Professional Documents
Culture Documents
II. Phân biệt pháp luật với các quy tắc điều chỉnh trong xã hội.
1. Giống nhau:
Pháp luật và các quy tắc điều chỉnh khác trong xã hội đều là những công cụ
điều chỉnh hành vi của con người, đưa ra những quy tắc những xử sự, hành vi
khuôn mẫu để mọi người thực hiện đảm bảo tuân theo định hướng chung đã
được đề ra.
2. Khác nhau:
Tiêu chí Pháp luật Quy tắc điều chỉnh xã hội
Nội dung Pháp luật có tính quyền lực nhà Được hình thành một cách
nước, bởi vì pháp luật được tự phát trong một cộng đồng
hình thành cùng nhà nước. dân cư nào đó.
Pháp luật được nhà nước bảo Các quy tắc đó được bảo đảm
đảm thực hiện bằng nhiều biện thực hiện bằng thói quen, bằng
pháp, từ tuyên truyền, phổ biến, lương tâm, niềm tin của mỗi
giáo dục, thuyết phục, động cá nhân, bằng dư luận xã hội
viên, khen thưởng, tổ chức thực cũng như các hình thức kỷ luật
hiện cho đến áp dụng các biện của tổ chức.
pháp cưỡng chế nhà nước.
Tính chất Pháp luật có tính quy phạm Các quy tắc khác cũng có tính
phổ biến, nó có giá trị bắt buộc quy phạm nhưng không phổ
phải tôn trọng và thực hiện đối biến bằng pháp luật, bởi vì
với mọi tổ chức và cá nhân có chúng chỉ có giá trị bắt buộc
liên quan trong phạm vi lãnh phải tôn trọng và thực hiện
thổ quốc gia. đối với cộng đồng dân cư
Pháp luật có tác động bao trong một địa phương hoặc
trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ với các hội viên trong một tổ
chức và cá nhân có liên quan chức.
trong xã hội; đồng thời có tác Các quy tắc khác chỉ tác động
động thường xuyên, liên tục tới một bộ phận dân cư.
trên toàn lãnh thổ và trong
nhiều lĩnh vực hoạt động của xã
hội.
Tính hệ thống Pháp luật có tính hệ thống, bởi Các công cụ khác có thể có
vì pháp luật là một hệ thống các tính hệ thống, ví dụ như quy
quy phạm để điều chỉnh nhiều định của các tổ chức phi nhà
loại quan hệ xã hội phát sinh nước, song cũng có thể không
trong các lĩnh vực khác nhau có tính hệ thống, ví dự như đạo
của đời sống. Và các quy phạm đức, phong tục, tập quán..
pháp luật giữa chúng có mối
liên hệ để tạo nên một chỉnh thể
là hệ thống pháp luật.
Tính xác định Pháp luật có tính xác định về Các công cụ khác có thể có
về hình thức hình thức, tức là pháp luật tính xác định về hình thức, ví
thường đuợc thể hiện trong dụ như điều lệ, chỉ thị, nghị
những hình thức nhất định, có quyết của các tổ chức phi nhà
thể là tập quán pháp, tiền lệ nước, giáo luật của các tổ chức
pháp hoặc văn bản quy phạm tôn giáo; cũng có thể chỉ tồn
pháp luật tại dưới dạng bất thành văn,
Trong các văn bản quy phạm lưu truyền chủ yếu theo hình
pháp luật, các quy định của thức truyền miệng nên không
pháp luật thường rõ ràng, cụ có tính xác định về hình thức,
thể, bảo đảm có thể được hiểu ví dụ như phong tục, tập quán,
và thực hiện thống nhất trong đạo đức…
một phạm vi rộng
Chú thích:
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
một trình tự, theo thủ tục do pháp luật quy định, trong đó có chứa những quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung làm khuôn mẫu cho xử sự của các chủ thể pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần cho nhiều chủ thể pháp luật trong một
khoảng thời gian và không gian nhất định để thực hiện việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo một trật tự nhất định.
Tập quán pháp là tập quán được pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý, trở thành những quy
tắc xử sự chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây được xem như một nguồn bổ trợ,
nhất là khi nhiều quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật.
+ Vd: Khoản 1 Điều 28 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác định dân
tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác
nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa
thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được
xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác
định theo tập quán của dân tộc ít người hơn”
Tiền lệ pháp hay phép xét xử theo tiền lệ là một hình thức của pháp luật, theo đó Nhà nước
thừa nhận những bản án, quyết định giải quyết vụ việc của tòa án (trong các tập san án lệ)
làm khuôn mẫu và cơ sở để đưa ra phán quyết cho những vụ việc hoặc trường hợp có tình tiết
hay vấn đề tương tự sau đó. Tiền lệ pháp còn là quá trình làm luật của toà án trong việc công
nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong quá trình xét xử. Bộ luật Dân sự (BLDS) nước ta
quy định nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người thân của người có tính mạng bị xâm phạm là cho
đến khi chết nếu người được hưởng cấp dưỡng là người đã thành niên và cho đến khi đủ
18 tuổi nếu người được hưởng cấp dưỡng là người chưa thành niên hay đã thành thai. Tuy
nhiên, BLDS lại không cho biết nghĩa vụ này bắt đầu vào thời điểm nào nên các tòa rất lúng
túng. Sau đó, một quyết định giám đốc thẩm của TAND Tối cao phân tích: Theo tinh
thần quy định tại Điều 616 BLDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của
Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì trong trường hợp cụ thể này, thời điểm phát sinh
nghĩa vụ cấp dưỡng phải được tính từ ngày người bị hại chết.
Ví dụ:
+ “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép
thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.” (Điều
127 Bộ luật Dân sự 2015).
o Giả định: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối
hoặc bị đe dọa, cưỡng ép” Giả định trong trường hợp này đã nêu
lên tình huống, hoàn cảnh chịu sự điều chỉnh của quy phạm này
đó là khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị
đe dọa.
o Quy định: “quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là
vô hiệu”. Quy định trong trường hợp này nêu lên cách thức xử sự
của đối tượng được nêu ở phần giả định.
+ Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị
phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm. (Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015).
o Giả định: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh
dự của người khác”. Giả định trong trường hợp này đã nêu lên
đối tượng phải chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật này đó
là người xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
khác.
o Quy định: không được nêu rõ ràng trong quy phạm pháp luật
nhưng ở dạng quy định ngầm. Theo đó, quy định trong trường
hợp này là không được xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh
dự của người khác.
o Chế tài: “bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.
Chế tài ở đây là biện pháp của Nhà nước tác động đến chủ thể vi
phạm pháp luật.
b) Quan hệ PL
Khái niệm: Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh
trong đó các bên tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước
đảm bảo thực hiện.
Đặc điểm:
+ Quan hệ pháp luật là dạng quan hệ xã hội đặc biệt được điều chỉnh
bởi pháp luật: Một quan hệ nếu không được điều chỉnh bởi pháp luật thì
chỉ là quan hệ xã hội đơn thuần mà không thể trở thành quan hệ pháp
luật. Do được điều chỉnh bởi pháp luật nên quan hệ pháp luật mang tính
xác định cả về chủ thể, khách thể và nội dung.
+ Quan hệ pháp luật là quan hệ mang tính ý chí: Tính ý chí trong quan
hệ pháp luật thể hiện từ việc xác định mục đích thiết lập quan hệ pháp
luật cho đến việc lựa chọn phương thức thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa
các bên. Ý chí trong quan hệ pháp luật có thể là ý chí của nhà nước buộc
các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phải tuân thủ; cũng có thể là ý
chí của các bên tham gia quan hệ.
+ Quan hệ pháp luật có tính cụ thể, xác định: là sự cá biệt hóa các quan
hệ giữa những chủ thể cụ thể trong xã hội. Khi quan hệ pháp luật được
xác lập, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được xác định. Để tham gia
quan hệ pháp luật, chủ thể phải đáp ứng được các yêu cầu nhất định. Ở
mỗi xã hội khác nhau, các điều kiện này được xác định là không giống
nhau.
+ Quan hệ pháp luật có nội dung biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ
pháp lý cụ thể của các bên tham gia quan hệ và bảo đảm thực hiện
quyền, nghĩa vụ của các bên bằng ý chí của nhà nước
Cơ cấu:
+ Chủ thể của quan hệ pháp luật;
Khái niệm: là các cá nhân hay pháp nhân tham gia quan hệ pháp
luật để hưởng quyền và làm nghĩa vụ pháp lý theo quy định của
pháp luật.
Các bên chủ thể của quan hệ pháp luật có thể là cá nhân hoặc pháp
nhân đạt được các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia
quan hệ pháp luật, điều kiện đó của các chủ thể pháp luật được gọi
là năng lực chủ thể.
Năng lực pháp luật là một thuộc tính của chủ thể, là khả năng
của chủ thể được hưởng quyền và làm nghĩa vụ pháp lý khi
tham gia quan hệ pháp luật. Mỗi chủ thể khi tham gia các quan
hệ pháp luật khác nhau sẽ có khả năng hưởng quyền và làm
nghĩa vụ khác nhau và được pháp luật quy định.
Năng lực hành vi: Là khả năng mà nhà nước thừa nhận cho các
chủ thể bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện quyền và
nghĩa vụ trong một quan hệ pháp luật cụ thể.
Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật:
Cá nhân là cá thể người, bằng xương bằng thịt, được sinh ra
theo quy luật sinh tồn của loài người, có danh tính cụ thể. Cá
nhân bao gồm: công dân, người nước ngoài, người không quốc
tịch. Khi tham gia quan hệ pháp luật, cá nhân có thể tham gia
với tư cách là chủ thể gián tiếp hoặc chủ thể trực tiếp.
Pháp nhân là tổ chức có đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy
định để tham gia quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể độc
lập.
Điều kiện để có TCPN: Được thành lập theo quy định
của Bộ luật này, luật khác có liên quan; Có cơ cấu tổ
chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự năm
2015; Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác
và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; Nhân
danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
+ Khách thể của quan hệ pháp luật: là những lợi ích mà các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật mong muốn đạt được khi tham gia quan hệ đó.
+ Nội dung của quan hệ pháp luật: bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý
của chủ thể.
Quyền của chủ thể là khả năng của chủ thể được xử sự theo
cách thức mà pháp luật cho phép.
Nghĩa vụ pháp lý chủ thể là các xử sự mà các chủ thể của
quan hệ pháp luật bắt buộc phải thực hiện nhằm đáp ứng
quyền của chủ thể phía bên kia trong quan hệ.
c) Sự kiện Pháp Lý
Khái niệm: Sự kiện pháp lý là những sự việc cụ thể xảy ra trong thực tế phù
hợp với những điều kiện, hoàn cảnh đã được dự liệu trong một quy phạm pháp
luật từ đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể.
(Sự kiện pháp lý là sự việc nảy sinh trong cuộc sống dưới dạng một hành vi của
con người hoặc một sự cố tự nhiên được pháp luật gắn với việc làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật nhất định như việc li hôn một cặp vợ
chồng đưa đến việc chia tài sản và giao con cho một người nuôi hoặc sự cố bão
lụt làm sập cầu làm ách tắc ô tô vận tải không thể vận chuyển đưa hàng đến
đúng giờ theo hợp đồng đã kí kết.)
Đặc điềm:
+ ĐKHC thực tế
+ Làm phát sinh, chấm dứt, thay đổi
+ Tính có trước của skpl
Phân loại:
Dựa vào tiêu chuẩn ý chí ( mong muốn hay ý thức của con người trong sự
kiện đó) , sự kiện pháp lí được chia thành sự biến và hành vi.
Sự biến pháp lý: Sự biến pháp lý là những sự kiện xảy ra ngoài ý thức của con người.
Sự biến pháp lý là những sự kiện xảy ra không do ý chí của con người làm phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. ( giả sử mua bảo hiểm )
Hành vi pháp lý: Hành vi là xử sự của con người thể hiện dưới dạng hành động hoặc
không hành động. Dưới góc độ pháp lý, hành vi là xử sự có ý chí của con người. Hành
vi pháp lý thể hiện dưới dạng: hành vi hợp pháp, hành vi bất hợp pháp và hành vi vi
phạm pháp luật. Ví dụ: hành vi ký kết hợp đồng, hành vi trộm cắp, sự bỏ mặc không
cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,…
+ Hành vi Hành động hợp pháp: 1 việc làm đúng luật nhưng lại làm xuất hiện
quan hệ pháp luật hoặc thay đổi hoặc chấm dứt. Vdu: Khởi kiện, khiếu nại
( hành vi nộp đơn là hợp pháp làm xuất hiện quan hệ pháp luật giữa người
khiếu nại và người giải quyết khiếu nại )
+ Hành vi Hành động không hợp pháp: vdu: gây thương tích, cướp tài sản
+ Hành vi không hành động không hợp pháp: thấy người khác trong tình trạng
trong tình trạng nguy hiểm có đủ điều kiện mà không cứu.
+ Hành vi không hành động hợp pháp: Kháng cáo
Dựa vào số lượng sự kiện thực tế tạo thành sự kiện pháp lí, sự kiện pháp lí
được chia thành hai loại là sự kiện pháp lí đom nhất và sự kiện pháp lí phức hợp.
Sự kiện pháp lý đơn giản chỉ bao gồm một sự kiện thực tế mà pháp luật gắn sự xuất
hiện với sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ: vượt đèn đỏ dẫn
đến phát sinh quan hệ pháp luật giữa ng vi phạm vs csgt.
Sự kiện pháp lý phức tạp bao gồm một loạt các sự kiện mà chỉ với sự xuất hiện của
chúng các quan hệ pháp luật mới phát sinh, thay đổi hay chấm dứt. Ví dụ: khi một
người chết thì có thể phát sinh quan hệ thừa kế nếu người đó có tài sản (thừa kế phát
sinh khi người có tài sản chết);
Căn cứ vào hậu quả của sự kiện pháp lý, ta có sự kiện pháp lý phát sinh quan
hệ pháp luật, sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật và sự kiện pháp lý làm
chấm dứt quan hệ pháp luật.
Kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Khi kết hôn, các bên nam
nữ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn được Luật hôn nhân và gia đình quy
định và phải đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền thì việc kết
hôn đó mới được công nhận là hợp pháp và giữa các bên nam nữ mới phát sinh quan
hệ vợ chồng trước pháp luật.
Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật
Anh Nguyễn Văn C và chị Trần Thị D làm đơn ly hôn gửi tới tòa án nhân dân huyện,
sau khi hòa giải không thành, tòa án tiến hành xét xử, giải quyết cho anh Nguyễn Văn
C và chị Trần Thị D được ly hôn theo quy định của pháp luật, đồng thời tuyên hủy
giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của anh D và chị C, quyết định tuyên hủy giấy
chứng nhận kết hôn của tòa án là sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật giữa
anh D và chị C.
Chuyển quyền sử dụng đất là sự kiện pháp lý thay đổi quan hệ pháp luật
Ông Trần Văn A làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 5000m2 đất trồng lúa
cho ông Nguyễn Văn B, căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng đã được chính quyền
địa phương xác nhận, ông Nguyễn Văn B làm thủ tục chuyển nhượng và đơn xin cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, căn cứ vào hồ sơ Phòng Tài nguyên & Môi
trường đề nghị UBND huyện (quận, thị xã, TP thuộc tỉnh) cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng 5000m2 đất trồng lúa cho ông Nguyễn Văn B, sự dịch chuyển quyền sử dụng
đất từ ông Trần Văn A sang ông Nguyễn Văn B là sự kiện pháp lý làm thay đổi quan
pháp luật của cả 2 ông Trần Văn A và B.
Vai trò
+ Cầu nối giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật. ( quy phạm pháp
luật định ra trên giấy và quan hệ pháp luật thực tế xảy ra )
+ Ảnh hưởng đến việc xác định loại quan hệ pháp luật.
+ Ảnh hưởng đến nội dung và tính chất của quan hệ pháp luật
+ Có liên hệ mật thiết với phần giả định của quan hệ PL
Ý nghĩa
Sự kiện pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật vì
nó làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật, từ đó giúp cơ quan nhà nước có
căn cứ để xác định nguồn luật điều chỉnh nhằm quản lý, giải quyết các vấn đề giữa các chủ
thể trong quan hệ pháp luật được thuận lợi, dễ dàng hơn.
Ngoài ra, sự kiện pháp lý còn là cơ sở để xây dựng pháp luật vì bản chất sự việc pháp lý là
những sự kiện thông thường diễn ra trên thực tế mà pháp luật lại được sinh ra thực tiễn đời
sống xã hội, gắn liền với xã hội. Vì vậy, khi xây dựng pháp luật, các nhà làm luật cần nắm
chắc sự kiện pháp lý để xây dựng những quy định pháp luật phù hợp, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các cá thể trong xã hội.
Nhà nước quản Ií xã hội bằng pháp luật, không ngừng tàng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Các cơ TP n nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ Đang nhân
dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh
phòng ngửa và chống các tội phạm, các ví phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể
và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật. Nội dung của quy định đã bao hàm khá
đẩy đủ các phương diện của pháp chế xã hội chủ nghĩa