You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN”

VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE”

BÀI TẬP LỚN


‘’CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC’’
Đề tài:!Quan!điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về liên minh giai cấp và sự vận dụng
của Đảng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện!nay.

Họ và tên sinh viên: Đặng Khánh Vi


MSV: 11208450
Lớp: Kinh doanh quốc tế CLC 62A

Hà Nội, 2021l
MỤC LỤCl

I. LỜI MỞ ĐẦUl
II. NỘI DUNG
1.”Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về liên!minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và các tầng lớp khác.
2.”Quá trình vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam.
a.!Các nội dung đã áp dụng, thành tựu đã đạt được.
b.!Hạn chế, tồn tại.
b. Giải pháp.
III. LIÊN HỆ THỰC TẾ
1.”Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên trong việc góp phần củng cố khối liên minh giai
cấp, tầng lớp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân!tộc.

2. Liên hệ trách nhiệm bản thân.

VI. KẾT LUẬN

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI MỞ ĐẦU
Trước khi tìm hiểu về liên minh giai cấp theo Mác-Lênin và sự vận dụng của
đảng ta trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, ta cần hiểu rõ bản chất
của của liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin.!Về
sự liên kết giữa các giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động xã hội
khác. Từ những căn cứ cụ thể về điều kiện và những luận điểm về liên minh giai
cấp trên ta có thêm cơ sở để lý luận về vấn đề liên minh giai cấp,!tầng lớp ở Việt
Nam và sự vận dụng trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. về vấn đề liên minh giai cấp,!tầng
lớp ở Việt Nam và sự vận dụng trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Đầu tiên, theo lý luận về giai cấp của C.Mác, sự hình thành các giai cấp
trong xã hội là khách quan, do quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất chủ yếu quy
định. Mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự phát triển của xã hội,
đều có nhu cầu lợi ích riêng, nhưng trong cuộc sống và sản xuất, các giai cấp
thường nảy sinh nhu cầu và lợi ích chung ví dụ như: chống giặc ngoại xâm, bảo vệ
độc lập dân tộc, hướng đến cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nếu như không
đoàn kết, hợp tác và hợp lực, thì các giai cấp không thể thực hiện được nhu cầu, lợi
ích khách quan của mình vì thiếu đi sức mạnh. Chính vì để thực hiện lợi ích đó
buộc các giai cấp, tầng lớp phải gắn bó với nhau trong khối liên minh thống nhất,
đặc biệt là trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, lý luận về liên minh
giai cấp được C.Mác - Ph.Ăngghen quan tâm và tập trung nghiên cứu.
Tiếp đó, trên cơ sở!của những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
về liên minh giai cấp, tầng lớp ta có thể thấy được trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa việc tổ chức khối liên minh vững mạnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
để thực hiện những nội dung cơ bản của liên minh như kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội…Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về liên minh giai cấp. Hiện nay, vấn
đề liên minh công nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết
dân tộc. Tại Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phải “Tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”, để lực lượng này thực sự trở thành nền
tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.Có thể nói liên minh giai cấp đóng vai trò to lớn
trong việc củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của nước ta trong bất kì
thời kỳ nào.
Trong bài tập lớn trên, từ những kiến thức cơ bản đạt được, chúng ta sẽ cùng
đi tìm hiểu về liên minh giữa các giai cấp, qua đó tìm ra những điểm khác biệt giúp
quá trình củng cố khối đại đoàn kết của dân tộc ta trở nên độc nhất và khác biệt so
với những nước còn lại thuộc khối xã hội chủ nghĩa. Qua đó em xin phép trình bày
về vấn đề: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về liên minh giai cấp và sự vận
dụng của Đảng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện
nay”. Tuy nhiên, do những hiểu biết cũng như thời gian tìm hiểu môn học của bản
thân em còn có nhiều hạn chế, bởi vậy bài làm của em sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp của thầy để có thể sửa đổi bài tập lớn
trở nên hoàn thiện và mang tính chính xác cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn
giảng viên đã cung cấp cho chúng em những kiến thức và tư liệu cần thiết xây
dựng nền tảng giúp em có thể hoàn thành bài tập lớn này.
NỘI DUNG
1. Vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp khác
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin Liên minh giai cấp, tầng lớp chính là sự
liên kết, hợp tác, hỗ trợ…lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện nhu
cầu và lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực hiện
thắng lợi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen đã sử dụng thuật ngữ gọi
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân vì đây là hai lực lượng xã hội
đông nhất, cơ bản nhất lúc bấy giờ. Lúc này ở các nước tư bản có nền công nghiệp phát
triển do đó công nhân chiếm đa số, tiếp đến là nông dân, chỉ có một bộ phận trí thức được
chủ nghĩa tư bản đào tạo nhằm phục vụ cho giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Tư tưởng
liên minh giai cấp được thể hiện rõ khi C.Mác - Ăngghen tổng kết cuộc cách mạng Pháp
1848 - 1850 và Công Xã Paris 1871: “nếu giai cấp công nhân liên minh được với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động khác để cùng đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột
của giai cấp tư sản thì cách mạng vô sản sẽ thắng lợi”.
Và thực tiễn khi nghiên cứu thực tiễn các phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhận chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản ở châu Âu, nhất là ở nước Anh và
nước Pháp từ giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra được nhiều nhiều lý luận
nền tảng định hướng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đi đến thắng lợi, trong đó
lý luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác đã được các ông khái quát
thành vấn đề mang tính nguyên tắc. Các ông đã chỉ ra rằng, nhiều cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân ở những nước này thất bại chủ yếu là do giai cấp công nhân “ đơn độc ” vì
đã không tổ chức liên minh với “ người bạn đồng minh tự nhiên ” của mình là giai cấp
nông dân. Do vậy, các cuộc đấu tranh đó đã trở thành những “ bài đơn ca ai điếu ”. Từ
những lý luận trên ta càng khẳng định rõ hơn về tính quan trọng của liên minh giai cấp
trong các công cuộc đấu tranh và phát triển.
Xét dưới góc độ chính trị, trong một chế độ xã hội nhất định, chính cuộc đấu tranh
giai cấp của các giai cấp có lợi ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan mỗi
giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên minh với các giai cấp, tầng lớp xã
hội khác có những lợi ích phù hợp với mình để tập hợp lực lượng thực hiện những nhu
cầu và lợi ích chung - đó là quy luật mang tính phổ biến và là động lực lớn cho sự phát
triển của các xã hội có giai cấp. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng lợi của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa cả trong giai đoạn giành chính quyền và giai đoạn xây dựng chế độ xã
hội mới.
Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao, bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, VILênin
cũng khẳng định liên minh công, nông là vấn đề mang tính nguyên tắc để đảm bảo cho
thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917. VILênin chỉ
rõ: :Nếu không liên minh với nông dân thì không thể có được chính quyền của giai cấp
vô sản, không thể nghĩ được đến việc duy trì chính quyền đó Nguyên tắc cao nhất của
chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô
sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”.
Trên thực tế, trong bước đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, VILênin đã
chủ trương mở rộng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp xã hội khác. Ông xem đây là một hỉnh thức liên minh đặc biệt không chỉ trong
giai đoạn dành chính quyền, mà phải được đảm bảo trong suốt quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. V.ILênin chỉ rõ:“ Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên
minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động, với đông
đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức,
v.v...) hoặc với phần lớn những tầng lớp đó, liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh
nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và
những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ
nghĩa xã hội”.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và tầng lớp lao động khác vừa là lực lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính trị -
xã hội to lớn. Nếu thực hiện tốt khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó trước hết là với trí thức thì không
những xây dựng được cơ sở kinh tế vững mạnh mà chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa
cũng ngày càng được củng cố vững chắc. Khẳng định vai trò của trí thức trong khối liên
minh, V.I.Lênin viết:“ Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và
giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”.
Xét từ góc độ kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - tức là cách mạng
đã chuyển sang giai đoạn mới, cùng với tất yếu chính trị - xã hội, tính tất yếu kinh tế của
liên minh lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự thắng lợi hoàn toàn của
chủ nghĩa xã hội. Liên minh này được hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan của
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và chuy cấu kinh tế từ một nền sản
xuất nhỏ nông nghiệp là chính sang sản xuất hàng hóa lớn, dịch cơ phát triển công
nghiệp, dịch vụ và khoa học - công nghệ..., xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật cần
thiết cho chủ nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát triển được khi gắn bó
chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới phục vụ phát triển sản xuất và tạo thành nền
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Chính những biến đổi trong cơ cấu kinh tế này đã và
đang từng bước tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp xã hội khác.
Việc hình thành khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức cũng xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ nên các chủ thể của
các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học và công nghệ... tất yếu phải
gắn bó, liên minh chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế
chung của mình. Song quan hệ lợi ích giữa công nhân, nông dân và trí thức cũng có
những biểu hiện mới, phức tạp: bên cạnh sự thống nhất về lợi ích kinh tế, xuất hiện
những mâu thuẫn lợi ích ở những mức độ khác nhau. Điều này có ảnh hưởng nhất định
đến sự đoàn kết, thống nhất của khối liên minh. Do vậy, quá trình thực hiện liên minh
giai cấp, tầng lớp, đồng thời là quá trình liên tục phát hiện ra mâu thuẫn và có giải pháp
kịp thời, phù hợp để giải quyết mâu thuẫn nhằm tạo sự đồng thuận và tạo động lực thúc
đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời tăng cường khối liên
minh ngày càng bền chặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân.

2. Quá trình vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam


a. Các nội dung đã áp dụng, thành tựu đã đạt được
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, Đảng ta đã vận
dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của của Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp. Sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức được phát huy, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại:
Trong thời chiến, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách
thống trị của thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm
lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân
năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ
quốc tế; thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua gần 35 năm đổi mới.
Thực tiễn liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức của Việt Nam cùng với thực tiễn trên thế giới (cả thành công và thất bại) là minh
chứng hùng hồn cho tư tưởng của Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp vẫn còn nguyên
tính khoa học và cách mạng.
Hiện nay trong thời bình, theo tư tưởng của Bác, nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa VN được xây dựng và củng cố như một nhà nước "của dân, do dân, vì dân". Do đó
việc liên kết các giai cấp và tầng lớp là vấn đề bức thiết và quan trọng. Các giai cấp, tầng
lớp tiếp tục có vai trò và tiếng nói quan trọng đưa ra những ý kiến giúp chính quyền
không ngừng cải thiện để có thể đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển, sánh vai
với các cường quốc.
Việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về liên minh giai cấp đã được
khéo léo thể hiện qua các cuộc trưng cầu toàn dân, toàn dân bầu cử nhằm chọn ra những
cá nhân ưu tú nhất, giải pháp tối ưu nhất nhằm giải quyết các vấn đề tồn động và đổi mới,
phát triển nước ta. Liên kết toàn dân mọi giai cấp mọi tầng lớp và thể hiện được tinh thần
đoàn kết một lòng. Tiêu biểu là trong lần Bầu cử Đại Biểu Quốc hội năm 2021 vừa qua
đã cho ta thấy tinh thần ủng hộ, đóng góp xây dựng tính liên minh của toàn dân ta trong
công cuộc duy trì và phát triển đất nước Việt Nam.

b. Hạn chế, tồn tại


Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng còn nhiều thiết sót, hạn chế
để khắc phục em xin lấy ví dụ về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 để làm rõ điều này.
Vượt lên những khó khăn bởi thiên tai và dịch bệnh, các cấp Hội đã thực hiện tốt
vai trò trung tâm, nòng cốt trong phong trào thi đua yêu nước. Giai cấp nông dân ngày
càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của Hội Nông dân, thực hiện rất tốt cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
Tuy nhiên, bước vào triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta, cán
bộ Hội và hội viên nông dân Việt Nam thấy rõ 8 những khó khăn, thách thức gồm: Việt
Nam đang chịu những tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, thiên tai xảy ra trên các
vùng kinh tế - xã hội; Đã và đang hình thành một bộ phận nông dân trí thức hay công
nhân nông nghiệp có trình độ, kiến thức và kỹ năng sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị
nhưng mới được bước đầu, phần đông vẫn phổ biến là kinh tế hộ, thiếu liên kết nên khó
cạnh tranh trên thị trường; Hiện tại, mới có khoảng 8% doanh nghiệp lớn đầu tư vào nông
nghiệp nên không thể đủ lực chi phối chuỗi giá trị ngành hàng và kết nối cung cầu. Các
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp vẫn đã và đang gặp không ít khó khăn về tiếp cận
nguồn vốn về ngân hàng và các thủ tục liên quan đến đất đai.
Đặc biệt, phần lớn nông dân thiếu kỹ năng sản xuất hàng hoá, thiếu kỹ năng nghề,
thiếu vốn và các công cụ sản xuất hiện đại. Xã hội nông thôn đang biến đổi sâu sắc về cơ
cấu xã hội, giai cấp, dân số, tộc người, tôn giáo, nghề nghiệp… có cả mặt tích cực và tiêu
cực đòi hỏi phải từng bước vươn lên, khắc phục hạn chế, xây dựng con người Việt Nam
thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà các giá trị truyền thống và giá trị hiện đại như Đại
hội XIII của Đảng ta đề ra. Do đó ta lần linh hoạt và nhanh chóng thích ứng những tình
huống mới, sự biến chuyển của thời đại mới, đề ra những giải pháp khắc phục,...

c. Giải pháp
“Phương pháp tốt nhất để phát triển, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là tiếp tục phát triển hệ thống các nguyên lý lý luận trên cơ sở thường xuyên
tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận, giải quyết thành công những nhiệm vụ mới và trả lời
được những vấn đề do cuộc sống đặt ra, nhất là trong hội nhập quốc tế.

Trước mắt, cần tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề căn bản nhất trong sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, như: Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; phát huy dân chủ; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong điều kiện mới; phát triển văn hóa, con người và nguồn lực con người; đặc
điểm nội dung của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) và sự phát triển của kinh tế tri thức...
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giữ vững độc lập,
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính nguyên tắc, đây là yêu cầu chính
trị hàng đầu đặt ra đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thể hiện tập trung nhất của
giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kiên định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường cách mạng mà Đảng ta, dân tộc ta đã
lựa chọn. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc của đổi mới, đồng thời
cũng là chủ trương, quan điểm của Đảng ta trong hội nhập quốc tế, mà thực chất là sự
kiên định mục tiêu lý tưởng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.”
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội tạo môi trường và điều kiện
thúc đẩy biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp theo hướng tích cực.
Hai là, xây dựng thực hiện hệ thống chính sách xã hội tổng thể nhằm tác động tạo
sự biến đổi tích cực cơ cấu xã hội nhất là các chính sách liên quan đến cơ cấu xã hội-giai
cấp.
Ba là, tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết thống nhất giữa các lực
lượng trong khối liên minh và toàn xã hội.
Bốn là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh phát triển khoa học và công nghệ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để phát
huy vai trò của các chủ thể trong khối liên minh.
Năm là, đổi mới hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
nhằm tăng cường khối liên minh giai cấp, tầng lớp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân.

III. LIÊN HỆ THỰC TẾ


1. Trách nhiệm của thanh niên, sinh viên trong việc góp phần củng cố khối liên
minh giai cấp, tầng lớp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Lực lượng thanh niên”đảng!viên trẻ, đoàn viên ưu tú, sinh viên trong cần tập trung
thực hiện có hiệu quả các vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống, khơi dậy tinh thần
yêu nước, giáo dục và nâng cao nhận thức của đoàn!viên thanh niên và thế hệ trẻ về
những thành quả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trong qua từng giai
đoạn lịch sử. Nâng cao nhận thức, lý!tưởng cách mạng cho đảng viên trẻ, đoàn viên ưu
tú, từ đó nâng cao khả năng lý luận góp phần thực hiện việc phản bác các luận điệu xuyên
tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực phản động. Đề cao nhận thức và vai trò của
người thủ lĩnh thanh niên trong việc định hướng và tổ chức các nội dung hoạt động tại
đơn vị.

Thứ hai, tiếp tục tăng cường hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội, truyền thông,
có sự liên kết chặt chẽ đối với các đồng chí cán bộ Đoàn. Kịp thời triển khai tuyên truyền
các thông tin chính thống, thông tin!tích cực, định hướng đấu tranh, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trên các lĩnh vực, trên không gian mạng. Phát động các phong trào
thi đua tích cực trên các trang mạng xã hội nhằm định hướng thông tin tích cực đến với
đoàn viên thanh niên và giới trẻ. Tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động “mỗi ngày
một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái
xấu” góp phần nâng cao sức đề kháng cho đoàn viên, thanh niên trong nhận diện và xử lý
các vấn đề tiêu cực trên các trang mạng xã hội và trong dư luận quần chúng.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết
nạp; đồng thời định kỳ hàng quý, 6 tháng có đánh giá chất lượng, có đánh giá đảng viên
dự bị, đảng viên trẻ về ý thức, trách nhiệm và nhận thức trong quá trình rèn luyện, học
tập và công tác. Đánh giá đúng năng lực, đạo đức, tác phong của đảng viên trẻ, đoàn viên
ưu tú khi bổ nhiệm vị trí công tác và phân công nhiệm vụ.

Thứ tư, duy trì và nâng chất hiệu quả hoạt động của câu lạc bộ Lý luận trẻ, xây
dựng chuyên đề thực tiễn công tác đối với nâng cao khả năng lý luận chính trị, kỹ năng,
nghiệp vụ phản bác bằng những vụ việc cụ thể. Thể hiện vai trò, trách nhiệm trong đề ra
các giải pháp có hiệu quả thực hiện cuộc vận động “Người cộng sản trẻ”; thể hiện tiếng
nói, ý chí và hành động cụ thể trong các diễn đàn “Đảng với thanh niên, thanh niên với
Đảng”.

Thứ năm, thông qua các phong trào hành động!cách mạng của Đoàn như “Tuổi
trẻ xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thanh niên tình nguyện”, phong
trào “Tuổi trẻ sáng tạo”, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong đề ra
các hoạt động, mô hình, giải pháp để giải quyết các vấn đề mà người dân quan tâm, đồng
thời hỗ trợ giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo đoàn viên,
thanh niên như: vệ sinh môi trường, cải cách hành chính, phòng chống tội phạm, truyền
thông trên mạng xã hội…. để qua đó tuyên truyền các công trình, phần việc của Đoàn,
công tác vận động nhân dân, nâng cao uy tín của từng đồng chí đảng viên trẻ, đoàn viên
ưu tú trong việc tham gia thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị tại địa phương.”

2. Liên hệ trách nhiệm bản thân

Đoàn!kết dân tộc là trách nhiệm của Đảng của toàn dân và mỗi cá nhân chúng ta
đặc biệt trong thời đại mới với nhiều sự biến chuyển của đời sống xã hội . Đoàn!kết đã
trở thành một động!to lớn để dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để phát triển
bền vững. Mỗi cá nhân như là một mảnh ghép nhỏ để đóng góp sự cố gắng của mình cho
sự nỗ lực chung của toàn dân tộc. Đối với sinh viên chúng em đang ở trên ngưỡng cửa
đại học bước đầu phải tu dưỡng và rèn luyện đạo đức phấn đấu và cố gắng trong học tập
góp phần xây dựng đất nước, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc .
  Thứ nhất, phải có ý thức rèn luyện,!tu dưỡng đạo đức thường xuyên ,rèn luyện
phẩm chất tư cách, làm!tròn nhiệm vụ được Đảng, Đoàn và chính quyền giao phó. Sống
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã thân ái với mọi người, hết lòng vì nhân
dân phục vụ. Tự rèn luyện trau dồi phẩm chất!đạo đức, lối sống, tác phong của người
Đảng viên, Đoàn viên.
Thứ hai, phải có ý thức trách nhiệm trong học tập. Chăm chỉ, ham học hỏi không
ngừng tiếp thu những kiến thức mới.  Tích cực tham gia các hoạt động học tập cũng như
các hoạt động ngoại khóa, định hướng của nhà trường, các khoa viện tổ chức cũng như
của ngành mình học để trau dồi kiến thức, kĩ năng phần mềm, kĩ năng giao tiếp và đặc
biệt là kĩ năng làm việc nhóm, tổ chức.

Thứ ba, phải”luôn cập nhật thông tin trên mọi thông tin đại chúng để chắt lọc, tìm
kiếm những tấm gương đạo đức tốt để học hỏi. Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý,
bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; Chân thành, khiêm tốn, không
chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu khuyết điểm... Luôn có ý thức giữ
gìn đoàn kết”trong trường học. 
Thứ tư, có”ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh:
+ Bản thân em tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên
tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.
+ Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình. Luôn phê phán những biểu
hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân. Luôn động viên những người thân trong gia
đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia!đình văn hoá.”
+”Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt được. Luôn là người
gương mẫu xứng đáng với niềm tin. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận
dụng sáng tạo trong giải quyết công việc được giao, phải luôn nêu gương về mặt đạo đức,
giữ vững lập trường.
+Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, em luôn quán triệt
tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của
Người. Song song với việc xây dựng Đảng tùy theo sức và vị trí của mình, bản thân tôi
cũng luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.!Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để
thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của
Người tùy theo vị trí của mình như: Tập trung dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật
nghiêm minh tự giác, trong cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng.”
Cuối cùng đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn của bản thân. “Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà nước
đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu dưỡng đạo đức phẩm chất,
không ngừng tự học suốt đời.”

Trong bối cảnh đất nước và thế giới đang trải qua đại dịch Covid-19, cá nhân em
tự nhắc nhở bản thân phải luôn tự giác bảo vệ sức khỏe bản thân và cộng đồng. Chấp
hành và tuân theo mọi chỉ dẫn y tế. Nhắc nhở và tuyên truyền đến mọi người xung quanh
để cùng nhau đồng lòng vượt qua đại dịch.

IV. KẾT LUẬN


“Sau khi phân tích về quan”điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về liên minh giai cấp
và có những nhận định về vấn đề vận dụng”liên minh giai cấp của Đảng ta trong quá
trình xây dựng khối đại đoàn kết”ta thấy được tầm quan trọng việc”góp sức tăng cường
xây dựng khối liên minh giai cấp, tầng lớp vững mạnh trong sự nghiệp xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ!nghĩa. Về nội dung và tầm quan trọng trong thực tiễn
lịch sử và hiện tại.
Nắm rõ những nội dung nghiên cứu của Mác- Lênin về liên minh giai cấp từ nhiều
góc độ và nhiều khía cạnh thực tiễn và lý luận em nhận thấy rằng cần có sự liên minh
chặt chẽ giữa tất cả!các giai cấp, tầng lớp của!xã hội nhằm thực hiện những!nhu cầu và
lợi ích trong các khối liên minh và tạo những động lực thúc đẩy thắng lợi mục tiêu chung
của chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra từ quan điểm đó ta đúc kết và vận dụng sáng tạo trong công cuộc đổi mới
đất nước và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Có thể thấy rằng Đảng và nhà nước đã có
những vận dụng cụ thể, sáng tạo hiệu quả và không ngừng đổi mới để khắc phục những
khó khăn tồn đọng đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức
tạp cộng thêm sự đổi mới chóng mặt của thời đại. Tuy nhiên ta nên vận dụng một cách
linh hoạt và có chiến lược phù hợp với hoàn cảnh đất nước và bối cảnh xã hội Việt Nam.
Cùng với sự vận dụng của chủ nghĩa!Mác- Lênin về liên minh giai cấp và sự nỗ lực của
toàn dân toàn quân sẽ đem đến thắng lợi cho công cuộc xây dựng, củng cố!khối đại đoàn
kết dân tộc và phát triển, đổi mới đất!nước.
Mỗi cá nhân đều có phần trách nhiệm trong công cuộc đổi mới và vận dụng sáng
tạo liên minh giai cấp trong chính mỗi địa phương mình. Học tập, rèn luyện không ngừng
sáng tạo để mỗi cá nhân là một tấm gương sáng góp phần nhỏ công sức của mình trong
công cuộc phát triển khối đại đoàn kết dân tộc, lĩnh hội vã đổi mới đất!nước.

_HẾT_

IV.”TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.”Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội Khoa học (Dùng trong các trường!Đại học – Hệ không
chuyên Lý luận chính trị), Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội 8-2019
2. C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

3. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 269.

4.!V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.TB,M, 1997, t.38,!tr.452.

You might also like