You are on page 1of 26

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân



BÀI TẬP LỚN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
GIẢNG VIÊN: ThS.NCS NGUYỄN THÙY LINH

ĐỀ TÀI:
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến
Chính phủ trung ương do dân cử ra”

Họ và tên: Nguyễn Khánh Linh


Mã sinh viên:
Lớp:

- Hà Nội, 17/03/2022 -
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ………………………………………………………………. 2
NỘI DUNG …………………………………………………………………. 3
A. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM …………………………………………… 3
I. Cơ sở của luận điểm ………………………………………………. 3
1. Cơ sở thực tiễn …………………………………………………. 3
2. Cơ sở lý luận ……………………………………………………. 5
II. Nội dung của luận điểm …………………………………………… 6
1. Nhà nước vì dân ………………………………………………... 7
2. Nhà nước của dân ………………………………………………. 9
3. Nhà nước do dân ……………………………………………….. 11
III. Giá trị của luận điểm ……………………………………………… 13
IV. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay ……………………………… 18
B. LIÊN HỆ BẢN THÂN ………………………………………………... 22
KẾT LUẬN …………………………………………………………………. 25

1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ta ngày một tiến lên sánh
vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới, dần khẳng định vị thế của mình
với các nước bạn về một nền độc lập, tự do, dân chủ. Để đạt được thành quả này
là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với những hy sinh mất mát không thể bù
đắp được của bao thế hệ cha ông chúng ta. Và cũng để có và giữ được nền độc
lập dân chủ nước nhà thì ngoài sự cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, còn có
những con người kiệt xuất với phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó,
không sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Đến đây, chúng ta không thể
không nhắc đến Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh
tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ
xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong
trào giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta khẳng định
là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành làm nên nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Do lẽ
đó, việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên vô cùng giá trị và
học tập ở Người là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà không một
sách vở nào có thể dạy nổi.
Một trong những nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong bài báo Dân vận (năm
1949), Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên”. Có thể thấy, qua luận điểm trên, Người đã
nhấn mạnh 3 điều cốt lõi cần có của một nước dân chủ, đó là vì dân, của dân và
do dân. Trong bài tập lớn sau đây, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích luận điểm
này của Người.

2
NỘI DUNG
A. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM
I. Cơ sở của luận điểm
1. Cơ sở thực tiễn
Tình hình trên thế giới thế kỷ XX: tồn tại các kiểu nhà nước: Nhà
nước Thực dân Phong kiến, Nhà nước Dân chủ Tư sản, Nhà nước Vô sản
(Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa). Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa là nhà nước
ra đời cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người, ra đời sau Cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917.
Tình hình Việt Nam: Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công
đòi hỏi phải đòi giải quyết “trăm nghìn đầu mối đều là những công việc
mới lạ” mà quan trọng nhất là việc xây dựng chính quyền dân chủ nhân
dân từ trung ương đến cơ sở.
Chặng đường góp phần hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà
nước:
Đầu năm 1919, tại Paris, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội
Pháp, thành viên của Quốc tế II do F.Engels sáng lập. Ngày 18/6/1919,
thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam, Nguyễn Tất Thành lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gồm 8
điểm tới Hội nghị của các cường quốc Đồng minh thắng trận trong Chiến
tranh thế giới 1914-1918 họp tại Verssailles (Pháp). Bản yêu sách 8 điểm
yêu cầu cho nhân dân An Nam, một nước thuộc địa, được hưởng những
quyền tự do báo chí và ngôn luận, tự do hội họp, lập hội, tự do cư trú ở
nước ngoài và tự do xuất dương, tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ. Yêu cầu thay
chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Chú trọng đại biểu của
người bản xứ trong Nghị viện Pháp. Đó là nội dung cải cách pháp lý. Nội
dung bản yêu sách hướng tới quyền của con người, quyền tự do, dân chủ
của người dân các nước thuộc địa và thể hiện tư tưởng xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp
khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với các quyền tự do, dân chủ
của nhân dân, kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và quyền con người.

3
Trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc nói rõ
cách mạng thành công, xây dựng Nhà nước thì quyền lực, quyền lợi phải
thuộc về dân chúng.
Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng
lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh do Người soạn thảo, được Hội
nghị thành lập Đảng họp từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930 ở Hồng
Kông (Trung Quốc) thông qua đã nêu bật những mục tiêu cách mạng là
giành độc lập dân tộc, dựng ra Chính phủ công nông binh thực hiện
quyền và lợi ích của Nhân dân. 
Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát mô hình nhà
nước tư sản Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về
“quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”
của tuyên ngôn độc lập năm 1766 đó là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn
phân biệt chủng tộc và biết bao tàn bạo, bất công khác. Người coi đó là
“những cuộc cách mạng không đến nơi” vì ở đó chính quyền vẫn ở trong
tay một số ít người. Sau khi đến Liên Xô, người đã tìm thấy mô hình nhà
nước kiểu mới: “… phát ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ
thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại
đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt
Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng năm 1930.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái
Quốc trở về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc giành độc lập và giành chính quyền về tay Nhân dân.
Trong Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8,  Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng tán thành chủ trương của Hội nghị Trung ương tháng 11/1939
do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, lựa chọn hình thức nhà nước là
Cộng hòa Dân chủ - tức là Nhà nước của đông đảo các tầng lớn dân
chúng. Từ mô hình nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình nhà
nước đại biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước
chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực
tiễn dân tộc, phù hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nam. 

4
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, mở đầu một chính thể nhà nước mới ở Việt Nam:
chính thể dân chủ cộng hoà. Sự ra đời của chính thể dân chủ cộng hoà thể
hiện một tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn
mô hình tổ chức nhà nước, vừa tiếp thu được các giá trị phổ biến của nền
dân chủ nhân loại, vừa phù hợp với các đặc điểm của đất nước.
2. Cơ sở lý luận
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hiến với lịch sử mấy ngàn
năm dựng nước và giữ nước,  thể hiện ý chí, khát vọng độc lập, tự hào và
tự tôn dân tộc. Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta đã hình thành nên những
truyền thống hết sức tốt đẹp như: tinh thần đoàn kết, tương thân - tương
ái, yêu thương thiên nhiên và con người, chăm chỉ lao động, lạc quan yêu
đời, ý chí đấu tranh anh dũng, tự lực, tự cường,… Trong số đó, chủ nghĩa
yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước
đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự
hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam. Tuy
nhiên, chỉ yêu nước thôi là chưa đủ, ông cha ta từ lâu đã gắn liền yêu
nước với yêu dân. Nhà nước phong kiến với quyền lực trong tay hoàng
đế, song vẫn có nội dung dân chủ với sự hòa đồng giữa Vua với thần dân
với tinh thần “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục” (Trần Hưng Đạo) và
các nhà Vua cũng rất rất chú ý xây dựng pháp luật để quản lý đất nước,
xã hội. Ông cha ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về xây
dựng nhà nước được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như: “Đại
Việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến chương loạn chí”… Kinh nghiệm
trị nước cũng ghi lại trong các bộ luận nổi tiếng như “Hình thư, Quốc
triều hình luật, bộ luật Hồng Đức”… Chính những yếu tố tích cực của
nhà nước thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc: “nước lấy
dân làm gốc” là hành trang đầu tiên Hồ Chí minh mang theo trên con
đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình nhà nước tiến bộ cho đất nước
sau khi giành độc lập.
Cùng với truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Đông và phương Tây. Người đã tiếp thu và kế thừa có
phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục hưng, thế kỷ ánh
sáng, của cách mạng tư sản phương Tây như Pháp, Mỹ, Anh; những giá

5
trị tư tưởng của Nho giáo, kiêm ái của Mặc gia, thuận theo tự nhiên của
Lão gia, từ bi bác ái của nhà Phật đã góp phần hình thành nên tư tưởng
Hồ Chí Minh về một nhà nước vì con người, một nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin: Lý luận của Mác - Lênin về nhà nước và
pháp luật, đặc biệt là nhà nước xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng sâu sắc
đến tư tưởng của Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành, phát triển tư
tưởng về mô hình nhà nước mới tại Việt Nam. Cụ thể, dân chủ xã hội chủ
nghĩa là một trong những nội dung cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất của dân chủ xã hội
chủ nghĩa là thiết lập một xã hội mới tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản,
thiết lập một chế độ dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động, một nền
dân chủ nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc con người. Xu thế chung sự phát
triển của lịch sử theo quy luật từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện, những nền dân chủ chỉ để phục vụ cho lợi ích của một nhóm
giai cấp thống trị nhất định phải được thay thế bởi một nền dân chủ cho
đông đảo nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ vì hạnh
phúc con người. Đó là giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin về
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trải quá trình tiếp thu, từ cả thực tiễn đến lý luận, Hồ Chí
minh đã tìm ra kiểu nhà nước phù hợp nhất cho nhân dân Việt Nam: đó là
nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
II. Nội dung của luận điểm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của
nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân
dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền
thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng trong học thuyết Mác – Lênin. 
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể
chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân là tư tưởng bao trùm, là nội
dung cốt lõi của tư tưởng Hồ chí Minh về Nhà nước, là mục tiêu xuyên suốt

6
cuộc đời và lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1927,
trong cuốn Đường Cách mệnh, Người đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm
cách mệnh, thì nên làm cho tới nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế
mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc”.
Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta
là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính
phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên”. Như vậy mọi quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm
chủ. Nhà nước ta là nhà nước của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực;
nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh
của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung. Đây là nội dung cốt lõi trong tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân
chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
1. Nhà nước vì dân
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh nghiệm của các nước
tiên tiến trong tổ chức mô hình nhà nước và dựa vào điều kiện cụ thể, đặc
thù của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo
xây dựng mô hình Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, với tiêu chí hàng đầu
là Nhà nước thực sự vì dân, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân
dân.
Nhà nước vì dân là một trong 3 nội dung lớn về xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh. “Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”, lợi ích ở đây là toàn diện, không chỉ có lợi ích vật chất mà
còn cả lợi ích tinh thần từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, cả môi
trường xã hội, cả đạo đức và tôn giáo. 
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân phải hướng tới mục
tiêu đoàn kết toàn thể dân tộc Việt Nam, là cơ sở cho sự thống nhất tư
tưởng, xây dựng niềm tin, phát huy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Định hướng xuyên suốt việc xây
dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước

7
vì dân là phải luôn đặt lợi ích Nhân dân lên hàng đầu; Nhân dân thụ
hưởng cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần là mục tiêu cao nhất của
Nhà nước. Người đặc biệt nhấn mạnh:  “Chúng ta phải làm sao thực hiện
ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân được học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là ở đó, đi đến
để dân ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp tự do độc lập”. Đó là
những triết lý, nguyên tắc chỉ đạo trong suốt quá trình xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Không chỉ tập trung cho những việc liên quan đến đời sống vật chất,
như chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; giảm thuế...; Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm chăm lo đời sống tinh thần của Nhân
dân với các chính sách nổi bật như thực hiện tự do tín ngưỡng, lương
giáo đoàn kết; xây dựng lối sinh hoạt mới, nếp sống mới, lối sống văn
hóa mới mà sợi chỉ đỏ xuyên suốt là các cuộc vận động, các phong trào
thi đua ái quốc... nhằm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Nhà nước vì dân còn thể hiện ở chỗ Nhà nước dám chịu và biết chịu
trách nhiệm trước Nhân dân. Đó là trách nhiệm bảo đảm cuộc sống, đảm
bảo quyền làm người, sự phát triển toàn diện của Nhân dân cũng như sự
phát triển chung của đất nước. Người nhấn mạnh: “Chính sách của Ðảng
và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu
dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi”
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của dân làm
mục tiêu, tát cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một
lợi ích nào khác. Trên tinh thần đó, HCM nhấn mạnh: mọi đường lối,
chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân, việc đó có lợi cho
dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì hại cho dân dù nhỏ của cố gắng
tránh. 
Nhà nước ta, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là một nhà nước từ nhân
dân mà ra, vì quyền, tự do và hạnh phúc của nhân dân mà phục vụ. Nhà
nước không có mục đích tự thân, không phục vụ cho lợi ích của riêng bất
cứ giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội, mà đó là nhà nước của toàn thể
dân tộc Việt Nam. Nhà nước ra đời và hoạt động là vì quyền và lợi ích

8
của thể dân tộc Việt Nam, không làm được điều đó thì không còn lý do
để nhà nước tồn tại. 
Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của
nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của
nhà nước. Trong tư tưởng của Người, nhà nước là của dân, do dân lập
nên, do dân làm chủ nên hoạt động vì quyền và lợi ích của nhân dân,
ngoài mục đích đó, nhà nước không có mục đích nào khác. Như vậy, nhà
nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính thiện và tính nhân văn sâu
sắc.
2. Nhà nước của dân
“Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” đây chính là vấn đề dân quyền,
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đó là nguyên tắc số một của nền dân chủ.
Nguyên tắc này là tuyệt đối đến mức những thiết chế “dân chủ giả hiệu”
cũng phải tuyên bố như thế. Thực tế lịch sử chứng minh, biết tôn trọng
dân quyền, mở rộng dân quyền đến đâu đều là hòn đá thử để kiểm
nghiệm xem trình độ một nền dân chủ cao hay thấp. Vì thế, từ rất sớm
cùng với việc tập trung xây dựng một nền dân chủ kiểu mới – dân chủ xã
hội chủ nghĩa được thực hiện trên ba mặt gắn bó, tác động lẫn nhau: dân
quyền, dân sinh, dân trí. Nền chính trị mà Người hướng tới và xây dựng
là chính trị dân quyền. 
Nhà nước của nhân dân là Nhà nước tập trung mọi quyền lực vào tay
nhân dân.  Nội dung Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng
ban soạn thảo khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn
thể dân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo, những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra
toàn dân phúc quyết”. Điều 32 của Hiến pháp 1946 cũng quy định:
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán
quyết”. Dân có quyền tham gia bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, đồng thời
thông qua Quốc hội để bầu ra Chính phủ. Dân cũng có quyền bãi miễn
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu đó
tỏ ra không xứng đáng.
Nhà nước của dân là Nhà nước do dân làm chủ. Người dân được
hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là người dân có quyền tự do sống và
làm việc theo khả năng và sở thích của mình trong phạm vi pháp luật cho

9
phép. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết
chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Trong nhà nước dân
chủ, dân là chủ còn cán bộ nhà nước, từ chức Chủ tịch nước trở xuống
đều là “công bộc” của dân. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ không
được ỷ thế lộng quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang
tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến
dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải
để cậy thế với dân”.
Nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức là: Dân chủ trực
tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó
nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc
gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Dân chủ gián tiếp là hình thức
dân chủ mà trong đó  nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua
các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ
lập nên. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, hình thức dân chủ gián tiếp
là: 
Một là, quyền lực Nhà nước là được nhân dân “ủy quyền”. Tự bản
thân Nhà nước không có quyền lực mà do được nhân dân ủy thác.  Mọi
cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước đều là công bộc của nhân dân và vì
vậy bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm
của dân . Hồ Chí Minh đã viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là
nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ,
từ trung ương đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành
nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Trong các chế
độ cũ, nhà nước là bộ máy của giai cấp bóc lột dùng để thống trị và áp
bức nhân dân; viên chức, quan lại tự xưng là “cha mẹ dân”, đè đầu cưỡi
cổ dân. Trong chế độ dân chủ, Bác Hồ nói: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ
trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ
cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. Hồ Chí Minh đã
thẳng thắn phê bình những cán bộ thoái hóa, biến chất rằng:  “Cậy thế
mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao
được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu
mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”.  Làm
công bộc, đầy tớ của dân là một trách nhiệm rất vẻ vang, nhưng cũng rất

10
khó khăn, nặng nề. Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiều lần rằng người cầm
quyền cần phải gần dân, sát dân, hiểu dân, tin dân và phải biết sử dụng
sức mạnh to lớn của nhân dân, tác phong của người cầm quyền phải: “óc
nghĩ, mắt thấy, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm chứ không phải nói
suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”.  
Hai là,  nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình, quyền bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những
thiết chế quyền lực họ đã lập nên. Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là Nhà
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, trong bộ máy cách
mạng từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều phân công
làm đầy tớ cho dân”. Vì thế, “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ”, nếu đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
không làm tròn nhiệm vụ thì người dân có quyền bãi miễn họ. Đây là
quan điểm vô cùng kiên quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo mọi
quyền lực nhà nước nằm trong tay nhân dân. Nhân dân có quyền thực
hiện chế độ bãi miễn theo 3 mức độ từ thấp đến cao, bãi miễn đại biểu,
bãi miễn các cơ quan nhà nước, bãi miễn nội các Chính phủ nếu các đại
biểu đó, các cơ quan nhà nước và nội các chính phủ không còn phù hợp
với nhân dân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, và sự bãi miễn đó là bất
cứ lúc nào. Từ quan niệm về vị thế của người cầm quyền, Hồ Chí Minh
tự ý thức vị trí của mình trước nhân dân, người nói ở nước ta, từ Hồ Chủ
tịch trở xuống là đầy tớ của dân, dân đặt ở đâu thì làm ở đó, người làm
Chủ tịch nước cũng là nhờ sự trao quyền ủy thác của dân và khẳng định
“khi nào đồng bào bảo tôi lui thì tôi vui lòng lui”.
Ba là, luật pháp dân chủ là công cụ quyền lực của nhân dân. Luật
pháp là của nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực của nhân dân, đồng
thời cũng là phương tiện để kiểm soát quyền lực Nhà nước.  Đây chính là
điểm khác biệt căn bản của pháp luật trong Nhà nước Việt Nam với luật
pháp của các chế độ tư sản, phong kiến vì nó phản ánh được ý nguyện,
mong muốn của nhân dân và bảo quyền lợi của nhân dân.
3. Nhà nước do dân
“Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”; “Nói tóm lại quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”. Đoàn thể ở đây được hiểu là Đảng, vì năm

11
1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận với những quan điểm
trên, thời điểm đó do Đảng ta lui vào hoạt động bí mật, nên Người ít
dùng từ Đảng mà thường dùng hai từ Đoàn thể. Như vậy, hệ thống chính
trị để cầm quyền, quản lý, điều hành mọi hoạt động của xã hội đều do
dân cử và tổ chức nên. Đảng và Nhà nước không tồn tại vì mục đích tự
thân, mà tồn tại để phụng sự nhân dân và dân tộc
Nhà nước do dân có nghĩa nhân dân là người tổ chức nên cơ quan nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở thông qua bầu cử dân chủ, trực tiếp, kín để
lựa chọn những người đủ tiêu chuẩn bầu vào cơ quan nhà nước. Bầu cử
dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong
nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp
nhận sự uỷ quyền quyền lực từ Nhân dân. Chính vì vậy, để thật sự là nhà
nước của dân, ngay từ những ngày đầu giành được nền độc lập, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để
nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác
việc nước. Sau khi nước nhà giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ cách mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh yêu cầu
tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu. Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà
nước. Quốc hội nước ta tuy ở vị trí cao nhất song không phải là cơ quan
tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến
vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhà
nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông
qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải nhà
nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi.  
Mặt khác, Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân được thực
thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Nhân dân được
hưởng đầy đủ quyền lợi nhưng đồng thời phải làm tròn nghĩa vụ và trách
của công dân, nhân dân phải tự phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện
quyền dân chủ của mình
Như vậy, tư tưởng thống nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà
nước dân chủ, văn minh và tiến bộ phải là một nhà nước do toàn thể quần
chúng lao động lập nên; quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, do
nhân dân ủy thác; nhà nước là công cụ của nhân dân; mọi chủ trương,

12
chính sách của nó đều xuất phát từ quyền, lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân; nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những hoạt
động của mình; đồng thời, nhân dân cũng có nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ
và phát triển nhà nước, bảo đảm về mọi mặt để nhà nước phát huy hiệu
lực, hiệu quả của mình. Theo Hồ Chí Minh, trong mối quan hệ quyền lực
nhà nước thì nhân dân là chủ, nhà nước là đầy tớ; nhà nước phải tin vào
trí tuệ và lực lượng của nhân dân- tức là tin vào ông chủ của mình.
Không phải vì được nhân dân "ủy thác" quyền lực mà nghĩ rằng nhân dân
ngu dốt, quay lại coi khinh trí tuệ và lực lượng của nhân dân. Theo
Người, nhà nước của dân, do dân làm chủ phải là nhà nước luôn luôn đặt
dưới sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân. Sự kiểm tra, kiểm soát của
nhân dân đối với nhà nước không có nghĩa là bó buộc nhà nước, là nhân
dân không tin vào nhà nước; trái lại là để nhà nước ngày càng trưởng
thành và lớn mạnh hơn, luôn giữ vững được bản chất cách mạng của
mình. Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là
phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách
nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng đất
nước của minh . Người cũng khẳng định: “Việc nước là việc chung, mỗi
người đều phải có trách nhiệm ghé vai gánh vác một phần”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt
chẽ giữa các thành tố của một nhà nước dân chủ mới “của dân - do dân -
vì dân”. Phải là một nhà nước thực sự của dân, do dân thì mới có thể là
nhà nước vì dân và ngược lại nhà nước luôn luôn phụng sự lợi ích, đặt
quyền lợi nhân dân lên trên hết, trước hết thì nhân dân sẽ hăng hái thực
hiện quyền và nghĩa vụ làm chủ của mình, để tích cực xây dựng nhà nước
dân chủ, tiến bộ, vững mạnh, giữ vững nền độc lập và sự phát triển phồn
vinh của đất nước.
III. Giá trị của luận điểm
Dân chủ là mục tiêu và động lực của phát triển xã hội. Từ chế độ dân
chủ chủ nô tới chế độ dân chủ tư sản là những bước tiến vĩ đại của các thiết
chế xã hội, của những phương thức tồn tại của nhân dân và nó biểu thị sự
tiến bộ của xã hội loài người. Tuy nhiên, nhân loại vẫn phải tiếp tục tranh
đấu cho một thiết chế xã hội mới, một phương thức tồn tại với một trình độ
văn minh mới: dân chủ xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng, trong lịch sử nhân loại,

13
dân chủ là mục tiêu tranh đấu của nhân loại, là cuộc đấu tranh giải phóng
chính bản thân con người, cuộc đấu tranh để vươn tới một xã hội triệu lần
dân chủ hơn nền dân chủ tư sản với áp bức giai cấp, áp bức dân tộc và chiến
tranh.
Hồ Chí Minh khẳng định nước ta là một nước dân chủ và là dân chủ
mới để tiến đến chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó của Người đã được ghi thành
tiêu chí của đất nước ở thời kỳ tồn tại và phát triển của nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà và hiện nay cũng là tiêu chí của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch
sử của chuyên chính vô sản để tiến đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân thực chất là để đạt tới mục tiêu xây
dựng nước ta là nước dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Hồ Chí Minh khẳng định công việc đổi mới, xây dựng, kháng chiến,
kiến quốc, tổ chức xã hội là trách nhiệm, công việc của dân, do dân và
quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân... Thực hiện dân chủ tức là sử dụng tất
cả quyền hành và lực lượng to lớn của nhân dân để hoàn thành các nhiệm
vụ vì lợi ích của nhân dân. Đất nước ta thoát ra từ chế độ thực dân, nửa
phong kiến tồn tại nhiều thành phần kinh tế gắn với các giai cấp, tầng lớp xã
hội khác nhau tất yếu hình thành trong xã hội các động lực bộ phận. Để phát
huy đầy đủ khả năng của các động lực bộ phận tạo nên tổng hợp lực mạnh
mẽ của đất nước phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ về lợi ích của tất cả
các thành phần trong xã hội, làm cho động lực của các bộ phận cư dân trong
xã hội sắp xếp theo một hướng nhất định. Dân chủ là giải pháp hữu hiệu để
tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của các thành phần kinh tế, các giai
tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội nước ta. Sự nhất trí đó tổng hợp
thành sức mạnh của dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ đưa đất nước vượt
qua tất cả khó khăn, thử thách. Hồ Chí Minh viết: "Có phát huy dân chủ đến
cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng
tiến lên" và “Chế độ của chúng ta thực hiện dân chủ đồng thời thực hiện sự
đoàn kết toàn dân”. Do đó, Người cho rằng phải "vận động tất cả lực lượng
của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng
toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính
phủ và đoàn thể giao cho".

14
Như vậy, là mục tiêu nhưng dân chủ đồng thời là động lực của sự phát
triển xã hội. Vai trò động lực của dân chủ đã được thể hiện rất rõ rệt trong
toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đưa
nhân dân ta từ địa vị bị áp bức lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội
và hoạt động với tư cách là các chủ thể tự giác xây dựng xã hội mới đã tập
hợp được toàn dân tộc và khối đoàn kết đó đã đảm bảo cho tính hợp pháp
của chế độ dân chủ cộng hoà mới được sáng lập sau cách mạng tháng Tám
bằng Tổng tuyển cử dân chủ. Trong điều kiện cam go của đất nước sau cách
mạng tháng Tám, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thông qua
bầu cử là vũ khí hữu hiệu duy nhất được sử dụng vào thời điểm đó để bảo
vệ thành quả của cách mạng là chế độ dân chủ non trẻ ở tình thế ngàn cân
treo đầu sợi tóc, với thù trong, giặc ngoài.
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị còn được khẳng định bằng việc thực
hiện từng bước dân chủ trong các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Điều này thu hút ngày càng đông nhân dân tham gia vào thực hiện các
nhiệm vụ của đất nước, hình thành những điều kiện làm sâu rộng thêm nền
tảng dân chủ, tạo ra những tiền đề mạnh mẽ trên các lĩnh vực đa xã hội tiến
lên một trạng thái mới. Cũng chính nhờ các phong trào dân chủ trong lĩnh
vực kinh tế, văn hóa (như phong trào chống giặc đói - với thi đua sản xuất,
thực hành tiết kiệm; phong trào chống giặc dốt - với phong trào bình dân
học vụ, và việc hiện thực hoá nền dân chủ đất nước bằng phát động phong
trào xây dựng đời sống mới...). Hồ Chí Minh đã tạo nên động lực mạnh mẽ
của toàn dân tộc, đoàn kết toàn dân, làm hậu thuẫn vững chắc cho các hoạt
động chính trị - ngoại giao của Nhà nước ta sau cách mạng Tháng Tám
thắng lợi.
Như vậy, dân chủ đã tạo ra địa bàn để phát huy mọi tiềm lực, tập hợp
các xu hướng lành mạnh trong dân tộc làm gia tăng và phát huy Thế và Lực
của đất nước và cũng vì thế vai trò động lực của dân chủ có giá trị to lớn và
lâu bền. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do nhân dân tiến hành đem lại
độc lập cho Tổ quốc và đáp ứng mơ ước ngàn đời của đa số cư dân Việt
Nam là nông dân về ruộng đất, đưa tới sự tự do cho con người và vị trí của
người làm chủ khi tham gia vào các hoạt động chính trị của đất nước đã
đem lại nguồn nội lực cực kỳ vĩ đại cho hai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện oanh liệt. Thắng lợi của dân tộc qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc là

15
minh chứng sáng tỏ nhất vai trò động lực của dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vai trò ấy đã được Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam phát
huy và nó đã thể hiện bằng thắng lợi thực tế của cách mạng Việt Nam trong
thế kỷ XX.
Thành công của công cuộc đổi mới ngày nay, xét tới cội nguồn, cũng
được khởi đầu bằng quá trình dân chủ hoá trong các lĩnh vực đã tạo nên
động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế -
xã hội  trong thập kỷ 80. Đây lại là một hiện thực sinh động nữa minh
chứng về tầm quan trọng và sự vững bền của động lực dân chủ đối với sự
phát triển xã hội, đối với sự tiến hoá của dân tộc ta.
Thực hành dân chủ là chìa khóa của sự phát triển. Xuất phát từ quan
niệm về quyền hành, lực lượng cũng như lợi ích đều thuộc về nhân dân, Hồ
Chí Minh coi thực hành dân chủ là sự huy động và sử dụng được tối đa
quyền hạn, lực lượng của toàn dân để thực hiện những nhiệm vụ của cách
mạng vì lợi ích của nhân dân ở tất cả các thời kỳ phát triển.
Vai trò quan trọng đó được Hồ Chí Minh thực hiện rất thành công trong
thực tiễn cách mạng nước ta. Thực hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị
bằng cách tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng nhà nước dân chủ đầu
tiên ở Đông Nam Á, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và nâng cao động lực tinh
thần làm chủ đất nước của mỗi người và cả dân tộc, trong đó mỗi người dân
sử dụng lá phiếu của mình như một bảo đảm cao nhất để giữ nền độc lập
dân tộc mới giành được. Nền dân chủ mới ngay sau khi được thiết lập đã
lập tức thể hiện bản chất, vai trò của mình: phát động toàn dân tham gia
thực hiện thành công các nhiệm vụ chống giặc đói, chống giặc dốt và chống
giặc ngoại xâm, đưa đất nước và chế độ mới vượt qua bước hiểm nghèo của
lịch sử. Chính phong trào do nhân dân thực hiện trên các lĩnh vực đã khẳng
định vị trí là chủ và làm chủ của mỗi người dân trong một quốc gia độc lập
và điều đó tạo ra sức mạnh tổng hợp vô cùng lớn lao đưa cách mạng Việt
Nam vượt qua thác ghềnh hiểm nghèo để tiến lên.
Đó cũng là sự thành công đầu tiên của tiến trình dân chủ hoá ở nước ta
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Điều đó cho thấy,
mỗi bước tiến của dân chủ đem lại cho con người, cho xã hội một sức sáng
tạo mới, một khởi động lực mới cho sự phát triển của con người và xã hội.

16
Thành công của Hồ Chí Minh là ở chỗ, tất cả các nhiệm vụ của dân tộc
đều được xây dựng thành các phong trào quần chúng, phong trào của cả dân
tộc thông qua việc phát động toàn dân thi đua vì lợi ích của chính nhân dân:
phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; hũ gạo cứu đói; tuần lễ
vàng; phong trào bổ túc văn hoá xoá nạn mù chữ; phong trào đời sống mới;
phong trào thi đua ái quốc, phong trào thi đua giết giặc, phong trào trồng
cây, phong trào rèn luyện sức khoẻ, phong trào thi đua lao động, sản xuất
mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt... Đó thực sự
là các phong trào dân chủ được phát triển rộng rãi trên mọi lĩnh vực đã đoàn
kết và động viên được tất cả các lực lượng, trí tuệ, sáng kiến của nhân dân
để thực hiện thành công các nhiệm vụ của cách mạng nước ta.
Theo Hồ Chí Minh "Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan
hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Những sáng kiến đó được khen ngợi thì những người đó càng hăng hái và
người khác cũng học theo.
Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết
điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều" . Như thế, thực hành dân chủ đa
lại tác dụng giải phóng tiềm năng sáng tạo của nhân dân và trở thành động
lực của sự tiến bộ và phát triển không chỉ đối với toàn xã hội mà đến với
từng tập thể và mỗi con người. Trái lại, Người cho rằng, nếu trong cán bộ,
nhân dân "ít sáng kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: cách
lãnh đạo của ta không được dân chủ".
Như vậy, thực hành dân chủ, một mặt khẳng định hơn nữa quyền làm
chủ của nhân dân lao động, mặt khác tạo ra điều kiện khắc phục những hạn
chế của sự vi phạm dân chủ, phát huy sáng tạo cá nhân và tập trung được trí
tuệ của toàn dân. Đây chính là quá trình tạo ra những tiền đề chính trị đưa
xã hội tiến lên trạng thái mới phát triển hơn nữa nền dân chủ xã hội.
Quan điểm và sự chỉ đạo thực tiễn trên đây của Hồ Chí Minh cho thấy:
Người không chỉ phát huy tác dụng của thực hành dân chủ mà còn đưa nó
trở thành các phong trào nhân dân, sử dụng quyền hành, lực lượng và phát
huy trí tuệ của nhân dân để đạt tới mục tiêu ai cũng được hưởng quyền tự
do, dân chủ, vì lợi ích của nhân dân. Nhờ thực hành dân chủ mà việc thực
hiện các nhiệm vụ cách mạng được tổ chức thành các phong trào nhân dân
rộng rãi, Hồ Chí Minh đã phát huy tối đa nội lực của dân tộc để thành công

17
trong cả quá trình vận động và thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng. Đưa
nhân dân trở thành chủ thể tự giác tham gia vào các hoạt động cách mạng
và xây dựng xã hội mới thông qua các phong trào dân chủ là tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh, Người nói: "Có phát huy dân chủ cao độ thì mới động viên
được tất cả lực lượng nhân dân đa cách mạng tiến lên" và "Chỉ có dưới chế
độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ mà nhân dân lao
động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi đua". Khi trở thành phong
trào thi đua của nhân dân, xã hội tự nó đã tiến lên một điểm xuất phát mới
với trạng thái mới, do đó, quá trình dân chủ hoá mở ra sự phát triển mới cho
xã hội.
Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới vấn đề phát triển và thực hành
dân chủ trong xây dựng chế độ dân chủ mới, xây dựng nhà nước, xây dựng
Đảng, cũng như các tổ chức quần chúng xã hội, xây dựng khối đoàn kết
toàn dân... Theo Người, "phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng
hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành
công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau
chóng".
Những vấn đề này cho thấy, Hồ Chí Minh đã hiểu rõ trình độ của một
nền dân chủ chính là thể hiện ở mức độ tham gia của nhân dân vào các hoạt
động của xã hội, của đất nước. Và như thế, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy các
mục tiêu dân chủ được chính nhân dân thực hiện bằng những phong trào
dân chủ sẽ liên tục xây đắp được những nấc thang trình độ dân chủ mới với
sự nỗ lực và phát triển ngày càng cao của khối đoàn kết toàn dân. Do đó,
với dân chủ, nhân dân có thể thực hiện được bất cứ nhiệm vụ nào vì sự
nghiệp giải phóng của chính bản thân nhân dân.
IV. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, khẳng định “Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi
mới hệ thống chính trị”. Do vậy, trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và
vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Thứ nhất, Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân; vấn đề cốt tử là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh

18
của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và thực thi
trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương thức, cơ chế
thực hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong
đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền
và các tổ chức xã hội do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa
là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm
soát toàn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó
Trong 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, bộ máy nhà nước ở Việt
Nam đã có bước phát triển cả về tổ chức và hoạt động, theo hướng bảo đảm
nhà nước của dân, do dân, vì dân, đủ năng lực để thực hiện quyền lực nhà
nước trong điều kiện mới. Hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp, của Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân được xây
dựng bảo đảm giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính
dân tộc, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Quốc hội ban
hành nhiều bộ luật, luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều pháp
lệnh và nghị quyết. Ðiều này chứng tỏ sự phát triển về năng lực lập pháp
của Quốc hội, kịp thời cụ thể hóa đường lối của Ðảng trong hoạt động thực
tiễn; bảo đảm dân quyền, nhân quyền và có tính nhân văn sâu sắc. Ðồng
thời, tiến hành bổ sung, sửa đổi Hiến pháp và hệ thống pháp luật phù hợp
yêu cầu thực tiễn của đất nước; bước đầu đã cải tiến được quy trình xây
dựng luật, ban hành nhiều văn bản pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước và hội nhập quốc tế. Chúng ta đã và đang đi đúng hướng khi thực hiện
xây dựng nhà nước gọn, nhẹ, có hiệu lực, phù hợp sự phát triển mới của
cuộc sống, trong đó nổi lên vấn đề quan trọng là xây dựng các cơ quan nhà
nước và chính quyền các cấp không có đặc quyền, đặc lợi, bộ máy nhà nước
trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vận hành và hoạt động có hiệu quả, bảo
đảm mọi quyền lợi thật sự đều hướng về và thuộc về nhân dân. Theo đó,
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong
Hiến pháp năm 2013; chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhà nước được
xác định rõ hơn. “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ,
tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực

19
Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân
dân được Đảng ta đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất
nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát
huy được tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta xây dựng là nhà nước tôn
trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật của ta là pháp luật
dân chủ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh và phát
huy hiệu lực thực tế: “Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân,
chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của
Nhà nước” Luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình,
giám sát công việc của Chính phủ; đồng thời, nhắc nhở cán bộ các cấp, các
ngành, trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải gương
mẫu trong việc tuân thủ pháp luật. Để tiến tới một nhà nước pháp quyền
mạnh mẽ, có hiệu lực, Đảng rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, biết quản lý
nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục vụ nhân
dân. Đồng thời, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong
hoạt động của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là: Tham ô,
lãng phí, quan liêu. Cùng với đó, Đảng rất coi trọng việc giáo dục pháp luật
cho nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát
triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân
tham gia vào các công việc của Nhà nước.
 Và thực tiễn 35 năm đổi mới cho thấy Chính phủ và các bộ, ngành đã
tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, năng động giải quyết những
vấn đề lớn, quan trọng; cải cách hành chính được chú trọng, nhất là thủ tục
hành chính; tổ chức Chính phủ được sắp xếp hợp lý hơn, tổ chức chính
quyền địa phương đang được thí điểm các mô hình theo hướng hiệu quả

20
hơn. Vì thế chúng ta đã một bước nâng cao chất lượng tổ chức, hoạt động
của bộ máy nhà nước; phân định cụ thể hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các địa
phương; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường.
Thứ ba, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa
bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi. 
Đảng ta là đảng cầm quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên
phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật
của Nhà nước. Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”3. Trước yêu
cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải
tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng, học tập, làm theo tấm gương Hồ Chí
Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. 
Ðặc biệt, vừa qua khi đất nước phải đối phó với đại dịch Covid-19,
Ðảng, Nhà nước và Chính phủ đã kịp thời có chính sách hỗ trợ người dân
gặp khó khăn. Cùng với đó là các chính sách hỗ trợ khắc phục thiên tai, lũ
lụt ở miền trung; với quan điểm tất cả mọi chủ trương, chính sách, phúc lợi
đều hướng về người dân. Mục tiêu không để ai bị bỏ lại phía sau đã có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an sinh, góp phần giữ vững ổn định xã
hội, đồng thời thể hiện cam kết một "Chính phủ hành động" thật sự đã tạo
được niềm tin mãnh liệt trong nhân dân và nâng tầm vị thế của đất nước
trên trường quốc tế.
Thực tế cho thấy, bên các thành tựu đạt được chúng ta còn có những
hạn chế nhất định trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Do đó,
cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát huy tối đa, hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy, để thật sự bảo đảm quyền làm chủ và đem lại lợi ích cho
toàn thể nhân dân.
Một là, tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân,
tính dân tộc của Nhà nước, bảo đảm nhà nước thật sự của dân, do dân, vì
dân. Trước hết cần phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Ðảng với Nhà
nước. Ðảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, bằng công tác

21
cán bộ, bố trí, sắp xếp đúng cán bộ, làm tốt việc kiểm tra, giám sát thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ. 
Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan để thực
hiện có hiệu quả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi mới của thực tiễn. Duy
trì, thực hiện có hiệu quả trên thực tế các hoạt động kiểm tra, giám sát bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp.
 Ba là, tiếp tục nâng cao hơn nữa hoạt động của Quốc hội và các đại
biểu Quốc hội; đẩy mạnh hoạt động cải cách hành chính. Chú trọng xây
dựng Chính phủ "liêm chính và kiến tạo". Xây dựng các cơ quan bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, bảo đảm quyền
làm chủ của người dân.
Bốn là, tập trung hoàn thiện bộ máy nhà nước và quy chế hoạt động,
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất,
năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Có cơ chế, chế tài xử lý nghiêm minh
đối với cán bộ, công chức tham ô, tham nhũng, xa dân, thiếu tôn trọng dân,
và nhũng nhiễu dân. Ðể đảm bảo tốt công việc này, cần thực hiện có hiệu
quả quy chế dân chủ ở cơ sở, khuyến khích, bảo vệ những người tích cực
đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng.

B. LIÊN HỆ BẢN THÂN


Sau khi phân tích luận điểm “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”
của Hồ Chí Minh, em thấy được vai trò to lớn của dân chủ, dân chủ chính là
nhân tố động lực của sự phát triển, thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để
giải quyết mọi khó khăn.
Là một công dân Việt Nam, mỗi chúng ta đều được hưởng rất nhiều quyền
hạn, và đi đôi với những quyền hạn đó, chúng ta cần biết làm tròn nghĩa vụ của
mình.
Bầu cử là quyền hạn và cũng là nghĩa vụ của mỗi người dân. Tháng 5 năm
2021 vừa qua là lần đầu tiên em được thực hiện quyền cũng như nghĩa vụ đó của

22
mình, là lần đầu tiên được bỏ lá phiếu để lựa chọn ra người đại diện nói lên tiếng
nói của nhân dân, em cảm thấy rất háo hức, hồi hộp, tự hào và nhận thức được
rõ hơn trách nhiệm của bản thân.
Là một sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân
nói riêng, mỗi chúng ta cần phải tự ý thức được trách nhiệm của bản thân,
nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ của một người công dân. Đối với Tổ quốc,
chúng ta cần biết phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc;
xung kích, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, giữ
vững chủ quyền, an ninh quốc gia, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đảm nhận
công việc khó khăn, gian khổ, cấp bách khi Tổ quốc yêu cầu; và đấu tranh với
các âm mưu, hoạt động gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Đối với
Nhà nước và xã hội thì cần phải gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật và
thực hiện nghĩa vụ công dân; tham gia giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, quốc
phòng, an ninh quốc gia; chủ động đề xuất ý tưởng, sáng kiến trong quá trình
xây dựng chính sách, pháp luật; tích cực tham gia tuyên truyền, vận động Nhân
dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật; tích cực tham gia bảo vệ môi trường và
các hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội. Đối với gia đình cần biết kính
trọng, hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ và tôn trọng các thành viên khác trong
gia đình. Còn đối với bản thân chính chúng ta cần rèn luyện đạo đức, nhân cách,
lối sống văn hóa, ứng xử văn minh; có trách nhiệm công dân, ý thức chấp hành
pháp luật; phòng, chống tiêu cực, tệ nạn xã hội, hành vi trái pháp luật và đạo đức
xã hội; tích cực học tập, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng; tiếp cận, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tiễn; chủ động tìm hiểu về thị
trường lao động; lựa chọn nghề nghiệp, việc làm phù hợp; rèn luyện ý thức trách
nhiệm, kỷ luật lao động và tác phong chuyên nghiệp; sáng tạo, cải tiến kỹ thuật
nâng cao năng suất lao động; rèn luyện, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe,
phát triển thể chất và tinh thần; trang bị kiến thức, kỹ năng sống, kỹ năng chăm
sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, phòng, chống bệnh tật; không lạm
dụng rượu, bia; hạn chế sử dụng thuốc lá; không sử dụng ma túy, chất gây
nghiện và chất kích thích khác mà pháp luật cấm; phòng, chống tác hại từ không
gian mạng; tích cực tham gia các hoạt động, phong trào văn hóa, thể dục, thể
thao lành mạnh; bảo vệ, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại.

23
Sinh viên là lực lượng quan trọng trong xây dựng đất nước. Vì vậy, mỗi
chúng ta cần phải biết tự nhận thức trách nhiệm của bản thân, nghiêm túc thực
hiện các nghĩa vụ và cố gắng nỗ lực để bản thân ngày một tốt hơn để góp phần
xây dựng đất nước ngày càng phát triển.

24
KẾT LUẬN
Như vậy, qua phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ
trung ương do dân cử ra”, ta có một cái nhìn tổng quát và sâu sắc hơn về tư
tưởng của Người về một nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân. Cũng từ việc
học tập và nghiên cứu, ta thấy rõ được những giá trị hết sức to lớn trong tư
tưởng của Người cũng như thấy được Đảng và Nhà nước ta đang vận dụng tư
tưởng của Người vào trong công cuộc xây dựng một nhà nước độc lập, tự do,
dân chủ thế nào trong thời đại ngày nay.
Hy vọng qua bài tập lớn, các bạn đọc có thể trang bị cho mình những kiến
thức và hiểu biết cơ bản nhất về tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Vận dụng những kiến thức đó để thấu hiểu hơn những gì mà ông
cha ta đã, Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng hiện thực hóa cho dân tộc Việt
Nam ta. Từ đó cũng ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc, ra
sức cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp chung của dân tộc.

25

You might also like