You are on page 1of 5

Chương 2: Sự vận dụng mối quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại vào thực tiễn cách

mạng Việt Nam

2.1. Sự vận dụng của đảng cộng sản về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc.
2.1.1. Trong giai đoạn mới thành lập, Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam - có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.
Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
- Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết
vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể
giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là
thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong
dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8, năm 1941 do Người chủ trì: “Trong lúc này quyền lợi của bộ
phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn
dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi
của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Do vậy, Người kêu gọi: Dù
có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” và “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”.
- Sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa dân
tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mác - Lênin có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực
lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói
chung. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ
nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ
nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản, “khi chủ nghĩa dân tộc của
họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hóa và lúc đó, nhất định chủ
nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Bởi vậy, chủ nghĩa dân tộc theo Hồ
Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của
Quốc tế II, mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin,
gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh
dùng ở đây, nói như C.Mác, không phải như giai cấp tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc chân chính của người dân bản xứ.
2.1.2. Sự tiếp tục áp dụng và phát triển lập trường về mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp trong cách mạng Việt Nam
Sau khi Hồ Chí Minh đã đề xuất và phát triển lập trường về mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp trong cách mạng ở Việt Nam, các lãnh đạo và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
áp dụng và phát triển ý tưởng này trong quá trình chiến đấu và xây dựng đất nước.
-Tích hợp chặt chẽ giữa đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc: Lập trường của Hồ Chí
Minh đã thể hiện sự nhận thức sâu sắc về sự tương tác phức tạp giữa giai cấp và dân tộc.
Điều này đã được đảng lãnh đạo tiếp tục phát triển và tích hợp chặt chẽ vào chiến lược
đấu tranh cách mạng. Qua việc kết hợp giữa việc đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp lao
động và việc đấu tranh cho quyền tự do, độc lập của dân tộc, Việt Nam đã đạt được sự
đoàn kết mạnh mẽ và thành công trong việc giành độc lập và tự do. Một trong những ví
dụ minh họa rõ ràng nhất về việc tích hợp giữa đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc là
trong Chiến tranh Điện Biên Phủ. Trong cuộc chiến này, quân đội Việt Minh không chỉ
đấu tranh chống lại quân Pháp để giành độc lập cho dân tộc Việt Nam mà còn là một
cuộc chiến cho quyền lợi của giai cấp lao động. Qua việc tập trung sức mạnh của dân tộc,
quốc gia đã đạt được sự thống nhất mạnh mẽ và kết quả chiến thắng lịch sử.
-Phát triển chủ nghĩa dân tộc với tư duy quốc tế: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ
nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tích hợp tư duy
quốc tế vào lập trường của mình. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc không thể tách
rời khỏi chủ nghĩa quốc tế vô sản. Việt Nam đã học hỏi và áp dụng những nguyên lý và
phương pháp từ lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng của mình, đồng thời tích
hợp những giá trị văn hóa dân tộc vào quá trình xây dựng xã hội mới. Một ví dụ minh họa
rõ nét là trong quá trình chiến đấu, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ hướng tới việc
giải phóng dân tộc mà còn tích hợp tư duy quốc tế vào lập trường của mình. Ví dụ, trong
tuyên bố Độc lập năm 1945, lãnh đạo Việt Nam đã phát huy tinh thần tự do, bình đẳng,
và dân chủ, phản ánh tư duy quốc tế của thời đại, đồng thời khẳng định quyết tâm giành
độc lập cho dân tộc Việt Nam.
-Tầm nhìn toàn diện và bền vững: Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển một tầm nhìn
toàn diện và bền vững trong quá trình cách mạng, tập trung vào việc đấu tranh cho giải
phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Điều này không chỉ bao gồm việc giành độc lập
từ thực thể ngoại vi mà còn là việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ.
Tầm nhìn này không chỉ hướng tới việc thay đổi cấu trúc xã hội mà còn là việc xây dựng
một nền kinh tế và văn hóa mạnh mẽ, phát triển bền vững theo hướng tiên tiến và nhân
văn. Điều này thể hiện qua việc tích hợp các chính sách và biện pháp phát triển kinh tế-xã
hội có tính chất nhân văn và bền vững, đồng thời bảo vệ và phát triển những giá trị văn
hóa dân tộc.
=> Trong quá trình cách mạng của Việt Nam, mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân
loại đã được Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng và phát triển sáng tạo, thể hiện qua sự kết
hợp chặt chẽ giữa đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp đã được đưa vào thực tiễn
và phát triển một cách toàn diện và bền vững, đóng góp quan trọng vào sự thành công của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
2.2. Sự vận dụng của đảng cộng sản về mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc với nhân
loại.

Trong quá trình cách mạng của Việt Nam, mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân
loại được Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng và phát triển sáng tạo và được xem xét trong
bối cảnh toàn diện của sự tiến bộ nhân loại, Đảng Cộng sản đã không chỉ tập trung vào
việc giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ và bảo vệ quyền lợi của giai cấp lao động mà còn
đặt nhân loại lên hàng đầu, tôn trọng và phát triển toàn diện con người.
2.2.1. Tích hợp quan điểm nhân loại vào chiến lược cách mạng:
Trong quá trình cách mạng ở Việt Nam, Đảng Cộng sản đã không chỉ tập trung vào việc
giải phóng dân tộc mà còn chú trọng đến sự phát triển toàn diện của con người, đặt mục
tiêu tôn trọng và phát triển nhân loại vào trung tâm của chiến lược cách mạng. Dưới đây
là những cách mà Đảng đã tích hợp quan điểm nhân loại vào chiến lược cách mạng:
-Tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào quá trình cách mạng: Đảng Cộng sản đã
khuyến khích mọi công dân tham gia vào quá trình cách mạng, bằng cách tạo ra các cơ
hội và điều kiện thuận lợi cho họ để tham gia vào các hoạt động cách mạng. Việc này
không chỉ giúp tăng cường sức mạnh của nhân dân mà còn thể hiện tôn trọng đến vai trò
của mỗi cá nhân trong xã hội.
-Khuyến khích sự đoàn kết và tương tác xã hội: Đảng đã xây dựng một tinh thần đoàn kết
mạnh mẽ giữa các tầng lớp và giai cấp trong xã hội. Việc này đã thúc đẩy sự hợp tác và
tương tác tích cực giữa mọi người, từ đó tạo ra sức mạnh toàn diện cho quá trình cách
mạng.
2.2.2.Chính sách giáo dục và văn hóa và chính sách phát triển kinh tế xã hội có tính
nhân văn
- Trong giai đoạn cách mạng, việc cải thiện hệ thống giáo dục và văn hóa đã được coi là
một phần quan trọng của chiến lược cách mạng. Điều này nhằm mục đích nâng cao tri
thức và phẩm chất con người, tạo điều kiện cho mọi công dân tiếp cận giáo dục và văn
hóa, từ đó thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nhân loại.
-Bên cạnh đó đảng cũng đã áp dụng các chính sách phát triển kinh tế-xã hội có tính nhân
văn, nhằm mục tiêu cải thiện cuộc sống và điều kiện sống của nhân dân. Việc này đã
được thực hiện thông qua việc tăng cường phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân
dân và xây dựng các chương trình phúc lợi xã hội.
=> Tóm lại, trong quá trình cách mạng của Việt Nam, mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc
và nhân loại đã được Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng và phát triển sáng tạo, đóng góp
quan trọng vào sự thành công của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội
mới. Qua đó, Đảng đã khẳng định một lần nữa vai trò lịch sử và tầm nhìn vĩ đại của mình
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội nhân văn, tiến bộ ở Việt Nam.

*Tài liệu tham khảo


1.Phạm Thị Hoàng Hà, Nguyễn Thị Thu Huyền (2020), “Tư tưởng V.I.Lênin về quan hệ
giai cấp - dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính
trị, (4), http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3164-tu-tuong-
vilenin-ve-quan-he-giai-cap-dan-toc-va-su-van-dung-cua-dang-cong-san-viet-nam.html.
Tuy cập ngày 17/01/2022.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.198.
3. Hồ Chí Minh, Sđd, t.2, tr.108.

You might also like