You are on page 1of 121

BỘ CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI HẾT MÔN LÍ LUẬN

Câu 1: Phân tích các đặc trưng cơ bản của nhà nước. Trên cơ sở đó, làm sáng
tỏ biểu hiện một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.

● Khái niệm

Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt bao gồm một lớp người được tách ra
khỏi hoạt động sản xuất, chỉ để chuyên thực thi quyền lực nhằm tổ chức và quản lí
xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm
quyền.

( ví dụ như lực lượng công an, quân đội, cơ quan hành chính.....)

● Đặc điểm của Nhà nước :

Nhà nước có quyền lực đặc biệt :

+ Quyền lực nhà nước là khả năng của nhà nước nhờ đó các cá nhân, tổ chức trong
xã hội phải phục tùng ý chí của nhà nước. “Khả năng” của nhà nước phụ thuộc vào
sức mạnh bạo lực, sức mạnh vật chất, uy tín của nhà nước trong xã hội hay khả năng
vận động quần chúng của nó.

+ Sự đặc biệt được thể hiện ở chỗ, Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho toàn
thể xã hội, vì vậy, quyền lực nhà nước là quyền lực đặc biệt, bao trùm đời sống xh,
chi phối mọi cá nhân, tổ chức trong xh, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống. Đối với
những cá nhân , tổ chức trong xã hội, họ là đối tượng của quyền lực ấy, nên phải
phục tùng ý chí của nhà nước. Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước cũng tồn tại trong
mối quan hệ giữa nhà nước với thành viên, cũng như các cơ quan của nó trong đó
thành viên phải phục tùng tổ chức, cấp dưới phải phục tùng cấp trên.

+ Để thực hiện quyền lực nhà nước, một lớp ng tách ra khỏi hoạt động sx trực tiếp,
tc thành cơ quan khác nhau, mỗi cq chuyên đảm nhiệm những công việc nhất định,
hợp thành BMNN từ trung ương xuống địa phương.
( Hiểu cách đơn giản, Anh A là công dân Việt Nam, do đó chịu sự tác động của
quyền lực nhà nước Việt Nam, Sự phục tùng ý chí được thể hiện thông qua tuân theo
pháp luật, giả dụ A muốn cưới vợ thì phải từ đủ 20 tuổi mới được đăng kí kết hôn....,

Sự phùng tùng cấp trên được thể hiện : Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm
tra, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của
[1]
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới )

Nhà nước thực hiện việc quản lí dân cư theo lãnh thổ

Hiểu đơn giản là nhà nước quản lý dân cư trên một diện tích lãnh thổ nhất định, ở đó
không phân biệt già trẻ gái trai, tôn giáo, đảng phái,giàu nghèo...

- Nhà nước thực thi chủ quyền quốc gia :

+ Nhà nước có quyền lực bao trùm phạm vi lãnh thổ quốc gia, đứng trên mọi cá
nhân, tc trong xh, vì vậy NN là tc duy nhất có đủ tư cách và khả năng đại diện chính
thức và hợp pháp của quốc gia, thay mặt quốc gia dân tộc thực hiện và bảo vệ chủ
quyền quốc gia.

+ Chủ quyền quốc gia mang nội dug chính trị pháp lí, nó thể hiện quyền quyết định
tối cao và độc lập, tự q’ mọi vấn đề đối nội và đối ngoại, ko phụ thuộc vào bất kì cá
nhân, tc nào trong nc cx như các nhà nước khác, các tc quốc tế.

- Nhà nước ban hành pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ quản lí

+ Nhà nc luôn tồn tại trong mqh chặt chẽ vs PL. PL là..., là phg diện đặc biệt quan
trọng để tc và qli xã hội.

+ Do vậy vs tư cách là ng có sứ mệnh tc và qli mọi mặt của đời sống xh, nhà nước
phải sd PL, dựa vào PL. NN là tc duy nhất có quyền ban hành PL, mọi các nhân, tc
trong xh có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện PL một cách khiêm chỉnh.

- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế, phát hành

+ Nhà nước là tổ chức đại diện duy nhất cho toàn thể xã hội, có tình quyền lực đặc
biệt và thực hiện quyền lực trên một bộ phân dân cư lãnh thổ vì vậy nhà nước có
quyền thu thuế và phát hành tiền.
+) Do khái niệm khẳng định nhà nước là một bộ phận tách ra khỏi xã hội để thực
hiện nhiệm vụ, chức năng quản lí xã hội, vì vậy không thể tự mình làm ra của cải, vì
vậy cần có sự đóng góp thuế của nhân dân. Thuế còn đóng góp quan trọng trong
việc phát triển như thuế dùng cho chi các khoản đầu từ phát triển như xây dựng
đường xá, cao tốc,....

Câu 2: Phân biệt Nhà nước CHXHCNVN với Đảng cộng sản VN.

Nhà nước CHXHCNVN là tổ chức quyền lực đặc biệt, như đã phân tích ở câu 1

Đảng CSVN là một trong những tổ chức XH khác hoạt động trên lãnh thổ nước
CHXHCN VN có vai trò khá quan trọng là định hướng đường lối chính sách
cho NN, dù vậy giữa hai tổ chức luôn có sự khác biệt:

Nhà nước CHXHCN VN là tổ chức quyền lực Đảng cộng sản VN là chính đảng duy nhất được
chung của nước CHXHCN VN, vì thế quyền lực phép hoạt động trên đất nước VN, có ảnh hưởng
nhà nước tác động lên mọi các nhân trong xã hội, lón đến sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của
không trừ một ai. Và luôn đc nhấn mạnh là mọi cá quốc gia, nhưng tầm kiểm soát của ĐCSVN chỉ
nhân tổ chức đều bình đẳng khi đứng trước pháp tác động trực tiếp lên các đảng viên. Dĩ nhiên nó
luật, đứng trước quyền lực nhà nước. vẫn có thể tác động gián tiếp vì Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ đảng, các nghị quyết của đại hội đại
biểu toàn quốc; quyết định những chủ trương,
chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần
chúng của đảng là định hướng cho các hoạt độgn
của Nhà nước.

Nhà nước CHXHCNVN tổ chức quản lí dân cư ĐCSVN quản lí đảng viên. Là đảng viên cần
theo lãnh thổ, cụ thể là theo các đơn vị hành chính những tiêu chí như trên 18 tuổi, và người này
. Bộ máy nhà nước phân theo các cấp bậc, và phải thừa nhận và tự nguyện thực hiện các Cương
chính quyền các cấp địa phương nào sẽ quản lí ng lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm
định cư và tạm trú tại địa phương đó vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở
Đảng (Chi bộ, Đảng bộ....) được nhân dân tín
nhiệm, sau đó được giới thiệu kết nạp, thử thách,
sinh hoạt và công nhận chính thức.

Đến nay số lượng đảng viên khoảng 4,5 tr người.


không nhiều so với dân số VN

Nhà nước CHXHCNVN ban hành pháp luật và Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ
quản lí XH bằng Pháp luật. Hơn nữa còn là một cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công
nhà nước pháp quyền XHCN, PL là thượng tôn, nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam,
là công cụ quản lý XH hiệu quả nhất. bên cạnh đó suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của
có cả một hệ thống cơ quan cưỡng chế nn để bảo Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công
đảm PL đc thực thi nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá
nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức
và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân
dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong Đảng. (Điều 1 Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam)

Nguồn xèng: Thuế Nguồn, lệ phí Đảng viên, tài trợ từ các nguồn

Câu 3. Phân loại nhà nước, trình bày khái quát về từng loại nhà nước, cho ví
dụ.

Có rất nhiều cách phân loại nhà nước như:

C1: theo quan điểm sử học, có kiểu nn cổ đại (Lưỡng Hà, La Mã), trung đại (nhà
nước Roma), cận đại (Ottoman, Safavid), hiện đại (Việt Nam).

C2: theo các nền văn minh thì chia thành các kiểu nn nông nghiệp, công nghiệp, văn
minh hậu công nghiệp (văn minh tri thức)

C3: theo cách thức tổ chức quyền lực nn: chuyên chế và dân chủ

C4: địa lý, thành nn phương đông và phương tây, kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, chính
trị,…)

Phân loại nhà nước theo quan điểm hình thái xã hội của chủ nghĩa Mac – Lenin.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lenin tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã
hội có giai cấp là một kiểu nhà nước. Như vậy sẽ có 4 kiểu nhà nước tương ứng
trong lịch sử đó là; nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
1. Nhà nước chủ nô:

Cơ sở kinh tế: Quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ. Hai giai cấp chủ yếu: Chủ nô, Nô
lệ. Tư liệu sx của XH hầu hết đều nằm trong tay chủ nô, nô lệ có địa vị thấp kém và
bị coi như tài sản sở hữu của chủ nô. Ở một số quốc gia phương Đông, khi nhà nước
xuất hiện thì vẫn đan xen chế độ thị tộc. Nên QH XH chủ yếu trong XH là quan hệ
giữa nn và các thành viên công xã nông thôn, nô lệ là số ít hơn, thành viên công xã
nông thôn vẫn tự do, và đc chia ruộng đất, ph nộp tô thuế cho nhà nước.

NN chủ nô tồn tại và phát triển trong điều kiện đối kháng gay gắt giữa giai cấp chủ
nô và nô lệ cho nên nhất định nó phải bị diệt vong, nhường chỗ cho một kiểu nhà
nước mới từng bước hình thành, nn phong kiến.

VD: Ai Cập, Hi Lạp

2. Nhà nước phong kiến:

Cơ sở KT: Quan hệ sx phong kiến mà đặc trưng là sở hữu của điạ chủ, bóc lột thông
qua phát canh, thu tô. Các giai cấp trong xã hội: Địa chủ, Nông dân, thợ thủ công,
thị dân.

Nông dân là bộ phận đông đảo nhất trong xã hội phong kiến, đồng thời cũng là đối
tượng bị bóc lột hết sức nặng nề, do vậy đấu tranh giai cấp trong XH thường xuyên
xảy ra.

Nông dân có những người có ruộng đất canh tác trên đất của họ, nộp thuế cho nhà
nước, ng không có ruộng thì lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, sau đó phải nộp cả địa
tô cả thuế.

Tồn tại tình trạng phân phong đất, khiến quyền hành của các chúa đất địa chủ lên
quá cao, dẫn tới k phục tùng trung ương.

Tiến hành nhiều cuộc chinh phạt nhằm mục đích chiếm đoạt lợi ích.

VD: Đại Việt, Anh

3. Nhà nước tư bản:

Cơ sở KT: quan hệ sx tư bản chủ nghĩa mà cốt yếu là giữa nhà tư bản và công nhân.

Cơ sở XH: quan hệ giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội, cốt lõi là quan hệ giữa
giai cấp tư sản và vô sản.
Tư liệu sản xuất rất đa dạng nhưng đều thuộc trong tay gc tư bản, những ng công
nhân phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để kiếm sống.

gc tư bản khi mới xuất hiện thì là giai cấp tiến bộ nhưng nó nhanh chóng rộ rõ bản
chất là giai cấp có tính chất phản độgn, khi bóc lột, áp bức giai cấp vô sản. Một bộ
giai câp công nhân nắm giữ cổ phần nhất định dần trở thành tầng lớp công nhân
thượng lưu và dễ thỏa hiệp với gia cấp tư sản.

Ngày nay nhà nước tư sản vẫn là công cụ phục vụ giai cấp tư sản, nhưng đã hướng
đến việc bảo đảm dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.

VD: Mỹ, Đức

4. Nhà nước XHCN:

Cơ sở KT: Quan hệ sx XHCN mà đặc trng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

Cơ sở XH: mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong XH, trong đó nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức

hiện nay chưa có dấu hiệu sụp đổ của chủ nghĩa tư bản vì cntb vẫn có thể dựa vào
của cải đồ sộ cướp bóc bấy nhiêu thế kỉ nay để giúp vượt qua khủng hoảng. nhưng
căn cứ vào quá trình phát triển của XH đều dựa vào quá trình xã hội hóa tư liệu sản
xuất để giải phóng con ng. Vậy nên có thể đi đến kết luận là xã hội tất sẽ đi đến việc
công hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, và tất yếu sẽ đi đến nn xhcn và sau đó ko cần
nn nữa…

VD: Việt Nam, Triều Tiên

Câu 4. Trình bày khái niệm bản chất nhà nước. Phân tích ý nghĩa của vấn đề
bản chất nhà nước.

● Bản chất nhà nước: là tổng hợp những mặt, những mối liên hệ, những thuộc
tính tất nhiên, tương đối ổn định bên trong của nhà nước, quy định sự tồn tại, phát
triển của nhà nước.
● Các thuộc tính của bản chất nhà nước: tính giai cấp, tính xã hội
● Tính giai cấp: Ở phương diện này nhà nước là công cụ bảo vệ lợi ích cho các
giai tầng trong XH, mà chủ yếu là của giai cấp thống trị, thực hiện các mục đích mà
giai cấp thống trị đề ra.
● + Về kinh tế : Nhà nước bảo vệ giai cấp thống trị về kinh tế (hay nhà nước bảo
vệ lợi ích kinh tế cho giai cấp thống trị ). Đó là bảo vệ quyền sở hữu, bảo vệ sự bóc
lột của giai cấp thống trị với giai cấp bị trị về kte, trừng phạt những hành vi xâm
phạm lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị.

+ Về chính trị : Nhà nước bảo vệ địa vị cầm quyền cho giai cấp thống trị, nhà nước
chống lại sự phản kháng của giai cấp bị trị đối với giai cấp thống trị

+ Về tư tưởng : Nhà nước thừa nhận, xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
thành hệ tư tưởng thống trị xã hội. Nhà nước áp đặt xã hội phải nghe theo, phải làm
theo như sử dụng trường học, tôn giáo,...

=> Nhà nước luôn thể hiện là công cụ để duy trì sự thống trị của gc có của (gc thống
trị), bảo vệ lợi ích của gc thống trị trong điều kiện có đối kháng giai cấp.

* Sự vận động, biến đổi tính giai cấp trong từng kiểu nhà nước :

+ Nhà nước chủ nô, phong kiến tính đối giai cấp lớn => tính giai cấp sâu sắc.

+ Nhà nước tư sản tính đối kháng giai cấp thấp hơn => tính giai cấp giảm

+ Nhà nước XHCN: tính giai cấp mang sắc thái mới (gc vô sản trở thành gc thống
trị, nắm trong tay quyền lực, ko có mục đích dùng NN để duy trì mãi địa vị thống trị
của mình, mà để cải tạo xh cũ, xd xh mới, xóa bỏ sự áp bức, bóc lột và sự thống trị
gc)

Tính xã hội của Nhà nước:

- Ở phương diện xã hội, nhà nước là một tổ chức của xh, được sinh ra từ xh để
duy trì, quản lí xh khi xh đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Xh muốn tồn tại
ổn định, có trật tự và phát triển thì đòi hỏi phải có sự tổ chức và quản lí chặt chẽ,
nếu ko xh sẽ hỗn loạn.

- Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xh, nhà nước ở mức độ này hay mức độ
khác phải có trách nhiệm xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ bản, lâu dài của
quốc gia, dân tộc và công dân mình; phải tập hợp và huy động mọi tầng lớp trong xh
vào việc thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kte, văn hóa,
xh; duy trì trật tự xh và giải quyết những vấn đề phát sinh trong nước và quốc tế; tạo
đk cho các lĩnh vực hđ của xh được tiến hành bình thg, có hiệu quả, giúp xh phát
triển vì lợi ích chung của cả cộng đồng, đưa lại cs ấm no, hạnh phúc cho mỗi thành
viên và cả cộng đồng.
- Nhà nước là tổ chức quyền lực công, tc nhân danh xh để thực hiện việc quản lí
xh, nhà nước ko thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của gc thống trị mà ko tính đến
lợi ích, nguyện vọng của các gc, các lực lượng khác trong xh.

- Mặc dù được sinh ra, tồn tại trong lòng xh nhưng nhà nước có vị trí đặc biệt
trong xh, nó tựa hồ như đứng trên xh, đại diện cho cả xh để giải quyết những công
việc mang tính xh:

+ Nhà nước chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống lại sự xâm
phạm đến lãnh thổ, chủ quyền QG.

+ Nhà nước phòng chống thiên tai

+ Nhà nước bảo đảm trật tự an toàn xh

+ Nhà nước tổ chức quản lí các lĩnh vực của đời sống xh để phát triển kte,vh
– xh. Trong đk hiện nay, nhà nước còn nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nd.

+ Nhà nước đảm bảo an sinh xh

+ Nhà nước XHCN còn đảm bảo công bằng, dân chủ, tự do, bình đẳng cho
toàn xh, bảo vệ quyền con ng, giá trị con ng, giải phóng con ng khỏi áp bức bất
công, con ng có đk để phát huy toàn diện.

● Ý nghĩa của vấn đề bản chất nhà nước:


● Vấn đề bản chất nhà nước luôn là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong tất cả
những vấn đề về nhà nước. Bởi vì nó liên quan tới lợi ích chính trị của giai cấp
thống trị.
● Nội dung khái niệm bản chất của nhà nước chỉ ra nhà nước đó của ai, do ai, vì ai.
Nếu hiểu được ra như thế nào thì mới phân tích đúng bản chất của nó.
● Việc tìm hiểu bản chất của nhà nước không chỉ có ý nghĩa nhận thức lý luận mà
còn có giá trị thực tiễn to lớn, nhất là đối với nhà nước VN ta hiện nay trong việc
hoạch định các chính sách, pháp luật phù hợp với thực tế và ý nguyện của nhân dân.
● *Vai trò:
● Trước hết, việc nắm vững bản chất nhà nước ta góp phần làm cho sinh
viên hiểu và thêm yêu chế độ của đất nước ta. Từ đó củng cố niềm tin vào nhà
nước, vào chế độ và vào tương lai của đất nước. Đây là tiền đề quan trọng cho
sự phát triển những giá trị của dân tộc về sau.
● Tiếp đó,việc nắm vững bản chất của nhà nước tạo những điều kiện cần
thiết cho sinh viên phát huy quyền hợp pháp và làm tròn nghĩa vụ của công
dân đối với đất nước và toàn xã hội. Từ đây sinh viên có thể bằng chính năng
lực và khả năng sáng tạo của mình tham gia vào các hoạt động kinh tế, sáng
tạo những giá trị văn hóa mới vừa mang tính hiện đại vừa thấm nhuần nền văn
hóa dân tộc, tạo nên một nét đẹp hài hòa mang đậm dấu ấn riêng.
● Góp phần nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm và ý thức thực hiện nghĩa
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc của công dân; mà trước hết đối với sinh viên
đó là ra sức học tập và công tác tốt tạo tiền đề tri thức cho sự phát triển đất
nước bền vững trong tương lai.
● Và đề cao cảnh giác, ý thức giai cấp đấu tranh làm thất bại âm mưu xuyên
tạc bản chất ưu việt của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ví
dụ: Khi chúng ta hiểu rõ bản chất của nhà nước Việt Nam là nhà nước dân
chủ nhà nước ủa dân do dân vì dân thì lúc này chúng ta sẽ không bị lung lay
niềm tin vào nhà nước. Khi mà các thế lực thù địch họ tuyên truyền chống
phá nói về nhà nước ta là nhà nước phản dân dân chủ....
● Và hơn hết, chính việc năm vững bản chất nhà nước ta và nhận thức được
tầm ưu việt của nó sẽ đó tạo niềm tin cho thế hệ trẻ một xã hội “dân chủ–
công bằng – văn minh - tiến bộ” trong tương lai không xa, từ đó tạo tâm thế
vũng vàng cho sự nghiệp cống hiến vì tương lai dân tộc, vì mong mỏi của Bác
Hồ kính yêu là dân tộc ta “sánh vai với các cường quốc năm châu” trên thế
giới.

Câu 5. Phân tích sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp của nhà nước.
Trình bày ảnh hưởng của nó trong việc thực hiện chức năng nhà nước Việt
Nam hiện nay.

*Định nghĩa: Tính xã hội, tính giai cấp

*Sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp của nhà nước: Tính giai cấp và tính
xã hội là thuộc tính chung của nhà nước. Tính xã hội, xét trong mối quan hệ với tính
giai cấp là sự thể hiện thống nhất của khái niệm bản chất nhà nước bởi nó thể hiện
sự thống nhất của xã hội về ý chí, lợi ích. Trên thực tế, ko có nhà nước nào chỉ có
một thuộc tính này mà ko có thuộc tính kia hoặc ngược lại. Điều đó có nghĩa là ko
có nhà nước nào chỉ quan tâm đến lợi ích và bảo đảm điều kiện tồn tại cho giai cấp
cầm quyền mà phủ nhận hoặc từ chối những điều kiện sống của giai cấp khác cùng
tồn tại trong xã hội. Mặt khác cũng cần nhận thấy là tương quan giữa hai thuộc tính
đó cũng ko mang tính ổn định, nó có thể thay đổi do nhiều nguyên nhân đem lại, tùy
vào điều kiện và nhận thức của lực lượng cầm quyền. Chẳng hạn, các nhà nước chủ
nô, phong kiến và nhà nước tư sản ở một số giai đoạn phát triển của nó thì tính giai
cấp thể hiện công khai và rõ rệt hơn nhiều so với tính xã hội, tính xã hội thể hiện rất
mờ nhạt và hạn chế. Với nhà nước tư sản ở giai đoạn hiện nay, tính xã hội của nó đã
thể hiện rộng rãi và rõ rệt hơn so với các giai đoạn trước. Ở nhiều nhà đương đại,
tính xã hội của chúng thể hiện tương đối rõ. Nhiều nhà nước ngày nay đã cố gắng
bảo đảm công bằng xã hội, chúng trọng phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ
thuật, y tế, bảo trợ xã hội, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội thông qua
quy định mức lương tối thiểu cho người lao động, lương hưu và chế độ thuế thu
nhập lũy tiến để điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, trợ cấp thất nghiệp cho
người lao động, phòng và chống các căn bệnh thế kỷ, hỗ trợ và khuyến khích người
nghèo phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sống… Nhà nước ngày nay được coi
như người chịu trách nhiệm chính trong việc phòng ngừa, giải quyết hậu quả của
những rủi ro trong xã hội, bảo đảm sự đoàn kết xã hội và sự phổ biến tri thức. Nhà
nước XHCN là kiểu nhà nước có tính xã hội rộng rãi và rõ rệt nhất bởi lẽ nó luôn
luôn bảo vệ lợi ích của đại đa số dân cư là những người lao động trong xã hội. Nhà
nước CHXNCN Việt Nam sẽ là một nhà nước như vậy.

6. Phân tích vai trò xã hội của Nhà nước CHXHCNVN hiện nay. Hiện nay,
vai trò xã hội của Nhà nước CHXHCNVN biểu hiện đậm nét, cụ thể: 1. Nhà
nước CHXHCNVN thay mặt nhân dân, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ
bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc: Điều này được thể hiện rõ trong Hiến
pháp của nước CHXHCNVN năm 2013. Nhà nước CHXHCNVN hiện nay
đang thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ bảo vệ các lợi ích lâu dài của quốc
gia dân tộc như: chủ quyền quốc gia, chú trọng đào tạo, phát triển con
người, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc… Một số điểm đáng chú ý có thể kể
đến như: Nhà nước tích cực đấu tranh trên mặt trận ngoại giao để bảo vệ
chủ quyền biển đảo thiêng liêng, bất khả xâm phạm của 2 quần đảo là
Hoàng Sa và Trường Sa bằng cách lên tiếng phản đối, kêu gọi ủng hộ của
cộng đồng quốc tế trong vấn đề biển Đông, thúc đẩy sự phát triển của
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông COC…; Nhà nước chú trọng
phát triển giáo dục, tạo điều kiện để trẻ em được hưởng nền giáo dục tốt
nhất có thể, nhất là những trẻ em ở những vùng biên giới, hải đảo…; Nhà
nước CHXHCNVN tích cực bảo tồn các giá trị di sản văn hoá phi vật thể
như ca trù, nhã nhạc cung đình Huế…;
2. Nhà nước CHXHCNVN thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân, đầu tư và
phát triển văn hoá - xã hội, từ đó hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: có thể thấy, Nhà nước ta có chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài
ra, Nhà nước ta tích cực hợp tác quốc tế, tham gia ký kết các hiệp định
thương mại tự do nhằm đẩy mạnh đầu tư nước ngoài, thúc đẩy kinh tế phát
triển, tạo điều kiện cho đất nước vươn lên về mọi mặt, nâng cao đời sống
nhân dân;
3. Tập hợp mọi tầng lớp trong xã hội vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, duy trì trật tự xã hội: Dân tộc ta là một dân
tộc đoàn kết, từ xưa tới nay, tinh thần đoàn kết luôn được các nhà nước
trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của Việt Nam nhận thức và vun đắp.
Trong thời đại mới, tinh thần đoàn kết cũng được Nhà nước CHXHCNVN
phát huy trên mọi phương diện nhằm giúp đất nước phát triển đồng đều,
toàn diện.
4. Nhà nước CHXHCNVN hiện nay đã, đang và không ngừng đảm bảo quyền
làm chủ mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích
quốc gia, dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã
hội, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công. Trong Hiến pháp nước
CHXHCNVN, Nhà nước ta luôn định hướng phát triển theo hướng “Nhà
nước của dân, do dân, vì dân”, quyền lợi của người dân được Nhà nước ta
đặt lên hàng đầu, biểu hiện rõ ràng là đợt dịch Covid-19 năm 2020, Nhà
nước thậm chí tạm thời quên đi việc phát triển kinh tế để dập dịch, đảm bảo
sức khỏe, tính mạng cho nhân dân. Nhà nước ta được Chính phủ rất nhiều
nước trên thế giới khen ngợi và bày tỏ sự ngưỡng mộ với tinh thần vì nhân
dân của mình. Thêm vào đó, Nhà nước quan tâm đến các thành phần yếu
thế trong xã hội, hỗ trợ, giúp đỡ, bảo trợ họ.

Câu 7. Trình bày sự hiểu biết của anh/chị về nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Theo anh (chị), làm thế nào để một nhà nước thực sự là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Khái niệm

Nhà nước của nhân dân

+ Là nhà nước trong đó dân là chủ, dân làm chủ, dân là người có địa vị cao
nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nc. Ví dụ cơ chế dân chủ
gián tiếp thông qua các đại biểu quốc hội bỏ phiếu về những vấn đề quan trọng của
đất nước.
+ Dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, do đó ng cầm quyền, cán bộ công
chức nhà nước chỉ là ng được dân ủy quyền có điều kiện và có thời hạn để gánh vác,
giải quyết những công việc chung của đất nước.

Nhà nước do nhân dân:

+ Do nhân dân đấu tranh cách mạng

+ Do nhân dân bầu ra : nhân dân là ng tổ chức nên cq nhà nước từ Trung
ương xuống địa phương thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp,
bỏ phiếu kín để lựa chọn những ng đủ tiêu chuẩn bầu vào cq nhà nước.

+ Do dân trao quyền cho họ

+ Do dân kiểm tra, giám sát

+ Do dân đóng góp ý kiến : ( có thể kể tới như đóng góp ý kiến trong các dự
thảo luật, ....)

+ Do dân nuôi dưỡng

+ Do dân đóng góp trí tuệ, sức ng, sức của, sức mạnh nhà nước là do dân

+ Những vấn đề quan trọng của đất nước do nhân dân quyết định 🡪 nhà nước
dân chủ

Nhà nước vì nhân dân

+ Tất cả mọi chính sách, pháp luật, hoạt động, mọi cố gắng của nhà nước đều
vì lợi ích của nd, phục vụ nd.

+ Nhà nước phải biết kết hợp điều chỉnh các lợi ích khác nhau giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xh

● Theo anh (chị), làm thế nào để một nhà nước thực sự là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
● Tiếp tục cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước một cách toàn diện, sâu sắc, triệt
để theo hướng nhà nước pháp quyền.
● Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đạt được các tiêu chuẩn toàn diện, đồng
bộ, khoa học, thực tiễn.
● Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật một cách đầy đủ,
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Câu 8. Trình bày sự hiểu biết của anh/chị về nhà nước dân chủ. Theo anh/chị,
làm thế nào để một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi.

● Dân chủ là chế độ chính trị trong đó toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, do dân thực hiện trưc tiếp hoặc thông qua đại diện do dân bầu ra.
● Dân chủ gồm có các dạng: dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp, hoặc dân chủ nửa
trực tiếp. Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của hình thức quản lý của chế độ
dân chủ là thiết lập và duy trì nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số” và thừa nhận
quyền tự do trong chính kiến và bình đẳng về giới tính, về dân tộc, về chính trị xã
hội của công dân.
● Dân chủ ở nước ta được thể hiện, mở rộng và có cơ chế để đảm bảo thực hiện
trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, hệ thống pháp luật, tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước. Dân chủ thực sự về kinh tế thể hiện qua cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho mọi công dân phát huy được quyền tự chủ
của mình trong sản xuất, kinh doanh. Mọi công dân có quyền lao động và hưởng
thành quả lao động theo năng lực và sự đóng góp của mình, có quyền tự do kinh
doanh, sản xuất, đầu tư… Nhà nước còn có những chính sách thiết thực để khuyến
khích người dân phát triển kinh tế, làm cho dân giàu, nước mạnh. Trong lĩnh vực
chính trị, dân chủ thể hiện rõ nét qua các quy định được nêu lên trong các bản hiến
pháp: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Quyền
lực nhà nước thuộc về toàn dân chứ không hề nằm trong tay một tổ chức, một nhóm
hay một cá nhân nào. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình qua 2 hình thức:
trực tiếp và gián tiếp. Nhân dân có quyền tố cáo, khiếu nại những người có hành vi
vi phạm pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong lĩnh vực tôn
giáo, công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, nhà nước cũng
nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xúi giục, kích động
và lôi kéo nhân dân làm việc trái pháp luật. Ngoài ra, dân chủ còn thể hiện ở quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại, tự do cư trú, có quyền học tập, khám
chữa bệnh và đặc biệt là quyền được thể hiện chính kiến của bản thân về việc xây
dựng nhà nước và xã hội Việt Nam.

Câu 9. Trình bày khái niệm chức năng nhà nước. Phân tích ý nghĩa của việc
xác định và thực hiện chức năng nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản, phù hợp với bản chất,
mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước trong những giai đoạn phát triển của nó. Hiểu một cách đơn
giản hơn, chức năng nhà nước là những việc nhà nước phải làm và nhà nước có
thể làm được, những công việc đó gắn liền với tính chất vốn có, sự tồn tại và
phát triển của nhà nước. Như vậy, chức năng của nhà nước là mặt hoạt động cơ
bản, thường xuyên và ổn định của nó.
Chức năng nhà nước có một số đặc điểm sau:

1. Chức năng nhà nước luôn phản ánh bản chất nhà nước: Có thể nói, bản chất
như nào thì biểu hiện như thế. Một biểu hiện rõ ràng rằng không một nhà
nước theo khuynh hướng dân chủ nào lại có những chính sách pháp luật
phản dân chủ, hay không nhà nước nào mang bản chất phản dân chủ lại thi
hành những chính sách cho phép người dân tham gia vào quá trình quản lý
nhà nước. VD: Nhà nước XHCN mang bản chất là nhà nước của dân, do
dân, vì dân nên các chức năng như kinh tế, giáo dục, khoa học - kỹ thuật là
những chức năng phổ biến của nhà nước này.
2. Chức năng nhà nước phụ thuộc vào nhiệm vụ cơ bản của nhà nước: Giữa
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác
biệt, vừa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của nhà nước là
những công việc đặt ra đòi hỏi nhà nước phải giải quyết theo những mục
tiêu đã định sẵn. Nhà nước có hai loại nhiệm vụ là nhiệm vụ cơ bản, chiến
lược, lâu dài và nhiệm vụ trước mắt, cấp bách. Ví dụ, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tất
cả các chức năng của nhà nước ta đều được xác định và thực hiện nhằm
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Nhiệm vụ trước mắt, cấp bách là
những công việc mà nhà nước phải giải quyết trong ngắn hạn, ngay lập tức
để thực hiện một chức năng nào đó của nhà nước, do vậy, nhiệm vụ trước
mắt, cấp bách có phạm vi hẹp hơn so với chức năng nhà nước, được xác
định nhằm thực hiện chức năng, do chức năng quyết định. VD: nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật môi trường của các doanh
nghiệp hiện nay được xác định và thực hiện nhằm thực hiện chức năng quản
lý môi trường của nhà nước.
3. Chức năng nhà nước có tính lịch sử: Chức năng nhà nước là một phạm trù
mang tính lịch sử bởi ở mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển khác nhau thì nhà
nước sẽ thực hiện những chức năng khác nhau. Ví dụ: Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ có chức năng
chính là phát triển kinh tế, bảo vệ tổ quốc là chủ yếu. Tuy nhiên, Nhà nước
CHXHCNVN hiện nay lại có chức năng chính liên quan tới điều hành và
quản lý kinh tế, phát triển văn hoá, giáo dục… Không phải trong giai đoạn
hiện nay thì nhà nước không thực hiện chức năng bảo vệ Tổ quốc, tuy
nhiên, giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ thì chức năng này được
thực hiện một cách mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn.

Phân tích ý nghĩa của việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước trong giai
đoạn hiện nay.

● Xác định đúng chức năng của nhà nước sẽ giúp cho nhà nước ta tìm ra được
những phương thức để thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra.

Ví dụ: Hai nhiệm vụ chiến lược của NNVN hiện nay là xây dựng thành công CNXH
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN đang quyết định số lượng, nội dung, hình thức,
phương pháp thực hiện các chức năng đối nội và các chức năng đối ngoại của nhà
nước ta.

● Việc thực hiện một chức năng của nhà nước cũng nhằm giải quyết nhiều nhiệm
vụ cụ thể.

Ví dụ: Nhà nước VN hiện nay đang thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN nhằm đảm bảo sự ổn định lương thực trong nước và xuất khẩu gạo.

Câu 10. Các yếu tố ảnh hưởng đến chức năng nhà nước.

1. Định nghĩa:

Chức năng nn là những mặt hoạt động cơ bản của nn phù hợp với bản chất, mục
đích, nhiệm vụ của nn và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
trong mỗi giai đoạn phát triển của nó

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chức năng nhà nước.

- Điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ phát triển của nó.
+ Thực tế cho thấy, nn phải làm gì, làm ntn, điều đó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của đất nước, do đó, các nn khác nhau có thể có chức năng khác
nhau. VD, chức năng của nnpk VN trước đây khác với chức năng của nn
CHXHCNVN hiện nay.

+ Trong một nn cụ thể, ở các giai đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng,
tầm quan trọng của mỗi chức năng, nội dung, cách thức thực hiện từng chức năng
cũng có thể khác. VD, trước năm 1986, quản lý, bảo vệ môi trường chưa phải là
chức năng của nn ta nhưng hiện nay nó trở thành chức năng có tầm quan trọng đặc
biệt và ko thể thiểu. Hoặc, thiết lập và phát triển các mqh ngoại giao, hữu nghị và
hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế là chức năng ko thể thiếu của nn đương đại.

- Bản chất của nn

+ VD, với bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp địa chủ, quý tộc PK và bộ
máy quản lý xh nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự của xhpk nên chức năng đàn áp và
nô dịch nông dân bằng quân sự và về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nước
khác khi có điều kiện,… là chức năng phổ biến của các nnpk

+ Với bản chất là nn của nd, do nd, vì nd, và là bộ máy chuyên chính vô sản, các
chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục,
KHKT… là chức năng phổ biến của các nn XHCN

- Mục tiêu, nhiệm vụ của nn

Nhiệm vụ của nn là những công việc đặt ra đòi hỏi nn phải giải quyết theo những
mục tiêu đã định sẵn. Nn có 2 loại nv là nv cơ bản, chiến lược, lâu dài và nv trước
mắt, cấp bách

+ Nv chiến lược, lâu dài là những vấn đề nhà nước phải giải quyết trong suốt chặng
đường phát triển của đất nước. Nv chiến lược, lâu dài, cơ bản được thực hiện thông
qua chức năng nn nên chức năng nn có phạm vi hẹp hơn so với nhiệm vụ chiến lược
của nn và có vai trò quyết định đối với việc xác định và thực hiện chức năng nn.
VD, trong quá trình xây dựng CNXH, nn VN có 2 nv chiến lược là xây dựng Tổ
quốc XHCN và bảo vệ Tổ quốc XHCH, tất cả các chức năng của nn ta đều được xác
định và thực hiện nhằm thực hiện hai nv chiến lược này.

+ Nv trước mắt, cấp bách là công việc mà nn phải giải quyết trong ngắn hạn, ngay
lập tức để thực hiện một chức năng nào đó của nn, do vậy, nhiệm vụ trước mắt, cấp
bách có phạm vi hẹp hơn so với chức năng nn, được xác định nhằm thực hiện chức
năng, do chức năng quyết định. VD, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện PL
môi trường của các doanh nghiệp hiện nay được xác định và thực hiện nhằm thực
hiện chức năng quản lý môi trường của nn.

- Hoàn cảnh quốc tế

Câu 11: Phân tích những yêu cầu, đòi hỏi chức năng của nhà nước Việt Nam
hiện nay (số lượng chức năng, nội dung chức năng, phương pháp thực hiện
chức năng)

Trong quá trình ngày nay Việt Nam đang tiến đến xây dựng chủ nghĩa xã hội, NN ta
có hai nhiệm vụ chính là xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. vì
thế các chức năng được xác định dựa trên các nhiệm vụ chiến lược này.

-số lượng các chức năng: 5

+chức năng kinh tế

+chức năng xã hội: bve trật tự PL quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức trong XH.

+chức năng bảo vệ tổ quốc: bảo vệ đất nước, quan hệ với các nước khác.

-nội dung Cn, ngày một đa dạng phong phú,

*Kinh tế:

CN quan trọng nhất là tổ chức KT và quản lí KT

-thừa nhận sự tồn tại của các thành phần KT

-đề cao vai trò chủ đạo của NN trong việc quản lý điều hành nền KT quốc dân

-tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh buôn bán

-chính sách ưu tiên cho các ngành nghề lợi nhuận thấp, quan tâm các địa phương có
điều kiện KT tự nhiên đặc biệt

-sử dụng công cụ tiền tệ để làm đòn bẩy kích thích pt KT

*Xã hội:

Văn hóa: Bảo tồn, phát huy giá trị VH phi vật thể, bảo vệ tôn tạo di tích VH.
giáo dục: tiến hành cải cách giáo dục toàn diện pp học, phổ cập giáo dục; chú trọng
đãi ngộ với giáo viên

KHCN: đầu tư cho KT,CN; xd cơ sở nghiên cứu KH; bồi dưỡng người làm ctac
nghiên cứu

Tôn giáo: chính sách dân tộc tôn giáo hợp lý đảm bảo phát triển hài hòa mọi vùng
miền trong cả nước

Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai.

*chức năng bảo vệ PL, nhà nước vn luôn chú trọng hoạt độgn bảo vệ lợi ích hợp
pháo của các cá nhân tổ chức trong xh.

*CN bảo vệ đất nước: củng cố nền quốc phòng toàn dân , xd lực lượng quân đội
chính quy hiện đại , trung thành với tổ quốc

-phương pháp thực hiện các chức năng:

khác với phương thức n hé, phương thức là bao gồm hình thức thực hiện: xây dựng
pl, tổ chức thực hiện pháp luật, tổ chức bảo vệ pl.

còn đây là phương pháp: thuyết phục và cưỡng chế.

-thuyết phục: dùng lời nói để thuyết trình, giảng giải, chứng minh, phân tích, nhằm
tạo ra sự phục tùng tự giác của giác của đối tượng thuyết phục đối với chủ thể đi
thuyết phục.

-cưỡng chế: bắt buộc bằng bạo lực để bắt đối tượng phải làm gì hoặc phải chịu trách
nhiệm đối với hành vi vi phạm của mình

-phương pháp kinh tế:

-phương pháp hành chính

Câu 12: Phân tích ý nghĩa của hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp đối với
việc thực hiện chức năng nhà nước

Hoạt động của 3 nhánh cơ quan này có vai trò ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
việc thực hiện chức năng nhà nước.
- Lập pháp: Cơ quan lập pháp thay mặt nhà nước thực hiện chức năng ban hành
pháp luật, do đó ý nghĩa của việc này vô cùng quan trọng bởi vì nhà nước muốn
hoàn thành nhiệm vụ quản lý trật tự xã hội thì phải dùng pháp luật. Mà việc ban
hành pháp luật được giao cho cơ quan lập pháp chứng tỏ vai trò, tầm quan trọng của
cơ quan này là điều kiện tiên quyết, quyết định việc một nhà nước có hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của mình hay không.

- Hành pháp: Cơ quan này giúp nhà nước quản lí xã hội trên mọi lĩnh vực, bằng
nhiều phương thức, hình thức quản lí khác nhau. Thông qua đó, nhà nước hoàn
thành chức năng quản lí xã hội, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm
quyền thông qua các hoạt động của cơ quan hành pháp trên tất cả mọi lĩnh vực của
đời sống.

- Tư pháp: nhà nước còn có chức năng giáo dục, răn đe và loại bỏ các chủ thể
vi phạm ra khỏi đời sống xã hội. Mặt khác, nhà nước còn là tổ chức làm chức năng
phân xử, trả lại quyền lợi và công bằng cho công dân, giúp công dân giải quyết các
vấn đề nảy sinh hàng ngày. Nhưng bản thân nhà nước không được trực tiếp thực
hiện chức năng này mà trao quyền cho ngành tư pháp, ngành tư pháp thay mặt nhà
nước hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ nêu trên.

Dù dưới bình diện góc độ nào đi nữa, thì một nhà nước muốn hoàn thành chức năng
nhiệm vụ của mình thì phải thông qua 3 cơ quan này. Do đó, ý nghĩa của 3 cơ quan
này đối với vấn đề hoàn thành chức năng nhà nước là vô cùng to lớn.

Câu 13: Phân tích vai trò của bộ máy nhà nước đối với việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước

a) Định nghĩa

Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương,
được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước.

Chức năng nn là…

b) Vai trò

Bộ máy nhà nước được thành lập thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, khi
nhà nước cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, nhà nước thành lập ra các
cơ quan tương ứng để thực hiện chức năng ấy. Chính vì vậy, quy mô, cơ cấu của
BMNN, cách thức hoạt động từng cơ quan nhà nước chịu sự chi phối của chức năng
nhà nước. Ví dụ, nếu chức năng của nhà nước là trấn áp thì trong bộ máy nhà nước
các cơ quan cưỡng chế, trấn áp là chủ yếu và được coi trọng nhất. Ngược lại, nếu
chức năng của Nhà nước chủ yếu là tổ chức và quản lí kinh tế- xã hội thì trong
BMNN cũng chủ yếu bao gồm các cơ quan quản lí, các lĩnh vực của đời sóng xã
hội.

- Chức năng của nhà nước càng nhiều, càng đa dạng, phong phú thì bộ máy nhà
nước càng đồ sộ, phức tạp, số lượng nhân viên trong bộ máy nhà nước cũng đông
hơn và cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước càng
phải khoa học và hợp lí hơn. Ví dụ hiện nay chức năng của nhà nước Việt Nam đa
dạng hơn, quy mô cũng lớn hơn thời phong kiến thì đồng thời BMNN cũng phức tạp
hơn để đảm nhận thực hiện các chức năng ấy.
- Do được thành lập để thực hiện chức năng của nhà nước nên hiệu quả thực
hiện chức năng nhà nước lại phụ thuộc vào sự hợp lí trong tổ chức và hiệu quả hoạt
động của BMNN. Nếu BMNN được tổ chức hợp lí, phù hợp với chức năng, hoạt
động có hiệu quả thì hiệu quả thực hiện các chức năng của nhà nước sẽ cao và
ngược lại, nếu tổ chức của bộ máy nhà nước k hợp lí, hoạt động của BMNN kém
hiệu quả thì hiệu quả thực hiện chức năng nhà nước sẽ thấp.

Câu 14: Phân tích mối quan hệ giữa bộ máy nhà nước và chức năng nhà nước
của Nhà nước Việt Nam hiện nay

- Chức năng nhà nước chi phối BMNN, chức năng nào thì bộ máy đó, chức
năng phức tạp thì bộ máy cồng kềnh, thêm chức năng thì phải thay đổi bộ máy. Bộ
máy nhà nước được thiết lập để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, khi
nhà nước cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, nhà nước thành lập ra các
cơ quan tương ứng để thực hiện chức năng ấy.

Chẳng hạn trong vấn đề ô nhiễm môi trường, Nhà nước phải thành lập ra cơ quan
quản lí và bảo vệ môi trường để xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về môi
trường, kiểm tra và giám sát việc thực hiện pháp luật bải vệ môi trường của các chủ
thể, phát hiện và xử lí các chủ thể vi phạm, gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, trong
chính phủ có 18 bộ, bộ là các cơ quản quản lí nhà nước cấp trung ương, chịu trách
nhiệm thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác
trong phạm vi cả nước. Mỗi bộ đảm nhiệm lãnh đạo, hoạch định đường lối chính
sách trong lĩnh vực riêng, chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội. Hay lĩnh
vực khoa học công nghệ để bắt kịp thời đại công nghệ 4.0,...

- Hiện nay, đời sống xã hội ngày một phức tạp, chức năng của Nhà nước không
chỉ mở rộng về số lượng mà cả quy mô, tính chất vì vậy càng đòi hỏi bộ máy nhà
nước chặt chẽ, thống nhất, tính đồng bộ cao, hoạt động có hiệu quả, đồng thời hình
thành bộ máy được tinh giản, gọn nhẹ. Ở Việt Nam hiện nay đang đẩy mạnh quá
trình “tự vận động, tự chuyển hóa”, đào thải các cán bộ tham nhũng, quan liêu, sinh
lợi trên mồ hôi máu và nước mắt của nhân dân, thoái hóa biến chất và tiến hành tinh
giản biên chế, lược bỏ những bộ phận cồng kềnh, trùng lặp, chồng chéo chức năng.
- Hoạt động của bộ máy nhà nước quy định việc thực hiện có hiệu quả các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước. Một khi các cơ quan được tổ chức một cách khoa
học, có sự phối hợp nhịp nhàng, công việc hành chính trở nên gọn nhẹ hơn. Tuy
nhiên ở Việt Nam hiện nay, BMNN còn hết sức cồng kềnh, thủ tục nặng nề, đẩy
mạnh tinh giản cán bộ công nhân, viên chức biên chế trong bộ máy nhà nước nhưng
chưa đi đến hiệu quả. Một điều cần nhận thấy là khi bộ máy Nhà nước hoạt động trở
nên công kềnh sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội.

Câu 15: Phân tích khái niệm cơ quan nhà nước, phân biệt cơ quan nhà nước
với bộ phận khác của Nhà nước

CQNN Bộ phận khác của Nhà nước

Cơ quan Nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy


Là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước,
Nhà nước, là tổ chức (cá nhân) mang quyền lực Nhà
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập
nước được thành lập và có thẩm quyền theo quy định
theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
của Pháp luật nhằm thực hiện nhiệm vụ và chức năng
cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước
của Nhà nước.

VD: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án,...


- Mang tính quyền lực Nhà nước; -Không mang quyền lực nhà nước, không có chức
năng quản lý nhà nước như: Xây dựng thể chế, thanh
- Nhân danh Nhà nước để thực thi quyền lực Nhà nước;
tra, xử lý vi phạm hành chính… Các đơn vị sự nghiệp
công lập bình đẳng với các tổ chức, cá nhân trong
- Trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan Nhà quan hệ cung cấp dịch vụ công.
nước có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
hoặc văn bản áp dụng pháp luật; - Được thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội theo
-Giám sát thực hiện các văn bản mà mình ban hành; trình tự, thủ tục pháp luật quy định;

-Có quyền thực hiện biện pháp cưỡng chế khi cần thiết;
- Là bộ phận cấu thành trong tổ chức bộ máy của cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
-Thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có những giới
xã hội;
hạn về không gian (lãnh thổ), về thời gian có hiệu lực,
về đối tượng chịu sự tác động. Thẩm quyền của cơ quan
- Có tư cách pháp nhân;
phụ thuộc vào địa vị pháp lý của nó trong bộ máy nhà
nước. Giới hạn thẩm quyền của cơ quan nhà nước- Cung là cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước;
giới hạn pháp lý vì được pháp luật quy định.
- Viên chức là lực lượng lao động chủ yếu, bảo đảm
-Mỗi cơ quan nhà nước có hình thức và phương phápcho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
hoạt động riêng do pháp luật quy định.
Căn cứ vào hình thức thực hiện quyền lực: Căn cứ vào quyền tự chủ:

-Cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội là cơ quan


- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ
quyền lực cao nhất; HĐND là cơ quan quyền lực ởhoàn
địa toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức
phương; bộ máy, nhân sự;

-Cơ quan hành chính Nhà nước: Chính phủ, các Bộ,-Đơn
cơ vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, các UBND
chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ
cấp tỉnh, huyện và các cơ quan chuyên môn thuộcchức bộ máy, nhân sự .
UBND.
Căn cứ vào cơ quan
-Cơ quan tư pháp: Tòa án, Viện kiểm sát;
Căn cứ vào vị trí pháp lý:
Căn cứ vào trình tự thành lập:
- Đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Cơ quan Nhà nước do dân bầu ra;
-Đơn vị thuộc Tổng cục, Cục;
Cơ quan Nhà nước không do dân bầu ra.
-Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Căn cứ vào tính chất thẩm quyền:
-Đơn vị thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chung; dân cấp tỉnh;

Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn. -Đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Căn cứ vào cấp độ thẩm quyền: Căn cứ vào lĩnh vực:

Cơ quan Nhà nước ở Trung ương; - Đơn vị hoạt động Y tế;

Cơ quan Nhà nước ở địa phương. - Đơn vị hoạt động Giáo dục;

- Đơn vị hoạt động Thông tin báo chí;

- Đơn vị hoạt động Nghiên cứu ứng dụng;

-…

Câu 16: Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc đảm bảo chủ quyền nhân
dân trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước

Muốn tc và hđ có hiệu quả, BMNN phải đc tc và hđ theo những nguyên tắc nhất
định.
1. Định nghĩa

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN là những nguyên lí, những tư tưởng
chỉ đạo, tạo thành cơ sở cho tc và hđ của từng cq, bộ phận của nhà nước nói riêng và
toàn thể Bmnn nói chung.

2. Nguyên tắc đảm bảo chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động
bộ máy nhà nước

Chủ quyền trong xh thuộc về nd. Nd là ng chủ tối cao của đất nước, là ng
thành lập ra NN, là chủ thể tối cao của quyền lực NN, trao quyền cho NN và kiểm
tra, giám sát hđ của NN. Nd có quyền quyết định tối cao các vấn đề quan trọng của
đnc, nhà nước phải phục tùng các quyết định của nd.

- Trong đó nhà nước đảm bảo cho nhân dân :

+ Tham gia đông đảo và tích cực vào việc tc và lập ra BMNN (nd bầu ra cq
đại diện)

+ Tham gia đông đảo vào việc quản lí các công việc của NN và quyết định
những vde trọng đại của đnc như : Thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các vb
pháp luật quan trọng, các kế hoạch phát triển kte, vh, xh,... của nn; bỏ phiếu khi NN
tc trưng cầu dân ý; thông qua các tc đoàn thể xh để trình dự án luật..

+ Thực hiện việc ktra, giám sát hđ của các cq NN, nhân viên nn, các tc và cá
nhân khác đc trao nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để quản lí một số công việc của
nhà nước.

Nhìn chung Hp và pháp luật của các quốc gia trên TG đều quy định chủ quyền thuộc
về nd; quy định các hình thức để nd tham gia tổ chức và hđ của BMNN; quy định
vtri, vtro của cq dân cử trong BMNN; quy định những vấn đề quan trọng của đất
nước mà nhà nc ko đc tự ý quyết định, nhà nc phải trưng cầu ý kiến nd; quy định
trách nhiệm của NN trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con
ng, quyền công dân; quy định vtro của xh dân sự...

3. Giá trị: Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước- đây là một giá trị to
lớn. Như vậy, quyền lực nhà nước như là một bản khế ước xã hội, do nhân dân ủy
nhiệm, trao quyền cho nhà nước, vì vậy Nhà nước k phải là đứng trên, đứng ngoài
nhân dân, không phải là bộ máy cai trị nhân dân mà là công cụ phục vụ nhân dân
trong phạm vi ủy nhiệm quyền. Nd có quyền thay đổi nhà nước khi không còn xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nói cách khác, Nhà nước phải phục tùng nhân
dân.

Câu 17: Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc BMNN được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật

Muốn tc và hđ có hiệu quả, BMNN phải đc tc và hđ theo những nguyên tắc nhất
định.

1. Định nghĩa

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN là những nguyên lí, những tư tưởng
chỉ đạo, tạo thành cơ sở cho tc và hđ của từng cq, bộ phận của nhà nước nói riêng và
toàn thể Bmnn nói chung.

2. Nguyên tắc BMNN được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật

Đây là nguyên tắc đòi hỏi việc tc và hđ của BMNN ko thể đc tiến hành 1 cách tùy
tiện, độc đoán theo ý chí cá nhân của ng cầm quyền mà phải dựa trên các quy định
của Hiến pháp và pháp luật.

HP và hệ thống pháp luật đều quy định khá đầy đủ về cơ cấu tc BMNN, trình
tự thành lập, chức năng, thẩm quyền... của cq, nhân viên nhà nước.

- Về mặt tổ chức, nguyên tắc này đòi hỏi việc thành lập mới, giải thể, chia
tách, sáp nhập một cq nhà nước, cơ cấu của nó, vấn đề tuyển dụng, bổ nhiệm các
thành viên trong cq đó...

- Về mặt hoạt động, nguyên tắc này đòi hỏi các cq và nhân viên NN phải thực
hiện đúng đắn, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, theo đúng trình
tự, thủ tục đã đc Hiến pháp và pháp luật quy định...

3. Giá trị

Pháp luật trở thành công lí của thời đại – đây là một giá trị lớn. Không giống trước
đây khi PL là công cụ của kẻ mạnh để cai trị nhân dân thì bây h pháp luật hướng tới
các tiêu chí của hệ thống pháp luật tiến bộ, dân chủ, công bằng. Pháp luật không còn
là công cụ của riêng nhà nước, điều chỉnh qhxh theo ý hí chủ quan của nhà nước mà
là sự kết tinh những giá trị xã hội cao quý nhằm mang lại lợi ích tốt cho nhân dân.
Quá trình xây dựng pháp luật có sự tham gia của toàn thể nhân dân để đảm bảo pháp
luật thể hiện ý chí chung của nhân dân. Pháp luật thừa nhận và hướng tới đảm bảo
tốt nhất quyền con người, quyền công dân, hướng tới đảm bảo công bằng xã hội vì
vậy nó thực sự trở thành chuẩn mực chung được mọi người thừa nhận. Các quy định
trong pháp luật được xây dựng trên cơ sở đảm bảo hài hòa giữa lợi ích cá nhân,
nhóm xã hội với lợi ích chung toàn xã hội. Hoạt động áp dụng pháp luật cũng được
tiến hành trên cơ sở và nguyên tắc bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, tự do cá
nhân và bình đẳng trong xã hội.

Mặt khác, khi Pháp luật thực sự dân chủ, công bằng, tiến bộ, khả thi sẽ dẫn
đến lối sống tôn trọng pháp luật trở nên thịnh hành. Trong đó ý thức thượng tôn
pháp luật được đảm bảo

Đây cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước ở Việt Nam ta hiện nay. Điều này được ghi nhận trong Hiến pháp.
Tại điều 8 Hiến pháp 2013 quy định: “ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”.

Câu 18: Phân tích nội dung và giá trị của nguyên tắc phân quyền trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

Tư tưởng phân quyền ra đời sớm và phát triển mạnh mẽ nhất ở các nước tư sản. Ở
đó, quyền lập pháp được trao cho nghị viện , quyền hành pháp được trao cho chính
phủ, quyền tư pháp được trao cho tòa án. Pháp luật dự liệu ba cơ quan trên có thể
độc lập thực hiện tốt chức năng của mình, vừa có thể phối hợp hoạt động với nhau
nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước và đảm bảo tốt quyền con người, quyền
công dân.

1. Định nghĩa

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bmnn là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ
đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở cho toàn bộ quá trình tổ chức và
hoạt động của bmnn

2. Nguyên tắc phân quyền

Là nguyên tắc cơ bản, quan trọng bậc nhất trong tổ chức và hoạt động của nhà nước
tư sản
Nguyên tắc này bao gồm những nd cơ bản

- Quyền lực nn được phân chia thành nhiều loại quyền khác nhau như quyền lập,
hành, tư pháp và được trao cho các cqnn khác nhau thực hiện một cách độc lập, mỗi
cơ quan chỉ thực hiện một quyền đề đảm bảo ko một cơ quan nào nắm trọn vẹn
quyền lực nn, cũng như ko một cơ quan nào có thể lấn sang hoạt động của cơ quan
khác.

Sự phân chia quyền lực = sự phân định một cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cqnn + đảm bảo sự chuyên môn hóa trong việc thực hiện quyền
lực nn

Các cq lập/hành/tư pháp đều thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở PL.

- Giữa các cq lập/hành/tư pháp có sự kiềm chế, đối trọng với nhau theo phương
châm ko cq nào nằm ngoài sự kiểm soát, giám sát từ phía cq khác nhằm ngăn ngừa
tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán hoặc thiếu trách nhiệm trong việc
thực hiện quyền lực nn, qua đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
cá nhân, tổ chức trong xã hội cũng như có thể tránh đc những mối nguy hại khác. Sự
kiểm soát, giám sát lẫn nhau giữa các cq lập/hành/tư pháp cũng thể hiện sự phối hợp
với nhau nhằm tạo nên sự thống nhất của quyền lực nn.

Ở các nước tư bản, tùy vào đk kt-xh cụ thể, việc áp dụng ko hoàn toàn giống

3 mô hình: cứng rắn, mềm dẻo, hỗn hợp

VD: phân quyền cứng rắn: Mẽo ; phân quyền mềm dẻo: Pháp

Câu 19: Phân tích các giải pháp hoàn thiện BMNN VN hiện nay

- Đổi mới cơ cấu tổ chức BMNN, đổi mới cách thức, trình tự tổ chức các CQNN.
Việc thiết kế BMNN phải chú ý sự khác biệt giữa các vùng, miền trong cả nước,
tránh áp dụng một mô hình chung cho toàn quốc. Giảm bớt số lượng các CQNN,
đặc biệt các cơ quan địa phương theo hướng mở rộng quy mô của các đơn vị hành
chính, nhất là cấp huyện và cấp xã. Công tác bầu cử, thi tuyển, bổ nhiệm… phải
thực sự dân chủ, khách quan, khoa học, tránh hình thức, đảm bảo lựa chọn đúng
người có năng lực và phẩm chất. Lôi cuốn sự tham gia thực sự và đông đảo của
nhân dân vào tổ chức và hoạt động của BMNN, đảm bảo để mọi người đều thực sự
quan tâm đến quyền bầu cử, ứng cử của mình.
- Đổi mới, nâng cao vai trò của từng CQNN. Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp,
chủ động trong hoạt động của hệ thống cơ quan đại biểu nhân dân. Quốc Hội phải
trở nên hoạt động thường xuyên. Nâng cao vai trò của Chính phủ với tính chất là cơ
quan thực hiện quyền hành pháp. Đảm bảo Tòa án hoạt động thực sự độc lập và chỉ
tuân theo PL. Nâng cao vai trò của chính quyền cấp cơ sở…

- Tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí để làm trong sạch bộ máy
nhà nước..

- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà cho nhân dân,
bảo đảm, bảo vệ quyền con ngườ, quyền công dân làm cho chính quyền thực sự gần
với nhân dân.

- Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ của đội ngũ công nhân viên chức.

Câu 20: Phân biệt nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang thông qua những
ví dụ cụ thể về 2 dạng cấu trúc nhà nước này

Nhà nước đơn nhất Nhà nước liên bang

Hệ thống nhà Có một hệ thống cq nhà nước từ trung Cả nước tồn tại nhiều hệ thống chính
nước ương tới địa phương. quyền

Lãnh thổ Một lãnh thổ quốc gia thống nhất chia theo Nhiều nhà nước đơn nhất liên kết lại
đơn vị hành chính các cấp với nhau

Chủ quyền Chủ quyền quốc gia do chính quyền trung Chủ quyền quốc gia vừa do chính
quốc gia ương nắm giữ quyền liên bang vừa do chính quyền
bang nắm giữ.
Chính quyền địa phương là những đơn vị
hành chính lãnh thổ ko có chủ quyền
Sự phân chia Có một hệ thống cơ quan quản lí Có sự phân chia quyền lực giữa chính
quyền lực quyền liên bang và chính quyền bang,
Chính quyền trung ương có quyền lập sự phân chia này có thể diễn ra trên một
pháp, hành pháp, tư pháp trên toàn bộ lãnh hoặc cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp,
thổ quốc gia tư pháp.

Cá bang tự tổ chức chính quyền của


bang mình, tự ban hành pháp luật cho
bang mình
Quan hệ giữa chính quyền trung ương với
chính quyền địa phg là quan hệ giữa cấp
trên và cấp dưới

Pháp luật Cả nước có một hệ thống pháp luật Nhiều hệ thống pháp luật tồn tại song
song

Nhà nước đơn nhất: CXHCN Việt Nam

- Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất về mặt lãnh thổ, địa giới hành chính.

- Chủ quyền của nhà nước Việt Nam là thống nhất và toàn vẹn.

- Hệ thống pháp luật ở Việt Nam chỉ dùng môt hệ thống pháp luật duy nhất.

- Hệ thống cơ quan ở VN dùng một hệ thống cơ quan duy nhất.

Nhà nước liên bang: Hợp Chủng Quốc Hoa Kì

- Hoa Kì thì lãnh thổ được thành lập từ nhiều bang khác nhau.

- Mỹ thì mỗi bang có một chủ quyền riêng trên lãnh thổ của bang mình.

- Ở Mỹ mỗi bang có một hệ thống pháp luật riêng.

- Hệ thống cơ quan ở Mỹ thì sẽ có sự khác nhau ở mỗi bang.


Câu 21: Cho biết ý kiến cá nhân về những ưu việt và hạn chế của chính thể
quân chủ và chính thể cộng hòa.

Chính thể quân chủ Chính thể cộng hòa

Ưu - Chế độ quân chủ còn có vai trò ổn - Cách thức lập ra cơ quan là bầu cử
định đất nước bằng cách chuyển giao nên sẽ khách quan.
quyền lực từ từ
- Nhiều người cùng giải quyết vấn đề
- Sự tồn tại duy nhất của một vị vua của đất nước thì sẽ có cái nhìn toàn
thường là điều duy nhất để giữ gìn diện, đa chiều và dễ giải quyết hơn.
đất nước trước thảm họa nội chiến
- Đối với cộng hòa dân chủ vì do tầng
- Chế độ quân chủ có thể ngăn chặn lớp nhân dân bầu cử nên rất gần dân,
sự hình thành các chính phủ cực là đại diện cho dân và giải quyết các
đoan bằng cách điều chỉnh “nhân sự” vấn đề dựa trên tâm tư nguyện vọng
của chính phủ( đối với chính thể quân của người dân.
chủ lập hiến)

- Chế độ quân chủ hoàn toàn đủ


danh vọng và uy tín để thực hiện
những quyết định khó khăn nhất cho
đất nước mà không một chế độ nào
làm được.

Nhược - Vận mệnh quốc gia khó có thể đặt - Cơ quan đại diện gồm nhiều con
lên vai một người( hoặc một nhóm người nên không thể tránh khỏi tình
người nhỏ đối với chế độ quân chủ trạng mất đoàn kết nội bộ từ đó quyền
hạn chế) vì con người luôn có khiếm lực rất khó kiểm soát và thay đổi nhiều.
khuyết.
- Do là cơ quan đại diện của nhiều
- Vị trí người đứng đầu là “cha truyền người nên mỗi khi một quyết định được
con nối” nên quyền lực bị tập trung về đưa ra sẽ mất nhiều thời gian để hợp
một gia tộc không thể tránh khỏi việc pháp hóa nhưng sẽ không có tính đồng
lạm quyền nên mọi công việc của đất bộ cao.
nước được giải quyết một cách chủ
quan và đôi khi là thiếu hợp lí

Câu 22. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hình thức nhà nước.
a) Định nghĩa:

Hình thức nn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và phương pháp thực
hiện quyền lực nhà nước

Hình thức chính thể là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao nhất của
quyền lực nhà nước, xác lập mqh giữa cq đó với cq cấp cao khác và với nhân dân.

- Chính thể quân chủ là chính thể mà trong đó quyền lực tối cao của nhà
nước tập trung toàn bộ hoặc một phần vào tay một cá nhân (vua, quốc vương,...)
theo phương thức cha truyền con nối.

- Chính thể cộng hòa là chính thể mà trong đó quyền lực cao nhất của nhà nước
thuộc về cơ quan đại diện của nhân dân được thành lập theo phương thức bầu
cử.

Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo các
đơn vị hành chính- lãnh thổ và xác lập mqh giữa các cấp chính quyền nhà nước
với nhau.

- Nhà nước đơn nhất là nhà nước trong thành phần cấu tạo của nó chỉ có các
đơn vị hành chính lãnh thổ (như vùng, bộ, khu vực, tỉnh,...) , ko có đơn vị là các
tổ chức nhà nước mang và thực hiện chủ quyền.

- Nhà nước liên bang là nhà nước được tạo thành từ nhiều bang (những đơn vị
lãnh thổ có dấu hiệu của một nhà nước) thành viên.

Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp mà nhà nước sử dụng để thực hiện
quyền lực nhà nước.

- Dân chủ là chế độ chính trị mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức,
hoạt động của các chính quyền nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng của nhà nước.

+ Nhà nước sử dụng các phương pháp dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của BMNN.

+ Nhà nước thừa nhận , bảo đảm, bảo vệ các quyền tự do chính trị của nhân
dân.

+ Hoạt động của nhà nước được thực hiện một cách công khai
+ Phương pháp giáo dục thuyết phục được coi trọng

- Phản dân chủ là chế độ chính trị mà

+ Nhà nước sử dụng cách thức, thủ đoạn chuyên quyền, độc đoán trong tổ
chức và hđ của BMNN

+ Các quyền, tự do chính trị của nhân dân ko được nhà nước thừa nhận hoặc
bị hạn chế , bị chà đạp

+ Phương pháp cưỡng chế được chú trọng

+ Sử dụng bạo lực một cách phi pháp, che đậy, bưng bít các hđ cần phải công
khai, minh bạch của nhà nước...

b) Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hình thức nn

- Điều kiện kt-xh của đất nước: Như hàng nghìn năm về trước trình độ xã hội
thấp kém nên hình thức nhà nước quân chủ phổ biến và chưa có sự xuất hiện
của chính thể cộng hòa. Còn ngày nay khi xã hội phát triển cao, dân trí nâng cao
thì ngược lại.

-Tương quan lực lượng giữa các giai cấp

- Các lực lượng xã hội

- Phong tục tập quán

- Đặc điểm tâm lí

- Truyền thống dân tộc

- Xu thế của thời đại

- Yếu tố kinh tế: Kinh tế là kiến trúc hạ tầng, quyết định đến kết cấu thượng tầng là
chế độ chính trị, hình thức nhà nước. Bản chất và đặc điểm của quan hệ kinh tế,
quan hệ sở hữu thuộc điều kiện kinh tế ở mỗi nước khác nhau thì sẽ quyết định đến
hình thức nhà nước.

- Yếu tố xã hội: Vấn đề này khá rộng, đó là các yếu tố như mâu thuẫn giai cấp, trình
độ phát triển của xã hội... cũng ảnh hưởng đến hình thức nhà nước. Như hàng nghìn
năm về trước trình độ xã hội thấp kém nên hình thức nhà nước quân chủ phổ biến và
chưa có sự xuất hiện của chính thể cộng hòa. Còn ngày nay khi xã hội phát triển
cao, dân trí nâng cao thì ngược lại.

- Lịch sử nhà nước đó: Chủ yếu là ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh.

Câu 23: Phân tích vị trí, vai trò đặc biệt của nhà nước trong hệ thống chính trị.
Trình bày ý nghĩa của việc xác định vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống
chính trị

1. Định nghĩa

Hệ thống chính trị là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội có quan hệ mật
thiết với nhau, tồn tại và hoạt động nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của
toàn xã hội, đồng thời, bảo vệ lợi ích, thực hiện mục đích của các lực lượng
chính trị - xã hội khác nhau trong xã hội.

Khái niệm nhà nước

2. Vị trí, vai trò đặc biệt của nhà nước trong hệ thống chính trị

Trong hệ thống chính tri của các quốc gia trên thế giới hiện nay, nhà nươc giữ
vị trí trung tâm, có sự liên hệ, tác động qua lại đối với tất cả các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị. Nhà nước được xem là nơi hội tụ đời sống chính trị xã
hội.

Nhà nước có vai trò chủ đạo, đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định trong
hệ thống chính trị. Nhà nước quyết định bản chất, đặc trưng, quá trình tồn tại và
phát triển của cả hệ thống chính trị. Nhà nước có thể làm xuất hiện thêm hoặc
làm mất đi một tổ chức nào đó trong hệ thống chính trị.

Nguyên nhân do nhà nước có những ưu thế đặc biệt quan trọng:

- So với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, nhà nước được xây
dựng, bảo vệ, củng cố, phát triển trên nền tảng XH rộng lớn nhất. Nhờ đó, nhà
nước có khả năng và điều kiện triển khai thực hiện pháp luật cũng như các chủ
trương chính sách của nó một cách hiệu quả nhất.

- Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức, hợp pháp cho toàn thể xh,
nhân danh XH để thực hiện việc tổ chức và quản lí hầu hết các mặt của đời sống
XH. Tư cách địa vị của nhà nước đã tạo cho nhà nước một vị thế vững chắc để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

- Nhà nước có quyền lực công khai, bao trùm toàn xh, quyền lực nhà
nước có phạm vi tác động rộng lớn nhất so với quyền lực của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị. Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước có bộ máy
hùng mạnh nhất, bao gồm đội ngũ công chức đông đảo được tổ chức chặt chẽ từ
trung ương xuống địa phương, đc vận hành theo những nguyên tắc, quy định
thống nhất và thông xuyên, tạo thành hệ thống thống nhất và đồng bộ cùng thực
hiện quyền lực nhà nước.

- Nhà nước có pháp luật công cụ quản lí xh hiệu quả nhất.

+ Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với
tất cả mọi ng. Pl do nhà nc ban hành và bảo đảm thực hiện bằng tất cả sức mạnh
của mình trong đó có sức mạnh cưỡng chế.

+ Thông qua hđ xd Pl, nhà nước thiết lập một hệ thống quy phạm
pháp luật mang tính bắt buộc chung đối với toàn xh.

+ Các tc khác trong HTCT ko có quyền ban hành pháp luật. Chỉ trong
những trường hợp đc Pl quy định, các tc đó ms có quyền đưa ra sáng kiến Pl
trình cq nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê chuẩn.

+ Nhà nước sd toàn bộ sức mạnh vật chất, tinh thần của mình để tc thực
hiện Pl và bảo vệ Pl. Khi cần thiết nhà nước sd sức mạnh bạo lực của mình để
bảo đảm cho PL dcd thực hiện nghiêm chỉnh trong cs.

- Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn, vì vậy nhà nước có đủ các
phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Với
tư cách là tc đại diện cho toàn xh, nhà nước có thể trở thành chủ sở hữu những
tư liệu sx quan trọng nhất của xh. Mặt khác, nhà nước có quyền đặt ra và thu
các loại thuế, nhờ đó nhà nước có nguồn lực vật chất to lớn ko những có khả
năng bảo đảm sự hđ bình thường của mình mà còn có thể có sự hỗ trợ các tc
thành viên khác của HTCT.

- Nhà nước là tổ chức duy nhất trong HTCT mang chủ quyền quốc gia.
Đặc tính này thể hiện ở chỗ, Nhà nước có quyền quyết định và thực hiện các
sách đối nội, đối ngoại của mình, ko lệ thuộc vào ý chí từ bên ngoài; có quyền
nhân danh cả quốc gia và toàn thể dân tộc trong qhe đối ngoại và là chủ thể của
công pháp quốc tế. Những mqh quốc tế về chính trị và kinh tế làm cho nhà nc
càng nổi bật hơn trong HTCT, giúp nó củng cố và nâng cao vị trí, vai trò của
mình trong HTCT.

3. Ý nghĩa

+ Việc xác định rõ vai trò , vị trí của nhà nước cho chúng ta thấy được tầm quan
trọng của nhà nước trong hệ thống chính trị

+ Khẳng định vị thế, quyền lực của nhà nước là tối cao với hệ thống chính trị.

Câu 24: Phân tích ưu thế của Nhà nước so với các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, liên hệ thực tế Việt Nam

1. Định nghĩa

Hệ thống chính trị là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội có quan hệ mật
thiết với nhau, tồn tại và hoạt động nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của
toàn xã hội, đồng thời, bảo vệ lợi ích, thực hiện mục đích của các lực lượng
chính trị - xã hội khác nhau trong xã hội.

Khái niệm nhà nước

2. Những ưu thế của nn

- So với các tc khác trong hệ thống chính trị, nhà nước đc xd, bảo vệ, củng cố,
phát triển trên nền tảng xh rộng lớn nhất. Nhờ đó, nhà nước có khả năng và
điều kiện triển khai thực hiện pháp luật cũng như các chủ trương chính sách của
nó một cách hiệu quả nhất.

- Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức, hợp pháp cho toàn thể xh,
nhân danh xh đê thực hiện việc tc và quản lí hầu hết các mặt của đời sống xh.
Tư cách địa vị của nhà nước đã tạo cho nhà nước một vị thế vững chắc để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

- Nhà nước có quyền lực công khai, bao trùm toàn xh, quyền lực nhà
nước có phạm vi tác động rộng lớn nhất so với quyền lực của các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị. Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước có bộ máy
hùng mạnh nhất, bao gồm đội ngũ công chức đông đảo được tổ chức chặt chẽ từ
trung ương xuống địa phương, đc vận hành theo những nguyên tắc, quy định
thống nhất và thông xuyên, tạo thành hệ thống thống nhất và đồng bộ cùng thực
hiện quyền lực nhà nước.

- Nhà nước có pháp luật công cụ quản lí xh hiệu quả nhất.

+ Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với
tất cả mọi ng. Pl do nhà nc ban hành và bảo đảm thực hiện bằng tất cả sức mạnh
của mình trong đó có sức mạnh cưỡng chế.

+ Thông qua hđ xd Pl, nhà nước thiết lập một hệ thống quy phạm
pháp luật mang tính bắt buộc chung đối vs toàn xh.

+ Các tc khác trong HTCT ko có quyền ban hành pháp luật. Chỉ trong
những trường hợp đc Pl quy định, các tc đó ms có quyền đưa ra sáng kiến Pl
trình cq nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê chuẩn.

+ Nhà nước sd toàn bộ sức mạnh vật chất, tinh thần của mình để tc thực
hiện Pl và bảo vệ Pl. Khi cần thiết nhà nước sd sức mạnh bạo lực của mình để
bảo đảm cho PL dcd thực hiện nghiêm chỉnh trong cs.

- Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn, vì vậy nhà nước có đủ các
phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Với
tư cách là tc đại diện cho toàn xh, nhà nước có thể trở thành chủ sở hữu những
tư liệu sx quan trọng nhất của xh. Mặt khác, nhà nước có quyền đặt ra và thu
các loại thuế, nhờ đó nhà nước có nguồn lực vật chất to lớn ko những có khả
năng bảo đảm sự hđ bình thg của mình mà còn có thể có sự hỗ trợ các tc thành
viên khác của HTCT.

- Nhà nước là tổ chức duy nhất trong HTCT mang chủ quyền quốc gia.
Đặc tính này thể hiện ở chỗ, Nhà nước có quyền quyết định và thực hiện các
sách đối nội, đối ngoại của mình, ko lệ thuộc vào ý chí từ bên ngoài; có quyền
nhân danh cả quốc gia và toàn thể dân tộc trong qhe đối ngoại và là chủ thể của
công pháp quốc tế. Những mqh quốc tế về chính trị và kinh tế làm cho nhà nc
càng nổi bật hơn trong HTCT, giúp nó củng cố và nâng cao vị trí, vai trò của
mình trong HTCT.

Câu 25. Phân tích mối quan hệ giữa nhà nước CHXHCN Việt Nam với Đảng
cộng sản Việt Nam. Ý nghĩa của mối quan hệ này trong tổ chức, quản lí xã hội
hiện nay.
- Hệ thống chính trị: Từ góc độ nghiên cứu cơ cấu, chức năng của hệ thống
chính trị, có thể được định nghĩa là tổng thể các tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội trực tiếp nắm giữ, tham gia thực thi quyền lực dưới sự lãnh đạo của
một đảng cầm quyền hoặc liên minh đảng cầm quyền.
- Mối quan hệ giữa Nhà nước CHXHCN Việt Nam với Đảng cộng sản Việt
Nam được thể hiện qua vai trò của chúng đối với nhau:

Đảng đối với Nhà nước:

Đảng cộng sản VN đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo của Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa VN. Đảng lãnh đạo một cách toàn diện từ tổ chức đến các hoạt động của
nhà nước.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện nay được thể hiện ở những hoạt
động sau:

✔ Hoạch định đường lối, chiến lược về đối nội, đối ngoại để nhà nước
thể chế hóa thành pháp luật.
✔ Chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật của nhà nước.
✔ Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của mình trong các tầng
lớp nhân dân, các đảng pháp đối lập khác.
✔ Vận động nhân dân ủng hộ và thực hiện đường lối, chính sách đối nội,
đối ngoại của mình.
✔ Chỉ đạo hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của nhà nước.
✔ Lãnh đạo việc cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với
yêu cầu thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại trong tình hình mới ở trong
nước và trên thế giới.
✔ Đảng đề cử, lựa chọn người có tài ứng cử vào những vị trí chủ chốt
trong bộ máy nhà nước.
✔ Đảng lãnh đạo bằng việc giáo dục, thuyết phục, nêu gương các Đảng
viên của mình.

Nhà nước đối với Đảng:

✔ Nhà nước là phương tiện quan trọng nhất để đưa đường lối, chính
sách của Đảng vào cuộc sống thông qua 3 hình thức hoạt động chủ yếu là:
Xây dựng pháp luật, Tổ chức thực hiện pháp luật, Bảo vệ pháp luật.
✔ Bên cạnh đó, nhà nước còn tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lí,
vật chất, tinh thần cho Đảng hoạt động và bảo vệ uy tín, danh dự, sinh mệnh
của Đảng trước âm mưu và hành động phá hoại của thế lực thù địch.

Trong tổ chức và quản lí xã hội ngày nay, ý nghĩa của mối quan hệ này là hết sức
quan trọng, nhất là với điều kiện một đàng cầm quyền như ở nước ta. Việc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng trên cơ sở phân định rõ chức
năng của đôi bên có ý nghĩa giúp cả hai cùng phát huy hết hiệu lực trong công việc
nhưng Nhà nước vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng, còn Đảng vẫn chỉ đạo tận tình
nhưng không làm thay Nhà nước

Câu 26: Phân tích yêu cầu đòi hỏi với pháp luật trong nhà nước pháp quyền

- Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. -(note: vai trò đặt trong mối quan hệ với
các chủ thể khác để thấy được tầm quan trọng) Vai trò của pháp luật trong nhà nước
pháp quyền: Đối với công dân, pháp luật cần mở rộng bảo vệ tối đa quyền con
người, công dân có quyền là mọi điều mà pháp luật không cấm, pháp luật chỉ nên
cấm những điều thực sự cần thiết. Đối với cơ quan nhà nước, pháp luật cần quy định
cụ thể, đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và các trình tự thủ tục để tránh
lạm quyền hay tùy tiện. Vai trò Pl rất quan trọng vì tất cả các đặc điểm của nhà nước
pháp quyền đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến PL…

Yêu cầu, đòi hỏi với Pháp luật trong nhà nước pháp quyền:

Đó là pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải là một hệ thống pháp luật dân chủ,
tiến bộ, phù hợp và khả thi.

Dân chủ, tiến bộ, phù hợp, khả thi: PL được đặt ra phù hợp với nguyện vọng của
người dân, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội, phải thực tế, có
thể áp dụng được.

- Hệ thống pháp luật phải tiến bộ, dân chủ, minh bạch, phù hợp với điều kiện hiện
hữu của đất nước (trình độ phát triển của kt-xh, đạo đức, phong tục tập quán, truyền
thống lịch sử, văn hóa, phù hợp với tiến trình phát triển của văn minh nhân loại).
- PL phải thể hiện ý chí của nhân dân, thừa nhận rộng rãi các quyền cơ bản của con
người, quyền dân chủ của công dân + thể hiện sự tác động qua lại, trách nhiệm
tương hỗ giữa nn với các cá nhân, , tổ chức trong xh cũng như giữa cá nhân, tổ chức
trong xh với nhau.

- Phải có hiệu lực phổ biến đối với mọi người, phải có tính ổn định để giúp cho các
chủ thể có thể dự đoán trước được kết quả hành vi của mình để giúp cho các chủ thể
có thể lường trước được phản ứng của nn hoặc các chủ thể khác đối với hành vi đó.

- Các quy định của PL phải rõ ràng, cụ thể, được công bố công khai và rộng rãi để
bất kì ai khi cần bảo vệ các quyền, lợi ích của mình đều có thể dễ dàng tìm được.

- Hệ thống pl phải có tính khả thi và chủ yếu được thể hiện trong các đạo luật đc xây
dựng với các kĩ thuật lập pháp cao, trong đó Hiến pháp có hiệu lực pháp lí cao nhất.

- Quá trình xây dựng pl cần có sự tham gia rộng rãi của toàn thể nhân dân để đảm
bảo pl thể hiện được ý chí chung của nhân dân.

- Các quy định trong hệ thống pl phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự hài hòa
giữa lợi ích các nhân, nhóm xã hội với lợi ích chung của toàn xã hội.

- Hoạt động áp dụng pl cần được tiến hành trên cơ sở và theo nguyên tắc bảo vệ
công lí, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, tự do cá nhân, bảo đảm công bằng,
bình đẳng trong xh.

Câu 27: “Việc đề cao pháp luật có thể dẫn tới tình trạng lạm dụng pháp luật”.

1. Trước hết phải đề cao, coi trọng pháp luật vì: so với các công cụ điều
chỉnh khác PL có những ưu thế vượt trội

+ PL có phạm vi tác động rộng lớn nhất

+ PL được tổ chức thực hiện và bảo vệ bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước nhờ
đó nó có tính bắt buộc đối với mọi người

+ PL có hình thức xác định chặt chẽ nhất

+ PL dễ thích ứng với điều kiện thực tế của đời sống xã hội
2. Coi trọng PL nhưng ko coi thường các công cụ khác như đạo đức, tập
quán,… vì: PL ko phải công cụ vạn năng, PL ko thể điều chỉnh được tất cả các
quan hệ xã hội, có những QHXH mà PL ko điều chỉnh được, ko được điều
chỉnh và ko cần điều chỉnh. (VD). Mặt khác, biện pháp cưỡng chế nhà nước ko
phải khi nào cũng đem lại hiệu quả như mong muốn (đối tượng ko còn gì để
mất, dư luận xã hội, niềm tin tôn giáo,…)

3. Phải xử lý mối quan hệ giữa PL với các công cụ khác như thế nào?

+ Phải luôn luôn đảm bảo tính tối cao của PL

+ Sử dụng nhiều công cụ để điều chỉnh QHXH tuy nhiên phải nhằm mục đích
tăng cường sức mạnh của PL, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của PL, đảm bảo PL
được thực hiện nghiêm chỉnh hơn, đảm bảo ý thức PL của người dân được nâng
cao hơn.

+ Giữ gìn, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, các quan niệm đạo đức
mới tiến bộ, các thuần phong mỹ tục của dân tộc.

+ Đạo đức là gốc của PL và các công cụ điều chỉnh khác. PL là chuẩn của đạo
đức và các công cụ điều chỉnh khác.

+ Lợi ích quốc gia luôn luôn là tối thượng

Bởi vậy mà trong thực tiễn chỗ nào dùng PL được mới được dùng, chỗ nào ko
đc thì phải dùng công cụ khác và khi sử dụng PL thì phải dựa theo nguyên tắc

Ví dụ thực tế có những vụ việc không hay xảy ra, khi những người có nhiệm vụ bảo
đảm PL đc thực hiện lại có hành vi lạm dụng pháp luật: Xảy ra xung đột bằng lời lẽ
với nhóm công nhân xây dựng lấn vào đất của mình, một người dân ở huyện Vĩnh
Bảo (Hải Phòng) bị nhóm công an xã dùng còng số 8 còng tay, đưa về trụ sở “làm
việc”. Trước sự lạm quyền quá mức này, hàng trăm người dân của xã đã tập trung
phản đối, bản thân người bị còng yêu cầu phải lập biên bản sự việc và buộc Công an
xã phải xin lỗi mình. Vụ việc nhỏ, nhưng hành xử theo kiểu cậy thế, cậy quyền, xúc
phạm đến danh dự, nhân phẩm công dân và hệ lụy của nó hóa thành việc to. Đây
không phải là trường hợp đầu tiên những người thực thi công vụ thực hiện pháp luật
một cách cứng nhắc. Đã có nhiều trường hợp xảy ra trước đây như việc còng tay
một nữ Hiệu trưởng trước đông đảo học sinh và phụ huynh, người vi phạm giao
thông cự cãi bị còng tay và còn nhiều chuyện khác nữa liên quan đến cái còng khi
người bị còng chẳng phải nghi phạm cũng như không phải là đang thực hiện một
hành vi phạm tội bị bắt quả tang. Những vụ việc không quá nghiêm trọng nhưng nếu
xử lý theo cách thức cứng nhắc, là lạm dụng PL

Có thể nhận biết loại lạm dụng này ở các trường hợp dân tập trung phản đối việc
doanh nghiệp lấn đất, xả thải ra môi trường mà bị bắt bớ, khởi tố vụ án, bị can mà
nhiều người trong đó là phụ nữ, người già cả. Những việc này chỉ làm to chuyện ra
và hệ lụy của nó là trái lòng dân, thấy rõ cách hành xử của công quyền là nhân danh
bảo vệ trật tự xã hội nhưng thực chất là “bệnh” doanh nghiệp làm hại dân thôi.
Người dân nhận rõ điều này và vì thế, mâu thuẫn giữa người dân địa phương và
chính quyền sở tại càng thêm gay gắt và xã hội càng mất ổn định thêm. Không thể
lấy trấn áp để giải quyết những vấn đề cần thương lượng được.

Khẳng định: Đề cao pháp luật có thể dẫn đến lạm dụng pháp luật, nhưng không thể
vì thế mà bỏ qua, vì trong bất cứ nhà nước pháp quyền nào, điều kiện tiên quyết của
nó là một nhà nước đề cao pháp luật lên trên các giá trị khác và luôn đòi hỏi công
dân của mình phải coi pháp luật là tối cao. Tuy nhiên, việc cảm nhận và ứng xử với
hệ thống pháp luật như thế nào lại phụ thuộc vào nhận thức, tình cảm của xã hội.
Thượng tôn pháp luật không đơn thuần là đề cao pháp luật, có thể coi thượng tôn
pháp luật chính là sự mong muốn cao nhất về một hệ thống pháp luật hoàn hảo trong
các nhà nước pháp quyền. Nhưng pháp luật muốn được thượng tôn như niềm tin của
xã hội về tín ngưỡng, tôn giáo…, thì hệ thống pháp luật đó không chỉ là là một hệ
thống pháp luật tốt mà nó còn phải là hệ thống pháp luật đạt được tình cảm và nhất
là niềm tin của xã hội vào nó.

Câu 28: Phân tích những yêu cầu đòi hỏi với bộ máy nhà nước trong nhà nước
pháp quyền:

1. Định nghĩa

Nhà nước pháp quyền: là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống
nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở chủ quyền nhân dân, phân
công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo quyền con người, tự do cá
nhân cũng như công bằng bình đẳng trong xã hội.

Bộ máy nhà nước: hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực
hiện những nhiệm vụ và chức năng của nhà nước, vì lợi ích của giai cấp thống trị.
2. Yêu cầu đòi hỏi với bộ máy nhà nước trong nhà nước pháp quyền:

- Có sự tương tác và hỗ trợ Pháp luật trong việc quản lý xã hội.

- Mặc dù pháp luật do nhà nước ban hành nhưng một khi đã có hiệu lực thì PL có
giá trị ràng buộc với nhà nước, trở thành cơ sở pháp lý cho toàn bộ quá trình tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và cũng là cơ sở để giới hạn kiểm soát quyền
lực nhà nước.

- Tất cả các cơ quan và nhân viên nhà nước trong bộ máy nhà nước pháp quyền đều
phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật trong hành vi của mình chỉ đc làm điều pháp luật
cho phép, phải thực thi pl theo đúng những nguyên tắc trình tự đã được quy định.

- Tuân thủ nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế, điều chỉnh quan hệ đối ngoại trên cơ
sở của pháp luật quốc tế.

Câu 29: Phân tích các đặc trưng cơ bản của pháp luật trên cơ sở đó làm sáng tỏ
biểu hiện một đặc trưng của pháp luật việt nam hiện nay.

- Pháp luật có tính quyền lực nhà nước, vì pháp luật hình thành bằng con đường nhà
nước, pháp luật do nhà nước đặt ra , hoặc thừa nhận nên luôn thể hiện ý chí nhà
nước. Pháp luật đc nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp nh giáo dục,
thuyết phục, cưỡng chế

-Pháp luật có tính quy phạm phổ biến:

+, vì PL là khuôn mẫu, chuẩn mực và chứa những định hướng về cách hành xử cho
mọi người. Có thể căn cứ vào PL để biết mình được làm gì, ko đc làm gì, phải làm
gì, làm như thế nào khi đặt trong một hoàn cảnh cụ thể.

+,PL là tiêu chuẩn đánh giá hành vi của con người, hành vi nào là đúng PL, Hành vi
nào vi phạm PL, hành động nào mang tính pháp lý hành động nào ko mang tính
Pháp lý

+,PL có giá trị bắt buộc thực hiện đối với mọi người, mọi tổ chức trên lãnh thổ. Bắt
buộc thực hiện ở mọi thời điểm và có phạm vi bao quát lớn tới hầu hết các lĩnh vực
xã hội.
- Pháp luật có tính hệ thống: vì đề cập đến nhiều lĩnh vực xã hội nên trong PL có
nhiều ngành luật cụ thể, các ngành luật ko tách biệt nhau mà thống nhất, tạo nên một
hệ thống pháp luật

- Pháp luật có tính xác định về mặt hình thức: thể hiện trong những hình thức nhất
định như tập quán pháp, tiền lệ pháp hay văn bản quy phạm pháp luật. trong các văn
bản quy phạm pháp luật, quy định PL được thể hiện rõ ràng cụ thể bảo đảm có thể
được hiểu và thực hiện thống nhất trên phạm vi rộng.

Phân tích một đặc trưng của pháp luật việt nam: Tính quy phạm phổ biến

- Pháp luật đc tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật. Khác với các quy phạm xã
hội, quy phạm pháp luật có tính quy phạm phổ biến. Các quy phạm pl đc áp dụng
nhiều lần trên lãnh thổ và chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi
bỏ , sửa đổi, bổ sung bằng những quy định khác hoặc khi hết thời hiệu. Tính quy
phạm phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước mà đề lên thành luật. Tùy
theo từng nhà nước khác nhau mà Pl mang ý chí của một nhóm người chủ quan hay
có thể bao quát ý muốn của đa số nhân dân trong nước.

Câu 30: Phân biệt pháp luật với các công cụ khác trong hệ thống công cụ điều
chỉnh quan hệ xã hội

Pháp luật Các công cụ điều chỉnh quan hệ XH

PL có tính quyền lực nhà nước, vì Pl đc hình Được hình thành tự phát trong một cộng đồng
thành bằng con đường nhà nước, do nhà nước đặt dân cư nào đó. VD: đạo đức phong tục tập quán
ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước, được luật tục. hoặc do các tổ chức đặt ra: điều lệ đoàn,
nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện giáo luật. vì thế chỉ mang ý chí của cộng đồng đó
pháp giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế hoặc tổ chức phi nhà nước đó. Được bảo đảm
thực hiện bằng thói quen, lương tâm, niềm tin của
mỗi cá nhân, dư luận xã hội hpawjc hình thức kỉ
luật riêng của tổ chức
Tính quy phạm phổ biến, có giá trị phải được tôn Cũng có tính quy phạm nhưng không rộng, phổ
trọng với mọi tổ chức, cá nhân trên phạm vi lãnh biến bằng pháp luật, bởi chúng chỉ có giá trị bắt
thổ quốc gia. PL có tác động bao trùm lên toàn xã buộc phải tôn trọng đối với cộng đồng dân cư
hội, tác động thường xuyên liên tục trên toàn lãnh trong một vùng hoặc chỉ thành viên thuộc tổ chức
thổ và mọi lĩnh vực đời sống đó

Tính hệ thống, PL là hệ thống các quy tắc xử xự Các công cụ điều chỉnh khác như nội quy quy tắc
chung bắt buộc cho mọi các nhân tổ chức trong tổ chức cũng có tính hệ thống nhưng bên cạnh đó
xã hội, những quy phạm đó không tách biệt mà những công cụ khác như đạo đức, phong tục, tập
liên hệ với nhau thành một chỉnh thể chặt chẽ quán…

Tính xác định về hình thức, như tập quán pháp, Các công cụ khác cũng có thể có tính xác định về
tiền lệ pháp, VB quy phạm pháp luật. Trong VB hình thức nhưng cũng có thể không, mà chỉ tồn
quy phạm pl các quy định được trình bày rõ ràng tại dưới dạng bất thành văn, truyền miệng
cụ thể rõ ràng một nghĩa, bảo đảm thực hiện
trong một phạm vi rộng

Pháp luật tham gia điều chỉnh xã hội một cách Các công cụ khác như đạo đức, phong tục tôn
thường xuyên, kịp thời nên nó cập nhật và theo giáo thường có quá trình hình thành kéo dài từ rất
kịp sự phát triển của đời sống Kinh tế xã hội lâu và gần như không có sự thay đổi, thường
không theo kịp sự phát triển của xã hội

Pháp luật điều chỉnh hầu hết mọi hành vi của con Các công cụ khác có khả năng
người, nhưng những hành vi liên quan đến tình
cảm riêng tư thì khó điều chỉnh hoặc thậm chí
không thể điều chỉnh được, mặt khác, các biện
pháp cưỡng chế không phải lúc nào cũng đem lại
hiệu quả như mong muốn

Câu 31: Phân tích biện pháp giải quyết sự xung đột giữa pháp luật và đạo đức

-Pháp luật: hệ thống các quy tắc xử sự chung ….

-Đạo đức: tổng thể những quan niệm, quan điểm về chân thiện mỹ nghĩa vụ danh
dự, cốt lõi là điều thiện. cùng những quy tắc ứng xử được hình thành trên cơ sở
những quan niệm, quan điểm đó để nhằm điều chỉnh hành vi, ứng xử của con người
chúng được bảo đảm thực hiện bởi lương tâm, tình cảm cá nhân và sức mạnh của dư
luận xã hội.
Một trong số các nguồn của pháp luật chính là đạo đức. PL được xây dựng dựa trên
các quan điểm của xã hội về cái thiện, là một khuôn mãu đánh giá hành vi con
người. Nhưng vì sự phát triển của nền kinh tế thị trường cùng với những lỗ hổng
trong quá trình lập pháp đã đưa đến một số trường hợp PL, mà nhiều nhất là các VB
quy phạm PL đã xung đột với đạo đức XH.

Nếu pháp luật không tốt thì cần sửa đổi, còn nếu pháp luật đã tốt rồi thì không cần
sửa đối. Đạo đức mà trái với pháp luật thì cần loại bỏ đạo đức sao để đạo đức phù
hợp với pháp luật hơn.

Ví dụ: Bố trộm cắp, con không đi tố cáo. Trong khi đó pháp luật quy định là phải tố
cáo với phạm tội. Như vậy trong trường hợp này phải sửa pháp luật. Không thể quy
định là bố phạm tội thì con phải tố cáo, nếu làm như vậy thì tình cảm trong gia đình
sẽ không hòa thuận. Lúc này cần sửa pháp luật để phù hợp với đạo đức.

Câu 32: Phân tích biện pháp giải quyết xung đột pháp luật và tập quán:

- Tập quán: là những quy tắc xử sự chung hình thành từ những thói quen xử sự có
tính chất lặp đi lặp lại hàng ngày trong một cộng đồng dân cư nào đó và được bảo
đảm thực hiện bằng thói quen, niềm tin nội tâm của mỗi cá nhân cũng như dư luận
xã hội. Ví dụ: tình trạng tảo hôn.

- Nhận thức đúng vị trí, vai trò của PL, phong tục tập quán và mqh giữa PL với
PTTQ trong điều chỉnh các qhxh

- Xây dựng, hoàn thiện PL, đồng thời xây dựng hương ước mới góp phần củng cố
bảo tồn và phát huy những PTTQ tốt đẹp phù hợp với từng địa phương

- Xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, trái PL

VD: tục cướp vợ, tảo hôn

Câu 33: Phân tích ưu thế của pháp luật so với các công cụ khác trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sử chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận
và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xh theo mục đích, định hướng
của nhà nước.
Các công cụ khác trong việc điều chỉnh các quan hệ xh là các quy tắc xử sử
hướng dẫn hành vi của con người, làm cho chung thay đổi và phát triển theo
những mục đích, định hướng nhất định, nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xh.

1. Pháp luật có phạm vi tác động rộng lớn nhất

+ Pháp luật do nhà nước ban hành, vì vậy nó được truyền bá, phổ biến bằng
con đường chính thức thông qua hệ thống cq nhà nước có thẩm quyền. Nhờ đó,
pháp luật có khả năng tác động đến mọi vùng miền, lãnh thổ của đất nước.

+ Ở đâu có sự hiện diện của chính quyền, ở đó có sự tác động của pháp luật.
Bởi vậy, pháp luật có thể điều chỉnh các quan hệ xh trên bình diện rộng lớn trên
các lĩnh vực của đs xh.

Trong khi đó, các công cụ điều chỉnh khác chỉ có phạm vi tác động trong một
khu vực nhất định

vd: Phong tục tập quán chỉ tác động ở một địa phương, một vùng miền nhất
định

2. Pháp luật được nhà nước tổ chức thực hiện và bảo vệ bằng nhiều biện pháp
khác nhau, trong đó có biện pháp cưỡng chế nhà nước, nhờ đó nó có tính bắt
buộc đối với mọi ng.

+ Nhờ đó nó có tính bắt buộc đối với mọi ng.

+ Các biện pháp cưỡng chế của pháp luật mới có thể thiết lập được trật tự,
mới duy trì được sự ổn định của đời sống.

+ Thông qua BMNN, quyền lực nhà nước tác động đến mọi cá nhân, tc trong
xh, bắt buộc các chủ thể phải phục tùng ý chí của nhà nước, vì vậy, pháp luật
mang tính bắt buộc đối với mọi ng.

Trong khi đó, các công cụ điều chỉnh khác ko có thiết chế chuyên nghiệp để
đảm bảo thực hiện hoặc nếu có thì một mặt bản thân các thiết chế đó ko thể có
sức mạnh như nhà nước, mặt khác, các biện pháp cưỡng chế của nó cx ko
nghiêm khắc như cưỡng chế nhà nước, vì vậy tính bắt buộc của các công cụ
điều chỉnh này nếu có cx ko nghiêm khắc như Pl.

3. Pháp luật có hình thức xác định chặt chẽ nhất.Tính xác định chặt chẽ về hình
thức là một trong những ưu thế vượt trội của pháp luật.
+ Pháp luật ngày càng có xu thế thể hiện thành văn.

+ Pháp luật bản thân nó là một hệ thống, đó là một thể thống nhất bao gồm
các quy phạm pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau được sắp xếp một
cách logic, khách quan và khoa học.

+ Ngôn ngữ pháp luật thường một nghĩa, rõ nghĩa, chính xác, ko trừu tượng,
chung chung.

🡪 Chính vì vậy, thông qua pháp luật, các cá nhân, tc trong xh nắm bắt đc một
cách đầy đủ, chính xác và rõ ràng nhất các hành vi được phép, các hành vi bắt
buộc, các hành vi bị cấm cx như cách thức, trình tự, thủ tục thực hiện chúng...

🡪 Thông qua pháp luật các chủ thể biết được trong điều kiện, hoàn cảnh nào, họ
được làm gì, phải làm gì hay ko được làm gì, hậu quả sẽ phải gánh chịu ntn nếu
làm trái điều đó, từ đó có đầy đủ cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi.

Ngược lại, các công cụ điều chỉnh khác thường ko có sự xđ về hình thức
Phong tục tập quán, đạo đức, tín ngưỡng dân gian chủ yếu được truyền miệng
dưới dạng tục ngữ, ca dao,...Tín điều tôn giáo tuy thường đc ghi chép thành
kinh sách, đc truyền giảng trong nhà thờ, nhưng nhìn chung những quy định đó
rất khái quát, trừu tượng

4. Pháp luật dễ thích ứng với điều kiện thực tế của đời sống

+ là hình thức pháp lí của các quan hệ kte, xh, vì vậy, về cơ bản pháp luật quy
định vấn đề gì, quy định như ntn, điều đó trc tiên phụ thuộc vào thực trạng của
điều kiện kte xh. Khi điều kiện kte xh thay đổi, pháp luật có sự thay đổi theo 🡪
pháp luật đáp ứng kịp thời yêu cầu đòi hỏi của cs.

Ngược lại, đạo đức, phong tục tập quán... thường có quá trình hình thành và
biến đổi khá chậm chạp, nhiều tín điều tôn giáo đã hình thành cách ngày nay
hàng nghìn năm nhưng ko hề có sự thay đổi, thậm chí là bất di bất dịch. Nói
cách khác, các thể chế phi quan phg thường ko phản ánh kịp thời sự phát triển
của cs. Do đó, chúng ko thể điều chỉnh một cách kịp thời sự biến độnh của các
qhe xh.

Câu 34: Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nhà nước pháp
quyền
- PL và ĐĐ đều là sản phẩm của đời sống, phản ánh đời sống, chịu sự quy định của
đời sống và có tác động mạnh mẽ đến đời sống. PL và đạo đức là những phương
tiện điều chỉnh quan trọng bậc nhất đối với các quan hệ xã hội

- Pháp luật hình thành bằng con đường nhà nước. Đạo đức chủ yếu hình thành bằng
con đường tự phát

- DĐ điều chỉnh quan hệ giữa người với người, còn PL điều chỉnh những quan hệ xã
hội nhất định, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống chung cộng đồng.

Bản chất mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức chính là Đạo đức là cơ sở của Pháp
luật, chúng có tác động qua lại mạnh mẽ với nhau, rõ ràng nhất là những đặc điểm
sau:

-PL đc coi trọng nhưng DD không bị coi nhẹ. Mặc dù PL có vai trò tối thượng, là
công cụ hàng đầu, quan trọng nhất để quản lí xã hội, nhưng nó không thể là công cụ
duy nhất. Bên cạnh PL, DĐ vẫn phải được chú trọng, vì NNPQ luôn “hàm chứa yếu
tố đạo đức”, “quyền lực nhà nước nảy sinh từ đạo đức”, “nhà nước là hiện thân của
đạo đức”, DĐ là “môi trường cảm nhận và thực hiện PL”

-Giữa PL và đạo đức luôn có sự thống nhất một các cơ bản, sâu sắc và toàn diện cả
về bề rộng và chiều sâu, từ tư tưởng, quan điểm, nhận thức đến hành động thực tiễn.
PL trong NNPQ là công cụ của con người, phục vụ con người, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, giá trị con người

-Giữa PL và đạo đức có sự phân định rõ ràng về đối tượng điều chỉnh, có sự thống
nhất bao hàm sự khác biệt , không đồng nhất, không thay thế nhau. “cho dù xã hội
phát triển đến đâu cũng không thể đạt đến sự xóa nhòa đường biên, ranh giới giữa
đạo đức và pháp luật”.

-Trong việc xử lí vi phạm pháp luật luôn có sự kết hợp chặt chẽ giữa cưỡng chế nhà
nước với dư luận xã hội, giữa trừng phạt và giáo dục cải tạo.

Câu 35: Vì sao PL không phải công cụ duy nhất để quản lí xã hội:

Điều chỉnh quan hệ xã hội là một công việc vô cùng khó khăn và nhiều , chính vì thế
con người cần đặt ra nhiều quy tắc hành vi hay quy phạm xã hội nhằm mục đích
hướng dẫn con người khi tham gia vào quan hệ xã hội đó. Các quan hệ xã hội vô
cùng phong phú, đa dạng và phức tạp, do vậy để điều chỉnh chúng một cách hiệu
quả cần phải có nhiều công cụ khác nhau cùng kết hợp để giải quyết. Mặc dù, pháp
luật có vai trò quan trọng trong quản lý xã hội của Nhà nước. Song, pháp luật không
phải là công cụ quản lý xã hội vạn năng mà pháp luật cũng có những hạn chế của
mình. Chẳng hạn, ngoài tính khách quan thì pháp luật còn mang tính chủ quan,
nghĩa là nó phụ thuộc vào ý chí của những người có thẩm quyền trong quy trình ban
hành pháp luật. Tính khái quát cao của pháp luật đôi khi không sát với trường hợp
cụ thể. Pháp luật còn bị ràng buộc bởi cơ chế điều chỉnh pháp luật phức tạp, đôi khi
phiền hà, cứng nhắc.

Câu 36. Tại sao cần kết hợp giữa pháp luật với các công cụ khác trong điều
chỉnh quan hệ xã hội?

Điều chỉnh quan hệ xã hội là công việc phức tạp, cần một hệ thống những cách xử
sự khác nhau tham gia kết hợp điều chỉnh. Pháp luật mặc dù là công cụ hữu hiệu
nhất nhưng không phải công cụ vạn năng để có thể điều chỉnh tất cả các quan hệ xã
hội. Hơn thế, pháp luật hình thành do con đường nhà nước nên nó thể hiện ý chí của
nhà nước, ý chí của giai cấp cầm quyền và ý chí của người làm luật nên pháp luật
cũng có phần nào mang tính chủ quan. Song cùng với đó pháp luật là những gì được
nhà nước công nhận và đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp nên vẫn mang tính
hà khắc, cứng nhắc, không mềm dẻo.

Trong khi đó, những công cụ điều chỉnh quan hệ khác như đạo đức, tập quán lại có
thể điều chỉnh một số quan hệ xã hội một cách có tình và lại đạt lí hơn. Ví dụ như
xung đột anh em trong nhà không nhất thiết cứ phải kiện tụng, kéo nhau ra tòa để xử
lý những công việc cũng được nhắc đến trong pháp luật như phân chia tài sản, anh
em hòa thuận có thể cùng nhau bàn bạc, giải quyết nội bộ mà không cần đến tòa án.
pháp luật là công cụ hiệu quả nhưng nên là công cụ cuối cùng để giải quyết các mâu
thuẫn quan hệ xã hội

Câu 37: Phân tích khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội.

- Khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội: Là sử dụng các công cụ tác động lên các
quan hệ xã hội, làm cho chúng thay đổi và phát triển theo những mục đích, định
hướng nhất định, nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xã hội

- Phân tích:
+ Bản chất của mối quan hệ xã hội là sự tác động qua lại giữa các bên chủ thể quan
hệ xã hội thông qua hành vi của chủ thể đó, vì thế mà điều chỉnh quan hệ xã hội
thực chất là điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm thay
đổi hành vi của họ.

+ Hành vi có ích cho xã hội sẽ được bảo vệ và tạo điều kiện phát triển, còn hành vi
có hại cho cộng đồng sẽ bị ngăn chặn, loại trừ.

+ Khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội thì mỗi hành vi đều có thể ảnh hưởng
đến lợi ích của người khác cũng như của cả cộng đồng. Vì vậy, để đảm bảo lợi ích
của xã hội thì mỗi người trong các mối quan hệ xã hội phải dựa trên những chuẩn
mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất định.

+ Không xuất hiện nhu cầu điều chỉnh hành vi của cá nhân nếu cá nhân đó không
tham gia vào mối quan hệ với người khác, không ảnh hưởng đến lợi ích của cộng
đồng.

+ Công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội là các quy phạm pháp luật. Chúng được coi là
khuôn mẫu, mô hình, chuẩn mực cho hành vi ứng xử của các chủ thể khi họ tham
gia vào những mối quan hệ nhất định.

Câu 38. Trình bày khái niệm bản chất PL. Phân tích ý nghĩa vấn đề bản chất
PL

1. Định nghĩa

Khái niệm pháp luật

Bản chất của pháp luật là những thuộc tính bên trong có tính tất nhiên, tương
đối ổn định của pháp luật .

2. Phân tích

Tính xã hội của pháp luật

- Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự chung đc tạo ra để điều chỉnh
các quan hệ xh xuất phát từ nhu cầu của đs chung của con ng, nên nó thể hiện
tính xh to lớn.

- Pháp luật là sự mô hình hóa những nhu cầu khách quan, phổ biến trong xh.
- Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xh mang tính quy phạm và tính
bắt buộc chung để tc và quản lí đs cồng động, duy trì sự ổn định, công bằng xh
vì lợi ích chung, vì sự tồn tại và phát triển của cả xh. Dưới góc độ này, pháp luật
là những chuẩn mực chung của xh, thể hiện ý chí và phản ánh lợi ích chung của
toàn xh.

- Pháp luật là phương tiện để giải quyết khía cạnh “xã hội” của đs xh như
phòng chống và khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, hỗ trợ ng
lang thang cơ nhỡ,...Nói cách khác, pháp luật luôn hàm chứa các giá trị xh phổ
biến, thuộc về con ng.

- Pháp luật luôn phản ánh điều kiện kte, xh, những quan niệm đạo đức truyền
thống tốt đẹp, thuần phong, mĩ tục,... của dân tộc. Trong điều kiện hiện nay, để
thúc đẩy sự phát triển của xh, đòi hỏi pháp luật của mỗi nước phải có sự phát
triển của xh, đòi hỏi pháp luật của mỗi nước phải có sự phù hợp nhất định đối vs
thông lệ khu vực và thế giới.

- Trong điều kiện ngày nay, pháp luật đc xem như là công cụ quan trọng để
chống lại sự tha hóa của quyền lực nhà nc, bảo vệ con ng, bảo vệ công lí nên
tính xh của pháp luật ngày càng đc củng cố, mở rộng và phát triển.

Tính giai cấp của pháp luật

- Tính giai cấp là công cụ phản ánh ý chí của nhà nước mà cốt lõi là ý chí của
giai cấp thống trị. Pháp luật là công cụ phản ánh mqh có tính giai cấp trong xh.

- Pháp luật chỉ ra đời và phát triển trong xh có giai cấp. Pl do nhà nước – tc
đại diện chính thức cho toàn xh ban hành, mà quyền lực nhà nước lại nằm trong
tay giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua nhà nước để hợp thức hóa ý
chí của giai cấp mình thành ý chí nhà nước dưới dạng các quy tắc xử sự chung
mang tính bắt buộc toàn bộ mọi ng trong xh phải thực hiện. Trong xh có giai
cấp, tồn tại nhiều loại quy phạm khác nhau, thể hiện ý chí, nguyện vọng của các
giai cấp, các lực lượng xh khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống Pl thống nhất
chung cho toàn bộ xh.

- Mục đích điều chỉnh các quan hệ xh, Pl luôn bảo vệ lợi ích, thực hiện mục
đích của giai cấp thống trị. PL điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xh, hướng
các quan hệ xh phát triển theo một “trật tự” phù hợp với ý chí của gc thống trị
nhằm bảo vệ lợi ích và củng cố địa vị của gc thống trị. Với ý nghĩa đó, Pl là
công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp, ghi nhận, củng cố và bảo vệ quan hệ
sx dựa trên sở hữu của gc thống trị, “ là vũ khí của gc thống trị để trừng trị gc
chống lại mình”, duy trì sự thống trị về tư tưởng đối vs toàn xh.

- Tuy nhiên, pháp luật ko chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của gc thống trị,
ở những mức độ nhất định, pl còn thể hiện ý chí và quan tâm đến lợi ích của các
gc và tầng lớp khác trong xh.

3. Ý nghĩa

Nghiên cứu bản chất pl có 2 tác dụng

- Vấn đề bản chất pl, nn luôn luôn là nội dung đấu tranh tư tưởng gay gắt (các
giai cấp khác nhau quan niệm đối lập khác nhau về nn, pl) VD:nn tư bản, nn
xhcn

🡪 trang bị về mặt tư tưởng trong công cuộc đấu tranh chống giai cấp thống trị
cũ và sự tuyên truyền xuyên tạc hiện nay

- Muốn sử dụng nn, pl đúng cách, có hiệu quả phải hiểu biết đúng đắn về bản
chất nn, pl

Biết bản chất pl để biết tính thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp đặt ra
yêu cầu gì

- Yêu cầu xây dựng, thực hiện pl

+ Xây dựng pl phù hợp với bản chất nn, pl

+ Thực hiện bảo vệ pl

● PL phải đúng

● PL phải hợp tình hợp lý, phù hợp với đời sống xh

- Phát triển tính xã hội

+ Nhân dân tham gia đông đảo vào xây dựng pl

+ Hiến Pháp phải được đem ra trưng cầu ý dân

+ Xây dựng PL phải công khai minh bạch

+ Phải có cơ chế giải trình (ý kiến nào tiếp thu, ý kiến nào ko tiếp thu)
Câu 39. Phân tích sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp của PL. Trình
bày ý nghĩa của vấn đề này trong xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ PL ở
nước ta hiện nay.

1. Định nghĩa

PL là hệ thống các quy tắc xử sự chung… do pháp luật và nhà nước có mqh chặt chẽ
với nhau

Bản chất PL là…

Pháp luật và nhà nước là hai thành tố của thượng tầng chính trị-pháp lý, luôn có mối
quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Cả hai hiện tượng pháp luật và Nhà nước
đều có chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển. Pháp luật là hệ thống các quy
tắc ứng xử do nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường lối
chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và bảo đảm cho quyền lực đó được
triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội. Với ý nghĩa đó PL tồn tại song hành
với nn và có những tính chất tương đồng với NN

- Pháp luật mang tính giai cấp:

Học thuyết Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử, đã giải
thích một cách đúng đắn khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ
của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Theo học thuyết Mác-
Lênin, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất
của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có "pháp luật tự nhiên" hay
pháp luật không mang tính giai cấp.

+ Pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị. C.Mác và Ănghen khi
nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là
ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó là do
điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định. Nhờ nắm trong tay quyền
lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp
mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý
chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành. Nhà nước ban hành và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện,
vì vậy pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người.
+ Mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm
điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là
nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ
xã hội phát triển theo một "trật tư” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ
và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ
để thực hiện sự thống trị giai cấp.

Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi kiểu
pháp luật lại có những nét riêng và cách biểu hiện riêng. Ví dụ: Pháp luật chủ nô
công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình trạng vô quyền của nô lệ.
Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của địa chủ phong kiến,
cũng như quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp nhân dân lao động. Trong
pháp luật tư sản bản chất giai cấp được thể hiện một cách thận trọng, tinh vi dưới
nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những quyền tự do, dân chủ... nhưng
thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước
hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng một xã hội
mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình đẳng, công bằng xã hội được bảo
đảm.

- Tính xã hội của pháp luật:

Pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó còn
mang tính chất xã hội. Nghĩa là, ở mức độ ít hay nhiều (tùy thuộc vào hoàn cảnh
trong mỗi giai đoạn cụ thể), pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai tầng
khác trong xã hội.

Ví dụ: Pháp luật tư sản Ơ giai đoạn đầu, sau khi cách mạng tư sản thắng lợi, bên
cạnh việc thể hiện ý chí của giai cấp tư sản còn thể hiện nguyện vọng dân chủ và lợi
ích của nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Trong quá trình phát triển tiếp theo, tùy
theo tình hình cụ thể, giai cấp tư sản đã điều chỉnh mức độ thể hiện đó theo ý chí của
mình để pháp luật có thể "thích ứng" với điều kiện và bối cảnh xã hội cụ thể. Đối
với pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng vậy, bên cạnh việc pháp luật thể hiện ý chí của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi thời kỳ (mỗi giai đoạn nhất định của quá
trình phát triển), cũng phải tính đến ý chí và lợi ích của các tầng lớp khác.
Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ
thống, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại, cũng không
có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.

Tuy nhiên mức độ đậm, nhạt của hai tính chất đó của pháp luật rất khác nhau và
thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm,
đường lối và các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, ở một thời kỳ lịch sử nhất
định.

Nghiên cứu bản chất pl có 2 tác dụng

- Vấn đề bản chất pl, nn luôn luôn là nội dung đấu tranh tư tưởng gay gắt (các
giai cấp khác nhau quan niệm đối lập khác nhau về nn, pl) VD:nn tư bản, nn
xhcn

🡪 trang bị về mặt tư tưởng trong công cuộc đấu tranh chống giai cấp thống trị
cũ và sự tuyên truyền xuyên tạc hiện nay

- Muốn sử dụng nn, pl đúng cách, có hiệu quả phải hiểu biết đúng đắn về bản
chất nn, pl

Biết bản chất pl để biết tính thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp đặt ra
yêu cầu gì

- Yêu cầu xây dựng, thực hiện pl

+ Xây dựng pl phù hợp với bản chất nn, pl

+ Thực hiện bảo vệ pl

● PL phải đúng

● PL phải hợp tình hợp lý, phù hợp với đời sống xh

- Phát triển tính xã hội

+ Nhân dân tham gia đông đảo vào xây dựng pl

+ Hiến Pháp phải được đem ra trưng cầu ý dân

+ Xây dựng PL phải công khai minh bạch


+ Phải có cơ chế giải trình (ý kiến nào tiếp thu, ý kiến nào ko tiếp thu)

PLVN: Vì lẽ đó, pháp luật của Nhà nước ta về bản chất là pháp luật xã hội chủ
nghĩa, nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân + phản ánh, thể hiện ý chí, lợi ích
của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân tộc.

Có sự thống nhất đó là do trong xã hội ta hiện nay có sự thống nhất về cơ bản, lâu
dài giữa lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức với lợi
ích của cả dân tộc.

Tính giai cấp: đối với đường lối, chính sách của Đảng của giai cấp công nhân. Khi
pháp luật phản ánh, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, của dân tộc phải đứng trên
những quan điểm, thể hiện trong chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đó là một nguyên tắc hàng đầu của pháp luật nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên còn tồn tại các lợi ích
khác nhau của các giai cấp, các tầng lớp xã hội. Pháp luật cũng đương nhiên phải
bảo vệ, phản ánh tất cả những lợi ích chính đáng đó, nhưng phải phù hợp với định
hướng phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần phù hợp với quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta.

Sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp sâu sắc và tính nhân dân rộng rãi là một đặc
điểm đáng chú ý của pháp luật Nhà nước ta hiện nay, và đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong việc tổ chức hoạt động PL.

Câu 40. Phân tích tính chủ quan và tính khách quan của PL. Theo anh/chị, làm
thế nào để ngăn ngừa hiện tượng duy ý chí trong xây dựng PL.

1. Định nghĩa

Pháp luật là…

Tính khách quan của pl vì pl phải phù hợp với hoàn cảnh xã hội

Tính chủ quan của pl tồn tại vì pl luôn thể hiện ý chí chủ quan của nhà làm
luật.

2. Phân tích
Tính khách quan:

Pháp luật là hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, pháp luật
chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển khi xã hội đạt đến một trình độ phát triển nhất
định. Từ đó, ta thấy ứng với một hoàn cảnh xã hội nhất định sẽ sản sinh ra một hệ
thống pháp luật tương ứng.

Một khi xã hội có biến động về kinh tế, văn hóa,… thì cơ cấu các mối quan hệ xã
hội cũng sẽ biến đổi theo (quan hệ cũ mất đi, quan hệ mới ra đời, do vậy những cấu
trúc cao hơn trong hệ thống cũng sẽ thay đổi sao cho phù hợp.…). Sự thay đổi của
các mối quan hệ này sẽ tác động đến nội dung, hình thức, cơ cấu của hệ thống pháp
luật. do vậy những cấu trúc cao hơn trong hệ thống cũng sẽ thay đổi sao cho phù
hợp.

VD: Năm 1998, thị trường chứng khoán xuất hiện tại Việt Nam, và vào năm 2007,
Luật chứng khoán được ban hành. → Có thể thấy chính sự phát triển của kinh tế, sự
du nhập của một lĩnh vực mới trong kinh tế, đã tác động đến việc đòi hỏi phải có
một đạo luật mới ra đời để điều tiết các mối quan hệ trong lĩnh vực ấy

VD: Vào những năm thập niên 90 của thế kỉ 19, sự tích tụ tư bản dưới hình thức các
Tơrớt (Trust) đã khiến nhiều ngành công nghiệp ở Mỹ như thép, dầu mỏ,… rơi vào
tay các tập đoàn tư bản lớn và chính sự lạm quyền của các tập đoàn này đã đẩy
người dân (nông dân, doanh nghiệp nhỏ, công nhân,…) vào hoàn cảnh khó khăn dẫn
đến nhiều cuộc đấu tranh. Để khắc phục tình trạng này, nước Mỹ đã ban hành Đạo
luật chống độc quyền Sherman 1890 và Đạo luật Clayton 1914 nhằm chống lại các
Tơrớt. → Quan hệ sản xuất mới xuất hiện trong Chủ nghĩa tư bản độc quyền đã tác
động đến tình hình xã hội và chính điều này đã thúc đẩy việc Đạo luật chống độc
quyền ra đời nhằm điều chỉnh sự thay đổi đó.

Bên cạnh đó chúng ta cũng thấy, vì có mối quan hệ biện chứng nên hệ thống pháp
luật cũng sẽ có sự tác động ngược trở lại xã hội, nếu sự thay đổi của hệ thống ấy là
phù hợp với chế độ xã hội thì nó sẽ có tác động tích cực, thúc đẩy cho sự phát triển
của các khía cạnh trong xã hội hoặc cũng sẽ có tác động tiêu cực, kiềm hãm xã hội
nếu nó không tương thích

Mở rộng vấn đề:

Khi xét đến mối quan hệ giữa hệ thống pháp luật với điều kiện khách quan của xã
hội (trong đó nhấn mạnh yếu tố kinh tế) có một câu hỏi đặt ra là: Vậy để không lạc
hậu so với xã hội thì hệ thống pháp luật nói riêng hay pháp luật nói chung có thể tự
“nạp nhiên liệu” để phát triển trước một bậc so với trình độ của xã hội thời điểm
hiện tại và “chờ đợi” xã hội ở tương lai được hay không?

Câu trả lời là có thể nếu chúng ta thay cụm từ “phát triển trước một bước” bằng
“đón đầu” hay “vượt trước”.

Lấy yếu tố kinh tế làm đối tượng, xét theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, một lần nữa
kinh tế là cơ sở hạ tầng, pháp luật là kiến trúc thượng tầng. Khi đó không thể nói là
pháp luật có thể phát triển cao hơn kinh tế mà chỉ có thể vượt trước kinh tế. Tức là
khi đó pháp luật đã có sự chuẩn bị cho những tiến trình phát triển mới của xã hội, đã
có một sự chủ động “đón đầu” cho những điều sẽ xãy ra trong tương lai. Và sự đón
đầu ấy nhất thiết phải dựa vào nghiên cứu thực tiễn, phải xuất phát từ thực tại kinh
tế mới có thể suy đoán cho tương lai. Nên xét cho cùng vẫn phải dựa vào trình độ
của thực tại kinh tế-xã hội.

Cũng có mối lo ngại từ việc đón đầu ấy, liệu có khi nào không thể đón đúng thứ mà
ta muốn hay chăng? Giả sử rằng sự đón đầu đã được tính toán và nghiên cứu rất
hoàn bị, thế nhưng trong giữa khoảng thời gian pháp luật đến trước xã hội đến khi
xã hội cùng pháp luật song hành thì có một sự cố nào đó làm trệch hướng phát triển
của xã hội? Và rồi, xét cho cùng thì pháp luật không đón bắt được gì cả và lại phải
bắt đầu lại. Thế nên, hệ thống pháp luật không phải lúc nào cũng cần phải vượt lên
trước xã hội mà chỉ nên khiêm tốn ở mức gọi là “mang tính thực tiễn”, điều đó
không có nghĩa là nó chỉ phù hợp với thực tại mà mở rộng thêm là phù hợp với cả
những sự thay đổi trong chu trình phát triển của xã hội ở một tương lai gần.

VD: Hiến pháp 1980, trong Chương V Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, điều
60 và 61 quy định Nhà nước thực hiện chế độ học tập, chế độ khám bệnh và chữa
bệnh không phải trả tiền.→ Thoạt nhìn, chúng ta có thể thấy những quy định đó thể
hiện tư tưởng tiến bộ, hướng đến lợi ích quần chúng; tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh
thực tiễn thì những quy định đó đã quá xa rời thực tiễn xã hội bấy giờ, chúng quá
viễn tưởng và không phù hợp vì xã hội bấy giờ không đủ điều kiện để đáp ứng
những tư tưởng tiến bộ đó. Do đó, những quy định này không thúc đẩy sự phát triển
mà chỉ kìm hãm xã hội. VD: Đạo luật Sherman ra đời trong giai
đoạn nền kinh tế ổn định những năm cuối của thế kỉ 19, song, trong giai đoạn khủng
hoảng hiện nay nếu Đạo luật đó lại được Chính phủ Mỹ đem ra để chia tách một tập
đoàn “Too big to fail” chẳng hạn như AIG thay vì phải vung tiền ra để cứu hãng bảo
hiểm này thì có còn thích hợp hay chăng?
VD: Vào giai đoạn Exxon và Mobil (những tập đoàn được khai sinh từ sự khai tử
của Standard Oil) là những tập đoàn hùng mạnh hợp nhất với nhau nhưng không có
một sự rên rỉ nào của công chúng và Đạo luật Sherman không được áp dụng để ngăn
cản sự sáp nhập, điều đó có lí giải cho việc ở mỗi giai đoạn trong sự phát triển kinh
tế thì mọi sự đón đầu có phải lúc nào cũng phù hợp?

Thể hiện ý chí chủ quan của nhà làm luật:

Sự ra đời của một hệ thống pháp luật mới trong điều kiện hoàn cảnh xã hội vận động
hay phát triển đều phụ thuộc vào nhà làm luật. Điều đó cũng tương tự như sự xác
định một nhiệm vụ mới của Nhà nước cũng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chính
Nhà nước. Có thể khẳng định điều này vì:

-Khâu cuối cùng đưa ra quyết định về sự thay đổi của hệ thống pháp luật là nhất
định phải “qua tay” nhà làm luật.

-Nhà làm luật là chủ thể, họ cũng chịu sự tác động của sự vận động xã hội, có khả
năng nhận thức được mức độ tác động của quá trình vận động ấy để từ đó đưa ra
quyết định về sự thay đổi hệ thống pháp luật.

-Bản chất giai cấp của nhà làm luật, với tư cách là giai cấp nắm quyền, họ sẽ xác
định rõ những điều gì sẽ xảy ra sau khi hệ thống pháp luật được thay đổi (khả năng
dự báo), trong đó trước hết là xác định lợi ích cũng như các mối quan hệ xã hội mới
được điều chỉnh có phù hợp với giai cấp thống trị hay không, sau đó là đến mức độ
phù hợp của hệ thống ấy với hoàn cảnh xã hội hiện tại cũng như trong tương lai.

VD: Sự ra đời của Luật phá sản vì sự phá sản là điều tất yếu có thể xảy ra trong chu
trình phát triển của các doanh nghiệp.

VD: Xu thế toàn cầu hóa và thương mại đặt ra nhiều vấn đề bức thiết về môi trường,
sự bền vững,… một số ý kiến ở nước ta cho rằng nên ban hành Luật môi trường từ
việc tách ra từ Luật tài nguyên và môi trường cho việc quản lí môi trường được cụ
thể hơn.

Duy y chí: Thái độ quá đề cao vai trò của ý chí con người, cho rằng chỉ cần có ý chí
và quyết tâm thì có thể làm được mọi việc bất chấp điều kiện khách quan.

Để tránh hiện tượng duy ý chí, ta cần có hai mặt chính.

- Ý thức và năng lực của nhà làm luật. Một nhà làm luật giỏi không chỉ am hiểu
tường tận hệ thống pháp luật bản quốc cũng như sự tồn tại và vận động của các quan
hệ xã hội hiện tại, mà đặc biệt là phải có một tầm nhìn “xuyên thế kỉ” về sự vận
động và phát triển trong tương lai của xã hội, từ đó có thể dự đoán trước những xu
thế sẽ trở thành hiện thực trong tương lai 🡪 sản phẩm pháp luật tạo ra sẽ được hoàn
thiện hơn, khắc phục những lỗ hỏng, chồng chéo cũng như việc cơ cấu lại sự hợp
thời của các văn bản luật,… 🡪 giúp cho nhà làm luật cân bằng được giữa sự cần
thiết của hệ thống pháp luật mới với lợi ích giai cấp thống trị và với nhu cầu của xã
hội. Chính yếu tố này cũng sẽ giúp cho nhà làm luật có được sự khách quan, tránh
quan điểm phiến diện, chiết trung,… trong việc thay đổi hệ thống pháp luật. Và xu
hướng của sự cân bằng này là dần thiên về lợi ích của phần đông xã hội.

- Công khai hóa quá trình xây dựng PL để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến

- Có cơ chế giải trình + chịu trách nhiệm trước nhân dân

- Hiến pháp cần phải được trưng cầu ý dân trước khi được thông qua

- Nhân dân thực hiện quyền giám sát . Có đc điều này yêu cầu XH phải có sự hiểu
biết nhất định về pháp luật, tránh duy ý chí chính là bảo vệ được lợi ích của nhân
dân.

Câu 41. Trình bày những hiểu biết của anh/chị về PL dân chủ. Theo anh/chị,
làm thế nào để PL thực sự dân chủ.

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự…

Dân chủ được hiểu theo nghĩa dân là chủ, quyền lực thuộc về nhân dân, nó phản ánh
nhu cầu sống của con người, của quản lý nn khi trong xh xuất hiện nn. Dân chủ là
một nguyên tắc, pp quản lý nn, quản lý xh thể hiện mqh giữa con người với cộng
đồng, quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa lợi ích với trách nhiệm, bổn phận.

Tồn tại dân chủ cá nhân, dân chủ xã hội, DC trực tiếp, DC gián tiếp,…

* PL dân chủ được biểu hiện ở:

+ Nhân dân được quyền tham gia vào việc thành lập ra BMNN. PL phải là cơ sở
pháp lý để nhân dân thể hiện ý chí, phát huy quyền làm chủ của mình, trực tiếp bầu
ra các cơ quan đại diện cho mình và thông qua các cơ quan đại diện đó để lập ra các
cơ quan chấp hành, điều hành và các cơ quan khác.
+ Nhân dân được quyền tham gia quản lý và quyết định những công việc trọng đại
của nn và xh

+ PL còn tạo cơ chế bảo đảm cho nd thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan nn, các tổ chức xh, nhân viên nn, các tổ chức và cá nhân khác được trao
cho những quyền hạn nhất định để quản lý các công việc của nn và xh

+ Trong PL quy định các biện pháp để nd có điều kiện nâng cao trình độ văn hóa,
chính trị, pháp luật, quản lý, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, cung cấp thông tin đầy đủ để dân biết, dân làm, dân ktra các hoạt động
của nn.

* Để PL thật sự dân chủ

- Về kinh tế:

+ Từng bước thiết lập và củng cố sự ngang bằng về cơ hội giữa những chủ thể sản
xuất, kinh doanh trong xh

+ Thực hiện chủ trương tự do, bình đẳng về kinh tế, tạo ra những điều kiện cho các
thành phần kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh cùng phát triển, cho
phép mọi đơn vị kinh tế đều có thể hoạt động theo cơ chế tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước PL

- Về chính trị

+ Tạo mọi điều kiện để nd tham gia vào công việc của nn và xh

+ Ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nn thuộc về nd

+ Quy định các quyền tự do, dân chủ trong chính trị, bảo đảm cho người dân được
làm chủ về mặt chính trị

+ Xác lập và thực hiện cơ chế dân chủ đại diện thông qua chế độ bầu cử

+ Chú trọng thiết lập và bảo đảm thực hiện đày đủ chế độ dân chủ trực tiếp để nd có
thể bày tỏ ý kiến, kiến nghị, thảo luận một cách dân chủ, bình đẳng các vấn đề thuộc
đường lối, chính sách phát triển của đất nước và các dự thảo văn bản PL quan trọng
của nn.

- Về tư tưởng, văn hóa và xã hội


+ Thực hiện tự do tư tưởng, giải phóng tinh thần, phát huy mọi khả năng của con
người, quy định một cách toàn diện các quyền tự do tư tưởng của công dân

+ Tạo lập cơ chế, hình thức thích hợp để nd phát huy được các quyền tự do dân chủ
của mình và bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng các quyền đó.

VD: Cần trưng cầu dân ý, phúc quyết Hiến pháp. Ở VN đang chủ yếu là dân chủ
gián tiếp, cần coi trọng dân chủ trực tiếp hơn

42. Phân tích các yếu tố quy định bản chất, nội dung của pháp luật.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật luôn gằn bó chặt chẽ với nhà
nước, phản ánh bản chất của của nhà nước. Do đó, các yếu tố quy định bản chất, nội
dung của pháp luật có nhiều nét tương đồng với các yếu tố quy định bản chất, chức
năng của nhà nước. Đó là các yếu tố sau đây:

Thứ nhất, chế độ kinh tế. Hình thái kinh tế xã hội, mà yếu tố quyết định là quan hệ
sản xuất, có ảnh hưởng rất lớn đến bản chất, nội dung của pháp luật. Trước hết, pháp
luật được ban hành để bảo vệ cho sự tồn tại và thúc đẩy quan hệ sản xuất đang thống
trị, mà trung tâm là bảo vệ chế độ sở hữu của giai cấp thống trị đối với tư liệu sản
xuất. Ở mức độ vi mô, các nhà nước khác nhau có chế độ kinh tế khác nhau, kể cả
các nước có cùng hình thái kinh tế xã hội. Chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật, nội
dung của pháp luật do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định, khi các quan hệ kinh
tế - xã hội thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của pháp luật. Do đó, pháp luật tại các
quốc gia có chế độ kinh tế khác nhau có những nét đặc trưng riêng có.

Thứ hai, đường lối, chủ trương, chính sách của lực lượng cầm quyền. Trong hệ
thống chính trị của các quốc gia hiện đại, các chính đảng đấu tranh với nhau để
giành, giữ QLNN, trở thành lực lượng lãnh đạo. Do đó, pháp luật do nhà nước ban
hành là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của lực lượng cầm quyền.

Thứ ba, mối quan hệ giữa các giai cấp và các lực lượng khác trong xã hội trên tất cả
các lĩnh vực. Xuất phát từ khác biệt về lợi ích kinh tế hay xã hội, các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội luôn muốn đóng góp tiếng nói, cài cắm lợi ích của giai cấp, tầng lớp
mình vào các quy định của pháp luật. Do đó, pháp luật thể hiện các quan hệ giai cấp,
phản ánh đối sách giai cấp và mức độ của cuộc đấu tranh giai cấp.

Thứ tư, yêu cầu, đòi hỏi khách quan từ đời sống xã hội. Đây là yếu tố tạo nên bản
chất xã hội của nhà nước cũng như pháp luật. Nếu như nhà nước ra đời để giải quyết
các yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, thì pháp luật là công cụ để nhà nước thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ đó. Do vậy, pháp luật có tính khách quan, là một hiện tượng
lịch sử - tự nhiên: sự hình thành, phát triển và thay đổi bị chi phối bởi các yêu cầu,
đòi hỏi mang tính thời điểm của đời sống xã hội như phòng chống và khắc phục hậu
quả chiến tranh, thiên tai, phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ người lang thang, cơ nhỡ...

43. Phân tích luận điểm: “Xã hội không thể một ngày thiếu pháp luật”.

Để triển khai phân tích luận điểm nêu trên, ta có một số ý như sau:

1. Pháp luật là gì? Đặc điểm của pháp luật? (Trình bày khái quát)

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra, ban hành hoặc là
thừa nhận, mang tính bắt buộc phải thực hiện và được đảm bảo thực hiện bằng các
biện pháp giáo dục, cưỡng chế nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích của giai cấp mình.

Đặc điểm:

– Chủ thể duy nhất có quyền ban hành pháp luật là Nhà nước

– Pháp luật mang tính quy phạm phổ biến

– Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước

– Ngoài nội dung thì pháp luật còn có sự chặt chẽ về mặt hình thức, được thể hiện
dưới dạng văn bản

2. Xã hội là gì? Đặc điểm của xã hội? (Trình bày khái quát)

Xã hội là một thực thể tồn tại xung quanh mỗi người, trong xã hội chứa đựng từng
cá nhân, những mối quan hệ, những vấn đề xoay quanh, tác động đến đời sống của
con người.

Xã hội đã gắn liền với sự ra đời của loài người từ xa xưa và ngày càng được tiến hóa
qua các cấp bậc khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp.

3. Kết hợp những đặc điểm của pháp luật và xã hội để trả lời câu hỏi: Pháp luật có
phải là công cụ phù hợp và không thể thiếu với xã hội hay không?

4. Nếu trong một ngày, xã hội không có pháp luật thì xã hội có thể phát triển theo
chiều hướng như thế nào (trật tự xã hội)?
5. Trong một xã hội văn minh hơn theo quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin - xã
hội cộng sản chủ nghĩa đúng nghĩa, thì pháp luật liệu có còn cần thiết? Trong tình
huống pháp luật vẫn cần thiết, nếu một ngày vắng mặt pháp luật thì xã hội kia có
duy trì được trật tự hay không?

6. Kết luận lại vai trò của pháp luật trong thời đại hiện nay

- Luận điểm trên thể hiện tầm quan trọng của pháp luật đối với xã hội.

- Pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng đối với xã hội.

+ Pháp luật điều tiết và định hướng sự phát triển của các quan hệ xã hội:

> Pháp luật là khuôn mẫu hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội:
pháp luật quy định những việc được làm, không được làm, phải làm.

> Pháp luật đánh giá các hành vi là hợp pháp, bất hợp pháp hay vi phạm pháp
luật. » Pháp luật củng cố và tăng cường các xu hướng phát triển tích cực của các
quan hệ xã hội, ngăn ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực.

> Pháp luật hạn chế, loại bỏ những quan hệ xã hội lạc hậu, kìm hãm sự phát
triển của đời sống, trái với mục đích, định hướng của nhà nước

+ Pháp luật là cơ sở để đảm bảo an toàn xã hội:

> Nhờ sự tác động mạnh mẽ, nhiều mặt của pháp luật mà an toàn xã hội được
bảo đảm, tính mạng. tài sản, danh dự, uy tín... của con người được bảo vệ.

> Cùng với việc xác định cách thức xử sự cho chủ thể, pháp luật nghiêm trị
những hành vi gây mất an toàn cuộc sống

> Nhờ có pháp luật, người dân trở nên vững tâm hơn, họ tin tưởng cái ác sẽ
được trừng trị, an toàn sẽ được bảo đảm.

+ Pháp luật là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong xã hội:

> Pháp luật được xem như 1 loại chuẩn mực công cộng được thừa nhận rộng rãi
nhất trong xã hội. Với ưu thế đó, pháp luật là chuẩn mực chung, có hiệu quả
nhất để các cá nhân, tổ chức trong xã hội tự giải quyết các tranh chấp trong đời
sống.

+ Pháp luật là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người:
» Pháp luật ghi nhận các quyền tự do, dân chủ của con người. Đó là sự thừa
nhận chính thức của nhà nước về các quyền vốn có của con người.

> Pháp luật quy định trách nhiệm của nhà nước cũng như toàn xã hội trong việc
bảo đảm cho các quyền con người được thực hiện hóa.

> Pháp luật quy định các biện pháp nhằm bảo vệ quyền con người khỏi bị xâm
hại.

+ Pháp luật là phương tiện bảo đảm dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã
hội:

Pháp luật bảo đảm quyền làm chủ của người dân.

> Pháp luật chống lại sự phân biệt đối xử.

> Pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người.

+ Pháp luật đảm bảo sự phát triển bên vững của xã hội:

> Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

> Tạo cơ chế thúc đẩy sản xuất phát triển.

> Quy định các biện pháp bảo vệ, cải thiện môi trường...

- Tuy nhiên, luận điểm trên cũng không hoàn toàn đúng. Pháp luật là 1 hiện
tượng có tính giai cấp, chỉ ra đời và tồn tại cùng với nhà nước, trong xã hội có
giai cấp, do vậy khi không còn giai cấp thì pháp luật sẽ mất đi nhưng xã hội thì
vẫn còn tồn tại. Vì vậy pháp luật không gắn liền với sự tồn tại của xã hội.

44. Tại sao nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật?

PL là công cụ nhà nước tạo ra với mục đích quản lý xã hội. Vì được nhà nước ban
hành nên pháp luật có một số ưu điểm mà không công cụ nào trong hệ thống các
công cụ điều chỉnh xã hội có được:

1. Pháp luât được bảo đảm thưc hiện bằng : Có thể thấy, đạo đức, phong tục tập
quán, tín điều tôn giáo... đều không có một cơ chế bắt buộc đảm bảo thực hiện nào,
việc thực hiện phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức của con người. Như vậy, họ có thể
thực hiện hoặc không thực hiện. Tuy nhiên, pháp luật được nhà nước bảo đảm thực
hiện nên chủ thể khi rơi vào tình huống mà nhà nước quy định rõ về cách thức xử sự
buộc phải tuân theo, nếu không thì sẽ phải chịu những chế tài tương xứng và vẫn
phải thực hiện hành vi theo ý chí của nhà nước. Ví dụ: Trước khi có quy định về đội
mũ bảo hiểm, người dân ra đường có thể đội hoặc không, tuỳ thuộc vào ý chí của
chủ thể. Tuy nhiên, sau khi quy định được ban hành, chủ thể buộc phải đội mũ bảo
hiểm khi tham gia giao thông bằng xe gắn máy. Lúc này, nếu có chủ thể không tự
giác chấp hành quy định có thể sẽ bị xử phạt và bị buộc phải đội mũ bảo hiểm nếu
có thể;

2. Pháp luật có tính xác định về hình thúc: Tính xác định về hình thức giúp cho công
tác truyền bá pháp luật để pháp luật được phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội. Từ đó,
các chủ thể trong xã hội biết được " "ý chí nhà nước" gửi gắm vào trong các quy
định pháp luật và có cơ sở để thực hiện theo. Tính xác định về hình thức là một ưu
điểm của pháp luật so với các quy phạm xã hội phổ biến khác như đạo đức, phong
tục tập quán hay tín điều tôn giáo. các quy phạm khác chủ yếu được lưu giữ và phổ
biến qua truyền miệng, điều này dễ dẫn tới các dị bản và hiểu sai tinh thần. Ví dụ:
Học ăn, học nói, học gói, học mở - Học ăn, học nói, học gói mang về???;

3. Pháp luật có tính hệ thống rõ ràng: Tính hệ thống giúp các chủ thể biết được thứ
tự ưu tiên khi thực hiện các quy định của pháp luật. Ví dụ: Nếu Nghị định trái với
Luật thì sẽ áp dụng Luật. Mặt khác, các quy phạm XH khác không có tính hệ thống
hoặc có nhưng không rõ ràng, khó xác định, ví dụ: đạo đức làm người, đạo đức nghề
nghiệp, đạo đức giai cấp. Lúc có xung đột giữa các hệ thống này hoặc giữa các quy
phạm XH khác nhau thì rất khó để chủ thể biết nên lựa chọn thực hiện theo cái nào.
Nếu cứ tuỳ hứng như vậy thì không thể hình thành một trật tự xã hội theo ý chí của
nhà nước được.

Nói tóm lại, việc nhà nước chọn quản lý xã hội bằng pháp luật là bởi có khả năng
khắc phục những hạn chế của các quy phạm xã hội khác đồng thời có "đặc quyền"
được bảo đảm thực hiện bằng QLNN. Một công cụ mạnh mẽ, hiệu quả, lại do chính
mình sáng tạo ra thì nhà nước chắc chắn sẽ dùng nó để quản lý xã hội.

45. Phân tích khái niệm nguồn của pháp luật. Cho biết các phương thức tạo
nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.
* Nguồn của PL là tất cả các hình thức chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lý
cho hdong của cơ quan nn, nhà chức trách có thẩm quyền cx như các chủ thể
khác (.) xh.

>> là tất cả căn cứ được chủ thể sử dụng làm cơ sở để xdung, giải thích, thực hiện
PL, áp dụng PL để giải quyết vụ việc pháp lý gồm nguồn ndung và hình thức.
- nguồn ndung: là xuất xứ, căn nguyên của PL, dược chủ thể có thẩm quyền dựa
vào để xdung, ban hành, giải thích, thực hiện PL. Vd đường lối csach của đảng,
ng tắc chung của PL.

- Nguồn hình thức: phương thức tồn tại của PL trong thực tế hay là nơi chứa đựng,
có thể cung cấp các căn cứ ply cho hd cơ quan nn, nhà chức trách có thẩm quyền cx
như các chủ thể khác trong xh. Vd án lệ, văn bản QPPL...

Đây là quan điểm nhìn từ khía cạnh nguồn hình thức của khái niệm này. Có quan
điểm cho rằng nguồn của pháp luật bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức,
nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, căn nguyên, chất liệu làm nên quy định cụ
thể của pháp luật (các yếu tố kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, đạo đức...). Ta
thấy được khía cạnh nguồn nội dung không có nhiều ý nghĩa cả trong khoa học pháp
lý và thực tiễn. Ngược lại, vấn đề nguồn hình thức lại luôn được quan tâm cả trên
bình diện nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn.

Trong đời sống pháp lý, khi thực hiện hành vi cụ thể, các CQNN, người có thẩm
quyền hay các các nhân, tổ chức trong xã hội đều phải dựa trên những căn cứ pháp
lý nhất định. Chính vì vậy, các chủ thể trong xã hội có nhu cầu tìm các căn cứ pháp
lý phù hợp với hành vi của mình. Những yếu tố chứa đựng, cung cấp căn cứ pháp lý
cho hoạt động của các chủ thể được gọi là nguồn của pháp luật.

Phương thức tạo nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.

Hiện nay, Việt Nam công nhân các yếu tố sau đây là nguồn của pháp luật:

1. Văn bản QPPL;

2. Tập quán pháp;

3. Án lệ;

4. Điều ước quốc tế;

5. Quan niệm, quan điểm, đạo đức xã hội;

6. Hợp đồng;

7. Pháp luật nước ngoài.

Tương ứng với các yếu tố này là các phương thức tạo nguồn sau đây:
Thứ nhất, ban hành VBQPPL. Văn bản QPPL là văn bản do cơ quan có thẩm quyền
ban hành, chứa đựng các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
và đảm bảo thực hiện bằng . Như vậy, bản chất của việc ban hành VBQPPL và việc
nhà nước tạo ra QPPL dưới dạng văn bản. Nhà nước có thể tạo ra QPPL hoàn toàn
mới hoặc công nhận, thừa nhận các giá trị của các quy phạm xã hội rồi nâng lên
thành QPPL.

Việc ghi nhận các giá trị quy phạm xã hội tạo ra đồng thời 02 loại nguồn của pháp
luật là VBQPPL và quan niệm, quan điểm, đạo đức xã hội.

Thứ hai, công nhận, áp dụng tập quán pháp. Tập quán pháp là những tập quán được
nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý, trở thành những quy tắc xử sự chung và được
nhà nước đảm bảo thực hiện. Hiện tại, có 02 con đường hình thành tập quán pháp ở
Việt Nam:

+ Một là, ghi nhận trong các VBQPPL. Đây thực chất là việc ban hành VBQPPL có
chứa quy phạm tập quán;

+ Hai là, áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc cụ thể. Khác với con đường hình
thành thứ nhất giao thoa với phương thức ban hành VBQPPL, con đường hình thành
thứ hai của tập quán pháp không có tính quy phạm phổ biến. Đây chính là điểm làm
nên đặc trưng của phương thức công nhận, áp dụng tập quán pháp làm nguồn của
pháp luật Việt Nam.

Thứ 3 , ban hành án lệ. Ở nước ta, án lệ là bản án, quyết định của tòa án khi giải
quyết tình huống cụ thể, được nhà nước thừa nhận có tính khuôn mẫu để giải quyết
các tình huống tương tự. Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao có thẩm
quyền lựa chọn các bản án, quyết định của Tòa án các cấp làm án lệ.

Thứ tư, tham gia điều ước quốc tế. Với việc hội nhập sâu rộng với quốc tế, Việt
Nam tham gia rất nhiều điều ước quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Đây là một loại nguồn
quan trọng trong tiến trình hội nhập với thế giới. Nhà nước có thể nội luật hóa điều
ước quốc tế bằng cách ban hành VBQPPL có chứa nội dung của điều ước quốc tế
hoặc quy định về các trường hợp áp dụng trực tiếp theo thứ tự ưu tiên áp dụng: Hiến
pháp, điều uớc quốc tế, các văn bản pháp luật, các văn bản dưới luật. Do hiến pháp
là đạo luật gốc có tính pháp lý cao nhất của một quốc gia, khi điều ước quốc tế có
các điều khoản trái với hiến pháp thì nhà nước sử dụng quyền bảo lưu để sửa đổi
hiến pháp cho phù hợp rồi mới áp dụng điều ước quốc tế.
Thứ năm, tôn trọng thỏa thuận hợp pháp giữa các bên trong quan hệ hợp đồng dân
sự, thương mại... Xuất phát từ đặc điểm của các QHPL tư pháp (theo cách phân loại
của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa - dân luật) là tự do, tự nguyện cam kết, thỏa
thuận, nhà nước quy định rõ vai trò của hợp đồng trong việc hình thành, thay đổi
hay chấm dứt QHPL giữa các bên. Chính điều này đã làm cho hợp đồng trở thành
nguồn của pháp luật. Lúc này, hợp đồng chứa đụnng căn cứ pháp lý cho các bên
thực hiện hành vi của mình.

Thứ sáu, thừa nhận hiệu lực của pháp luật nước ngoài. Rất nhiều QHXH được điều
chỉnh bởi cả pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài. Do đó,
pháp luật nước ngoài được công nhận là một nguồn của pháp luật Việt Nam. Tuy
nhiên, việc ADPL nước ngoài phải tuân thủ chặt chẽ các điều kiện cũng như trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định.

46. Phân tích khái niệm văn bản qui phạm pháp luật, cho ví dụ. Trình bày ưu
thế của văn bản quy phạm pháp luật so với các loại nguồn khác của pháp luật.
ĐN: Văn bản QPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung,
do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục và hình thức
luật định, được nhà nước bảo đảm thực hiện và được sử dụng nhiều lần
trong cuộc sống.

Văn bản QPPL có các đặc điểm sau:

- Là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung.

- Do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục được
pháp luật quy định. (VD: Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng,….)
=>mang tính pháp lý cao

- Có tên gọi cụ thể theo quy định của pháp luật như Hiến pháp, luật, nghị
định,..

- Được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp như tuyên
truyền, tổ chức thực hiện,..và đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế.
- Được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống cho nhiều vụ việc hay những
đối tượng khác nhau trong thời gian văn bản có hiệu lực.

- Dễ phổ biến, dễ kiểm soát, đơn giản khi ban hành hoặc sửa đổi, có tính
khái quát cao.
>>> Văn bản qui phạm pháp luật vừa là nguồn , vừa là hình thức pháp
luật quan trọng bậc nhất . Đây là hình thức pháp luật thành văn, thể
hiện rõ nét nhất tính xác định về hình thức của pháp luật.

* Một số văn bản luật: Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật
hình sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật giao thông đường bộ
2008,..vv…
* Ví dụ về văn bản dưới luật

▪ Pháp lệnh số 10/2014/UBTVQH13 (PHÁP LỆNH Cảnh sát môi trường)

▪ Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính


trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt
* Ưu điểm:
- VBQPPL được hình thành do kết quả của hoạt động XDPL, thường thể hiện
trí tuệ của một tập thể và tính khoa học tương đối cao.
- Các quy định trong VBQPPL được thể hiện thành văn nên rõ ràng, cụ thể, dễ
bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của HTPL, dễ phổ biến, dễ áp dụng, có thể được
hiểu và thực hiện thống nhất trên phạm vi rộng.(điều chỉnh)
- Độ chính xác cao
47. Phân tích khái niệm tập quán pháp. Trình bày những ưu điểm, hạn chế của
tập quán pháp. Cho ví dụ minh hoạ.
ĐN: Tập quán pháp là những tập quán của cộng đồng phù hợp với ý chí
của nn được nn thừa nhận, nâng lên thành PL.
VD: tập quán ăn Tết cổ truyền, phong tục Giỗ tổ Hùng Vương, tập quán
xác định họ, dân tộc cho con...
Tập quán pháp có thể được tạo ra từ hdong của cơ quan lập pháp, hoặc cơ
quan tư pháp. Song nn thường chỉ thừa nhận những tập quán ko trái với
những giá trị đạo đức xh và trật tự công cộng.
2. Giải thích định nghĩa

Tập quán pháp vừa là một loại nguồn, đồng thời cũng là một hình thức thể
hiện, một dạng tồn tại của pháp luật trên thực tế. Ở hình thức này, pháp
luật tồn tại dưới dạng thói quen ứng xử của cộng đồng. Một tập quán khi
chưa được nhà nước thừa nhận thì chỉ được bảo đảm thực hiện bằng thói
quen, bằng dư luận xã hội, nhưng khi được nhà nước thừa nhận là tập
quán pháp thì nó sẽ được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp
của nhà nước nên vai trò và tác dụng thực tế của nó được phát huy.

Việc nhà nước thừa nhận một tập quán thành tập quán pháp có ý nghĩa đối
với cả nhà nước và xã hội. Đối với nhà nước, tập quán pháp đóng vai trò
quan trọng tạo nên hệ thống pháp luật của một quốc gia. Đối với xã hội,
tập quán pháp thể hiện sự chấp nhận của nhà nước đối với một thói quen
ứng xử của cộng đồng, đó chính là sự thống nhất giữa ý chí nhà nước với
ý chí cộng đồng. agoda

Nhà nước thừa nhận tập quán thành tập quán pháp bằng nhiều cách thức
khác nhau, có thể liệt kê danh mục các tập quán được nhà nước thừa nhận,
viện dẫn các tập quán trong pháp luật thành văn, áp dụng tập quán để giải
quyết vụ việc phát sinh trong thực tiễn... Nói cách khác, tập quán pháp có
thể được tạo ra từ hoạt động của cơ quan lập pháp, cũng có thể được tạo ra
từ hoạt động của các cơ quan tư pháp khi áp dụng tập quán để giải quyết
một vụ việc cụ thể. Nhìn chung, nhà nước thường chỉ thừa nhận những tập
quán không trái với những giá trị đạo đức xã hội và trật tự công cộng.

Tập quán pháp là loại nguồn pháp luật được sử dụng sớm nhất, tồn tại một
cách khá phổ biến trong thời kỳ chưa có pháp luật thành văn. Tuy nhiên,
tập quán pháp có hạn chế là không xác định về hình thức, tản mạn,
thiếu thống nhất... nên cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã
hội, văn bản quy phạm pháp luật ngày càng chiếm ưu thế thì tập quán
pháp ngày càng bị thu hẹp phạm vi sử dụng. Trong điều kiện hiện nay, tập
quán pháp đóng vai trò là nguồn bổ sung cho các văn bản quy phạm pháp
luật. Thực tế cho thấy, trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật, với những lý do chủ quan và khách quan làm cho văn bản quy phạm
pháp luật có thể có những hạn chế nhất định. Trong điều kiện đó, tập quán
của địa phương là nguồn bổ sung quan trọng cho những khoảng trống
trong các văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật của các quốc gia thường
có các quy định cụ thể về thứ tự áp dụng đối với tập quán pháp và thứ tự
áp dụng tập quán pháp thường thấp hơn pháp luật thành văn.
ð Ưu: Ngấm sâu vào đời sống nhân dân -> thực hiện bằng ý thức tự
giác đó được nâng cao
Bổ sung cho lỗ hổng của pl trong th thiếu pl (th pl ko cần phải
đc, ko đc điều chỉnh hay, ko điều chỉnh được)
ð Nhược: Tính thống nhất, pb không cao
Lạc hậu với sự phát triển của xã hội

Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với
gia súc bị thất lạc:

“1. Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà
nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia
súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh
ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.

2. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh toán tiền
công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được gia súc. Trong thời gian nuôi
giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được
hưởng một nửa số gia súc sinh ra hoặc 50% giá trị số gia súc sinh ra và phải bồi
thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc”.

48. Phân tích khái niệm tiền lệ pháp. Trình bày những ưu điểm, hạn chế của tiền
lệ pháp. Cho ví dụ minh hoạ.

- Tiền lệ pháp là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết
các vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết
các vụ việc khác tương tự.

2. Phân tích

Tiền lệ pháp (án lệ) cũng vừa là nguồn, vừa là hình thức của pháp luật. Đây là loại
nguồn pháp luật khá phức tạp, mặc dù tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Với hình thức tiền lệ pháp, pháp luật tồn tại trong các bản án, quyết định hành
chính, tư pháp. Những bản án, quyết định này vốn được các chủ thể có thẩm quyền
ban hành để giải quyết những vụ việc cụ thể, đối với những cá nhân, tổ chức cá biệt,
xác định danh tính. Tuy nhiên, những lập luận, nhận định, phán quyết được chứa
đựng trong những văn bản đó rất điển hình, mẫu mực, giải quyết vụ việc một cách
khách quan, công bằng, “thấu tình, đạt lý”, chính vì vậy chúng được cơ quan có
thẩm quyền thừa nhận, phát triển thành khuôn mẫu chung để giải quyết các vụ việc
khác có tính chất tương tự.

Trong xã hội hiện đại, nhìn chung các quốc gia trên thế giới thường chỉ thừa nhận
tiền lệ pháp do tòa án tạo ra, vì vậy ngày nay tiền lệ pháp còn được gọi là án lệ. Trên
thực tế có hai loại án lệ, một là án lệ tạo ra quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp
luật mới, đây là loại án lệ cơ bản, án lệ gắn với chức năng sáng tạo pháp luật của tòa
án; hai là án lệ hình thành bởi quá trình tòa án giải thích các quy định trong pháp
luật thành văn

Loại án lệ thứ hai là sản phẩm của quá trình tòa án áp dụng và giải thích những quy
định do cơ quan lập pháp ban hành. Đó là sự giải thích những quy định mang tính
nguyên tắc chung, quy định có tính nước đôi, hàm ý rộng, không rõ nghĩa, mập mờ
hay có sự xung đột với quy định khác.

Pháp luật của mỗi quốc gia có các quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
pháp lý để tạo ra án lệ. Các bản án, quyết định được thừa nhận là án lệ sẽ được viện
dẫn làm căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ việc có tính chất tương tự.

Án lệ được hình thành từ hoạt động thực tiễn của các chủ thể có thẩm quyền khi giải
quyết các vụ việc cụ thể trên cơ sở khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải... nên
nó dễ dàng được xã hội chấp nhận. Với ưu điểm là linh hoạt, hợp lý, phù hợp với
thực tiễn cuộc sống., án lệ được coi là một loại nguồn pháp luật chủ yếu của nhiều
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế là thủ tục áp dụng phức tạp,
đòi hỏi người áp dụng phải có hiểu biết pháp luật một cách thực sự sâu, rộng.

Án lệ cũng có tính thứ bậc về hiệu lực pháp lý, điều này phụ thuộc vào thẩm quyền
của cơ quan tạo ra chúng. Khi đó, cơ quan cấp dưới bắt buộc phải tuân thủ án lệ do
cơ quan cấp trên tạo ra. Hiện nay, đa số các nước đều quy định thứ tự áp dụng án lệ
vào việc giải quyết các vụ việc là sau pháp luật thành văn, tức là nếu không có văn
bản quy phạm pháp luật quy định thì mới áp dụng án lệ.

VD: Điều 679 BLDS quy định con riêng và bố dượng/mẹ kế nếu có quan hệ chăm
sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con/mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau. Nhưng
đối chiếu với Điều 776 BLDS thì không biết người con riêng này được đứng ở đâu
trong ba hàng thừa kế (trong trường hợp thừa kế theo pháp luật). Thực trạng này làm
phát sinh những quan điểm trái chiều nhau. Trong một quyết định giám đốc thẩm
(năm 2009), Tòa Dân sự TAND Tối cao đã lập luận: Con riêng của vợ có quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng với bố dượng nên người con này được coi như con ruột của
ông bố dượng, tức được đứng vào hàng thừa kế thứ nhất (của bố dượng). Đây được
coi là một án lệ vì sau đó các tòa án địa phương đều xét xử theo hướng này.

49. Phân tích khái niệm qui phạm pháp luật. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu
qui phạm pháp luật.

1. Nêu định nghĩa: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định
hướng, mục đích của nhà nước.

2. Phân tích các đặc điểm của quy phạm pháp luật

a. Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội nên nó có tất cả các đặc điểm
của một quy phạm xã hội, đó là:

- Quy phạm pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực để định hướng cho nhận thức và
hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện,
hoàn cảnh do nó dự liệu thì đều phải xử sự theo những cách thức mà nó đã nêu ra.
Căn cứ vào quy phạm pháp luật, các chủ thể sẽ biết mình được làm gì, không được
làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh nhất
định. Ví dụ, căn cứ vào các quy tắc của Luật Giao thông đường bộ, người tham gia
giao thông sẽ biết mình được làm gì, không được làm gi phải làm gì và làm như thế
nào khi tham gia giao thông trên đường bộ.
- Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con
người. Căn cứ vào quy phạm pháp luật có thể xác định được hành vi nào là hợp
pháp, hành vi nào là trái pháp luật, hoạt động nào mang tính pháp lý và hoạt động
nào không mang tính pháp lý.

Quy phạm pháp luật được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức,
cá nhân cụ thể đã xác định mà là cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia vào
quan hệ xã hội do nó điều chỉnh. Ví dụ: Các quy phạm trong Luật Giao thông đường
bộ được đặt ra cho tất cả các chủ thể tham gia giao thông trên đường bộ.

Quy phạm pháp luật được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống cho đến khi
nó bị sửa đổi, bãi bỏ hoặc hủy bỏ, bởi vì nó được ban hành không phải để điều chỉnh
một quan hệ xã hội cụ thể, một trường hợp cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã
hội chung, tức là mọi trường hợp, khi điều kiện hoặc hoàn cảnh do nó dự kiến xảy
ra.

b. Quy phạm pháp luật chỉ do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện
nên nó luôn thể hiện ý chí của nhà nước (ý chí của chủ thể ban hành nhân danh nhà
nước).

c. Quy phạm pháp luật là công cụ để điều chỉnh quan hệ xã hôi nên nội dung của
quy phạm pháp luật thường thể hiện 2 mặt: cho phép và bắt buộc, tức là quy định
quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do nó điều
chỉnh.

d. Quy phạm pháp luật có thể phản ánh tính giai cấp, tính xã hội, tính hệ thống của
pháp luật và ở Việt Nam hiện tại, nó hủ yếu là những quy phạm thành văn.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu QPPL:

1. Giúp ta có tur duy liên kết, logic trong quá trình nghiên cứu khoa học pháp lý:
Việc nắm rõ kết cấu và cách thức sắp xếp của các bộ phận của QPPL giúp ta rèn
luyện khả năng tra cứu pháp luật trong quá trình nghiên cứu khoa học pháp lý. Ví
dụ: Một QPPL về Đất đai có thể được tách ra quy định tại Luật Đất đai, Nghị định
về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai...

2. Tạo cơ sở để vận dụng pháp luật đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo: Việc hiểu bản chất
các QPPL cho ta nhận thức đúng đắn về chúng, từ đó có khả năng vận dụng vào giải
quyết các vấn đề pháp lý thực tiễn một cách linh hoạt, sáng tạo;
3. Giúp ta có cơ sở để nhận thức đúng đắn về hệ thống pháp luật: Quy phạm pháp
luật là thành phần cấu tạo nên hệ thống pháp luật vì vậy, việc nghiên cứu QPPL sẽ
cho ta nhận thức đúng đắn, toàn diện về hệ thống pháp luật.

50. Phân tích cơ cấu của qui phạm pháp luật. Nêu ý nghĩa của từng bộ phận
trong qui phạm pháp luật.

ĐN: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và
mục đích của NN.

a. Giả định :

- Là bộ phận của QPPL nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong
cuộc sống mà khi gặp thì mn cần phải xử sự theo quy định của PL và chỉ rõ chủ thể
nào cần phải xử sự trong điều kiện, hoàn cảnh đó. Phần này còn nêu lên những điều
kiện, hoàn cảnh để áp dụng các biện pháp tác động của NN và chỉ rõ chủ thể nào sẽ
là đối tượng để áp dụng chế tài hoặc các biện pháp tác động khác của NN.

>> Vì vậy, bộ phận giả định của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: Ai? Khi
nào? Trong điều kiện, hoàn cảnh đó?

VD:

+) Khoản 1 điều 87 Luật giáo dục năm 2005 quy định: “Người được học các
chương trình giáo dục đại học nếu được thưởng học bổng, chi phí đào tạo do nhà
nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định kí kết với nhà nước thì sau khi
tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm việc có thời hạn của nhà nước; truờng
hợp không chấp hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo”.

>> Giả định trên là giả định đơn giản tức là nêu lên một điều kiện, hoàn cảnh có thể
xảy ra trong cuộc sống .

+) Điều 19 nghị định số 70/2001/NDDCP của chính phủ quy định chi tiết thi hành
luật hôn nhân và gia đình quy định: “Trong trường hợp người được cấp dưỡng 1 lần
lâm vào tình trạng khó khăn trần trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, mà
người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao
hơn thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người cấp dưỡng”.
>> Giả định trên là giả định phức tạp tức là nêu lên nhiều điều kiện hoàn cảnh có
thể xảy ra trong cs và khi xảy tất cả các đk, hcanh đó thì cá nhân, tổ chức được đề
cập mới chịu tác động của quy phạm.

b. Quy định :

- Là bộ phận của QPPL nêu lên cách xử sự hay quy tắc xử sự cho chủ thể khi ở
các điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của quy phạm. Đây là phần trực
tiếp thể hiện ý chí của NN, là mệnh lệnh của NN đối với các chủ thể, phần này
thường chỉ rõ quyền và nghĩa vụ pháp lí cho các chủ thể tham gia vào QHXH do
quy phạm điều chỉnh.

>> Vì vậy, bộ phận quy định của quy phạm thường trả lời cho các câu hỏi: được làm
gì? Ko được làm gì? Phải làm gì và làm ntn ?

- Phần quy định của QP gồm hai loại là dứt khoát và tùy nghi. Quy định dứt khoát
là quy định chỉ nêu lên một xử sự rõ ràng, dứt khoát cho chủ thể. Quy định tùy nghi
là quy định nêu lên nhiều cách xử sự, cho phép chủ thể lựa chọn và thực hiện một
trong các cách đó.

VD: Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập
tài sản riêng vào tài sản chung”.

>> Bộ phận quy định của quy phạm này là cụm từ “có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng của mình, nhập hoặc ko nhập tài sản riêng vào tài sản chung”
và là quy định tùy nghi.

c. Chế tài:

- Là bộ phận của QPPL nêu lên các biện pháp cưỡng chế mang tính chất trừng phạt
mà NN dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể được nêu trong phần giả định của
QPPL khi họ VPPL, ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ những nghĩa
vụ pháp lí đã được nêu trong bộ phận quy định của QPPL.

- Chế tài của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: chủ thể được nêu trong phần
giả định của QP có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi gì hoặc biện
pháp cưỡng chế nào nếu VPPL; hoặc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể áp
dụng những biện pháp cưỡng chế nào đối với các chủ thể VPPL?
- Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo cho các quy
định (những đòi hỏi, yêu cầu) của PL được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tế,
bởi vì, nó nêu lên các biện pháp cưỡng chế NN nhằm trừng phạt các chủ thể VPPL
và nhằm răn đe, phòng ngừa sự VPPL có thể xảy ra trong thực tế.

- Chế tài của QPPL có thể cố định, tức là chỉ nêu lên một biện pháp cưỡng chế
NN; song cũng có thể là ko cố định, tức là nêu lên nhiều biện pháp cưỡng chế NN,
cho phép các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể lựa chọn và áp dụng một trong
các biện pháp đó tùy theo mức độ vi phạm của chủ thể vi phạm.

- Chế tài của QPPL còn có thể được chia thành các loại như: chế tài hình sự;
chế tài hành chính; chế tài kỉ luật; chế tài dân sự…

- Ngoài chế tài, để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh, NN còn quy
định các biện pháp tác động khác như: khen thưởng, khuyến khích về vật chất, tinh
thần hoặc các lợi ích khác cho các chủ thể có thành tích trong học tâp, công tác,
phục vụ…; các biện pháp pháp lí bất lợi nhưng ko mang tính chất trừng phạt… Vì
thể, bộ phận thứ ba của QPPL nên gọi là biện pháp tác động của NN hay biện pháp
bảo đảm thực hiện PL thì sẽ bao quát và chính xác hơn.

VD: Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 quy định “ Người nào xúc phạm nghiêm trọng
nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000đ
đến 30.000.000đ hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”

>> Giả định: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
khác”. Giả định trong trường hợp này đã nêu lên đối tượng phải chịu sự điều chỉnh
của quy phạm pháp luật này đó là người xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh
dự của người khác.

>> Quy định: không được nêu rõ ràng trong quy phạm pháp luật nhưng ở dạng quy
định ngầm. Theo đó, quy định trong trường hợp này là không được xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.

>> Chế tài: “bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”. Chế tài ở đây là biện pháp của Nhà
nước tác động đến chủ thể vi phạm pháp luật

51. Nêu các cách trình bày qui phạm pháp luật trong văn bản qui phạm pháp
luật. Qua đó, phân biệt qui phạm pháp luật với điều luật, cho ví dụ.
Quy phạm luật có thể được trình bày trực tiếp điều của văn bản quy phạm pháp luật

Một quy phạm pháp luật có thể được trình bày trực tiếp trong một điều luật. Đây là
cách trình bày phổ biến của các quy phạm pháp luật.

Cũng có thể trình bày nhiều quy phạm pháp luật trong cùng một điều luật. Cách
thức này thường dùng để trình bày các quy phạm pháp luật có nội dung tương tự
như nhau, cùng liên quan đến một vấn đề, do vậy việc trình bày như thế sẽ tiện lợi
cho việc so sánh và nhận thức nội dung các quy phạm pháp luật đó. Trật tự trình bày
các bộ phận của quy phạm pháp luật trong điều của văn bản quy phạm pháp luật có
thể thay đổi chứ không

nhất thiết cứ phải trình bày đầu tiên là giả định rồi sau mới tới quy định hoặc chế
tài... của quy phạm.

Quy phạm pháp luật có thể được trình bày theo cách viện dẫn đến điều cụ thể nào đó
của văn bản quy phạm pháp luật | Với cách trình bày này có thể trình bày một quy
phạm pháp luật trong nhiều điều luật khác nhau, nghĩa là, một bộ phận nào đó của
quy phạm pháp luật có thể được viện dẫn (giới thiệu) đến các điều, khoản cụ thể
khác trong cùng văn bản quy phạm pháp luật đó hoặc trong văn bản quy phạm pháp
luật khác.

Quy phạm pháp luật có thể được trình bày theo cách viện dẫn không cụ thể

Cũng có trường hợp quy phạm pháp luật không được trình bày đầy đủ, một bộ phận
nào đó của quy phạm pháp luật được viện dẫn (giới thiệu) đến các nguồn pháp luật
khác nhưng không nêu cu thể điều của văn bản quy phạm pháp luật nào. Chẳng hạn,
tổ chức, cá nhân nào vi phạm những quy định sau đây... thì bị xử lí theo pháp luật.
Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật này đã không được viện dẫn đến một địa
chỉ cụ thể mà chỉ nói rất chung chung là bị xử lí theo pháp luật.

Mặc dù các quy phạm pháp luật được trình bày rất đa dạng trong các loại nguồn
pháp luật khác nhau nhưng chúng đều thể hiện một mô hình chung là: “nếu… thì...
còn nếu khác thì…”. Việc tiếp cận quy phạm pháp luật theo mô hình này sẽ giúp
cho | việc nhận thức và thực hiện các quy phạm pháp luật một cách chính xác và đầy
đủ.

Phân biệt QPPL với điều luật: QPPL và điều luật là hai hiện tượng pháp lý độc lập.
Nếu QPPL là một bộ phận cấu thành của pháp luật trên phương diện nội dung, thì
điều luật lại là sự biểu hiện của pháp luật về mặt hình thức. Hay nói dễ hiểu hơn,
điều luật là sự thể hiện của QPPL trong các VBQPPL. Như đã trình bày bên trên,
một QPPL có thể nằm trọn vẹn trong một điều luật hay bị chia lẻ và đặt trong các
điều luật khác nhau. Ngược lại, một điều luật có thể chứa nhiều QPPL khác nhau
(các ví dụ mình đã lấy bên trên). Đây chính là sự khác biệt giữa QPPL với điều luật.

52. Phân tích bộ phận chế tài của qui phạm pháp luật. Tại sao trên thực tế, bộ
phận chế tài thường không cố định. Phân tích cơ cấu của qui phạm pháp luật.

Định nghĩa: Chế tài là một bộ phận của QPPL quy định các biện pháp cưỡng chế
mang tính chất trừng phạt mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể khi rơi
vào tình huống, hoàn cảnh trong phần giả định nhưng không thực thực hiện, hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ những hành xử trong phần quy định của QPPL.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 168 BLHS 2015 quy định như sau: "Người nào dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù
tù̀ 03 năm đến 10 năm."

Một số đặc điểm của bộ phận chế tài trong QPPL :

1. Chế tải cho biết những hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể có thể phải gánh chịu
hoạc CQNN có thể áp dụng với chủ thể: Chế tài là những biện pháp cưỡng chế
mang tính QLNN được áp dụng đối với chủ thể khi rơi vào tình huống trong phần
giả định của QPPL nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy
đủ yêu cầu thuộc phần quy định của QPPL. Lúc này, CQNN có thẩm quyền ADPL
có quyền cá biệt hoá bộ phận chế tài cho vi phạm của chủ thể. Ví dụ: Công ty trốn
thuế 200 000 000 VNĐ. Căn cứ khoản 1 Điều 200 BLHS năm 2015, công ty có thể
phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi sau: (i) phạt tiền từ 100 000 000 đồng đến
500 000 000 đồng, (ii) phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Lúc này, căn cứ vào tình tiết
vụ án, Tòa án có thể tuyên phạt công ty A mức hình phạt (chế tải) phù hợp với hành
vi của công ty .

2. Chế tài có tính đa dạng và thường không cố định: Do tính chất phức tạp của
QHXH và để đạt được hiệu quả quản lý nên nhà nước thường ban hành nhiều loại
chế tài với những mức độ khác nhau để phù hợp với từng trường hợp vi phạm. Một
số loại chế tài có thể kể đến như sau: (i) phạt cảnh cáo, (ii) phạt tiền, (iii) phạt cải
tạo không giam giữ, (iv) phạt tù... Ví dụ: Khoản 1 Điều 192 BLHS năm 2015 quy
định hai loại chế tài áp dụng với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả: (5) phạt tiền
từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, (") phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Tủy mức độ vi phạm mà có thể áp dụng chế tài theo mức độ khác nhau.
Ý nghĩa: Chế tài là bộ phận quan trọng để đảm bảo cho các quy định (những đòi hỏi,
yêu cầu) của pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Do vậy, nếu các biện pháp
trong chế tài được quy định không phù hợp (chúc hạn quá nặng hoặc quá nhẹ) thể
thể dụng răn đe, trừng phạt chúng sẽ kém hiệu

Bộ phận chế tài của QPPL có thể có đỉnh lại hàng cố định:

. Chế tài cố định: là chế tài trong đó nếu chính xác, cụ thể biện pháp tác động sẽ áp
dụng đối với chủ thể VPPL. Ví dụ. Khoản 1 Điều 25 Nghị định 100/2019/NĐ- CP
quy định “Phạt cảnh cáo người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô,
xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự xe mô tả hoặc điều khiển xe
ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô." Quy định trên có phần chế tài nêu
chính xác biện pháp tác động đối với hành vi vi phạm là Phạt cảnh cáo.

2. Chế tài không cố định: là chế tài nêu lên nhiều biện pháp tác động (không nếu
biện pháp tác động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát hoặc chỉ quy định mức
thấp nhất và cao nhất của biện pháp tác động). Ví dụ Khoản 1 Điều 11 Nghị định
100/2019/NĐ-CP quy định “Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với
người được chở trên xe đạp, xe đạp máy sử dụng ô (dù). "Trong trường hợp này.
phần chế tài Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đã quy định mức xử phạt
thấp nhất là 80.000 đồng và mức cao nhất là 100.000 đồng mà không quy định cụ
thể mức phạt là bao nhiêu, Từ đó cơ quan thi hành pháp luật có thể lựa chọn mức
phạt hợp lý dựa trên tính chất của hành vi vi phạm cụ thể

Trên thực tế, bộ phận chế tài thường không cố định vì hành vi VPPL thưởng đã

dạng nên nếu chỉ đề ra một chế tài trong QPPL thì sẽ không thể xử lý một cách phù
hợp mọi hành vi vi phạm được. Vì vậy, pháp luật cho phép các chủ thể có thẩm
quyền ADPL lựa chọn, điều chỉnh mức độ áp dụng các chế tài cho phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của từng vụ việc cần áp dụng để làm tăng hiệu quả xử lý
VPPL, đảm bảo tính răn đe, giáo dục...

53. Phân tích cơ cấu của qui phạm pháp luật. Việc thể hiện nội dung từng bộ phận
của qui phạm pháp luật có ảnh hưởng gì đến việc thực hiện pháp luật trên thực
tế.
Cơ cầu của Quy phạm pháp luật gồm 3 bộ phận

1. Giả định: là bộ phận của QPPL nếu lên những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện)
có thể xảy ra trong đời sống xã hội mà QPPL sẽ tác động đối với những chủ thể (tổ
chức, cá nhân) nhất định. Giả định là bộ phận không thể thiếu của QPPL, nó thưởng
trả lời cho câu hỏi “ai”, “khi nào", "trong điều kiện, hoàn cảnh nào VD1: Xét QPPL
“Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm” thì giả định của
QPPL này là người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy.

2. Quy định: là một bộ phận của QPPL nêu lên những cách xử sự mà các chủ thể
được, không được, hoặc buộc phải thực hiện khi gặp phải tình huống đã nêu ở bộ
phận giả định của QPPL. Đây là bộ phận trực tiếp thể hiện ý chí của NN, là mệnh
lệnh của NN đối với các chủ thể. Bộ phận quy định thường trả lời cho câu hỏi "được
làm gì”, “không được làm gì" hay "phải làm gì và làm như thế nào". Phần quy định
có thể dưới dạng quy định dứt khoát (chỉ đưa ra một xử sự rõ ràng, dứt khoát cho
chủ thể), chẳng hạn như "phải đội mũ bảo hiểm” trong VD1, cũng có thể dưới dạng
quy định tùy nghi (cho phép chủ thể được lựa chọn một trong các cách xử sự),
chẳng hạn như “vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của
mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung

3. Chế tài: là một bộ phận của QPPL quy định các biện pháp cưỡng chế mang tính
chất trừng phạt mà nhà nước dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể VPPL,
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ những mệnh lệnh đã
được nêu trong phần quy định pháp luật. Chế tài của QPPL có thể cổ định (tức là chi
đưa ra một biện pháp cưỡng chế NN), hoặc không cố định (tức là đưa ra nhiều biện
pháp cưỡng chế để các chủ thể có thẩm quyền lựa chọn áp dụng), xem thêm phân
tích chi tiết về vấn đề này ở Câu 63. VD2: Xét QPPL “Người nào dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03
năm đến 10 năm", chế tài chính là "bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm"

Ý nghĩa của những bộ phận trong QPPL:

1. Giả định Ý nghĩa của bộ phận này là cho mọi người biết QPPL điều chỉnh QHXH
nào, ai và khi nào, trong điều kiện và hoàn cảnh nào thì cần phải xử sự theo quy
phạm đó. Bộ phận này cũng cho các CQNN có thẩm quyền biết là khi nào thì họ cầu
phải áp dụng các biện pháp tác động của nhà nước được quy định trong QPPL, áp
dụng đối với ai, đối tượng nào và điều kiện để áp dụng các biện pháp đó là gì.
2. Quy định: Ý nghĩa của bộ phận này là hướng dẫn cách xử sự cho các chủ thể
tham gia vào QHXH do QPPL điều chỉnh, chỉ cho mọi người biết khi ở vào điều
kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của QPPL thì họ được làm gì hay hành
vi nào họ được phép thực hiện; họ không được làm gì hay hành vi nào họ không
được phép thực hiện, họ phải làm gì hay hành vi nào họ bắt buộc phải thực hiện. Nói
cách khác, bộ phận quy định của QPPL chỉ cho mọi người biết các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của họ khi tham gia vào QHXH do QPPL điều chỉnh; đồng thời, nó cũng
chỉ cho mọi người biết ý chỉ, mong muốn, mục đích của nhà nước khi điều chỉnh
quan hệ đó.

3. Chế tài: Ý nghĩa của bộ phận này là chỉ cho mọi người biết những biện pháp
cưỡng chế nhà nước nào hay những hậu quả pháp lý bất lợi nào họ có thể phải gánh
chịu nếu tham gia vào QHXH do QPPL điều chỉnh mà không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý được nêu trong phần quy định
của quy phạm, tức là thực hiện không đúng những yêu cầu, mệnh lệnh của nhà nước
đối với họ. Vì thế, phần chế tài của QPPL được đặt ra nhằm răn đe, phòng ngừa sự
VPPL và nhằm trừng phạt các chủ thể VPPL để bảo đảm cho PL được thực hiện
nghiêm chỉnh. Do vậy, có thể nói, trong số các biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì
chế tài là biện pháp quan trọng nhất, có tác dụng lớn nhất và có hiệu quả nhất.

54. Phân tích khái niệm hệ thống pháp luật. Trình bày ý nghĩa của việc nghiên
cứu hệ thống pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp
luật.

Khái niệm: Hệ thống PL là một chỉnh thể các hiện tượng PL (mà cốt lõi là các
QPPL, được thể hiện trong các nguồn PL) có sự liên kết, ràng buộc chặt chẽ thống
nhất với nhau, luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện việc điều chỉnh PL
đối với các QHXH

Đặc điểm của hệ thống PL

1. Hệ thống pháp luật được hình thành một cách khách quan, phụ thuộc vào các điều
kiện kinh tế xã hội của đất nước, các thành tổ của hệ thống PL là do chính các
QHXH mà chủng điều chỉnh xác lập, không phụ thuộc vào ý chí của ác chủ thể ban
hành PL.
2. Giữa các thành tố của hệ thống pháp luật luôn có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất
và phù hợp với nhau, có sự tác động qua lại lẫn nhau, phối hợp, hỗ trợ nhau trong
việc điều chỉnh các QHXH.

3. Hệ thống pháp luật luôn là tập hợp động, tỉnh ổn định chỉ là tương đối, phát triển
từ thời kì này sang thời kỳ khác cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh PL và tiến trình
phát triển của đất nước. Thông thường, khi các điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị,
xã hội... thay đổi, phát triển thì hệ thống PL cũng thay đổi, phát triển để đáp ứng
việc điều chỉnh PL đối với các QHXH ở mỗi thời kỳ. Do vậy, các quốc gia buộc
phải thường xuyên hoàn thiện hệ thống PL để tránh hiện tượng chồng chéo, phát
hiện những thiếu sót của các hiện tượng PL, kịp thời loại bỏ những quy định, những
hiện tượng không còn phù hợp, tạo lập những quy định, hiện tượng PL phù hợp,
không ngừng nâng cao hiệu quả điều chỉnh PL đối với các QHXH.

=> Ý nghĩa:

Đối với hoạt động xây dựng pháp luật

+ Khi xây dựng pháp luật phải luôn ý thức được rằng các quy định pháp luật, các
nguồn pháp luật luôn có mối liên hệ, ràng buộc, gắn bó chặt chẽ với nhau và phải
luôn thống nhất với nhau. Do vậy, các tổ chức và cá nhân có thẩm quyền khi ban
hành bất là một quy định pháp luật nào cũng phải chú ý đến tính hệ thống của nó,
nghĩa là, quy định pháp luật được ban hành phải bảo đảm sự thống nhất với các quy
định pháp luật khác, với các điều kiện thực thi nó. Nếu quy định hay nguồn pháp
luật mới ban hành mẫu thuẫn, không thống nhất với các quy định hay nguồn pháp
luật hiện hành thì hoặc là phải sửa đổi, huỷ bỏ quy định hay người pháp luật mới
ban hành hoặc là phải sửa đổi, huỷ bỏ các quy định hay nguồn pháp luật hiện hành
để luôn đảm bảo sự vận động phát triển và sự thống nhất của hệ thống pháp luật.
Tránh hiện tượng các quy định hay nguồn pháp luật của hệ thống pháp luật thiếu
đồng bộ, thiếu thống nhất sẽ làm cho tính khả thi thấp, khô đi vào cuộc sống.

+ Trong hoạt động xây dựng pháp luật thì nguồn pháp luật hiệu lực pháp lí thấp
không được ban hành trái với nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn và tất cả
chúng phải phù hợp với hiến pháp - luật cơ bản có hiệu lực pháp lí cao nhất.

+ Việc ban hành quy định hay nguồn pháp luật phải chú ý để khả năng thi hành nó
trên thực tế, nghĩa là, nó phải phù hợp và các thiết chế và cơ chế thực thi pháp luật
hiện hành. Nếu quy định hay nguồn pháp luật đó được ban hành không phù hợp với
các thiết chế và cơ chế thực thi pháp luật hiện hành thì hoặc là nó phải được sửa đổi,
huỷ bỏ hoặc là phải đổi mới, tổ chức lại các thiết chế và cơ chế thực thi pháp luật
hiện hành. Tránh hiện tượng các chủ thể ban hành pháp luật không chú ý đến khả
năng tổ chức thực hiện các quy định pháp luật mà mình đã ban hành

Đối với hoạt động thực hiện pháp luật

+ Xuất phát từ tính chất hệ thống của pháp luật đòi hỏi tất cả các quy định pháp luật
hiện hành đều phải được thực hiện nghiêm minh, các hiện tượng pháp luật đều phải
tối ưu. Việc thực hiện hay không thực hiện một quy định pháp luật nào đó luôn có
án hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc thực hiện các quy định pháp luật khác,
nghĩa là, việc thực hiện quy định pháp luật này sẽ là tiền đề, điều kiện để thực hiện
các quy định pháp luật khác Việc thực hiện quy định pháp luật này chỉ có thể được
tiến hành khi đã thực hiện các quy định pháp luật khác, nói cách khác

không thể chỉ thực hiện quy định pháp luật này mà không thực hiện quy định pháp
luật khác và ngược lại. Nhiều trường hợp một quy định hay một văn bản quy phạm
pháp luật không được thực hiện hoặc được thực hiện không nghiêm minh đã làm
cho các quy định hay văn bản pháp luật khác không thể thực hiện được. Điều này
cho thấy không thể coi thường việc thực hiện bất kì một quy định pháp luật nào xuất
phát từ tính hệ thống của pháp luật.

+ Khi tiến hành thực hiện, áp dụng pháp luật phải ưu tiên các quy định của hiến
pháp, của các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật cao hơn...

55. Phân tích các yếu tố cấu thành của hệ thống qui phạm pháp luật. Trình bày
căn cứ để phân định các ngành luật.

Hệ thống pháp luật có các bộ phận cơ bản hợp thành sau đây:

1. Quy phạm pháp luật: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt
ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh QHXH theo những định
hướng và nhằm đạt được những mục đích nhất định. Quy phạm là một hệ thống nhỏ,
được cấu tạo từ các bộ phận như giả định, quy định, chế tài.

2. Chế định pháp luật: là tập hợp hệ thống bao gồm một nhóm quy định một nhóm
điều chỉnh các QHXH có liên quan mật thiết với nhau. Tính chất chung của mỗi
nhóm quan xã hội đòi hỏi phải có những nhóm QPPL tương ứng để điều chỉnh. Việc
xác định đúng tính chất nhóm của QHXH là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc
hình thành chế định pháp luật.
3. Ngành luật: là tập hợp (hệ thống) bao gồm các QPPL điều chỉnh một loại QHXH
(những QHXH có chung tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội)
bằng những phương pháp nhất định.

Khoa học pháp lý đưa ra hai căn cứ để phân định pháp luật thành các ngành luật

1. Đối tượng điều chỉnh là tổng thể các QHXH được các QPPL của ngành luật
tương ứng điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các QHXH mà pháp
luật hưởng tới, tác động tới. Trên thực tế một QHXH có thể là đối tượng điều chỉnh
của hai hay nhiều ngành luật. VD: quan hệ sở hữu không chỉ là đối tượng điều chính
của luật dân sự mà còn là đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp, luật hành chính, luật
hình sự...

2. Phương pháp điều chỉnh là cách thức tác động của các QPPL lên các QHXH, tức
là tác động lên hành vi của con người. Có hai phương pháp điều chỉnh tiêu biểu đó
là mệnh lệnh - phục tùng và bình đẳng, thỏa thuận, tự định đoạt.

56. Phân tích khái niệm hệ thống nguồn của pháp luật. Trình bày vai trò của các
loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.

Khái niệm hệ thống nguồn của pháp luật.

Hệ thống nguồn của pháp luật là tập hợp tất cả các nguồn pháp luật, quan trọng hơn
cả là các VBQPPL có mối liên hệ mật thiết với nhau, được sắp xếp một cách thống
nhất, phù hợp với nhau vừa theo tinh chất của các QHXH mà chúng điều chỉnh, vừa
theo trật tự thang bậc hiệu lực pháp luật của chúng.

Theo tính chất của các QHXH mả pháp luật điều chỉnh có thể tập hợp, sắp xếp các
nguồn pháp luật thành các nhóm điều chỉnh một loại QHXH có chung tính chất
thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội và thường gọi là nguồn của ngành
luật. Tuy nhiên, do một số nguồn pháp luật, đặc biệt là VBQPPL có nội dung liên
quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên việc phân định này thường không triệt để và
gặp nhiều khó khăn, nhiều khi không thể thực hiện được.

Theo trật tự thứ bậc hiệu lực pháp luật thì các nguồn pháp luật được sắp xếp theo
dạng tòa tháp với trật tự nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật cao nhất (hiển pháp)
ở trên cùng, tiếp đến là các nguồn pháp luật khác (điều ước quốc tế, văn bản luật
thông thường) rồi đến các nguồn pháp luật khác có hiệu lực pháp luật thấp hơn (phụ
thuộc thẩm quyền và vị trí của các cơ quan đã ban hành ra chúng).
Giữa các nguồn pháp luật luôn có mối liên hệ, ràng buộc theo cả chiều ngang (giữa
các lĩnh vực với nhau) và chiều dọc (theo trật tự hiệu lực pháp luật), nhất là các văn
bản cùng quy định về một vấn đề không được phép chồng chéo, mâu thuẫn với
nhau. Các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật thấp không được trái với các nguồn
pháp luật có hiệu lực pháp luật cao. Nếu các nguồn pháp luật khác nhau quy định về
cùng một vấn đề mà mâu thuẫn nhau thi thực hiện theo nguồn pháp luật có hiệu lực
pháp luật cao hơn hoặc theo thứ tự ưu tiên đối với loại nguồn đỏ.

Về vai trò của các loại nguồn pháp luật

Thứ nhất, đối với nguồn nội dung của pháp luật, có thể thấy, căn cứ vào việc xác
định phạm vi và định nghĩa về nguồn pháp luật nêu trên, những gì được xác định là
căn cứ, cơ sở để xây dựng pháp luật nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý
chung cho các chủ thể trong xã hội sẽ được coi là nguồn nội dung. Nguồn nội dung
là căn cứ để xây dựng pháp luật để xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý nói chung
trên phạm vi rộng. Đây là việc xác định dành cho các nhà làm luật. Theo đó, những
đòi hỏi của đời sống kinh tế, xã hội, tính chất các quan hệ quốc tế, của việc thiết lập
trật tự xã hội, trật tự quốc tế… là những nguồn đầu tiên của luật nội dung. Nguồn
nội dung tiếp theo là đường lối, chủ trương của các lực lượng cầm quyền được thể
hiện tập trung ở cương lĩnh, đường lối của đảng cầm quyền ở những giai đoạn cụ
thể. Bên cạnh đó, các tập quán, tín điều tôn giáo, quan niệm đạo đức của mỗi dân
tộc, các quy ước chung có tính phổ biến của một số cộng đồng, phán quyết của các
cơ quan tài phán… là nguồn nội dung với ý nghĩa là chất liệu để xây dựng pháp luật.

Trong xã hội hiện đại, các điều ước quốc tế được các quốc gia tham gia ký kết, phê
chuẩn cũng được coi là một loại nguồn nội dung của pháp luật hiện đại. Sau khi ký
kết hoặc phê chuẩn các điều ước quốc tế, các quốc gia phải nội luật hóa chúng thành
pháp luật trong nước cho tương thích với các điều, khoản mà mình đã cam kết.
Trong quan hệ quốc tế, điều ước quốc tế có thể hiểu như “một bản hợp đồng” giữa
các quốc gia về nguyên tắc, các bên tham gia điều ước quốc tế là bình đẳng, tự do ý
chí, không bên nào bị ép buộc, qua đó tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho các bên
chính là các quốc gia. Việc tham gia trở thành các thành viên của một điều ước quốc
tế chính là sự tự nguyện của các quốc gia khi tự ràng buộc trách nhiệm của mình
trước cộng đồng quốc tế. Một trong những nghĩa vụ của các quốc gia là nội luật hóa
các điều ước quốc tế thành pháp luật của mình làm cơ sở cho các đối tượng điều
chỉnh của luật quốc nội tham gia để bảo đảm cho các cam kết quốc tế được thực
hiện trên thực tế. Như vậy, điều ước quốc tế ngày càng trở nên là một nguồn nội
dung quan trọng của pháp luật. Ví dụ, khi xây dựng Luật Biển năm 2012, Việt Nam
chắc chắn phải dựa vào Công ước của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 làm cơ
sở để xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể trong lĩnh vực này.

Thứ hai, đối với nguồn hình thức

Tập quán pháp vẫn tiếp tục là nguồn pháp luật quan trọng. Việc sử dụng loại nguồn
này chắc chắn có rất nhiều ý nghĩa không chỉ như một sự bổ khuyết hoặc chi tiết hóa
pháp luật thành văn. Tập quán còn được lựa chọn là “những luật tự nhiên” được
hình thành trực tiếp trong các hoạt động xã hội của con người. Nó đã được thử
thách, được kiểm nghiệm theo thời gian, được nhiều đời chấp nhận và cũng có nghĩa
là nó có sự hợp lý để có lý do tồn tại và cũng cần được coi trọng. Không phải ngẫu
nhiên mà pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực dân sự, ngay cả khi ban h

hành các bộ luật đồ sộ với hàng trăm, thậm chí hàng ngàn điều luật được sửa đổi, bổ
sung thường xuyên mà người ta vẫn phải viện đến tập quán (cả phương thức, yêu
cầu lựa chọn chung lẫn việc chỉ dẫn nội dung điều chỉnh liên quan đến tập quán).
Đây chính là sự thống nhất ý chí nhà nước với cộng đồng dân cư nhất định. Điều
này vừa nâng cao uy tín của nhà nước do tránh được sự can thiệp quá mức của
mình, vừa phát huy quyền tự chủ, tự quản của các cộng đồng dân cư theo khuynh
hướng “nhà nước gầy” để “xã hội béo” đang diễn ra hiện nay. Có quan điểm cho
rằng nên hạn chế sử dụng tập quán pháp vì “tập quán pháp không xác định, tản mạn,
thiếu thống nhất…”[2] Chúng tôi không cho là như vậy vì các tập quán được lựa
chọn là những tập quán tốt, phù hợp với xã hội hiện đại, phù hợp với các nguyên tắc
chung của pháp luật và chắc chắn nó không ảnh hưởng đến sự phát triển nên mới
được nhà nước chấp nhận.

Đối với tiền lệ pháp mà chủ yếu là án lệ, việc nghiên cứu và sử dụng cũng cần được
quan tâm hơn. Không thể căn cứ vào cái được gọi là hạn chế của nó như: “thủ tục áp
dụng phức tạp, đòi hỏi người áp dụng phải có hiểu biết pháp luật một cách thực sự
sâu, rộng”[3] để không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng. Nếu đòi hỏi người áp dụng
phải có hiểu biết pháp luật sâu, rộng thì đây là một điểm tích cực, cần phát huy để
nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật, tạo ra niềm tin đối với pháp luật
trong xã hội. Không những vậy, án lệ được hình thành từ yêu cầu trực tiếp từ thực
tiễn, trên cơ sở khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải… nên nó dễ dàng được xã
hội chấp nhận mà biểu hiện điển hình là khi án lệ được áp dụng thì thường có rất ít
các kháng cáo vì các đương sự tin vào sự mẫu mực của các phán quyết đã được tạo
ra từ trước đó với những lập luận có căn cứ cho vụ việc tương tự. Khi sử dụng pháp
luật, các nhà cầm quyền cũng nên đặt vấn đề một cách nghiêm túc rằng nếu án lệ có
những hạn chế như quan niệm truyền thống thì tại sao những quốc gia có truyền
thống Common Law lại là những quốc gia phát triển, chưa muốn nói các chuyên gia
pháp lý được đào tạo ở các quốc gia này được đánh giá rất cao, kỹ năng hành nghề
của họ rất tốt nên thường được người sử dụng rất coi trọng, đặc biệt về kỹ năng lập
luận của họ giúp cho việc áp dụng pháp luật trở nên rất hiệu quả.

Hợp đồng trong các giao dịch dân sự, trong các quan hệ lao động, thực hiện các dịch
vụ công… ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội hiện đại. Quan niệm về vai trò
của nhà nước cũng cần có những thay đổi trong việc can thiệp vào các hoạt động có
tính chất dân sự. Đó là khuynh hướng “nhà nước gầy, xã hội béo”. Những gì nhà
nước thấy không thực sự cần thiết can thiệp và xã hội tự giải quyết tốt thì nhà nước
không cần phải đặt ra các quy định pháp luật. Trong quan hệ với pháp luật thành
văn, hợp đồng giữa các bên cũng phải tuân thủ những quy định mang tính nguyên
tắc trong văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, đạo đức xã hội, lợi ích của
nhà nước, lợi ích của các bên tham gia cũng như những người có liên quan.

Hợp đồng được thiết lập giữa các bên chứa đựng các điều khoản cụ thể, chi tiết cho
mỗi bên biết và có cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như xác
định các căn cứ để khi xảy tranh chấp thì các cơ quan tài phán đưa ra các phán quyết
phù hợp. Vì vậy, hợp đồng được coi là pháp luật của các bên tham gia.

Các văn bản quy phạm pháp luật ngày nay càng khẳng định vai trò của nó trong đời
sống pháp luật. Về số lượng, các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng có xu
hướng áp đảo so với các loại nguồn khác. Văn bản quy phạm pháp luật có thể là
nguồn trực tiếp để áp dụng pháp luật, đồng thời cũng quy định căn cứ để xác định
các nguồn pháp luật khác, chẳng hạn khi nào thì áp dụng thỏa thuận (hợp đồng) của
các bên, tập quán nào có thể trở thành tập quán pháp, thứ tự ưu tiên lựa chọn
nguồn… như đã trích dẫn về áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 ở trên.

Các quan điểm học lý ngày nay đã được quan tâm hơn rất nhiều. Đó thường là
những đúc rút từ thực tiễn áp dụng pháp luật, nghiên cứu khoa học và sự xâm nhập
giữa các truyền thống pháp luật trong xã hội hiện đại. Đây là nguồn rất quan trọng
khi pháp luật thành văn chưa đầy đủ, nhà làm luật đã không bao quát được hết các
trường hợp có thể nảy sinh trong đời sống đang và sẽ xảy ra trong tương lai. Các
quan điểm học lý có ý nghĩa gợi mở cho các hoạt động thực tiễn, định hướng cho
việc hình thành cách giải quyết các yêu cầu của xã hội.

Các điều ước quốc tế với tư cách là nguồn hình thức cũng tham gia ngày càng nhiều
vào đời sống pháp luật của mỗi quốc gia. Điều này được thể hiện trong chính sự
thừa nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật quốc nội khi thường có một quy
định “trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định
khác thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế đó”. Ngay cả trong lĩnh vực tư
pháp quốc tế, các điều ước quốc tế ngày càng chứa nhiều quy phạm thực chất để giải
quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Do vậy, việc nghiên cứu các điều
ước quốc tế cũng cần được quan tâm hơn trong thực tế quan hệ quốc tế cũng như
hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật cho mỗi quốc gia.

Bên cạnh việc nghiên cứu từng nguồn luật cụ thể, cần chú ý hơn trong việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa các nguồn luật khác nhau.[4] Việc nghiên cứu này sẽ cho thấy
rõ hơn việc kết hợp giữa các nguồn luật sẽ tạo ra cơ sở pháp lý đa dạng cho các hoạt
động xã hội; có sự thúc đẩy, hỗ trợ để hình thành các nguồn khác nhau, bổ khuyết
cho nhau; thấy được ảnh hưởng làm hạn chế hiệu lực hoặc hỗ trợ làm sâu sắc hơn ý
nghĩa của nhau… Đặc biệt, sự kết hợp giữa các nguồn pháp luật có thể mang lại sự
đa dạng trong trong cách tiếp cận mới về pháp luật. Điều đó có ý nghĩa trong cả hai
lĩnh vực xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật cũng như đối với hoạt động
nghiên cứu và giảng dạy.

Nguồn pháp luật không chỉ là vấn đề riêng của khoa học pháp lý mà còn là của cả
đời sống pháp luật nói chung, có liên quan đến cả hoạt động nghiên cứu, giảng dạy,
xây dựng và áp dụng pháp luật. Đây là vấn đề rất phức tạp, có nhiều cách tiếp cận và
cần tiếp tục được nghiên cứu để có những hiểu biết đầy đủ và thống nhất hơn góp
phần bổ sung cho khoa học pháp lý cũng như thực tiễn pháp luật của đất nước.

Hệ thống quy phạm pháp luật có tính khách quan, còn hệ thống nguồn pháp luật
mang nhiều yếu tố chủ quan, phụ thuộc ý chí của chủ thể ban hành pháp luật.

57. Phân tích nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật. Theo anh/chị cần
làm gì để hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay thực sự dân chủ?

Nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật hiểu đơn giản là việc người dân được
tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật của nhà nước. Như vậy, nguyên tắc này
đòi hỏi hoạt động làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp; làm luật, sửa đổi luật cần có sự
tham gia của đông đảo người dân. Điều này thể hiện cụ thể như sau:

1. Người dân được quyền góp ý vào các dự thảo Hiến pháp, dự thảo luật: Việc góp
ý của người dân là rất cần thiết để đảm bảo tính xã hội, tính thực tiễn cũng như tính
phù hợp, khả thi của một văn bản pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp và luật. Hiến pháp
là một bản khế ước xã hội, là một "hợp đồng" giữa nhà nước với người dân, qua đó
nhà nước thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm, phát triển các quyền tự nhiên của người dân.
Đây là một văn bản tối quan trọng của một quốc gia, việc người dân, qua đó nhà
nước thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm, phát triển các quyền tự nhiên của người dân. Đây
là một văn bản tối quan trọng của một quốc gia, việc người dân được tham công tác
góp ý cho dự thảo Hiến pháp sẽ giúp nhà nước có cái nhin cu thế về nguyện vọng
của người dân, qua đó xem xét và đưa vào Hiến pháp nếu thấy cần thiết. Cũng tương
tự như vậy nhưng các văn bản luật lại trực tiếp hơn trong việc quy định các quy tắc
xử sự của người dân, đảm bảo tự do của người này không xâm phạm đến tự do của
người khác. Vì vậy, nếu người dân được tham gia góp ý cho những dự thảo luật,
những vấn đề thực tế trong đời sống sẽ được cung cấp trực tiếp từ người dân tới nhà
nước. Từ đó, nhà nước có cơ sở xây dựng các quy định bám sát thực tiễn đời sống,
đảm bảo tính phù hợp, khả thi của pháp luật;

2. Người dân được quyền quyết định việc ban hành hay không ban hành Hiến pháp.
luật: Điều này được hiểu là việc ban hành Hiến pháp hay các văn bản luật cần được
thực hiện thông qua con đường trưng cầu ý dân. Lúc này, người dân sẽ được quyết
định có ban hành Hiến pháp, luật hay không. Như đã phân tích ở phần trên, Hiến
pháp hay luật đề là những văn bản pháp luật vô cùng quan trọng của một quốc gia.
Hiến pháp, các bộ luật hay các luật gốc sẽ là căn cứ, cơ sở cho việc soạn thảo, ban
hành các luật khác hoặc các văn bản dưới luật. Với vai trò quan trọng và ảnh hưởng
lớn tới người dân, những văn bản này cần thiết phải được ban hành thông qua con
đường trưng cầu ý dân. Ví dụ: Hiến pháp là ca cứ để ban hành tất cả các văn bản
pháp luật khác, Bộ luật Dân sự là cơ sở để ban hành rất nhiều các luật như Luật Hôn
nhân và gia đình, Luật Thương mại...

3. Việc tham gia của người dân được mở rộng tới các văn bản QPPL khác: Khai
niệm xây dựng pháp luật nếu được hiểu theo nghĩa rộng sẽ bao gồm cả việc người

dân tham gia quy trình này. Việc người dân tham gia xây dựng pháp luật với đối
tượng là các văn bản dưới luật thể hiện ở việc người dân thực hiện quyền khiếu nại,
tố cáo những hành vi lợi dụng quy định lỏng leo trong những nghị định, thông tư để
trục lợi cá nhân, xâm phạm quyền lợi của người dân. Bằng hành vi khiếu

nại, tố cáo, người dân đã chỉ ra những thiếu sót trong hệ thống pháp luật để nhà
nước có cơ sở sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ những quy định thiếu sót, có vấn đề.

Ở Việt Nam hiện nay, ta có một số biện pháp để xây dựng pháp luật trở nên
thực sự dân chủ
1. Công khai thông tin rộng rãi tới người dân về các chương trình xây dựng pháp
luật: Việc công khai thông tin về các dự án luật là thực sự cần thiết tại Việt Nam vi
hầu hết người dân chỉ biết tới dự án xây dựng Hiến pháp. Có thể thấy, tuy có chủ
trường công khai nhưng việc công khai chưa được thực hiện tương xứng với tinh
thần của chủ trương, đường lối. Trên trang web chính thức về các dự thảo luật của
Quốc hội, ta có thể thấy rõ mục "Ý kiến người dân” nhưng khi click vào thì không
thấy ý kiến nào? Dù lý do cho việc này là gì thì nhà nước cũng đang thực hiện chưa
tốt công tác khuyến khích người dân tham gia xây dựng pháp luật. Vì vậy, nhà nước
cần thiết phải công bố rộng rãi các dự thảo luật để người dân biết và từ đó có cơ sở
để đóng góp ý kiến,

2. Cần cả hành lang pháp lý vững chắc tạo cơ sở để người dân tham gia thực chất
vào quá trình xây dựng pháp luật: Hiện nay, Luật Trưng cầu ý dân đã được Quốc hội
ban hành. Như vậy, ta có đủ cơ sở pháp lý cho việc thực hiện trưng cầu ý dân, tuy
nhiên Việt Nam vẫn chưa có một văn bản luật nào được ban hành thông qua trưng
cầu ý dân. Như vậy, các quy định cần cụ thể hơn và có cơ chế đưa những quy định
vào thực tiễn;

3. Có chính sách khuyến khích người dân tìm hiểu pháp luật, hiểu pháp luật để
người dân có cơ sở nhận thức đúng đắn khi tham gia xây dựng pháp luật: Việc chưa
có văn bản nào được ban hành thông qua hình thức trưng cầu ý dân cũng phần nhiều
là do nhà nước nhận thấy ý thức pháp luật ở Việt Nam chưa cao, người dân phần
đông còn chưa quan tâm, biết, hiểu pháp luật. Vì vậy, để thực hiện được nguyên tắc
dân chủ này, không thể thiếu vai trò của người dân trong việc nhận thức đúng đắn
tinh thần pháp luật. Về phía nhà nước, để phát huy vai trò này, nhà nước cần có
chính sách tuyên truyền, giáo dục pháp luật cũng như khuyến khích người dẫn tìm
hiểu pháp luật. Khi có kiến thức, sự tham gia của người dân trong xây dựng pháp
luật mới thực sự hiệu quả.

58. Phân tích nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật. Trình bày ý
nghĩa của nguyên tắc này trong xây dựng pháp luật

Nguyên tắc khách quan trọng xây dựng pháp luật thể hiện ở việc xây dựng pháp luật
phải dựa trên thực tiễn đời sống - xã hội. Pháp luật ra đời do nhu cầu quản lý nhà
nước, quản lý xã hội của tổ chức quyền lực đặc biệt nhất của xã hội nên để có thể
quản lý hiệu quả, công cụ mà tổ chức sử dụng phải có chức năng bám sát thực tiễn.
Muốn làm được như vậy, nội dung của pháp luật phải được xây dựng dựa trên thực
tiễn khách quan đang tồn tại và xảy ra trong xã hội. Một số yếu tố khách quan mà
nhà nước cần quan tâm khi xây dựng pháp luật:
1. Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Điều kiện kinh tế - xã hội là một yếu tố
quan trọng cần xem xét trong quá trình xây dựng pháp luật. Điều kiện kinh tế - xã
hội là cơ sở cho việc thực hiện quy định pháp luật trên thực tế, nếu không xem xét
đến yếu tố này, những quy định pháp luật được ban hành sẽ xa rời thực tiễn, không
thể thực hiện được. Ví dụ: Điều 62 Hiến pháp năm 1980 của nước CHXHCN Việt
Nam quy định về quyền có nhà ở của người dân. Theo quy định này, những ai
không có nhà sẽ được nhà nước xây nhà cho. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, tình hình
kinh tế - xã hội Việt Nam còn nhiều khó khăn nên quy định này đưa ra chỉ đảm bảo
được tính hình thức mà không thể triển khai được. Thậm chỉ trong giai đoạn hiện
nay, Việt Nam cũng chưa đủ điều kiện để đảm bảo quyền này cho người dân. Vì
vậy, Hiến pháp 2013 cũng không có quy định như vậy;

2. Đạo đức, phong tục tập quán hiện hữu và các quy phạm xã hội khác. Đạo đức hay
phong tục tập quán đều là những công cụ điều chỉnh QHXH, là thước đo chuẩn mực
hành vi đã ăn sâu vào tâm lý của người dân. Khi xây dựng pháp luật, việc xem xét
các chuẩn mực xã hội này là rất cần thiết để những quy định pháp luật được xây
dựng đạt độ hài hòa nhất định với các quy phạm xã hội khác. Do không thể nào triệt
tiêu hoàn toàn mâu thuẫn giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác nên nhà nước
cần xem xét để kết hợp chúng một cách hợp lý, tạo ra những quy định có tính thực
tiễn, khả thi cao,

3. Đặc điểm tâm lý, trình độ dân trí của người dân. Mỗi quốc gia, dân tộc lại có
những đặc điểm tâm lý và trình độ dân trí riêng, khác nhau. Việc xem xét trình độ
dân tri hay đặc điểm tâm lý là cần thiết khi ban hành pháp luật vì đây là yếu tổ quyết
định thái độ nói riêng hay ý thức pháp luật nói chung của người dân. Ví dụ: Ở các
nước châu Âu, trình độ dân trí của họ cao và ý thức pháp luật của họ cũng khá tốt
nên bất kỳ ai thực hiện hành vi VPPL hành chính đều sẽ bị xử phạt ở mức rất cao.
Điều này cũng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của những nước này.

Ý nghĩa của nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật:

1. Đảm bảo pháp luật mang tính phù hợp, khả thi: Cuộc sống là dòng chảy, pháp
luật là bờ của dòng chảy, bờ được xây càng sát với dòng nước thì khả năng điều tiết
càng tốt, tránh sự chảy tràn lan và cũng tránh sự cố ép dòng chảy. Pháp luật càng
khách quan thì khả năng triển khai được trên thực tế càng cao;

2. Đảm bảo hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Nếu pháp luật được xây dựng trên
thực tiễn đời sống xã hội pháp luật sẽ phát huy được khả năng điều chỉnh QHXH
của mình. Theo logic thông thường, một cái được sinh ra để làm gì thì nó sẽ làm tốt
việc đỏ nhất. Ví dụ: Con người trước khi không có công cụ để cắt xẻ thịt thì phải
dùng răng. Họ nghĩ ra cách mãi những miếng đã trở nên sắc hơn, nhọn hơn để xe
thịt, giúp việc ăn dễ dàng hơn. Như vậy, vật sắc nhọn có chức năng cắt xẻ sẽ giúp họ
cắt thịt tốt nhất. Tương tự như vậy, một QHXH đang có vấn đề, nhà nước nhận thấy
cần điều chỉnh quan hệ đô thị nhà nước sẽ ban hành một quy định liên quan trực tiếp
đến nó; lúc nảy, hiệu quả điều chỉnh tất nhiên cao hơn trường hợp nhà nước chỉ ban
hành xuống quy định mà không dựa trên thực tiễn.

59. Phân tích khái niệm pháp điển hóa pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa
của pháp điển hóa pháp luật.

Khái niệm: Pháp điển hoá là hoạt động của CQNN có thẩm quyền nhằm tập hợp các
quy định, các nguồn PL hiện hành, có thể chỉnh sửa, loại bỏ hoặc bổ sung thêm các
quy định cần thiết và sắp xếp chúng lại trong một chính thể thống nhất, khoa học
theo lĩnh vực hoặc theo chủ để để tạo thành một VBQPPL mới hoặc bộ pháp điển 2'
Phân tích khái niệm pháp điển hoá PL-Đặc điểm chính để phân biệt pháp điển hoá
với tập hợp hoả (một hình thức hệ thống hoá PL khác) đó là chủ thể thực hiện hoạt
động pháp điển hóa phải là CONN có thẩm quyền. Trong khi đó, bất kỳ ai đều có
thể là chủ thể của hoạt động tập hợp hoa.

Khái niệm pháp điển hoa PL. trong Giáo trình nêu trên là sự liệt kê 02 cách pháp
điển hoả, đó là pháp điển hoá về nội dung (substantive codification) và pháp điển
hoá về hình thức (formal codification):

1. Pháp điển hóa về nội dung. Có người gọi đây là pháp diễn lập pháp, pháp điển
truyền thống, pháp điền có tạo ra quy phạm mới... Đây là việc xây dựng, soạn thảo
một VBQPPL mới trên cơ sở rà soát, hệ thống hoá, tập hợp các quy định ở nhiều
VBQPPL hiện hành vào văn bản đó với sự sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh để phù hợp
với thực tiễn. Việc xây dựng các Bộ luật của nước ta như BLHS, BLDS, BLLĐ...
được thực hiện theo hình thức pháp điển này. Cách thức pháp điển này giống như
hoạt động lập pháp thông thường.

2. Pháp điển hoá về hình thức: Có người gọi là pháp điển không làm thay đổi nội
dung văn bản. Đây là cách thức tập hợp, sắp xếp các QPPL hiện có hiệu lực PL tại
nhiều văn bản khác nhau thành các bộ luật theo từng chủ đề cụ thể, với bố cục logic,
phù hợp, có thể kèm theo những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết nhằm làm cho các quy
định này phù hợp với nhau. Về nguyên tắc, việc sửa đổi, điều chỉnh trong quá trình
pháp điển hoa chỉ nhằm mục đích tạo nên sự hài hòa giữa các quy định, đảm bảo trật
tự của bộ pháp điển mà không nhằm tới mục đích tạo ra những chính sách pháp luật
mới và các quy định pháp luật đang có hiệu lực được tôn trọng một cách tối đa.

Ở VN, tại Điều 2 Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL quy định: "Pháp diễn là việc
CONN rà soát, tập hợp, sắp xếp các QPPL đang còn hiệu lực trong các VBQPPL do
CONN ở trung trong ban hành, trả Hiến pháp, để xây dựng Bộ pháp điều". Như vậy,
hoạt động pháp điền ở Việt Nam hiện nay là pháp diễn về hình thức, theo đó cơ
quan có thẩm quyền tập hợp, sắp xếp đầy đủ các QPPL tử cấp Thông tư trở lên đang
còn hiệu lực vào Bộ pháp điển theo trật tự hợp lý và thường xuyên, kịp thời cập nhật
QPPL mới vào Bộ pháp điển hoặc loại bỏ QPPL hết hiệu lực khỏi Bộ pháp điển mà
chưa đặt ra việc sửa đổi, bổ sung các QPPL thay thế hệ thống VBQPPL hiện hành.
Mục đích của hoạt động pháp điển hoả PL: Mục đích của hoạt động pháp điển hoa
PL nằm ngay trong phần khái niệm đã nêu, đó là nhằm tập hợp các quy định, các
nguồn PL hiện hành, có thể chỉnh sửa, loại bỏ hoặc bổ sung thêm các quy định cần
thiết và sắp xếp chúng lại trong một chỉnh thể thống nhất, khoa học theo lĩnh vực
hoặc theo chủ đề để tạo thành một VBQPPL mới hoặc bộ pháp điển.

Ý nghĩa của hoạt động pháp điển hoá PL

1. Tiện lợi trong việc tìm kiếm, tra cứu, thỏa mãn nhu cầu sử dụng và tìm hiểu các
quy định của pháp luật.

2. Bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao
sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.

3. Pháp điển góp phần nâng cao tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống QPPL.

4. Pháp điển hệ thống QPPL tạo thuận lợi trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật.

60. Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật. Việc một quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh có ý nghĩa gì đối với sự vận động và phát triển của nó.
Khái niệm: “Quan hệ pháp luật là QHXH do pháp luật điều chỉnh, trong đó các bên
chủ thể tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước quy định
hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện",23

Đặc điểm của QHPL:

I. Quan hệ pháp luật là QHXH có ý chi: Sở dĩ nói như vậy là bởi QHPL được hình
thành và điều chỉnh theo ý chỉ của con người. Tỉnh ý chỉ của QHPL thể hiện ở
những điểm sau:

QHPL thể hiện ý chí của nhà nước thông qua việc xác định QHXH cần điều chỉnh
bằng PL, qua việc quy định điều kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ và qua việc
quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào QHPL đó. VD:
Trong quan hệ giáo dục và đào tạo giữa sinh viên A và Trường Đại học Luật Hà Nội
thì ý chỉ của Nhà nước được thể hiện qua việc cho phép Trường Đại học Luật được
tổ chức tuyển sinh, đào tạo và cấp bằng cho người học, quy định điều kiện cho thí
sinh có thể tham gia vào quan hệ này, quy định

quyền và nghĩa vụ cho cơ sở giáo dục đại học, người dạy, người học trong

Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học. QHPL thể hiện ý chỉ của các chủ thể tham gia.
VD: QHPL giáo dục và đào tạo nói trên vừa thể hiện ý chí của Trường Đại học Luật
Hà Nội, vừa thể hiện ý chí của sinh viên A.

Lưu ý. Ý chỉ của các chủ thể khác luôn phải phù hợp, không được trái với ý chí của
nhà nước. Vì thế, có những QHPL hình thành vừa do ý chí của nhà nước, vừa do ý
chí của các chủ thể khác (VD: Quan hệ giữa người mua và người bán), song có
những QHPL hình thành chỉ do ý chí của nhà nước (VD: Quan hệ về xử lý VPPL
giữa nhà nước với người VPPL) 3-2. Các bên chủ thể tham gia QHPL có các quyền
và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện:
Khi tham gia vào bất cứ QHXH nào, các bên chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ đối
với nhau. Riêng trong QHPL, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể được quy định
trong PL và được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang tỉnh QLNN. Do vậy,
các quyền và nghĩa vụ đó được gọi là quyền và nghĩa vụ pháp lý, tức là các quyền
và nghĩa vụ được nhà nước quy định hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện. VD:
Trong quan hệ giáo dục và đào tạo đại học giữa người học và cơ sở đào tạo ở Việt
Nam thì quyền và nghĩa vụ của người học, người dạy và của cơ sở giáo dục được
Nhà nước quy định trong nhiều VBQPPL như Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học,
các nghị định của Chính phủ, các thông tư của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo...
Các quy định đó đều được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang
tỉnh QLNN

Ý nghĩa đối với sự vận động và PT của QHXH khi được PL điều chỉnh: Sự điều
chỉnh của PL khiến cho các QHXH được điều chỉnh phát triển theo định hưởng của
NN. QHXH xuất hiện và tồn tại một cách khách quan cùng với sự phát triển của XH
loài người. Tuy nhiên, nếu để cho QHXH tự do vận động, phát triển, rất có khả năng
mất kiểm soát, xâm hại đến lợi ích của các chủ thể tham gia. PL, với vai trò là một
công cụ điều chỉnh (bên cạnh các công cụ khác như đạo đức, phong tục tập quán...)
khiến cho các QHXH trở nên có trật tự hơn, nhờ đó, đáp ứng được yêu cầu quản lý
nhà nước. Bên cạnh đó, sự điều chỉnh của PL cũng chính là sự bảo đảm cho sự duy

trị của QHXH, bởi đôi khi, một bên trong QHXH muốn đơn phương chấm dứt
QHXH, khiến cho lợi ích của một bên bị tổn hại, ảnh hưởng.

61. Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật, (trùng câu hỏi) cho ví dụ về quan hệ
pháp luật cụ thể mà anh/chị tham gia hàng ngày.

Ví dụ về QHPL:

Minh ra Circle K ngõ 91 Nguyễn Chí Thanh mua cốc cafe thì quan hệ mua bán giữa

minh và Circle K chính là QHPL, Quan hệ này được pháp luật điều chỉnh (PL dân
sự, PL thương mại...) và được nhà nước bảo đảm thực hiện (thử không trả tiền xem,
hiểu văn để liền )

Lưu ý: Phần lấy ví dụ này thì không có gì quả là khó khăn vì các QHPL khá là phổ
biến trong cuộc sống của mọi người. Tuy nhiên, khi lấy ví dụ, mọi người nhớ cố
gắng phân tích ví dụ theo các nội dung lý thuyết vừa nêu, tránh tình trạng chỉ lấy ví
dụ 1-2 câu cụt ngủn nhé!

62. Phân tích những yếu tố bảo đảm việc thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của
chủ thể quan hệ pháp luật, cho ví dụ minh hoạ.

Trong QHPL, quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể được bảo đảm thực hiện bởi
những yếu tố sau
1. Nhà nước bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong QHPL thông
qua pháp luật. Quan hệ pháp luật là QHXH được điều chỉnh bởi pháp luật có nội
dung bao gồm các quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Khác với các QHXH khác, QHPL bao giờ cũng được pháp luật tác động, điều chỉnh.
Các chủ thể khi tham gia vào một QHPL sẽ được pháp luật quy định cho những
quyền và nghĩa vụ nhất định. Mặt khác, pháp luật có tính QLNN và được đảm bảo
thực hiện bằng QLNN. Vì vậy, các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho
các chủ thể sẽ được đảm bảo thực hiện bằng QLNN. Ví dụ: Trong quan hệ tinh cảm
giữa A và B, hai người cũng có những quyền và nghĩa vụ nhất định như quyền được
yêu thương và nghĩa vụ bảo bọc, chăm sóc lẫn nhau. Tuy nhiên, những quyền và
nghĩa vụ này không được bảo đảm bằng QLNN bởi quan hệ tinh cảm giữa A và B
không được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, nếu quan hệ tình cảm này tiến triển tới
một mức độ nhất định và A kết hôn với B. Lúc này, giữa A và B hình thành mối
quan hệ vợ - chồng được pháp luật quy định rõ ràng về quyển, nghĩa vụ trong Luật
Hôn nhân và gia đình. Khi A và B có con, cả hai sẽ có nghĩa vụ chăm sóc con cái.
Nếu một trong hai bên không thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên còn lại có thể yêu
cầu ly hôn và yêu cầu bên còn lại thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con mình;

2. Năng lực hành vi của chủ thể: Việc nhà nước quy định chủ thể có quyền và nghĩa
vụ khi tham gia các QHPL mới chỉ là cơ sở về chính sách pháp luật cho việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ chủ thể. Để có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
trên thực tế, chủ thể đòi hỏi phải có năng lực hành vi, nghĩa là khả năng thực tế thực
hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Ví dụ: Khi đi ra chợ mua đồ, để thực hiện được
nghĩa vụ trả tiền của minh, chủ thể phải có tiền. Nếu không có tiền thì nhà nước có
dùng quyền lực của mình để buộc họ trả tiền họ cũng không thể trả được.

3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong QHPL được bảo đảm thực hiện bằng ý chí
của các bên: Khi tham gia một QHPL, các bên có thể có những quyền và nghĩa vụ
với nhau và để giữ cho sự trong sáng của một OHPL, trước tiên, ý chí chủ thể là yếu
tố quan trọng. Quan hệ pháp luật mà chúng ta thường xuyên và ngày nào cũng tham
gia đó là QHPL dân sự. Nhà nước ban hành Bộ luật dân sự làm tiêu chuẩn xử sự cho
các bên, tuy nhiên, trong quan hệ này, tỉnh ý chỉ được nhà nước đặt lên cao hơn
pháp luật mà nhà nước ban hành. Nghĩa là, kể cả trong trường hợp có tranh chấp xảy
ra, nhà nước vẫn ưu tiên các bên thỏa thuận với nhau, dùng ý chí của mình để khiến
cho QHPL này được vận hành một cách đúng đắn. Vì dự: Joe ra chợ mua thịt lợn
của một có bán hàng. Joe nói với cô bán hàng rằng muốn mua 1 cần thịt. Lúc này,
có bản hàng sẽ cắt đúng 1 cân thịt cho Joe. Pháp luật quy định bên mua có nghĩa vụ
trả tiền và bên bản có nghĩa vụ giao hàng. Như vậy, Joe sẽ phải trả tiền 1 cân thịt
cho cô bán hàng, nhưng không may túi quần Joe bị rách và Joe bị rơi mất 20.000
đồng, giờ Joe chỉ còn 70.000 đồng, không đủ trả cho cô. Do đồng cảm với Joe, cô
bán hàng quyết định chỉ lấy 70.000 đồng cho 1 cân thịt đã cắt, Joe đồng ý và cảm ơn
cô. Lúc này, mối quan hệ giữa Joe và có thực hiện được là do ý chí tự nguyện, thiện
chí của các bên, không cần pháp luật phải can thiệp

4. Các quy phạm xã hội cũng góp phần bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của chủ thể trong QHPL: Không chỉ có pháp luật có khả năng bảo đảm thực hiện
quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong một QHPL mà các quy phạm xã hội khác cũng
góp phần không nhỏ bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ này. Dẫn

chứng là đạo đức, các triết lý, giá trị đạo đức đã in sâu vào trong mỗi người ngay từ
khi còn nhỏ. Vì vậy, khi tham gia vào các QHXH được pháp luật điều chỉnh, có các
quyền và nghĩa vụ pháp lý, chủ thể vẫn không thôi bị tác động bởi đạo đức. Ví dụ:
Khi đi mua đồ ở chợ, quyền của chúng ta là được mua hàng, nhận hàng xong thì
phải trả tiền. Nếu ta lấy một cọng hành mà không trả tiền thì ta đã vi phạm nghĩa vụ
của mình trong QHPL này. Tuy nhiên, một cọng hành không đủ khiến nhà nước sử
dụng quyền lực của mình buộc ta trả tiền dù về mặt lý thuyết là có thể. Lúc này, đạo
đức mới là quy phạm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của ta. Lấy một cọng hành
mà không trả tiền đi ngược lại với những giá trị đạo đức, truyền thống văn hoá dân
tộc nên ta có thể tự giác lấy thêm một cộng hành nữa để đủ 1.000 đồng và trả tiền
cho người bán hàng.

63. Cho ví dụ về một quan hệ pháp luật cụ thể và xác định chủ thể, khách thể,
nội dung của quan hệ pháp luật đó.

Ví dụ về một QHPL:

Minh ra chợ mua thịt thì quan hệ mua bán giữa mình và cô bán thịt chính là QHPL,
Quan hệ này được pháp luật điều chỉnh (PL dân sự) và được nhà nước bảo đảm thực
hiện.

Chủ thể của QHPL: Minh và cô bán thịt. Cả hai đều là các cá nhân có đầy đủ năng
lực chủ thể (đều trên 18 tuổi, có đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi).

Khách thể của QHPL: Quyền sở hữu miếng thịt thơm ngon. xD Nội dung của
QHPL: (i) Minh có quyền nhận miếng thịt từ cổ bản thịt và có nghĩa vụ trả tiền, (ii)
Cô bán thịt có quyền được nhận tiền thanh toán và có nghĩa vụ phải cắt thịt đưa cho
mình.
64. Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của
việc thực hiện pháp luật.

Khái niệm: Thực hiện PL là hành vi thực tế, hợp pháp, có mục đích của chủ thể có
NLHVPL được hình thành trong qtrinh hiện thực hóa các quy định pl

Đặc điểm của thực hiện PL.

1. Thực hiện PL là hành vi hay xử sự thực tế của chủ thể: PL được ban hành để điều
chỉnh hành vi hay cách xử sự của mọi người, do đó, phải căn cứ vào hành vi hay
cách xử sự thực tế của các chủ thể thì mới có thể xác định được họ có thực hiện PL
hay không. Hành vi thực hiện PL có thể được thể hiện dưới dạng hành động (hành
vi đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe mô tô) hoặc dưới dạng không hành động
(người điều khiển xe mô tô không vượt đèn đỏ)

2. Thực hiện PL là hành vi hợp pháp: Thực hiện PL là việc các chủ thể làm theo các
yêu cầu của PL, do đó, nó chính là hành vi hợp pháp (hợp = phù hợp, pháp = PL).

3. Thực hiện PL là hành vi có mục đích: Trên cơ sở các QPPL, các cá nhân, tổ chức
tham gia vào QHPL tự mình thực hiện một hoặc các hành vi nhằm đạt mục đích
nhất định

4. Thực hiện PL là hành vi của chủ thể có NLHVPL: Chỉ các chủ thể có NLHVPL
mới có khả năng nhận thức được yêu cầu của PL để làm đúng các yêu cầu đó. Đối
với các chủ thể không có hay mất NLHVPL (không có khả năng nhận thức) thì các
quy định của PL không có ý nghĩa hoặc không có giá trị đối với họ.

Ý nghĩa của việc thực hiện PL.

1. Các quy định PL được hiện thực hóa, đi vào đời sống, trở thành hành vi thực tế,
cụ thể của các chủ thẻ. Nhờ đó ý chỉ, mục đích của nhà nước thể hiện trong các
QPPL trở thành hiện thực trong thực tế các chủ trương, chính sách, quy định PL của
nhà nước mới đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò, tác dụng và hiệu quả của
chúng: làm cho đời sống XH ổn định, trật tự, các quyền, lợi ích hợp pháp của cả
nhân, tổ chức được bảo vệ.

2. Trong quá trình tổ chức thực hiện PL, thông qua hoạt động phổ biến, GDPL sẽ
giúp cho các chủ thể có điều kiện nâng cao nhận thức PL, hiểu rõ hơn các quyền

và nghĩa vụ pháp lý của mình trong các QHPL, nhờ đó, tích cực và chủ động tham
gia vào các quan hệ đó, tiếp cận các nguồn lực để phát triển.
3. Thông qua việc thực hiện PL, những hạn chế, khiếm khuyết (nếu có) của PL sẽ
được bộc lộ, được phát hiện và được xử lý kịp thời, nhờ đó, pháp luật ngày càng
hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với thực tế cuộc sống.

65. Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật.( trùng câu hỏi) Trình bày các yếu
tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện PL

1. Yếu tố KT-XH Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về KT-
XH, hệ thống các chính sách KT-XH và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng
trong thực tế xã hội. Khi kinh tế phát triển, người dân có nhiều cơ hội để tiếp cận
với các quy định PL, nhờ đó, thực hiện đúng các yêu cầu của PL.. Ngược lại, một
kinh tế chậm phát triển sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện PL của chủ thể.
Chẳng hạn như ở VN trước đây, khi nền KT chưa phát triển, thiếu thốn phương tiện
truyền thông khiến cho người dân chỉ có thể nghe tuyên truyền PL qua loa phát
thanh hoặc một số buổi tuyên truyền kiến thức PL tại địa phương... Thời lượng tiếp
xúc với PL it khiến người dân khó lòng hiểu hết các quy định PL, do đó, họ dù có
muốn, có cố gắng cũng không thể thực hiện PL một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh.
Hơn nữa, khi nền kinh tế chưa phát triển, đời sống vật chất còn chưa đảm bảo, người
dân thường không có nhu cầu tìm hiểu PL, điều này cũng khiến cho việc thực hiện
PL gặp nhiều khó khăn.

2. Yếu tố chính trị Yếu tố chính trị là toàn bộ yếu tố tạo nên đời sống chính trị, bao
gồm: môi trường chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và quá trình tổ chức, thực hiện chúng. Một quốc gia có môi
trường chính trị dân chủ thì người dân sẽ có thể bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của
mình về các vấn để PL. Hệ thống PL nhờ đó sẽ hoàn thiện hơn, và người dân sẽ thực
hiện PL một cách tốt hơn, do quyền lợi của họ ít bị xung đột với các chính sách của
nhà nước. Yếu tố chính trị còn có ảnh hưởng đặc biệt đến các việc ADPL của các
chủ thể có thẩm quyền. Bởi lẽ, nếu chủ thể có thể thấm nhuần tư tưởng của Đảng,
thì việc ADPL sẽ đạt được hiệu quả cao, tránh tình trạng quan liêu, tham nhũng

3. Yếu tố văn hóa: Yếu tố văn hoá là tổng thể các yếu tố thuộc về một môi trường
văn hóa XH nhất định, gắn liền với một phạm vi không gian xã hội nơi các cả nhân
và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa
nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, lễ nghĩ... Ở những
nơi có phong tục, tập quán xung đột với quy định PL, thì việc

đảm bảo thực hiện PL là câu chuyện rất khó khăn. VŨ tình trạng tảo hôn ở các vùng
núi, vùng biên giới phía Bắc. Cá nhân sống trong môi trường văn hóa lành mạnh,
phần đông người dẫn thực hiện tốt pháp luật thi sẽ dễ dàng thực hiện tốt PL và
ngược lại. VD: Một người, kể cả khi không nắm rõ quy định PL nhưng nếu những
người xung quanh họ đều thực hiện PL một cách nghiêm chỉnh thì họ nhiều khả
năng cũng thực hiện PL nghiêm chính do làm theo những người xung

quanh. Ngoài ra, sự khác biệt về lối sống ở các địa phương cũng có ảnh hưởng khác
nhau đến việc thực hiện pháp luật.

4. Yếu tố pháp luật: Yếu tố pháp luật khổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp
luật của xã hội ở từng giai đoạn nhất định bao gồm hệ thống pháp luật, các QHPL...
Một hệ thống PL phù hợp với nhu cầu, lợi ích của người dân sẽ dễ được người dân
đón nhận, tự giác thực hiện hơn. Ý thức, niềm tin đối với PL của chủ thể pháp luật
cũng có ảnh hưởng quan trọng tới việc thực hiện pháp luật. Bởi lẽ, nếu thiếu sự tin
tưởng vào pháp luật, không có niềm tin vững chắc vào tính công bằng và nghiêm
minh của pháp luật...thì việc thực hiện pháp luật không thể tốt và chặt chẽ được

66. Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của
hoạt động áp dụng pháp luật.
67. Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày các bảo đảm của hoạt
động áp dụng pháp luật.
68. Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày các biện pháp khắc phục
hạn chế (nếu có) trong hoạt động áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
69. Phân tích khái niệm giải thích pháp luật. Trình bày sự cần thiết của việc
giải thích pháp luật.

Khái niệm: Giải thích pháp luật là làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng, ý nghĩa của
QPPL, bảo đảm cho pháp luật được nhận thức và thực hiện đúng đắn, thống nhất.

Phân tích:

Theo từ điển Tiếng Việt, “giải thích” là làm cho hiểu, là việc dùng lý lẽ để giảng
giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề. Như vậy, giải thích pháp luật có
thể hiểu là việc giảng giải, giúp người được giải thích hiểu rõ và hiểu đúng pháp
luật, từ đỏ thực hiện pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất.

Ở Việt Nam, thuật ngữ GTPL được xuất hiện lần đầu trong Hiến pháp năm 1959
(khoản 3 Điều 53), nhưng từ đó đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào chính thống
quan về GTPL. Các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý đưa ra nhiều điểm khác nhau
nhưng dù tiếp cận dưới góc độ nào, GTPL cũng phải hàm chứa các yếu tố sau:

1. Tính thẩm quyền. GTPL xuất hiện trong hầu hết các quá trình của hoạt động pháp
luật (xây dựng, thực hiện, áp dụng, giảng dạy, nghiên cứu), do đó, có rất nhiều cách
giải thích khác nhau về cùng một QPPL. Tuy nhiên, nếu không mang tính thẩm
quyền, thì việc GTPL chỉ có giá trị tham khảo, không có giá trị áp dụng. Bởi vậy,
yêu cầu bắt buộc là pháp luật phải được giải thích bằng một chủ thể mang tính
QLNN để có giá trị chính thức và bắt buộc về mặt pháp lý đối với các chủ thể áp
dụng.

2. Tính đối tượng. Đối tượng trực tiếp của GTPL là VBQPPL, ngoài ra, có thể là tập
quán pháp, tiền lệ pháp. VBQPPL vốn tiềm ẩn nhiều yếu tố cấu thành nguyên nhân
dẫn đến phải giải thể, như hiện tượng đa nghĩa, chuyển nghĩa của tử, tỉnh chất khái
quát của quy phạm, sự biến động của cuộc sống, ý thức và nhận thức khác nhau của
các chủ thể.

3. Tính mục đích: GTPL nhằm xác định ý nghĩa, nội dung của những QPPL trong
VBPL khi áp dụng, để nhận thức, thực hiện PL được đúng đắn và thống nhất. Sự
cần thiết của việc GTPL: Sở dĩ cần có hoạt động GTPL là vì các lý do sau:

1. QĐPL được ban hành bởi nhiều chủ thể có thẩm quyền ở nhiều thời điểm khác
nhau, ở nhiều địa phương khác nhau và trong những lĩnh vực khác nhau, do đó, khó
tránh được tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp giữa các quy định của pháp
luật. Vì thế, cần có sự GTPL để đảm bảo cho các quy định đó được nhận thức và
thực hiện thống nhất,

2. Kỹ thuật lập pháp hạn chế dẫn đến tình trạng các quy định pháp luật có thể hiểu
theo nhiều nghĩa khác với ý đồ lập pháp của chủ thể có thẩm quyền hoặc tối nghĩa,
không rõ nghĩa,

3. Ngôn ngữ vốn đa nghĩa, cùng một từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy
theo bối cảnh, nhiều khi có những QĐPL trừu tượng, chung chung, mập mờ, không
rõ nghĩa, gây khó khăn cho các chủ thể trong việc thực hiện, nhất là trong hoạt động
ADPL
Để khắc phục tình trạng trên, đảm bảo cho PL được nhận thức và thực hiện thống
nhất cũng như đảm bảo cho việc ADPL được đúng đắn, chính xác, thống nhất trong
cả nước thì cần phải có hoạt động GTPL, hoạt động làm sáng tỏ về nội dung, tư
tưởng, mục đích, hoàn cảnh, ý nghĩa của các QĐPL, làm rõ mối quan hệ giữa các
QPPL trong cùng một văn bản cũng như trong các văn bản khác nhau...

70. Cho một ví dụ về vi phạm pháp luật cụ thể và phân tích các dấu hiệu của vi
phạm pháp luật đó.

Ví dụ về VPPL cụ thể: A sử dụng tài liệu để làm bài thi tốt nghiệp THPT khi Quy
chế thì không cho phép, như vậy, A đã VPPL bởi VPPL là hành vi trái pháp luật và
có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các QHXH
được pháp luật bảo vệ. Phân tích các dấu hiệu của VPPL trên

1. Hành vi sử dụng tài liệu để làm bài thi của A là hành vi xác định hay xử sự thực
tế của thí sinh này, và hành vi đỏ được thực hiện bằng hành động cụ thể.

2. Đó là hành vi trái PL vì trái với Quy chế thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Đây là hình thức thực hiện hành vi bị pháp luật cấm vì trong Quy chế thi đã quy
định rõ là thí sinh không được mang tài liệu vào phòng thi.

3. A là người có năng lực trách nhiệm pháp lý, vì sinh viên A đã trên 16 tuổi, tức là
đã đạt đến độ tuổi mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành
vi này, có tri tuệ phát triển bình thường và có đủ khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi.

4. Hành vi sử dụng tài liệu làm bài thi của A là hành vi có lỗi, bởi vi khi thực hiện
hành vi này, sinh viên A đủ khả năng để nhận thức được hành vi của mình là trái
pháp luật, đủ khả năng nhận thức được hậu quả của hành vi đó là làm sai lệch kết
quả của bài thi, tức là không đánh giả đúng kiến thức mà A đã nắm bắt được đồng
thời, A hoàn toàn có thể điều khiển được hành vi của mình, đó là có thể sử dụng
hoặc không sử dụng tài liệu để làm bài thi.

5. Hành vi của A đã xâm hại QHXH được pháp luật bảo vệ, đó là trật tự, kỷ luật của
kỳ thi.

Lưu ý: Ví dụ kể trên được tham khảo từ cuốn "Hướng dẫn ôn và thi môn LLC về
NN & PL" xuất bản năm 2018 của cô PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi (trang 215). Khi đi

thi, để tránh bị trùng lặp, các bạn chỉ nên tham khảo cách trả lời kể trên chứ đừng
nói lại ví dụ này.
71. Cho một ví dụ về vi phạm pháp luật cụ thể và phân tích cấu thành của vi
phạm pháp luật đó.

Ví dụ về VPPL: Anh A (30 tuổi) và anh B (25 tuổi) cùng bản thịt lợn quay ở chợ C.
Hôm 23 Tết, do mâu thuẫn cá nhân trong việc tranh giành khách nên anh A đã cầm
dao chặt thịt chém nhiều nhát vào tay anh B làm cho anh B bị thương nặng. Hành vi
của anh A là VPPL, vì đó là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các QHXH được pháp luật bảo vệ. Phân tích
cấu thành của VPPL trên: Một VPPL bất kỳ được cấu thành từ 04 yếu tố

1. Chủ thể của VPPL trong ví dụ trên là anh A, vì anh A là người có đủ năng lực
trách nhiệm pháp lý bởi anh ta đã 30 tuổi và trí tuệ phát triển bình thường, đồng thời
đã thực hiện hành vi trái pháp luật là cầm dao chém vào tay anh B nhiều nhất đến
mức làm anh B bị thương nặng,

2. Khách thể của VPPL trong ví dụ trên là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng,
sức khỏe hay quyền tự do thân thể của anh B.

3. Mặt chủ quan

+ Lỗi: Lỗi của anh A là lỗi cố ý trực tiếp, bởi vì, khi thực hiện hành vi cầm dao
chém vào tay anh B nhiều nhát, anh A đủ khả năng nhận thức rõ hành vi của mình là
trái pháp luật, có thể thấy trước được hậu quả của hành vi đó là sẽ làm anh B bị
thương, nhưng vì đang thù ghét, nóng giận nên anh A mong muốn cho hậu quả đỏ
xảy ra.

+ Động cơ: Động cơ VPPL của anh A là trả thù do mâu thuẫn cá nhân. + Mục đích:
Mục đích VPPL của anh A là làm cho anh B bị thương để “dẫn mặt".

4. Mặt khách quan

+ Hành vi trái luật: Hành vi chém nhiều nhất vào tay B của A là hành vị trái pháp
luật (trái với quy định của Bộ luật Hình sự)

+ Hậu quả nguy hiểm cho XH: B bị thương nặng (tỷ lệ thương tật: 30%) + Mối quan
hệ nhân quả: Chính việc anh A chém nhiều nhất vào tay anh B mới khiến anh B bị
thương nặng

+ Thời gian VPPL: Hôm 23 Tết

+ Địa điểm VPPL: Chợ C


+ Phương tiện VPPL. Con dao chặt thịt

Lưu ý: Khi vấn đáp vào câu hỏi lấy ví dụ như câu này, các bạn nên nếu 1 chút lý
thuyết trước khi áp dụng lý thuyết vào tình huống. Chẳng hạn, về phương tiện
VPPL, đó là phương tiện mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật.
Trong tỉnh huống đã cho, phương tiện VPPL là con dao chặt thịt.

72. Phân tích khái niệm truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trình bày mục đích, ý
nghĩa của hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Khái niệm: Truy cứu trách nhiệm pháp lý là hoạt động thể hiện QLNN do CQNN
hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành nhằm cả biệt hoá bộ phận chế tải của
QPPL đối với các chủ thể VPPL.

Ví dụ: Khi CSGT ra Quyết định xử phạt người VPPL giao thông có nghĩa là cảnh
sát đã truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm đó.

Đặc điểm của truy cứu trách nhiệm pháp lý (04 đặc điểm):1. Truy cứu trách nhiệm
pháp lý là hoạt động thể hiện QLNN. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:

+ Hoạt động truy cứu TNPL do các CQNN, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc chủ
thể được pháp luật trao quyền tiến hành theo quy định của pháp luật và mỗi chủ thể
đó cũng chỉ được truy cứu trách nhiệm pháp lý trong một phạm vĩ nhất định theo
quy định của pháp luật. Chủ thể bị truy cứu TNPL là chủ thể VPPL. Ví dụ: Trưởng
Đại học Luật Hà Nội chỉ có quyền truy cứu trách nhiệm kỷ luật đối với cán bộ,
giảng viên, sinh viên và học viên của Trường khi họ vĩ phạm kỷ luật lao động hoặc
học tập của trường;

+ Truy cứu TNPL là sự tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước. Ý chí nhà nước được
thể hiện lần đầu khi ban hành các văn bản pháp luật quy định các biện pháp cưỡng
chế áp dụng với chủ thể VPPL. Hoạt động truy cứu TNPL khiển những biện pháp
cưỡng chế này trở thành hiện thực trong thực tế, do đó, nó là sự tiếp tục thể hiện ý
chí của nhà nước; Nội dung các quyết định được ban hành trong quá trình truy cứu
TNPL luôn thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể tiến hành truy cứu TNPL trên cơ
sở nhận thức và niềm tin nội tâm của họ về bản chất của vụ việc và các quy định của
pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể VPPL. Các quyết định này có ý
nghĩa bắt buộc thực hiện đối với các chủ thể VPPL và các chủ thể khác có liên quan.
Ví dụ: Nội dung bản án hình sự định tội và định hình phạt cho người phạm tội chi
thể hiện ý chí đơn phương của HĐXX mà không phụ thuộc vào ý chí của người
phạm tội và có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với người phạm tội.
2. Truy cứu trách nhiệm pháp lý là việc cả biệt hoá các biện pháp cưỡng chế nhà
nước được quy định trong bộ phận chế tài của các QPPL đối với chủ thể VPPL, tức
là áp dụng một biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể được quy định trong phần chế
tài của QPPL đối với chủ thể VPPL tuỳ theo mức độ vi phạm của họ. Ví dụ: Quyết
định kỷ luật sinh viên A với hình thức cảnh cáo của Nhà trường là sự cá biệt hỏa
quy định về các hình thức kỷ luật đối với sinh viên trong Quy chế của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.

3. Truy cứu trách nhiệm pháp lý là hoạt động cỏ trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ do
pháp luật quy định để có thể bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tinh đúng
đắn, chính xác của hoạt động truy cứu TNPL, hạn chế đến mức thấp nhất những sai
lầm có thể xảy ra, tránh hiện tượng oan sai, bỏ lọt vi phạm. Ví dụ: Việc xử lý người
vi phạm Luật giao thông đường bộ của CSGT phải theo đúng trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.

4. Truy cứu trách nhiệm pháp lý là hoạt động đòi hỏi phải sáng tạo. Bởi vì các vụ
việc VPPL xảy ra trong thực tế rất đa dạng và phức tạp, trong khi đó pháp luật
thưởng chi dự liệu những tình tiết có tính chất phổ biến, điển hình mà không mộ tả tỉ
mỉ từng tình tiết của vụ việc. Do vậy, khi truy cứu trách nhiệm pháp lý, các CONN,
nhà chức trách có thẩm quyền phải thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ,
chính xác, xem xét một cách toàn diện và kỹ lưỡng nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ việc, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật, lựa chọn QPPL
phù hợp để áp dụng sao cho đúng chủ thể, đúng tính chất, mức độ vi phạm. Ví dụ:
Đế quyết định một hình thức kỷ luật cụ thể đối với sinh viên vì phạm kỷ luật, nhà
trường phải căn cứ vào hành vi vi phạm cụ thể của sinh viên để lựa chọn và áp dụng
một hình thức kỷ luật cụ thể là khiển trách, cảnh cáo hay buộc thôi học.

Mục đích của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý:

1. Bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải. Pháp luật là thước đo chuẩn mực hành vi của con
người trong xã hội, pháp luật cũng là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, là công

cụ để Nhà nước bảo đảm công lý, lẽ phải trong xã hội. Xuất phát từ việc Nhà nước
muốn tồn tại và phát triển thì việc thực thi công lý trong xã hội phải được chú trọng
để người dân cảm thấy an toàn, cảm thấy quyền và lợi ích của họ được bảo đảm khi
sống trong xã hội do Nhà nước quản lý. Để công lý được thực thi thì một trong
những hoạt động phải được Nhà nước chủ trọng là truy cứu trách nhiệm pháp lý,
trừng phạt những người có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của người khác, xâm
phạm QHXH mà pháp luật bảo vệ.

2. Đảm bảo thực thi bộ phận chế tài trong QPPL: QPPL được Nhà nước ban hành
chỉ phát huy tác dụng, hiệu quả trong quản lý khi nó được triển khai thực hiện trên
thực tế. Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi VPPL giúp bộ
phận chế tài của QPPL được triển khai, thực hiện, bảo đảm tính hợp lý, khả thi của
chế tài mà Nhà nước ban hành. Ý nghĩa của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý: 1.
Với người có hành vi VPPL. Giúp họ nhận ra hành vi của họ đang đi sai chuẩn mực
hành vi theo pháp luật, từ đó họ phần nào nhận thức, nhận lỗi và sửa sai để không
tiếp tục thực hiện những hành vi VPPL khác;

2. Với chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp bị người có hành vi VPPL xâm phạm
Tạo tâm lý tin tưởng vào pháp luật của Nhà nước sẽ trừng phạt những người có hành
vi VPPL, xâm phạm quyền, lợi ích của họ. Từ đó, họ tiếp tục có những hành vì theo
đúng chuẩn mực pháp luật;

3. Với Nhà nước: Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là biểu hiện của việc Nhà nước
đang làm tốt nhiệm vụ, chức năng quản lý xã hội của mình. Ngoài ra, nó giúp Nhà
nước củng cố uy tin của mình, niềm tin của nhân dân vào nhà nước, từ đó đảm bảo
hoạt động ổn định của Nhà nước.

73. Phân tích yêu cầu, đòi hỏi đối với hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Một số yêu cầu, đòi hỏi với hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý như sau:

1. Hoạt động truy cứu TNPL phải do chủ thể thẩm quyền thực hiện: Hoạt động truy
cứu TNPL là hoạt động thể hiện QLNN, tuy nhiên, điều này không có nghĩa là mọi
chủ thể mang QLNN đều có quyền truy cứu TNPL với mọi VPPL. Mỗi chủ thể chỉ
được truy cửu TNPL trong một phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật. Hay
nói cách khác, ứng với mỗi VPPL cụ thể thì chủ thể có thẩm quyền truy cứu TNPL
lại khác nhau. Ví dụ: Trưởng Đại học Luật Hà Nội chỉ có quyền truy cứu trách
nhiệm kỷ luật đối với cán bộ, giảng viên, sinh viên và học viên của Trường khi họ vi
phạm kỷ luật lao động hoặc học tập của trường.

2. Hoạt động truy cứu TNPL phải dựa trên cơ sở là các chế tài của QPPL Hoạt động
truy cứu TNPL phải đảm bảo là hoạt động cả biệt hoá các biện pháp cưỡng chế nhà
nước được quy định trong bộ phận chế tài của các QPPL đối với chủ thể VPPL, tức
là áp dụng một biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể được quy định trong phần chế
tài của QPPL đối với chủ thể VPPL tuỳ theo mức độ vi phạm của họ. Ví dụ: Quyết
định kỷ luật sinh viên A với hình thức cảnh cáo của Nhà trường là sự cả biệt hóa
quy định về các hình thức kỷ luật đối với sinh viên trong Quy chế của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.

3. Hoạt động truy cứu TNPL phải tuân theo trình tự, thủ tục do luật định: Để đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tính đúng đắn, chính xác của hoạt động truy
cứu TNPL, hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm có thể xảy ra, tránh hiện tượng
oan sai, bỏ lọt vi phạm, các chủ thể có thẩm quyền khi thực hiện hoạt động truy cứu
TNPL phải tuân thủ trình tự, thủ tục luật định. Ví dụ: Việc truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với ông Đinh La Thăng phải tuân theo quy trình do luật định.

4. Hoạt động truy cứu TNPL phải được các chủ thể có thẩm quyền thực hiện một
cách sáng tạo, linh hoạt: Các vụ việc VPPL xảy ra trong thực tế rất đa dạng và phức
tạp, trong khi đó pháp luật thường chỉ dự liệu những tình tiết có tính chất phổ biến,
điển hình mà không mô tả tỉ mỉ từng tình tiết của vụ việc. Do vậy, khi truy cứu trách
nhiệm pháp lý, các CQNN, nhà chức trách có thẩm quyền phải thu thập và xử lý
thông tin một cách đầy đủ, chính xác, xem xét một cách toàn diện và kỹ lưỡng nhằm
xác định sự thật khách quan của vụ việc, so sinh, đối chiếu với các quy định của
pháp luật, lựa chọn QPPL phù hợp để áp dụng sao cho đúng chủ thể, đúng tính chất,
mức độ vi phạm. Ví dụ: Để quyết định một hình thức kỷ luật cụ thể đối với sinh viên
vi phạm kỷ luật, nhà trường phải căn cứ vào hành vi vi phạm cụ thể của sinh viên để
lựa chọn và áp dụng một hình thức kỷ luật cụ thể là khiển trách, cảnh cáo hay buộc
thôi học.

74. Phân tích căn cứ đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp
luật.

Mức độ nguy hiểm cho XH của VPPL được đánh giá dựa vào các yếu tố cấu thành
VPPL. Các yếu tố thuộc mặt khách quan của VPPL

1. Hành vi trái pháp luật xảy ra trong thực tế là một trong những cơ sở để xác định
mức độ nguy hiểm cho xã hội của VPPL. Ví dụ, hành vi sử dụng tài liệu làm bài thi
khi không được phép của sinh viên sẽ ít nguy hiểm cho xã hội hơn là hành vi cầm
dao chém người khác bị thương nặng. Do đó, hành vi trái pháp luật là một trong các
yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của VPPL, dựa vào hành vi trái pháp
luật xảy ra trong thực tế có thể xác định được đó là vi phạm kỷ luật, vi phạm hành
chính hay là phạm tội.
2. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một trong các yếu tố đánh giá mức độ nguy
hiểm cho xã hội của VPPL, vì thiệt hại mà XH phải gánh chịu do VPPL gây ra cảng
lớn thì mức độ nguy hiểm cho XH của VPPL càng cao. Chẳng hạn, cũng là hành vi
vi phạm Luật giao thông đường bộ nhưng nếu chưa gây ra tai nạn giao thông, chưa
làm cho ai bị thương hoặc chết thì mức độ nguy hiểm cho XH sẽ thấp hơn là gây ra
tai nạn giao thông, làm cho ai đó bị thương hoặc chết.

3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho XH chính là căn
cứ để xác định thiệt hại mà XH phải gánh chịu trong thực tế có phải do hành vi trái
pháp luật gây ra hay không. 4. Thời gian vi phạm có thể là yếu tố đánh giá mức độ
nguy hiểm cho XH của VPPL, bởi lẽ, cùng một hành vi trái pháp luật nhưng nếu xảy
ra vào ban ngày thì sẽ ít nguy hiểm hơn là xảy ra vào ban đêm, vì vào ban ngày thì
khả năng ngăn chặn thiệt hại và khắc phục hậu quả sẽ dễ hơn vào ban đêm.

5. Địa điểm vi phạm có thể là yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho XH của
VPPL, ví dụ, cùng một hành vi khủng bố nhưng nếu xảy ra ở địa điểm tụ tập đông
người

như rạp hát, sân vận động... thì mức độ nguy hiểm cho XH sẽ cao hơn khi xảy ra ở
nơi ít người hoặc ở vùng hẻo lánh, ít người qua lại, bởi vì, hành vi đó được thực
hiện ở nơi đông người sẽ có khả năng gây sát thương cho nhiều người hơn.

6. Phương tiện vi phạm là một trong các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho XH
của VPPL, bởi cùng là hành vi vận chuyển hàng lậu song nếu phương tiện được

sử dụng để chở hàng là xe đạp thì sẽ ít nguy hiểm hơn là bằng ô tô, vì số lượng hàng
lậu được vận chuyển trong cùng một thời gian sẽ ít hơn.

Các yếu tố thuộc mặt chủ quan của VPPL

1. Lỗi là một trong các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho XH của VPPL, bởi
vì, nếu cùng một hành vi trái pháp luật và hậu quả nguy hiểm cho XH, song khi chủ
thể thực hiện với lỗi cố ý thì mức độ nguy hiểm cho XH sẽ cao hơn là với lỗi vô ý vì
khi đó, chủ thể đã biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả
của hành vi đó gây ra cho XH mà lại mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc có ý
thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

2. Động cơ VPPL là yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho XH của VPPL, vì nó là
động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật và khi chủ thể vi phạm có
động cơ rõ ràng thì thường dễ theo đuổi đến cùng việc thực hiện hành vi trái pháp
luật. 3. Mục đích VPPL có thể là yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho XH của
VPPL,vi khi chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật có mục đích cụ thể, rõ ràng thì
thường họ sẽ cổ ý thực hiện hành vi, tức là có lỗi cố ý.

Chủ thể của VPPL. Chủ thể của VPPL là một trong những yếu tố đánh giá mức độ
nguy hiểm cho XH của VPPL, vì với cùng một hành vi và hậu quả nguy hiểm cho
XH nhưng nếu chủ thế là người đã thành niên thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ
cao hơn so với chủ thể là người chưa thành niên. Bởi vì, nếu chủ thể là người đã
thành niên, tức là đã có đủ khả năng nhận thức về hành vi và hậu quả của hành vi đó
gây ra cho xã hội, đã có đủ khả năng cân nhắc, tính toán thiệt hơn mà vẫn cố tỉnh
lựa chọn và thực hiện hành vi trái pháp luật thì mức độ nguy hiểm cho XH sẽ cao
hơn so với người chưa thành niên, là người còn bồng bột, "ăn chưa no, lo chưa tới",
chưa đủ khả năng cân nhắc, tính toán cẩn thận trước khi lựa chọn và thực hiện hành
vi trái PL

Khách thể của VPPL: Khách thể của VPPL là một trong những yếu tố đánh giá mức
độ nguy hiểm cho XH của VPPL, vì QHXH bị xâm hại bởi VPPL càng quan trọng
thì mức độ nguy hiểm cho XH của VPPL càng cao. Trong số các loại QHXH có thể
bị xâm hại thì an ninh quốc gia là loại QHXH quan trọng nhất, do vậy, xâm phạm an
ninh quốc gia là loại VPPL có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao nhất.

75. Phân tích ý nghĩa của từng yếu tố trong cấu thành vi phạm pháp luật đối với
việc truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Các yếu tố cấu thành VPPL là căn cứ để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
cho XH của VPPL, để từ đó áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước một cách
phù hợp, đảm được mục đích của việc truy cứu TNPL

Mặt khách quan

1. Hành vi trái pháp luật: Đây là căn cứ cho việc truy cứu TNPL, bởi vì nếu không
có hành vi trái pháp luật thì không có VPPL, do vậy, nếu không xác định được hành
vi trái pháp luật thì không thể tiến hành truy cứu TNPL

2. Hậu quả nguy hiểm cho XH hay thiệt hại mà XH phải gánh chịu: Đây là cơ sở để
xác định loại TNPL và biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể cần áp dụng, đó là
trách nhiệm hành chính hay hình sự, nếu là hình sự thì thuộc loại tội nào, khung
hình phạt cụ thể nào...
3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả nguy hiểm cho XH:
Đây là một căn cứ quan trọng để truy cứu TNPL, bởi lẽ, một người sẽ không phải
chịu trách nhiệm về những thiệt hại không phải do hành vi của mình gây ra, tr
trường hợp có trách nhiệm liên đới.

4. Thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành
vì: Đây là những yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định biện pháp cưỡng
chế cụ thể cần áp dụng.

Mặt chủ quan:

1. Lỗi: Việc xác định được loại lỗi cụ thể của chủ thể vi phạm có ý nghĩa quan trọng
trong việc truy cứu TNPL và xác định các biện pháp cưỡng chế cụ thể cần áp dụng,
vì nếu chủ thể không có lỗi trong hành vi của mình thì không bị coi là VPPL; với
cùng một mức độ thiệt hại do VPPL gây ra cho xã hội song nếu chủ thể vi phạm với
lỗi cố ý thì phải trừng phạt nghiêm khắc hơn so với khi họ vi phạm với lỗi vô ý.

2. Động cơ, mục đích: Đây là căn cứ quan trọng để quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế nhà nước cụ thể đối với chủ thể VPPL, đặc biệt trong trường hợp chúng
là dấu hiệu đặc trưng của vi phạm. Ví dụ: Động cơ vụ lợi là một trong những dấu
hiệu đặc trưng của tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; mục
đích nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là một trong những dấu hiệu đặc trưng của
tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân...

Chù the:

1. Đối với chủ thể là cá nhân: Việc xác định độ tuổi, khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định họ có phải là chủ thể của
VPPL không, trong việc xác định biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể cần áp dụng
cho chủ thể, vì với hành vi và hậu quả nguy hiểm cho XH tương tự nhau thi biện
pháp cưỡng chế nhà nước cần áp dụng đối với người đã thành niên phải nghiêm
khắc hơn đối với người chưa thành niên.

2. Đối với chủ thể là tổ chức: Việc xác định địa vị pháp lý hoặc tư cách pháp nhân
của chủ thể sẽ là cơ sở để xác định loại TNPL cần truy cứu. Ví dụ: Ở nước ta hiện
nay, chỉ pháp nhân thương mại mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một số
tội nhất định, còn các pháp nhân khác thì không.

Khách thể: Việc xác định khách thể của VPPL là cơ sở quan trọng để đánh giá tình
chất và mức độ nguy hiểm cho XH, trên cơ sở đó xác định chính xác biện pháp
cưỡng chế nhà nước cần áp dụng, vì QHXH được pháp luật bảo vệ càng quan trọng
thì biện pháp cưỡng chế cần áp dụng đối với chủ thể vi phạm phải càng nghiêm
khắc.

76. Phân tích căn cứ đánh giá ý thức pháp luật của một cá nhân, liên hệ bản
thân.

Định nghĩa. Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm,
quan niệm, tâm trạng, thái độ, tỉnh cảm của con người đối với pháp luật và các hiện
tượng pháp lý khác, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, sự đánh
giả về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của các chủ thể.

Căn cứ đánh giá ý thức PL của một cá nhân và liên hệ bản thân:

Mặc dù cấu trúc của ý thức PL chỉ bao gồm tâm lý PL và tư tưởng PL, song khi xem
xét, đánh giá về ý thức PL của một chủ thể cụ thể, ta phải căn cứ vào ba yếu tố: tư
tưởng PL, tâm lý PL và hành vi PL.

1. Yếu tố tư tưởng PL; là sự hiểu biết về PL, thể hiện ở trình độ, kiến thức PL, sự
giác ngộ, tin tưởng hay không tin tưởng vào PL của chủ thế. Trình độ, kiến thức,
hiểu biết PL của mỗi chủ thể có thể cao hoặc thấp, bởi vì trình độ kiến thức đó được
hình thành ở mỗi người thông qua hoạt động NCKH, thông qua quá trình đào tạo
chuyên ngành; thông qua hoạt động thực tiễn... Muốn đánh giá trình độ, kiến thức
pháp lý của một chủ thể là cao hay thấp thì có thể căn cứ vào kết quả đào tạo và hoạt
động khoa học trong thực tiễn của chủ thể. Liên hệ bản thân Mình đang học ở
trường ĐH Luật Hà Nội - một trong những trường đào tạo luật hàng đầu cả nước,
nên tư tưởng PL của mình có thể coi là cao.

2. Yếu tố tâm lý PL: thể hiện xúc cảm, tình cảm, thái độ của mỗi người đối với các
quy định của PL, đó là tâm lý tôn trọng hay coi thưởng, ủng hộ hay chống đối PL.
Tuy nhiên, tâm lý pháp lý của mỗi chủ thể cụ thể là tôn trọng hay coi thường, ủng
hộ hay chống đối pháp luật chỉ có thể xác định được dựa vào yếu tố hành vi, tức là
các hành vi pháp lý thực tiễn của họ. Liên hệ bản thân: Mình sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật nên yếu tố tâm lý PL của mình là cao.

3. Yếu tố hành vi PL: thể hiện ở hành vi pháp lý thực tiễn của chủ thể là hợp pháp
hay bất hợp pháp. Nếu hành vi pháp lý thực tế của chủ thể luôn luôn là hợp pháp thì
có thể khẳng định chủ thể là người có tri thức pháp lý, hiểu biết pháp luật cao, xác
định đúng yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật và có thái độ tôn trọng, ủng hộ pháp luật,
tin tưởng vào pháp luật, tức là người có ý thức pháp luật cao. Nếu chủ thể thường
xuyên VPPL gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho XH thì có thể khẳng định
hoặc là họ không có tri thức pháp lý, không hiểu biết pháp luật, hoặc là họ hiểu biết
pháp luật nhưng lại coi thường hoặc chống đối pháp luật, tức là có ý thức pháp luật
thấp. Liên hệ bản thân: Mình là người có hiểu biết về pháp luật. lại còn tuân thủ
pháp luật nên có thể nói mình là người có ý thức pháp luật cao.

77. Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng pháp luật, liên
hệ thực tiễn Việt Nam.

Đối với việc xây dựng PL, ý thức PL là tiền đề tư tưởng trực tiếp để hình thành, phát

triển và hoàn thiện hệ thống PL. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:

1. Trong quá trình hoạt động, trên cơ sở ý thức PL, nhận thức, hiểu biết của mình,
các chủ thể có thẩm quyền xây dựng PL có thể xác định được QHXH cần điều chỉnh
bằng PL, mức độ điều chỉnh (bằng luật hay văn bản dưới luật)... Đồng thời, có thể
xác định được trình độ phát triển của KT-XH, nhu cầu khách quan của đời sống để
đặt ra các quy định của pháp luật phù hợp với các điều kiện đó.

2. Khi xây dựng PL, trên cơ sở ý thức PL của mình, các chủ thể có thẩm quyền có
thể xác định được trong số các quy phạm xã hội đang tồn tại, những quy phạm nào
có thể thừa nhận thành PL để điều chỉnh các QHXH theo ý chỉ của nhà nước thì
thừa nhận thành PL, những quy phạm nào không phù hợp thì đặt ra các quy phạm
mới để thay thế chúng, những QHXH nào cần điều chỉnh mà chưa có PL. thì đặt ra
quy tắc mới... Nhờ vậy mà làm hình thành nên một hệ thống pháp luật.

3. Trong quá trình thực hiện hệ thống PL đã được ban hành, cũng phải trên cơ sở ý
thức PL hay trên cơ sở kiến thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có thẩm quyền có
thể xác định được QPPL nào phù hợp với thực tại khách quan, có tính khả thi thì
tiếp tục sử dụng để điều chỉnh các QHXH theo mục đích của nhà nước, quy phạm
nào không phù hợp thì ban hành hoặc đề nghị ban hành quy phạm hoặc văn bản mới
để thay thể, làm cho hệ thống PL ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.

Khái quát lại, vai trò của ý thức PL đối với xây dựng và hoàn thiện PL thể hiện ở
các góc độ:

1. Góp phần nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với chính sách PL và các yêu cầu của
việc điều chỉnh PL. và xác định
2. Nâng cao khả năng quy phạm hóa các nội dung điều chỉnh pháp luật các chuẩn
mực pháp lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế.

3. Bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống PL đúng quy trình kỹ thuật pháp
lý, hạn chế được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau trên thực té.

4. Bảo đảm hiệu quả, chất lượng hoạt động hệ thống hóa PL, đặc biệt là hoạt động
pháp điển QPPL trên thực tế.

Liên hệ thực tiễn Việt Nam:

1. Hiện nay, người dân đã có ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn so với những năm
trước. Tuy nhiên, phần đông những người chấp hành là do sợ pháp luật, sợ bị phạt
chứ không tự giác chấp hành vì hiểu và tôn trọng pháp luật. Mặt khác, VPPL vẫn
còn tồn tại phổ biến, cho thấy ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ người
dân còn chưa thực sự tốt. Về phía CONN, những chủ thể có thẩm quyền ADPL, một
số chủ thể còn chưa nắm bắt được hết tinh thần của các QPPL dẫn tới việc áp dụng
còn chưa đúng QPPL cho từng trường hợp cụ thể. Đối với cơ quan lập pháp, còn
tình trạng tư tưởng, quan điểm chưa phù hợp với thực tiễn dẫn tới ban hành những
văn bản QPPL có nhiều sai sót, phải sửa đổi ngay sau khi ban hành, ví dụ: Bộ luật
Hình sự 2015.

2. Thực tiễn đời sống pháp lý ở Việt Nam về ý thức pháp luật của các chủ thể đem
lại những thuận lợi và khó khăn nhất định trong quá trình xây dựng pháp luật

+ Về thuận lợi: (i) Việc còn nhiều người chưa tự giác tuân thủ những quy định pháp
luật giúp Nhà nước ban hành và thực thi những chính sách giáo dục pháp luật, cùng
với đó là thiết lập chặt chẽ hơn những QPPL nhằm răn đe, giáo dục những người có
hành vi vi phạm, từ đó giúp hệ thống pháp luật trở nên sát với thực tiễn cuộc sống
hơn. (ii) Ngoài ra, việc còn tình trạng hiểu sai tinh thần của QPPL dẫn tới áp dụng
sai QPPL giúp cho Nhà nước xem xét lại trình độ người ADPL để đào tạo, nâng cao
trình độ và hơn thế là rà soát lại QPPL, xem QPPL đã được viết với lời văn dễ hiểu,
có một nghĩa và dễ áp dụng hay chưa, tử đó có hướng hoàn thiện.

+ Về khó khăn: Do tư tưởng, quan điểm của một số nhà lập pháp còn chưa phù hợp
nên dẫn tới tình trạng “pháp luật trên trời, cuộc đời dưới đất”. Điều này gây khó
khăn trong việc xây dựng nên hệ thống pháp luật dân chủ, hướng tới xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của Việt Nam. Do những những nhà lập pháp là những con
người có vốn tri thức rộng rãi, có trình độ học vấn cao nên việc thay đổi tư tưởng,
quan điểm của họ là điều rất khó khăn. Vì vậy, đòi hỏi công tác đào tạo ngay từ đầu
phải thống nhất.

78. Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật, liên
hệ bản thân.

Vai trò của ý thức PL đối với việc thực hiện PL

1. Ý thức PL là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong thực tế: Ý thức PL
của mỗi người được thể hiện thông qua trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ đối với
pháp luật (tôn trọng, ủng hộ hoặc coi thường, chống đối) và hành vi pháp luật thực
tế của người đó (hợp pháp hoặc bất hợp pháp). Nếu mọi người trong XH đều có ý
thức PL cao, tức là đều hiểu biết đúng đắn yêu cầu của các quy định của PL liên
quan đến hoạt động của mình, đều có thái độ tôn trọng các quy định đó và luôn luôn
có cách hành xử phù hợp thi pháp luật sẽ được đảm bảo thực hiện một cách nghiêm
chỉnh và tự giác. Ngược lại, nếu không nắm được quy định pháp luật thi họ sẽ hành
xử một cách bản năng, không tuân theo pháp luật. Lúc nảy, pháp luật sẽ không được
thực hiện một cách đúng đắn, nghiêm túc,

2. Ý thức PL là yếu tố bảo đảm cho việc áp dụng PL được đúng đắn, chính xác
Trong quá trình áp dụng PL, các chủ thể có thẩm quyền thưởng phải ban hành quyết
định áp dụng PL để giải quyết vụ việc. Các quyết định áp dụng PL có ảnh hưởng rất
lớn tới đối tượng áp dụng, có thể mang lại cho người ta những lợi ích rất to lớn (ví
dụ, quyết định đề bạt, tăng lương, phân nhà...); song cũng có thể bắt người ta phải
gánh chịu những hậu quả rất nặng nề (bị phạt tiền, bị phạt tù, bị kỷ luật...). Do vậy,
để đảm bảo công lý, công bằng xã hội, các quyết định đỏ phải được ban hành một
cách đúng đắn, chính xác, “vừa thấu tình, vừa đạt lý".

Muốn đưa ra được các quyết định áp dụng PL đáp ứng yêu cầu trên thì chủ thể áp
dụng phải hiểu rõ các yêu cầu, đòi hỏi của PL để lựa chọn đúng QPPL cần áp dụng,
giải thích quy phạm đó phù hợp với trường hợp cần áp dụng và có ý thức tôn trọng,
thực hiện nghiêm chính quy phạm đó trong quá trình áp dụng, tức là phải có ý thức
pháp luật cao.

Đặc biệt, ý thức PL của chủ thể có thẩm quyền áp dụng có vai trò quyết định cao
hơn đối với tỉnh đúng đắn của các quyết định được ban hành trong quá trình ADPL
tương tự. Trong quá trình giải quyết các vụ việc theo hình thức áp dụng này, để có
thể đưa ra được một quyết định hợp với lòng người, bảo đảm được công lý, công
bằng xã hội thì đòi hỏi người áp dụng phải đạt đến trình độ có thể sử dụng pháp luật
một cách có nghệ thuật và kỹ thuật.

Liên hệ bản thân: Trước kia, do không biết vào vòng xuyến phải bật đèn xi nhan nên
mình không bao giờ thực hiện quy định này. Sau khi bị các chủ CSGT “nhắc nhở”,
ý thức PL của mình đã được nâng cao, từ đó về sau, mình luôn nghiêm túc bật đèn
xi nhan khi ôm cua qua vòng xuyến.

79. Phân tích khái niệm giáo dục pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của
việc giáo dục pháp luật.

Khái niệm: "Giáo dục pháp luật là quá trình tác động một cách có hệ thống, có mục
đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người
trình độ pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về PL, tôn trọng và tự giác
xử sự theo yêu cầu của PL".

Đặc điểm của hoạt động GDPL:

1. Hoạt động GDPL được thực hiện bởi nhiều loại chủ thể, đó có thể là CQNN (các
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, TAND, VKSND, chính quyền các cấp...) hoặc là các
tổ chức (UB Mặt trận TQVN, các tổ chức hành nghề pháp luật, cơ sở đào tạo luật...)
hoặc là cá nhân (ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp, tuyên truyền viên pháp luật...)

2. Hoạt động GDPL hướng tới những đối tượng cụ thể. Đối tượng là yếu tố trung
tâm của hoạt động GDPL vì chỉ khi xác định được đối tượng, ta mới xác định các
vấn đề khác như chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp sao cho phù hợp nhất.

3. Hoạt động GDPL nhằm mục đích nâng cao hiểu biết PL cho đối tượng, góp phần
hình thành lòng tin vào PL của đối tượng và nâng cao ý thức tự giác chấp hành PL
của đối tượng.

+ PL dù tốt đẹp đến mấy mà không được nhân dân biết đến thì cũng chỉ là những
dòng chữ ngủ yên. GDPL chính là phương thức truyền tải những QĐPL đến nhân
dân, giúp họ hiểu biết, nắm bắt kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức
cho việc tự tìm hiểu, học tập.

+ Quá trình điều chỉnh của PL lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong XH làm tiêu
chí, do đó, sẽ có một số ít không thoả mãn về lợi ích.. GDPL sẽ góp phần tuyên
truyền đến nhân dân những thuận lợi, khó khăn của việc thực hiện và ADPL, những
mặt ưu nhược điểm của quá trình điều chỉnh PL, để từ đó mỗi người hiểu biết và
đồng tình ủng hộ PL

+ GDPL giúp hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của con người với các QĐPL từ
đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành PL của nhân dân. Mục đích của hoạt động
GDPL (03 mục đích): Ghi nhớ sơ đồ sau

PL: Biết — Hiểu — Tôn trọng Tin tưởng + Tự giác xử sự theo PL − Thói quen xử
sự

1. GDPL nhằm trang bị và nâng cao tri thức pháp lý cho nhân dân (mục đích trí
thức): PL có thể được một số người tìm hiểu xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên
cứu hay sản xuất kinh doanh nhưng số lượng đối tượng này không phải là nhiều.
Trong điều kiện trình độ dân trí chưa cao, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, phần
lớn nhân dân lao động chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Hoạt động GDPL
chính là phương thức truyền tải QĐPL đến người dân, giúp họ hiểu biết, nắm bắt kịp
thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, học tập. Đây
chính là mục đích hàng đầu của GDPL, đảm bảo người dân có thể biết và hiểu pháp
luật.

2. GDPL nhằm xây dựng thái độ tôn trọng, củng cố niềm tin, khơi dậy tình cảm
đúng mực đối với pháp luật (mục đích tâm lý). GDPL không đơn thuần chỉ là việc
giải thích, tuyên truyền để nhân dân hiểu biết pháp luật, mà cao hơn, là khiến cho
pháp luật được “sống” trong tư duy, hành vi của mỗi người, để khơi dậy tình cảm,
sự tôn trọng, lòng tin và thái độ đúng đắn ở mỗi người đối với PL.

3. GDPL xây dựng, củng cố thói quen xử sự theo PL (mục đích hành vị): Tri thức
PL không thể là những nội dung lý luận thuần tuý mà nó phải được hiện thực hóa
thông qua các hoạt động pháp lý thực tiễn. Mục đích của GDPL không chỉ cung cấp
những kiến thức lý luận mà quan trọng hơn là tạo lập được thói quen xử sự theo PL
ở mỗi loại chủ thể trong XH. Thói quen này được hình thành không phải thụ động,
vô thức mà dựa trên nền tảng của động cơ về hành vi hợp pháp, tích cực, thông qua
quá trình chuyển hoá chủ quan về mặt tâm lý.

Ý nghĩa của hoạt động GDPL:


1. Tạo ra một XH nơi mà tất cả mọi người đều thượng tôn pháp luật: Có thể thấy, ở
những quốc gia phát triển, người dân tự giác tuân thủ pháp luật bởi họ hiểu việc tuân
theo pháp luật không chỉ đang góp phần tích cực vào việc xây dựng xã hội mà còn là
cơ sở chắc chắn để quyền và lợi ích hợp pháp của chính bản thân họ được bảo đảm.
Để đạt được thành tựu này, các quốc gia phát triển cực kỳ chú trọng công tác giáo
dục pháp luật, khiến người dân hiểu và tôn trọng pháp luật chứ không phải “sợ pháp
luật”.

2. Là bước đệm quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền: Một trong những
tiêu chuẩn của một nhà nước pháp quyền là nhà nước đó đảm bảo được pháp luật
giữ vị trí thượng tôn trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Muốn làm được
điều này thì giáo dục pháp luật chính là cách thức đúng đắn và hiệu quả nhất bởi
giáo dục pháp luật là quá trình giúp người dân biết đến pháp luật sau đó hiểu tỉnh
thần của những quy định, từ đó người dẫn tôn trọng những quy định đó, có niềm tin
rằng việc làm theo những quy tắc do nhà nước để ra sẽ đem lại lợi ích cho bản thân
họ, cuối cùng họ tự giác làm theo và hình thành thói quen xử sự theo pháp luật. Lúc
này, mỗi khi có ý định thực hiện một hành vi nào đó thì việc xử sự theo pháp luật
luôn được người dân đặt lên hàng đầu. Và đây là đặc điểm của một nhà nước pháp
quyền.

80.Phân tích các biện pháp cơ bản để nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện
nay.

Trước hết, phải hoàn thiện hệ thống PL, làm cơ sở cho mọi hoạt động XH:
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện, tiến bộ, dân chủ, phù hợp, khả thi sẽ giúp
pháp luật điều chỉnh hiệu quả QHXH. Lúc này, người dân sẽ có thái độ tôn
trọng, tin tưởng và tự giác THPL. Trong những năm qua, nhà nước ta cũng đã
rất quan tâm đến công tác xây dựng PL và có nhiều hoạt động tích cực đẩy
mạnh công tác xây dựng PL, bằng chứng là rất nhiều VBPL mới, có chất lượng
ra đời, tạo hành lang pháp lý cho các QHXH vận động và phát triển. Tuy nhiên,
trước yêu cầu của tỉnh hình phát triển KT-XH và xây dựng, quản lý đất nước, hệ
thống pháp luật nước ta còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nhất định, chưa đáp ứng
các yêu cầu của một hệ thống pháp luật hoàn thiện như tính toàn diện, tính đồng
bộ, tỉnh phù hợp và các tiêu chuẩn về kỹ thuật pháp lý. Hệ thống các văn bản
pháp luật hiện hành còn bộc lộ sự mâu thuẫn, chồng chéo, chưa đảm bảo tính
thống nhất hài hoà, sự mâu thuẫn giữa các văn bản luật với nhau, giữa văn bản
luật và văn bản dưới luật, các văn bản dưới luật với nhau còn khá phổ biến. Đây
là hạn chế lớn nhất của hệ thống pháp luật nước ta, điều đó gây khó khăn rất
nhiều cho công tác tổ chức thực hiện và ADPL. Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong mọi tầng lớp nhân dân

Để nâng cao ý thức PL, chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật thôi chưa
đủ, bên cạnh đó còn cần phải không ngừng bồi dưỡng, giáo dục nhằm nâng cao
ý thức PL của cán bộ và nhân dân. Bồi dưỡng, giáo dục pháp luật là sự tác động
một cách có hệ thống, thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị
cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng
đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Để công
tác giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân đạt hiệu quả, cần thực
hiện đồng bộ một số biện pháp cơ bản sau

1. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật để nhân dân hiểu
đầy đủ nội dung của các VBPL được ban hành trong từng giai đoạn.

2. Đưa việc giảng dạy PL vào hệ thống các trường trên cả nước.

3. Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có năng lực và trình
độ, có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan
làm công tác pháp luật, pháp chế.

4. Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách tích
cực vào việc soạn thảo, thảo luận đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật thông qua
đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.

5. Thực hiện kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, văn hoá, nâng cao
trình độ chung của nhân dân.

Tổ chức thực hiện và ADPL hiệu quả trong nhân dân: Để nâng cao ý thức PL, cần tổ
chức cho nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các VBPL của nhà nước, thông qua quá
trình tổ chức thực hiện pháp luật, nhân dân sẽ được trang bị thêm kiến thức pháp
luật và ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật. Đối với hoạt động ADPL, tuy là do các
CONN có thẩm quyền thực hiện nhưng nó sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu có sự tham
gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân. Hoạt động của các cơ quan tư pháp trong
quá trình tiến hành tố tụng để xét xử các hành vi VPPL sẽ tác động đến nhận thức
của các đối tượng trong nhân dân, từ đó có tác dụng giáo dục đối với nhân dân,
khiến nhân dân có ý thức tuân thủ pháp luật cao hơn.
[1]

You might also like