You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM

BÀI TẬP VIẾT TIỂU LUẬN


MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ BÀI SỐ 2:
Đề tài: Phân tích vai trò của nước Việt nhà Nam trong nền kinh tế thị trường đinh hướng
XHCN ở nước ta hiện nay

GVGD : Phạm Thị Nguyệt


Họ và tên : Nguyễn Ngọc Chuyên
MSSV : 1451010001
Lớp : XD14-01

Hà Nội 2021
Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài : Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát mà nước ta dã lựa chọn trong thời kì đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung
của kinh tế thị trường , vừa có những đặc điểm đặc thù, được giải quyết bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những
kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự tinh trí
tuệ của Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác
định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền
kinh tế thiếu thành phần, trong đó kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Qua đề
tài: “Vai trò của nhà nước Việt nhà Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay”, chúng ta có thể xác định một cách rõ ràng và nhất
quán về vị trí , vai trò kinh tế của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế . Hơn
nữa, ta có thể thấy được những mặt tích cực và hạn chế của vấn đề có thể đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
Chương I : Khái quát lý luận: Trình bày các khái niệm, nội dung lý luận
1)Khái niệm: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Có nhiều quan điểm khác nhau về một nền kinh tế thị trường hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), tuy nhiên quan điểm được đồng tình hơn cả là
nền kinh tế thị trường định hướng (XHCN ) ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng (XHCN) phù hợp từng giai đoạn xã hội phát triển của đất nước.
- Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự uản lý của nhà nước
pháp quyền (XHCN) do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân
giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
2)Nội dung:
-  Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường:
+) Sự cần thiết khách quan: Bước vào thời kì quá độ, nền kinh tế do chế độ xã hội
cũ để lại có nhiều thành phần kinh tế xã hội cũ mà quá trình cải taọ lại kéo dài
trong suốt thời kì quá độ mà trong quá trình xây dựng phát triển xã hội mới xuất
hiện nhiều thành phần kinh tế của xã hội mới. Bước vào thời kì quá độ điểm xuất
phát về lực lượng sản xuất, về năng suất lao động là thấp và không đều nhau vì vậy
phải có nhiều hình thức của quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ
khác nhau của lực lượng sản xuất. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã
hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Do đó
kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao đó là kinh tế thị trường. Trong kinh tế
thị trường toàn bộ yếu tố đầu vào, đầu ra đều thông qua thị trường vì vậy giữa hàng
hoá và kinh tế không đồng nhất, chúng khác nhau về trình độ phát triển và cơ bản
có cùng nguồn gốc, bản chất.
+)Cơ sở khách quan đó là: phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất
hàng hoá và nó không mất đi mà ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá ngày càng phát triển giữa các ngành, các
vùng, các thành phần kinh tế với nhau. Nhiều ngành nghề ra đời và phát triển,
những ngành nghề cổ truyền được khôi phục và ngày càng phát triển. Phân công
lao động ngày càng được thể hiện sự phát triển ở tính phong phú, đa dạng

Chương 2 : Xách định nội dung thực tiễn của đề tài mình chọn
Đặt vấn đề
Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam
là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Từ Đại
hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XII, thể chế KTTT định hướng
XHCN ngày càng được hoàn thiện và được chứng minh tính đúng đắn.
Từ nước nghèo, thu nhập thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung
bình, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới
của nền kinh tế, để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước
đang nghiên cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam.
Trong đó, vai trò kiến tạo của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), vai trò của kinh tế tư nhân (KTTN) được nhìn nhận là những trụ cột quan
trọng để tạo nên sức mạnh kinh tế cho quốc gia. Nhận diện và chấn chỉnh các biểu
hiện lệch lạc trong quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là
cần thiết và không thể xem nhẹ.
Mô hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN đã hình
thành, phát triển, đến nay đã có những yếu tố của một nền KTTT hiện đại, hội nhập
quốc tế và bảo đảm định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần; có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường, thị
trường trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị trường đã phát huy vai trò
trong việc xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng
hóa; nền kinh tế đã vận hành theo các quy luật của KTTT.
Đồng thời, nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN; Nhà nước
vừa xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi trường ổn định,
thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước
để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, phát triển bền
vững cả kinh tế, xã hội, môi trường; gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng với các định hướng xã hội của
các nền KTTT hiện đại trên thế giới.
Như vậy, từ thực tiễn và lý luận, có thể khẳng định, KTTT định hướng XHCN là
mô hình KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế không chỉ phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế của thời đại, mà còn là mô hình kinh tế phù hợp với các nước kinh
tế chưa phát triển quá độ lên CNXH.
Về kinh tế: Sự phát triển của Viê ̣t Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhâ ̣n.
Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong
những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình
thấp. Giai đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm
2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70%
xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người
nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục có khả năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu
trong nước và sản xuất định hướng xuất khẩu được duy trì ở mức cao. GDP thực
tăng ước khoảng 7%, tương tự tỷ lệ tăng trưởng trong năm 2018, điều này cho thấy
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực.
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
kinh tế Việt Nam bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Tăng trưởng GDP đạt
1,8% trong nửa đầu năm, dự kiến cả năm đạt 2,8%. Việt Nam là một trong số ít
quốc gia trên thế giới không dự báo suy thoái kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng dự
kiến năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng hoảng (6-7%). Tuy nhiên,
tác động của dịch Covid-19 rất khó đoán định, tùy thuộc vào quy mô và thời gian
kéo dài của dịch bệnh. Sức ép lên tài chính công sẽ gia tăng do thu ngân sách giảm,
trong khi chi ngân sách tăng lên để kích hoạt các gói hỗ trợ các hộ gia đình và
doanh nghiệp giảm thiểu tác động của đại dịch Covid-19.
Về xã hội: Việt Nam đang chứng kiến sự thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã
hội. Dân số Việt Nam đã đạt 96,5 triệu dân vào năm 2019 và dự kiến sẽ tăng lên
120 triệu dân tới năm 2050. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ
trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhâ ̣p tương đương trong khu
vực. Tầng lớp trung lưu đang hình thành, hiện chiếm khoảng 13% dân số và dự
kiến sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026.
Trong giai đoạn 2010-2020, Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên
0,69. Một em bé Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt
mức năng suất bằng 69% so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức
khỏe đầy đủ. Như vậy, Việt Nam là quốc gia có Chỉ số Vốn con người cao nhất
trong số các quốc gia có thu nhập trung bình, tuy nhiên vẫn còn tồn tại khoảng
cách giữa các địa phương, nhất là ở nhóm dân tộc thiểu số.
Y tế của nước ta cũng đạt nhiều tiến bộ khi mức sống ngày càng cải thiện. Trong
giai đoạn 1993-2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7
(trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong giai đoạn
1990-2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn mức trung
bình của khu vực và thế giới, với 87% dân số có bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, tỷ lệ
chênh lệch giới tính khi sinh còn ở mức cao và ngày mô ̣t tăng, điều này cho thấy
tình trạng phân biệt giới tính vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong
những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm
tuổi trên 65 sẽ tăng gấp 2,5 lần.
Trong 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản đã có sự thay đổi tích cực.
Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện. Tính đến năm 2016,
99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ 14% năm 1993.
Tỷ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70%
năm 2016, trong khi tỷ lệ ở thành thị là trên 95%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm
GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều này
tạo ra thách thức không nhỏ đối với sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ
tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam xếp thứ 89
trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
Những vấn đề cần tiếp tục xem xét và hoàn thiện
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được hình thành và phát triển trên cơ sở
phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo.
Nhà nước ngày càng tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần vai trò chủ thể
về kinh tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) bằng pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất, bảo đảm cho thị trường phát
triển, tuân thủ các quy luật của KTTT, tương thích với thông lệ quốc tế; kiến tạo
được môi trường vĩ mô; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và bảo đảm an sinh xã hội;
ban hành cơ chế chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo
hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ
môi trường.
Đồng thời, Nhà nước bảo đảm được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hoàn
thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường kỷ luật kỷ cương trong việc
chấp hành các chế độ chính sách, sử dụng các chương trình đầu tư tín dụng để tạo
điều kiện và hướng dẫn sự phát triển của các ngành, các địa phương và các thành
phần kinh tế.
Các chủ trương, chính sách kinh tế và tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước
cần thiết kế để phù hợp với cơ chế thị trường, mang lại lợi ích và công bằng xã hội,
ổn định và tăng trưởng kinh tế hợp lý, ngăn ngừa tình trạng độc quyền, lạm dụng
và nhân danh KTTT để can thiệp làm méo mó thị trường, lệch lạc các nguồn lực và
tổn hại lợi ích cộng đồng, hạn chế các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh…
Giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN là một sự nghiệp chưa có tiền lệ trong lịch sử và là một quá trình
mở, đòi hỏi sự sáng tạo và bản lĩnh cách mạng của Đảng, trên cơ sở nhận thức đầy
đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ
quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.
Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, về cơ bản, Việt Nam đã, đang và sẽ
tiếp tục chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền
KTTT định hướng XHCN với những thành tựu KT-XH ngày càng to lớn. Thể chế
KTTT, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng,
hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được
triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính
trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên, do phát triển KTTT định hướng XHCN là một sự nghiệp, một quá trình
chưa có tiền lệ nên có những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay cần phải được
tiếp tục xem xét và hoàn thiện, cụ thể:
Thứ nhất, nền KTTT định hướng XHCN mà Việt Nam đang xây dựng là một nền
kinh tế mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa và
những giá trị XHCN đất nước đang phấn đấu. Thế nhưng, vấn đề cần xem xét là
liệu chúng ta có thể nghiên cứu để áp dụng nhiều hơn, đầy đủ hơn những quy luật,
những giá trị chung của thể chế KTTT nhằm tạo thuận lợi sự phát triển vừa nhanh
hơn, vừa bền vững hơn.
Thứ hai, định hướng của Đảng và Nhà nước và thực tiễn vừa qua đã chứng minh
rằng, để phát triển nền kinh tế Việt Nam không thể chỉ dựa vào một thành phần
kinh tế nào, mà cần phải khơi dậy được mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của đất
nước, với một khát vọng chung là xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường. Để
hiện thực hóa điều đó, cả nước đang phát động tinh thần khởi nghiệp với mục tiêu
đến năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu DN.
Như vậy, nòng cốt để phát triển kinh tế Việt Nam, là chỗ dựa bền vững cho kinh tế
đất nước, phải chăng là mọi thành phần kinh tế trong nước, bao gồm cả: Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể và KTTN? Như vậy, về định hướng vĩ mô, liệu chúng ta
cần có sự thay đổi nào không để khơi dậy được mọi tiềm lực kinh tế của đất nước;
tạo ra một sân chơi thực sự công bằng, bình đẳng, trong thụ hưởng chính sách,
được tiếp cận các nguồn lực và việc tuân thủ luật pháp? 
Thứ ba, bảo đảm rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm
và không quá thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các vùng
miền, giữa các thành phần, đối tượng trong xã hội.
Thứ tư, cần có chiến lược cùng những giải pháp hữu hiệu như thế nào để việc phát
triển kinh tế của đất nước bảo đảm hài hòa 2 yếu tố, đó là: Phát triển “nhanh” và
“bền vững”. Đây là hai yêu cầu song hành, bởi với một nền kinh tế đang phát triển
như Việt Nam nếu không có giải pháp để đạt một tốc độ phát triển ở mức cao thì
rất dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Nhìn chung, động lực và triển
vọng hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phụ
thuộc vào những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu sắc hơn về
phát triển KTTT định hướng XHCN.

Chương 3 : Nêu giải pháp để hoàn thiện các vấn đề nêu ra trong phần thực trạng

Các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)
luôn được Ðảng ta quan tâm đặc biệt. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4-2001,
Ðảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và kể từ đó đến
nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được đặt ra
cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng. Ban Chấp hành Trung ương
đã ra hai nghị quyết chuyên đề về vấn đề này: Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và Nghị quyết
Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
(trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X).
Ðại hội XIII của Ðảng nâng lên tầm cao mới về chủ trương, quan điểm hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Báo cáo chính trị được Ðại hội XIII
của Ðảng thông qua có 15 mục lớn, thì mục lớn thứ 4 là: "IV - Hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"
với ba nội dung quan trọng:

Thứ nhất, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Ðại hội XIII khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ðó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác
không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng;
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, có ba điểm nổi bật: Một là, xây dựng
và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu
quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc
đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số;
hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh
doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát
triển kinh tế. Ðẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy
quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao
trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành. Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế,
phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất
quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ
bản. Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định
trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực. Phát triển thị trường hàng hóa,
dịch vụ theo các phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại
điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường tài
chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm... trên nền tảng công
nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Ba là,
tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Ðẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ
quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát
chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà
nước. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế
hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông
nghiệp. Hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích doanh
nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực,
mở rộng thị trường…

Thứ ba, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế, Ðại hội XIII chỉ rõ: "Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ
trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp
Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối
lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế
quốc gia. Ða phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào
một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước
tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống
phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với
các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ
trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết
quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu
sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong
môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế
quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế" (2).

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đầu tiên là: "Tập trung hoàn thiện,
nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải
quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội". Tiếp tục hoàn thiện và
nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn
định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp
luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị
trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học,
công nghệ... Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển
theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh
doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật. Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội,
nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực
hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính một
cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh
doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại,
dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng
lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh
nghiệp; thực hiện phương thức, công cụ quản lý nhà nước chủ yếu bằng điều tiết
gián tiếp, tăng cường hậu kiểm; giảm đến mức thấp nhất rủi ro pháp lý và chi phí
tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp. Ðẩy mạnh xây dựng chính phủ điện
tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ
quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt. Ðổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân
quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ
trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hòa giữa phát
triển kinh tế địa phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả tiềm năng,
thế mạnh của từng vùng, địa phương…

Như vậy, có thể khẳng định Ðại hội XIII của Ðảng, trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi
mới đất nước, nhất là từ Ðại hội IX (2001) đến nay; 10 năm (2011 - 2020) thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hơn ba năm thực hiện Nghị quyết số
11 - NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, đã bổ sung, nâng
tầm chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng
thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ,
hiện đại, hội nhập… Ðể những chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp này đi
vào cuộc sống, trên cơ sở quán triệt sâu sắc, nắm chắc nội dung, thống nhất nhận
thức và hành động trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị vào
cuộc với quyết tâm chính trị cao, quyết liệt, Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo xây dựng,
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và giám sát việc thực hiện; Ban cán sự Ðảng Chính
phủ chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi chương trình hành động, các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm phát huy lợi thế và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực để đất nước phát triển nhanh và bền vững, đạt được mục tiêu Ðại
hội XIII đề ra; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính
trị - xã hội và của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết Ðại
hội XIII của Ðảng.

Kết Luận
Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một vấn đề hết sức cần thiết đối với đất nước ta. Chúng ta đã nhận
thức được rằng những thành tựu mà chúng ta đạt được qua việc thực hiện chiến
lược kinh tế xã hội là sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân ta. đồng thời
những khó khăn thách thức mà chúng ta sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi
chúng ta phải tiếp tục cố gắng hơn nữa, nỗ lực nhiều hơn nữa để vượt qua. Với
thực tiễn đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều
này trên thực tế đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa bảo đảm cho mỗi
hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng va phát triển
đất nước. Nhận thức bao giờ cũng là một quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Hơn thế nữa chủ nghĩa xã hội lại là một hiện
tượng mới mẻ, đang vận động hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy, bám
sát thực tiễn nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận - đó là yêu cầu
to lớn mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng hôm nay. Thực tế cho
thấy rằng nhờ vận dụng quan điểm toàn diện trong việc hình thành đồng bộ yếu tố
thị trường, hình thành các công cụ quản lý kinh tế, nhất là các công cụ về pháp
luật, công cụ kế hoạc… Đã thu được một số thành công nhất định. Tuy nhiên, hiện
nay vẫn còn các yếu tố thị trường chưa đồng bộ, còn phức tạp. Điều đó đòi hỏi phải
hoàn thiện hơn các công cụ quản lý xã hội, công cụ pháp luật, công cụ tài chính

You might also like