công ty tư nhân, sở hữu đất đai hoặc bất động sản...
Singapore quy định CBCC phải từ chối mọi món quà được tặng (không giới hạn giá trị,
hình thức quà tặng). Nếu người nào được tặng một món quà của một quan chức đến thăm (quà
mang nghi thức ngoại giao), thì sau đó phải chuyển lại cho người đứng đầu bộ phận của mình.
Giá trị của món quà sẽ được đánh giá và người nhận quà có thể trả tiền nếu muốn giữ. Người
định giá đối với tất cả quà tặng là Tổng kế toán nhà nước. Croatia, Hàn Quốc lại quy định rõ
thế nào là quà tặng, trường hợp nào không được coi là quà tặng. CBCC có thể giữ một món quà
có giá trị tượng trưng và nếu giá trị không vượt quá 500HRK (tiền Coroatia) hoặc trong giới
hạn do Trưởng đơn vị thiết lập (Hàn Quốc). Ngoài ra, ở Hàn Quốc và Coroatia những món quà
CBCC có thể nhận được quy định rõ trong luật.

Các quốc gia đều có quy định về kê khai thu nhập, tài sản. Tuy nhiên, tùy
tình hình thực tế đối tượng mà giá trị tài sản, thu nhập phải kê khai khác nhau. Đối
với việc sở hữu bất động sản, đa số các quốc gia không cấm việc sở hữu bất động
sản nhưng cấm việc sử dụng lợi thế thông tin hay nhận quà để sở hữu bất động
sản.

Thứ hai, hạn chế về các hoạt động kinh doanh. Đa phần các quy định mang
tính chất chung là cấm CBCC tham gia vào kinh doanh hoặc bất kỳ hoạt động nào
có tác động trực tiếp hoặc có thể dự đoán được đối với lợi ích tài chính của họ. Ví
dụ: Hoa Kỳ, Cộng hòa Séc, Italia.

Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia quy định cụ thể những hạn chế về các
hoạt động kinh doanh như Estonia, Anh, Croatia.

Trang 33
Thứ ba, một số hạn chế trong khi đảm nhiệm công vụ. Trong quá trình đảm
nhiệm công vụ, để kiểm soát XĐLI cần kiểm soát việc ra quyết định có ảnh hưởng
đến lợi ích cá nhân của CBCC hay việc CBCC cùng lúc giữ hai vị trí có lợi ích
mâu thuẫn nhau, giúp đỡ người thân, bạn bè được tuyển dụng, làm việc trong khu
vực công hoặc có được các hợp đồng với chính phủ... Đa số các nước đều quy
định cấm hoặc hạn chế CBCC thực hiện một hành động hoặc ra quyết định có liên
quan đến lợi ích cá nhân của CBCC hoặc người có mối liên hệ với CBCC đó
(Estonia, Latvia); không được nắm giữ các vị trí mà cấp dưới (trực tiếp chịu sự
lãnh đạo) là người có quan hệ với mình như vợ chồng, con cháu, quan hệ họ hàng
trong phạm vi 3 hoặc 4 đời (Trung Quốc, Bulgaria, Ba Lan).

Thứ tư, hạn chế sau khi CBCC rời khỏi vị trí công tác. Đa số các quốc gia
đều có quy định hạn chế việc làm liên quan đến các vấn đề có thể xảy ra khi các
công chức rời bỏ khu vực công và trách nhiệm của cơ quan, công chức đối với các
cựu công chức. (Ở Úc, Canada) cam kết khi thôi đảm nhiệm chức vụ sẽ không lợi
dụng thông tin (mà người dân không thể tiếp cận) họ có được khi còn đương. (Ở
Canada, Hoa Kỳ, Mexico) có các quy định cấm, hạn chế về những việc không được
làm sau khi CBCC rời khỏi vị trí công tác hoặc quy định thời hạn (1 hoặc 2 đến 5
năm tùy từng vị trí công tác) đối với những việc công chức ở các vị trí điều hành
không được làm (Mexico, Canada). Ngoài ra một số quốc gia như Hoa Kỳ, Canada,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha quy định đối với một số vị trí, cán bộ phải thông báo các
kế hoạch việc làm trong tương lai và phải được phê duyệt trước khi được bổ nhiệm
vào vị trí mới.

Thứ năm, quy định về công khai; về giám sát và xử phạt. Quy định kê khai
những lợi ích có khả năng xung đột với nhiệm vụ của CBCC, có thể kê khai khi
nhận công việc mới hoặc theo định kỳ. Ngoài ra, khi có tình huống thay đổi có thể
dẫn đến XĐLI thì CBCC phải kịp thời báo cáo lên cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định. Tùy theo chức vụ, vị trí công tác mà bản kê khai này được quản lý
khác nhau. Nội dung kê khai có thể được công khai trong nội bộ hoặc phạm vi
rộng hơn (Pháp, Singapore, Coroatia, Ba Lan...).

Cùng với kê khai là quy định về giám sát trong nội bộ hoặc của xã hội
(người dân, doanh nghiệp, tổ chức, truyền thông) trong giám sát việc chấp hành
pháp luật về kiểm soát XĐLI.

Một trong những biện pháp phòng ngừa là giáo dục, cung cấp thông tin để
CBCC hiểu rõ và thực hiện tốt các quy định chống XĐLI. Các quy định chống

Trang 34
XĐLI được đưa vào bài thi tuyển đầu vào, trong quá trình làm việc hoặc trong
chương trình giáo dục đào tạo (Đức, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc...).

2. Kiểm soát xung đột lợi ích ở Việt Nam hiện nay và những kinh nghiệm
quốc tế có thể tham khảo

Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm XĐLI trong hoạt động công vụ còn khá mới
mẻ, song trong thực tế, đã có một số quy định liên quan đến vấn đề này trong một
số đạo luật như Luật CBCC năm 2008; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005
(sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012), Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hội đồng nhân
dân, Luật Đấu thầu năm 2013, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Kiểm toán năm
2014, Bộ Luật tố tụng dân sự và Bộ Luật tố tụng hình sự 2015, Quyết định số
64/2007/QĐ-TTg ngày 10-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế về việc
tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng
ngân sách nhà nước và của cán bộ công chức... Các biện pháp kiểm soát về thu
nhập và tài sản bao gồm các quy định liên quan đến nhận quà tặng, quyền nắm giữ
cổ phần, cổ phiếu trong công ty tư nhân, sở hữu đất đai hoặc bất động sản... Pháp
luật Việt Nam cũng đã từng bước đặt ra yêu cầu cho CBCC phải báo cáo về những
hoạt động ngoài công việc mà công chức đó đảm nhiệm như các khoản đầu tư bên
ngoài hay tài sản, quà tặng, những thứ có thể gây XĐLI khi họ thực hiện nhiệm vụ
công...

Theo khảo sát gần đây của Worldbank, nhiều biện pháp kiểm soát XĐLI
theo quy định của pháp luật VN còn chưa được thực hiện. Có từ 25% đến 40%
CBCC được hỏi cho rằng cơ quan họ không thực hiện các biện pháp kiểm soát
XĐLI theo quy định. XĐLI và kiểm soát XĐLI chưa được chính thức hóa trong
văn bản pháp luật làm cơ sở nâng cao hiệu quả quản lý công và phòng, chống
tham nhũng. Các tình huống XĐLI xảy ra khá phổ biến, đa dạng và có nguy cơ trở
thành “thông lệ” trong quan hệ công vụ. Và cũng theo khảo sát trên bốn hình thức
XĐLI phổ biến: Tặng/nhận quà (bằng tiền và không bằng tiền); Đầu tư chia sẻ lợi
ích; Sử dụng lợi thế thông tin để vụ lợi; và ra quyết định hoặc tác động có lợi cho
người thân.

Thực tế cho thấy, pháp luật về kiểm soát XĐLI trong hoạt động công vụ ở
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Các quy định pháp luật về kiểm soát
XĐLI đối với CBCC trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ còn rời rạc, chưa đầy đủ,
thiếu tính khả thi. Nhiều quy định chưa thực sự hợp lý, khó áp dụng và đặc biệt là
chưa có cơ chế kiểm soát việc chấp hành, thực thi nên hiệu lực, hiệu quả trong
phòng, chống tham nhũng còn thấp.

Trang 35
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, lâu dài”, “là nhiệm vụ của các cấp ủy đảng, trước hết là người
đứng đầu cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị”. Theo đó, Đảng ta
chủ trương: “Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động
phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi
tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng,
lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí”.

Từ những kinh nghiệm quốc tế nêu trên, Việt Nam có thể tham khảo để
ngăn ngừa, kiểm soát XĐLI:

Thứ nhất, về mặt nhận thức, các quốc gia đều nhận thức rõ tầm quan trọng
có ý nghĩa quyết định của việc cần thiết phải kiểm soát XĐLI trong hoạt động
công vụ. XĐLI nếu không được quản lý, kiểm soát sẽ dẫn đến lạm dụng công vụ,
có thể dẫn đến tham nhũng.

Thứ hai, các quy định về phòng, chống XĐLI cần được ghi nhận thành các
quy định pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phòng, chống tham
nhũng và các quy định khác có liên quan đến kiểm soát XĐLI

Thứ tư, tăng cường, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, CBCC nhà nước. Công khai, minh bạch các hoạt
động của cơ quan nhà nước.

Thứ năm, tăng cường giáo dục, cung cấp thông tin để cán bộ công chức biết
được chính sách, pháp luật về phòng, chống XĐLI đồng thời tự tránh các XĐLI

Trang 36

You might also like