You are on page 1of 15

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


---***---

BÀI TẬP LỚN


HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về liên minh giai cấp và sự vận dụng của Đảng
trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở nước ta hiện nay”

Họ và tên: Hoàng Diệu Linh


Mã sinh viên: 11202128
Mã học phần: NNNL 1107(121)CLC_01
Giảng viên hướng dẫn: T.S Nguyễn Văn Thuân

1
Mục lục
A. PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................3

B. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................4


I. Những lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội..................................................................4
1. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về liên minh giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân......................................................................................................................4
2. Quan điểm của Lê-nin về liên minh giai cấp................................................................5
3. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội................5
3.1. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu................................................................................................................................................5
3.2. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.................................................................................................................................................6
a. Nội dung chính trị..............................................................................................................6
b. Nội dung kinh tế.................................................................................................................7
c. Nội dung văn hóa, xã hội.................................................................................................8
3.3. Nguyên tắc cơ bản của liên minh..................................................................................8
II. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin vào xây dựng khối đại đoàn
kết ở Việt Nam................................................................................................................. 9
1. Thành tựu............................................................................................................................9
2. Những hạn chế.................................................................................................................11
3. Một số giải pháp...............................................................................................................12
3.1. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các bộ phận trong khối liên minh
.....................................................................................................................................................12
3.2. Phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp...............................................................13
3.3. Kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh................................................................14

C. PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................14


DANH MỤC THAM KHẢO...................................................................15

2
A. PHẦN MỞ ĐẦU

Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam, đoàn kết đã trở thành một truyền thống hết sức quý báu,
một nguồn sức mạnh, động lực to lớn và giữ một vai trò then chốt trong
những chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta trước những kẻ thù ngoại
xâm, từ những chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Hưng
Đạo vương Trần Quốc Tuấn,… Đặc biệt, kể từ khi Đảng được ra đời,
cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của chủ tịch Hồ Chí Minh và vận dụng
những quan điểm, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề đại đoàn
kết dân tộc đã ngày càng được củng cố và mở rộng. Dưới sự soi
đường chỉ lối của Ðảng, toàn thể các thành phần nhân dân trong cả
nước bất kể già trẻ, gái trai, tôn giáo, địa vị, giai cấp đã quy về một khối
đại đoàn kết, đứng lên đấu tranh trong Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt
Nam, chính sức mạnh tổn hợp toàn dân ấy đã đưa dân tộc ta đến với
thắng lợi mang tính quyết định vào Tháng Tám  năm 1945, thành lập
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và chiến thắng mùa xuân năm
1975 giải phóng dân ta khỏi sự áp bức, nô lệ, mang lại sự độc lập, tự
do toàn thể nhân dân.

Trong trận chiến với dịch COVID-19, một lần nữa tinh thần đại đoàn
kết toàn dân tộc, tương thân tương ái ấy lại dội lên mạnh mẽ. Với sự
huy động kịp thời của Đảng, Chính phủ cùng với sự vào cuộc quyết liệt
của toàn hệ thống chính trị, sự đồng lòng đồng sức của nhân dân cả
nước, công tác thực hiện phòng chống dịch đã được diễn ra ở một quy
mô chua từng có tiền lệ và đã đạt được những thành tựu đáng kể,
được cả thế giới nể phục, ghi nhận.

Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tồn tại cùng những thuận lợi là muôn vàn
những khó khăn, thách thức cần phải giải quyết. C.Mác đã từng nói
rằng: “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ
đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản
đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị
đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát
sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”. Để đương đầu với những khó khăn,
thử thách ấy, vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải được đặt lên hàng đầu
trong xây dựng các chiến lược, quyết sách quyết định tới sự sống còn
của Cách mạng. Vì lý do đó, tôi quyết định lựa chọn đề tài cho bài tiểu
luận là: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai cấp và
sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc ở nước ta hiện nay”.

3
B. PHẦN NỘI DUNG

I. Những lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai


cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về liên minh giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân
Liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội và lý luận về sự đoàn
kết với các giai cấp, tầng lớp khác là một trong những nội dung nghiên cứu
cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Ngay từ sớm, C. Mác và Ph. Ăng-
ghen đã nhận ra tiềm năng và sự cần thiết phải liên kết giai cấp vô sản với
các tầng lớp khác và điều đó đã được chỉ ra trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản. Từ thực tiễn nghiên cứu lịch sử các cuộc nổi dậy đấu tranh nhằm
chống lại sự đàn áp, bóc lột của giai cấp cầm quyền ở các nước châu Âu,
như Anh và Pháp từ giữa thế kỷ 19, các ông đã nhận thấy một sự thật đó là
sự liên minh của giai cấp công nhân với các giai cấp vô sản khác trong xã hội,
đặc biệt là giai cấp nông dân là chìa khóa cho cuộc cách mạng vô sản. Có thể
rút ra từ thực tiễn đó là thất bại của cuộc đấu tranh của Công xã Pa-ri năm
1871 có nguyên nhân một phần do sự đơn độc, thiếu liên kết của giai cấp
công nhân với những giai tầng khác có cùng mục tiêu lật đổ giai cấp thống trị.
Qua đó, C. Mác có thể khẳng định rằng việc liên minh các giai tầng trong xã
hội đóng một vai trò quan trọng trong xây dựng và tổ chức chính quyền.
Trên thực tế, không chỉ có giai cấp công nhân mới đòi hỏi phải có một liên
minh giai cấp vững mạnh mà bất kể một giai cấp vô sản nào cũng vậy. Giống
như các giai cấp vô sản khác trong xã hội, tầng lớp nhân dân lao động và
nông dân không thể thực hiện cách mạng triệt để để tự thoát khỏi vòng vây áp
bức, bóc lột của giai cấp tư sản, sự tự do sẽ không thể trở thành hiện thực
nếu không có sự liên kết với người bạn đồng minh tự nhiên của mình là giai
cấp công nhân. C. Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách
mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa
của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu
chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”[1].
Vì, “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ
mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên
của mình”[2].

4
Tuy vậy, đặc trưng, vị trí và vai trò của mỗi giai cấp đối với sự phát triển
của xã hội vẫn có sự khác biệt nhất định, họ có những nhu cầu và lợi ích
riêng trong đời sống và sản xuất, do đó để có thể hình thành sợi dây liên kết
giữa các giai cấp, cần phải thấy rõ những đặc trưng khác biệt của mỗi giai
cấp và vai trò của họ trong hoạt động đấu tranh cách mạng.
Ph. Ăng-ghen cũng đã chỉ ra hai mặt đối lập của tầng lớp nông dân. Bên
cạnh mặt tích cực là việc họ sẵn sàng đi theo giai cấp công nhân làm cách
mạng bởi họ cũng phải chịu sự đàn áp của giai cấp tư sản thì mặt khác, họ
vẫn còn tồn tại thái độ nửa vời, không tin theo cách mạng một cách triệt để. Vì
bản chất họ vốn là những tư hữu nhỏ và e sợ rằng việc tiến lên chủ nghĩa xã
hội sẽ xóa bỏ hoàn toàn sự tư hữu. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và phải gắn liền với
sự giáo dục, giác ngộ về đường lối, chủ trương của chế độ xã hội mới.
2. Quan điểm của Lê-nin về liên minh giai cấp
Kế thừa, phát huy và phát triển sáng tạo tư tưởng lý luận về liên minh
giai cấp của C.Mác, trong quan niệm của mình về giai cấp vô sản và sự
cần thiết phải liên minh giai cấp của V.I.Lênin đã nói rằng: “Nếu không liên
minh với nông dân thì không thể có được chính quyền của giai cấp vô sản,
không thể nghĩ được đến việc duy trì chính quyền đó… Nguyên tắc cao
nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và
nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính
quyền nhà nước”[3].
Thực tế không chỉ bó hẹp ở sự liên minh giữa giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân, trong giai đoạn thấp của quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
V.I.Lênin còn chủ trường mở rộng khối liên minh ra toàn thể các tầng lớp
khác trong xã hội, đồng thời cũng chỉ rõ: “Trước sự liên minh của các đại
biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối
nào đứng vững được” [4]. Xét theo sự phân chia giai cấp thì, có sáu giai
cấp khác nhau đã được hình thành ứng với ba chế độ xã hội mà loài người
đã trải qua. Xét theo sự phân chia tầng lớp trong xã hội, thì trong xã hội
tồn tại nhiều tầng lớp khác nhau như: tiểu thương, tiểu chủ, trí thức, v.v.
Nếu việc thực hiện liên minh giai cấp được diễn ra tốt không chỉ giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân mà còn với giai cấp, tầng lớp nhân
dân khác trong xã hội mà trước hết là với đội ngũ trí thức thì thể chế xã hội
chủ nghĩa sẽ càng nhanh chóng được tín nhiệm và củng cố.

3. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
3.1. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một tất yếu

5
- Thứ nhất, trong bất kỳ một xã hội có phân chia giai cấp nào thì giai
cấp bị trị ở đây không chỉ là công nhân mà còn có tầng lớp nông dân,
tiểu chủ, trí thức phải chịu sự chiếm đoạt tư liệu sản xuất, bóc lột
nặng nề công sức, thành quả lao động của giai cấp thống trị. Không
những vậy, sự đối lập trong lợi ích của các giai cấp đã khiến những
giai tầng ở phía dưới của xã hội bị đàn áp về tư tưởng, tinh thần dẫn
đến một nhu cầu tất yếu khách quan đó là sự liên minh giữa các giai
cấp vô sản với các tầng lớp xã hội khác có những nhu cầu tương
đồng với mình để nổi dậy đấu tranh nhằm đòi lại sự tự do, những lợi
ích chính đáng cho giai cấp của mình - đó là quy luật mang tính phổ
biến và là động lực lớn cho sự phát triển của các xã hội có giai cấp.
C.Mác cũng đã khẳng định: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ
trước tới nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi cho
thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số,
mưu lợi ích cho khối đại đa số” [5]. Một trong những yếu tố cốt lõi để
đảm bảo cho sự thành công của quá trình đổi mới đất nước bên
cạnh sự lãnh đạo của Đảng, là sự cần thiết phải tổng hợp được sức
mạnh của các giai tầng khác nhau trong xã hội, xây dựng khối liên
minh bền chặt giữa các giai cấp, tầng lớp.“Giai cấp công nhân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác chính là lực lượng chính trị to
lớn để bảo vệ cả trong suốt tiến trình đấu tranh giành lại chính quyền
và xây dựng xã hội chủ nghĩa.”

- Thứ hai, trong xã hôi chủ nghĩa, tính tất yếu của liên minh giai cấp
công nông thực chất được thể hiện qua mối liên hệ giữa các thành
phần trong nền kinh tế với nhau. Một đặc trưng của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đó là xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật hiện
đại để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa cũng như sự
chuyển dịch trong cơ cấu của nền kinh tế từ sản xuất, kinh doanh
nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa quy mô công nghiệp trên dây chuyền
sản xuất hiện đại. Nền kinh tế quốc dân bao gồm đa dạng các lĩnh
vực chỉ thực sự thống nhất và phát triển khi các thành phần, cơ cấu
của nó được đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau
cùng hướng tới mục tiêu chung nhất định. Với mục tiêu chung là sự
phát triển của nền kinh tế thì sự chuyển dịch trong cơ cấu nền kinh
tế là cần thiết, từ đó vô hình chung làm cho sự liên kết giữa các giai
tầng trong khối liên minh ngày càng được củng cố. Dù là hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ hay khoa học - kỹ
thuật thì những giai cấp trong xã hội đều có một nhu cầu chung,
chính đáng là thu được những lợi ích kinh tế, do đó họ cần phải có
sự liên kết chặt chẽ với nhau để đáp ứng được những nhu cầu và
thu được những lợi ích kinh tế chung của mình.

6
3.2. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội

a. Nội dung chính trị

- Độc lập dân tộc và tiến lên xã hội chủ nghĩa là“mục tiêu, lợi ích chính
trị cơ bản nhất của các giai cấp trong xã hội cũng như của toàn thể
dân tộc ta.”Tuy nhiên giữa các giai tầng xã hội vẫn có những tư
tưởng chính trị khác biệt. Mặt khác, việc hướng tới hoàn thành mục
tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân sẽ đồng thời đáp ứng được
những nhu cầu và lợi ích căn bản của các giai cấp vô sản khác trong
xã hội, qua đó đạt được mục tiêu cơ bản của chế độ xã hội mới.
- Đảng Cộng sản do giai cấp công nhân đứng đầu phải là người có thể
đề ra, xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chủ trương nhằm đảm bảo
sự tồn tại bền vững và thống nhất của liên minh trong toàn bộ quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, các tổ chức của Đảng Cộng
sản từ trung ương đến cơ sở cần phải đảm bảo có một tư tưởng
chính trị nhất quán, không bị lung lay như một nguyên tắc chính trị
hàng đầu.
- Việc đổi mới về nội dung cũng như cách thức tổ chức và hoạt động
của các tổ chức chính trị trên toàn quốc phải gắn liền với nội dung
chính trị của liên minh.
b. Nội dung kinh tế
“Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất
kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ được cụ thể hóa
như sau:”
- Xét theo khía cạnh kinh tế, xác định đúng hiện trạng, nội lực nền
kinh tế của cả nước và những nhu cầu và lợi ích kinh tế của các giai
tầng khác nhau trong toàn xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng ta xác định
thành phần kinh tế chủ chốt của nền kinh tế của nước ta là “Công-
nông nghiệp- dịch vụ” và xây dựng và triển khai các kế hoạch đầu
tư, đẩy mạnh giao lưu giữa các liên kết kinh tế; giữa các ngành, các
thành phần kinh tế, đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hòa lợi ích
cho tất cả các bên tham gia.
- Cần tạo điều kiện để các hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu, …
trên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và phân phối giữa các tầng
lớp nhân dân lao động; giữa các thành phần cơ cấu kinh tế; giữa các
địa phương, vung miền khác nhau trong phạm vi cả nước và trong
khu vực.

7
- Vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý
khối liên minh còn được đặc biệt nhấn mạnh trong nội dung kinh tế của
liên minh giai cấp ở nước ta. Đối với nông dân Nhà nước thể hiện vai trò
trong sự khuyến khích, tạo điều kiện phát triển; đối với tầng lớp tri thức,
cần có sự đổi mới, chỉnh sửa và hoàn thiện các bộ luật cũng như chính
sách liên quan đến các lĩnh vực sáng tạo, đổi mới khoa học – công nghệ
và nghệ thuật, đưa hoạt động này vào thực tiễn giúp cải thiện khả năng lao
động của xã hội, phục vụ đời sống của nhân dân. “Đồng thời, phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa
dạng và đổi mới các hình thức tổ chức hợp tác kinh tế trên cơ sở công
hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai
trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
c. Nội dung văn hóa, xã hội
- Đảm bảo thực hiện “gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến
chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” [6].
- Nội dung xã hội của liên minh đề cập đến nhiệm vụ cấp thiết của liên
minh là giảm thiểu tình trạng thất nghiệp hiệu quả, thực hiện biện pháp xóa
đói giảm nghèo bền vững, kết hợp với các chính sách an sinh xã hội được
đảm bảo đời sống của công nhân, nông dân và trí thức; chăm lo cho
những thế hệ người có công với cách mạng; nâng cao chất lượng của các
dịch vụ y tế, công tác chăm sốc sức khỏe cho người dân; về lâu dài phải
nâng cao dân trí, xóa bỏ dần các hủ tục lạc hậu; khắc phục tình trạng quan
liêu, tham nhũng, phai nhạt dần lý tưởng của Đảng và giảm thiểu các tệ
nạn xã hội.
3.3. Nguyên tắc cơ bản của liên minh
Để hoàn thành xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa các giai
cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần phải tuân thủ
những nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc 1: Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là giai cấp mang sứ mệnh lịch sử, trên cương vị là
những người Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt cách mạng tới thành công,
phải trở thành giai cấp đi đầu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
sẵn sàng tiên phong trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

8
nước và đẩy mạnh hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế; phát huy hết tiềm
năng để nắm giữ vai trò nòng cốt trong liên minh“dưới sự lãnh đạo của
Đảng.”
Trong khi đó, giai cấp nông dân cần phải đi theo, thấm nhuần những tư
tưởng giá trị của giai cấp công nhân; xóa bỏ tình trạng lưng chừng, không
vững chắc về tư tưởng chính trị, dàn chuyển đổi hình thức sản xuất nhỏ lẻ,
phi tập trung sang hình thức sản xuất lớn, hiện đại của chủ nghĩa xã hội.
V.I. Lênin khẳng định: "... chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có
thế giải phóng quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn
họ tới chủ nghĩa xã hội".
- Nguyên tắc 2: Tự nguyện
V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: “ Phải bằng những việc làm cụ thể để cho giai
cấp nông dân thấy rằng, đi với giai cấp vô sản có lợi hơn đi với giai cấp tư
sản, từ đó họ mới tự nguyện đi với giai cấp công nhân. Có thực hiện trên
tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa không chỉ giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân mà còn với các giai cấp khác trong xã hội mới có thể
bền vững, lâu dài”.
- Nguyên tắc 3: Kết hợp đúng đắn các lợi ích
Về cơ bản, ở giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có sự tồn tại
những lợi ích tương đối thống nhất, bởi đây đều là tầng lớp bị trị, bị bóc lột
bởi giai cấp tư sản. Xét theo khía cạnh tích cực, chính sự đồng điệu về lợi
ích này đã tạo điều kiện hình thành và duy trì sự liên minh giai cấp công
nông. Tuy nhiên, công nhân và nông dân vẫn là hai chủ thể kinh tế khác
nhau, một mặt giai cấp công nhân là điển hình cho cách thức tổ chức sản
xuất lớn theo chế độ công hữu những công cụ lao động chủ yếu của chế
độ xã hội mới, mặt khác giai cấp nông dân mà chủ yếu vẫn là tiểu nông,
hoạt động sản xuất gắn với chế độ tư hữu nhỏ. Do vậy, những mâu thuẫn
nảy sinh giữa các giai cấp trong liên minh cần được quan tâm, theo dõi sát
sao và giải quyết kịp thời nhằm đảm bảo lợi ích phù hợp cho các giai tầng
khác nhau.
II. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin vào xây dựng khối đại
đoàn kết ở Việt Nam

1. Thành tựu
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận
dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin về vấn đề liên
minh giai cấp. Đoàn kết là một truyền thống hết sức quý báu của dân tộc
Việt Nam ta đã được minh chứng qua hàng nghìn năm lịch sử. Tinh thần
đại đoàn kết của một dân tộc là một nguồn sức mạnh to lớn, vĩ đại có thể

9
khiến bất cứ kẻ thù nào phải khiếp sợ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã
khẳng định: "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền
của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn
kết các tầng lớp nhân dân khác". Hiện nay, khối liên minh không chỉ dừng
lại ở giai cấp công nhân và nông dân mà còn được mở rộng thành khối
liên minh của ba giai cấp công – nông – trí và nắm giữ vị trí nòng cốt trong
khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải
“Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo,
để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân
tộc”[7].
“Khẳng định vai trò quan trọng của các bộ phận trong sự nghiệp cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng”
Đảng ta luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nền nông nghiệp phát triển ổn định,
gắn liền với vai trò của giai cấp nông dân chính là tiền đề vững chắc để
tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng thách
thức đặt ra đối với con đường mà Đảng ta đã chọn đó là phải giải quyết
được triệt để vấn đề nội tại trong nông nghiệp, nông thôn liên quan trực
tiếp đến tầng lớp. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã chỉ
rõ: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và
lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn
định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước” [8]. Bên cạnh
vai trò nòng cốt của liên minh giai cấp công nhân và nông dân trong sự
nghiệp cách mạng của nước nhà, Đảng ta cũng không ngừng đề cao vai
trò, sự đóng góp của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới, xấy dựng và
bảo vệ đất nước. Không thể phủ nhận, sức mạnh của khối liên minh giai
cấp và cụ thể là vai trò của đội ngũ tri thức đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước gắn với định hướng phát triển nền kinh tế tri
thức. Cuộc công nghiệp cách mạng lần thứ tư diễn ra nhanh chóng và
mạnh mẽ yêu cầu đội ngũ trí thức phải có trách nhiệm cao hơn để đáp ứng
kịp thời quá trình phát triển và hội nhập toàn diện với thế giới: “Đội ngũ trí
thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân tộc, tự tôn dân tộc
sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bằng
hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các
lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc” [9].

10
“Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các bộ phận
trong liên minh”
Các đại hội Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết, chích sách nhằm khuyến
khích phát triển nền nông nghiệp trong nước và hỗ trợ người nông dân đã
đạt được những thành quả nhất định, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi thay:
“Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng
nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết
các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt
kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng
cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. Tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày
càng được nâng cao”.
Đât nước ngày càng tiến lên đồng nghĩa với việc kinh tế - xã hội cũng
ngày càng được phát triển, tình hình việc làm và chất lượng đời sống của
không chỉ bộ phận công nhân mà cả tầng lớp nông dân, trí thức ngày càng
được cải thiện, mức sống không ngừng được nâng cao; cải cách tổng thể,
đồng bộ chính sách tiền lương; cải thiện điều kiện làm việc của công nhân
lao động…. Trong tiến trình đổi mới nhiều chủ trương, nghị quyết cũng đã
được ban hành để thúc đẩy sự sáng tạo và nâng cao vai trò của tầng lớp
trí thức, tập trung vào việc tạo điều kiện, môi trường cho trí thức phát triển,
phát huy hết tiềm năng của mình; chăm lo có những chế độ đãi ngộ thích
đáng, kịp thời, tôn vinh những đóng góp tích cực của giai cấp này.
Vận dụng trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đã từng phải trải qua nhiều
cuộc chiến với quy mô, tính chất khác nhau. Từ cuối năm 2019, có một
cuộc chiến mà ở đó có không hề có tiếng bom, tiếng đạn hay bất kỳ một
hành động vũ trang nào những lại đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển
của toàn nhân loại và đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người . Đó là
cuộc chiến với đại dịch Covid-19. Với sự chủ động xác định tính chất nguy
hiểm của dịch bệnh có khả năng ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều người và
nhiều nơi; ngay khi mới xuất hiện những ca bệnh đầu tiền, Đảng và Nhà
nước đã đưa ra nhiều giải pháp, huy động sự tham gia của toàn thể nhân
dân, phát huy tinh thần khối đại đoàn kết dân tộc trong công tác phòng,
chống dịch hiệu quả.
Với chủ trương huy động sức mạnh toàn dân tộc tham gia phòng,
chống dịch và với tinh thần "chống dịch như chống giặc", sự vào cuộc của
toàn bộ hệ thống chính trị, sức khỏe của nhân dân được bảo vệ, đời sống
được chăm lo đảm bảo. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài đã
không chỉ đóng góp công sức mà còn tích cực đóng góp tiền bạc, vật chất

11
cho công tác phòng, chống dịch. Ngay tại các vùng chịu ảnh hưởng nằng
nề của dịch bệnh đã hình thành các ATM đặc biệt như ATM gạo, ATM
khẩu trang và nhiều cửa hàng 0 đồng. Nhiều người dân không quản ngại
hiểm nguy tình nguyện lên đường tới các tâm dịch hỗ trợ công tác phòng,
chống dịch bệnh; chung tay mở những bếp ăn yêu thương chia sẻ nhu yếu
phẩm miễn phí cho mọi người. Hiếm có một đất nước nào mà có sự tham
gia đông đảo, đầy trách nhiệm của Đảng, Chính phủ và các tầng lớp nhân
dân trong cuộc chiến chống covid-19 như Việt Nam.
2. Những hạn chế
Xuất phát điểm từ một nước thuần nông nghiệp, lạc hậu, với tỷ lệ dân
cư tham gia lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm phần lớn nhưng
giai cấp nông dân nước ta lại chưa nhận được những lợi ích cũng như sự
tôn vinh xứng đáng cho những đóng góp của mình trong công cuộc phát
triển đất nước. Mặc dù đã có nhiều biện pháp kinh tế và đổi mới công
nghệ nhưng tư duy nông nghiệp nhỏ lẻ, phân tán, cục bộ của một bộ phận
nông dân vẫn còn khá nặng nề.
Những hạn chế tồn tại trong vấn đề phát triển giai cấp công nhân ở
nước ta vẫn còn nhiều. Mặc dù số lượng, công nhân có trình độ qua đào
tạo đã tang những vẫn chưa theo kịp được nhu cầu phát triển của xã hội.
“Đặc biệt, tình trạng thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, chuyên gia kỹ
thuật, nhà quản lý giỏi phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiến trình hội nhập
quốc tế. Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân nhiều nơi chưa
được bảo đảm, kỷ luật lao động chưa nghiêm, tác phong tự do tùy tiện
chưa có nhiều chuyển biến, năng suất lao động ở mức thấp so với khu vực
và trên thế giới. Quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân thường xuyên
bị vi phạm, như trả lương không đúng hợp đồng, nợ bảo hiểm, bảo hộ lao
động không bảo đảm... Tình hình đó kéo theo sự giác ngộ giai cấp, lý
tưởng chính trị cũng phai nhạt, nhất là đối với bộ phận công nhân làm việc
trong khu vực doanh nghiệp có có chủ sở hữu hoặc vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Không những vậy, đội ngũ trí thức nước ta cũng bộc lộ nhiều
hạn chế và yếu kém... Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học chưa
xuất phát từ nhu cầu và gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh
doanh và đời sống; những ý tưởng thiếu sự đổi mới sáng tạo và chưa áp
dụng nhiều trong thực tế.”
3. Một số giải pháp

3.1. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các bộ phận
trong khối liên minh
Với giai cấp công nhân, đây là một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp
phát triển và đổi mới đất nước. Việc đào tạo công nhân phải gắn với nhu

12
cầu phát triển thực tế của từng ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với sự mở
rộng về nhu cầu của công nghiệp hóa – hiện đại hóa và giao lưu kinh tế
quốc tế; nâng cáo trách nhiệm của người lao động cũng như cải thiện trình
độ, tác phong sản xuất công nghiệp, giáo dục tư tưởng, văn hóa chính trị
cho công nhân; thường xuyên quan tâm chăm lo cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động. Có quy định về tiền
lương để bảo đảm mức sống và công bằng; cải thiện môi trường lao động;
tăng cường quản lý, giám sát việc thực thi pháp luật liên quan trực tiếp
đến người lao động nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng, hợp pháp của
giai cấp công nhân; giải quyết các tranh chấp lao động trên cơ sở luật
pháp quốc gia và quốc tế...
Đối với giai cấp nông dân, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ
trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp
nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để
nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất
lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng
các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin, ... cải
thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả,
bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp
pháp”.
Đối với tầng lớp trí thức, cần có những chính sách nhằm thu hút, nâng
cao năng lực, sử dụng nhân tài và có chế độ đãi ngộ xứng đáng; dành sự
quan tâm phù hợp cho việc phát triển đội ngũ trí thức trẻ có thể kế cận,
tiếp thu và nắm bắt nhanh trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học
công nghệ hiện đại; ban hành luật, quy định về bảo vệ quyền sở hữu.
3.2. Phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp
Đối với giai cấp công nhân,“quan tâm nâng cao tư tưởng chính trị, ý
thức giác ngộ giai cấp, đẩy mạnh tinh thần tự lực, tự cường, ý chí, khát
vọng vươn lên làm chủ của dân tộc. Đầu tiên cần phải giáo dục nâng cao
sự hiểu biết về những chính sách, đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà
nước; cải thiện tinh thần, trách nhiệm cũng như tang cường khả năng
thích ứng của người lao động trước sự biến đổi không ngừng của tình hình
kinh tế, an ninh trật tự trong nước và quốc tế tạo ra sự cạnh tranh lớn về
lao động và việc làm trên thị trường. Đổi mới phương thức hoạt động của
các tổ chức công đoàn, các tổ chức nghề nghiệp từ địa phương cho đến
từng doanh nghiệp trên địa bàn cơ sở, hướng tới nắm bắt nhanh chóng,
kịp thời những tâm tư, nguyện vọng và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công nhân.”
Đối với giai cấp nông dân,”việc nâng cao trình độ giáo dục và cải thiện
dân trí cho cần được coi là nhiệm vụ tiên quyết. Chú trọng hình thành nhận

13
thức, tư duy và thói quen cho tầng lớp nhân dân lao động với cơ sở là sự
tiến bộ của khoa học – công nghệ, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn
hóa của nhân loại, dần xóa bỏ tình trạng manh mún, tư duy lạc hậu của
nông dân trong hoạt dộng sản xuất, kinh doanh và xây dựng đời sống.
Hướng tới mục tiêu cơ bản là xây dựng đời sống của nông dân và cư dân
nông thôn ngày một ổn định, chất lượng cuộc sống này càng được nâng
cao.”
Đối với đội ngũ trí thức, cần thiết phải xây dựng một môi trường có tính
độc lập, dân chủ tạo điều kiện cho hoạt động sáng tạo, phát minh cho tầng
lớp trí thức trên cơ sở không vùi dập, phản bác tiêu cực những ý kiến khác
biệt, phản biện; tăng cường đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất cũng như
chuyển giao các công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và
phát triển tri thức.
3.3. Kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh
“Bất kỳ một liên minh nào muốn tồn tại bền vững thì đều phải dựa trên
sự tôn trọng nhu cầu, lợi ích khác nhau của các chủ thể tham gia liên
minh.“Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên
tắc mang tính quy luật trong việc xây dựng khối liên minh công - nông - trí
thức là phải xác định đúng và phát hiện kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh
của các giai tầng trong mỗi giai đoạn cụ thể; trên cơ sở những tiềm năng
và thực trạng kinh tế - xã hội từ đó có giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu;
xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh giữa các giai
cấp.”Thực hiện tốt vấn đề này sẽ tạo ra một tiền đề vững chắc để tiếp tục
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước,
hoàn thành sự nghiệp cách mạng của dân tộc.”

C. PHẦN KẾT LUẬN

“Từ những thắng lợi trong thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong
suốt 90 năm hình thành và phát triển qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
trở thành những minh chứng rõ rang nhất cho sự đúng đắn của nền tảng
tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin. Những chiến công vang dội trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng với những
thành tựu kinh tế nổi bật trong suốt quá trình đổi mới, hòa nhập với dòng
chảy kinh tế thế giới chính là những trái ngọt của sự kiên định trên con
đường theo đuổi những lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đáp ứng nhu
cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật
phát triển và xu hướng chung của thời đại.”

14
“Việt Nam đã và đang bước vào quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
yêu cầu một sự đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới đất nước theo
hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong bối cảnh
tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến khó lường cùng những
khó khăn, thách thức truyền thống và cả phi truyền thống xuất hiện tác
động trực tiếp tới đời sống xã hội, những ảnh hưởng tiêu cực của việc h ội
nhập đã gây ra một số hạn chế như phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
dễ dàng bị lung lay, dao động trước sự kích động của các thế lực thù địch ,
giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội...”Vì vậy, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giữa các giai cấp trong xã hội do Đảng lãnh đạo trở nên
ngày càng bức thiết, để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối
đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.

DANH MỤC THAM KHẢO

1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004,
t.7, tr. 84 - 85
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 269
3. V.I Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, t.44, tr.57
4. V.I Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, t.40, tr.218
5. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, t.4, tr.611
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb CTQG, H.2016, tr.79-80.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 158
8, 9. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 123 - 124, 82
10. Về liên minh công - nông và xây dựng khối liên minh giai cấp ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản, TS Dương Thị Thanh Xuân.2016
11. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2019, tr. 94 - 95

15

You might also like