You are on page 1of 91

CHƯƠNG 1: 22

1. Nội dung và ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930)............................ 22
Chỉ rõ tính đúng đắn của Cương lĩnh qua thực tiễn Cách mạng VN năm 1930 – 1945...... 24
2. Bối cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa nghị quyết HNTW 8 (5/1941);...............................26
Nội dung và ý nghĩa Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày
12/3/1945................................................................................................................................... 28
Nội dung và ý nghĩa Hội nghị toàn quốc của Đảng (13-15/8/45).......................................... 30
Làm rõ sự linh hoạt của Đảng về chớp thời cơ để giành thắng lợi, trong CMT8 năm 1945....
31
3. Một số kinh nghiệm về lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền....................................... 32
CHƯƠNG 2: 37
1. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau Cách mạng tháng Tám 1945............................................ 37
2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng
(1945-1946). Ý nghĩa của những chủ trương đó?...................................................................38
3. Nội dung, ý nghĩa HNTW 15 (1/1959).............................................................................40
4. Nội dung, ý nghĩa HNTW12 (12/1965)............................................................................43
CHƯƠNG 3 45
1. Các bước đột phá về kinh tế thực hiện qua hai giai đoạn 1979-1981 và 1982-1986. Đánh
giá ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới......................................................................... 45
2. Đại hội VI (12/1986)............................................................................................................. 47
Một số bài học kinh nghiệm được ĐH VI tổng kết................................................................. 48
Nội dung đổi mới về kinh tế được nêu tại ĐH VI và ý nghĩa................................................. 48
Trình bày bài học kinh nghiệm được đại hội 6 (1986) của Đảng tổng kết: ”Phải biết kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.” Theo anh chị, trong điều
kiện hiện nay, Việt Nam cần có giải pháp gì để tận dụng sức mạnh của thời đại.................50
Trình bày bài học kinh nghiệm “Lấy dân làm gốc”................................................................53
3. Đại hội VII (6/1991)............................................................................................................. 55
Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại ĐH VII (1991). (được xem là cương lĩnh thứ 4)..............................................55
4. Đại hội VIII (6/1996)............................................................................................................59
Các quan điểm công nghiệp hoá - hiện đại hoá được nêu tại ĐH VIII (6/1996).................. 59
Quan điểm đổi mới về văn hóa của ĐH VIII và HNTW 5 khóa VIII (1998)........................ 69
5. ĐH IX (6/2001)..................................................................................................................... 71
Nội dung tiếp tục đổi mới về kinh tế và đổi mới về đối ngoại và ý nghĩa...............................71
6. ĐH XI (2011).........................................................................................................................76
Cương lĩnh bổ sung và phát triển được thông qua tại ĐH XI (2011).................................... 76
7. ĐH XII (2016).......................................................................................................................78
Một số bài học kinh nghiệm được ĐH XII tổng kết qua 30 năm đổi mới..............................78
Quan điểm chỉ đạo của HN TW 5, khóa XII (2017) về phát triển kinh tế tư nhân...............82
8. Hạn chế của công cuộc đổi mới và nguyên nhân của những hạn chế đó......................... 83
9. PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................................... 85
Bài học thứ 2: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân (Trang
424 - Giáo trình)....................................................................................................................... 85
Bài học thứ 3: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế (Trang 426 - Giáo trình)................................. 86
Các yếu tố dẫn đến sự ra đời của ĐCS VN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin,
phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng
tạo học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa
nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa
trên căn cứ lý luận và điều kiện lịch sử cụ thể:
Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác tài
nguyên, bóc lột sức lao động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho
chính sách khai thác. So với nhiều nước trên thế giới và khu vực, giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời chậm và nhỏ bé. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914).
Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp liên tục diễn ra. Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong
trào công nhân. Phong trào yêu nước chống Pháp đã nuôi dưỡng lòng yêu nước và
tinh thần dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân. Mục tiêu đấu tranh
trước mắt của phong trào công nhân phù hợp với mục tiêu của phong trào yêu nước
là đánh đổ thực dân Pháp, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Do đó,
vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX, phong trào yêu nước dần dần trở thành một
bộ phận của cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã đi từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu
nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và từ đó Người đã dày công truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925) bao gồm những
chiến sĩ yêu nước để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước là hiện thân
của sự kết hợp ba yếu tố ngay từ những bước chuẩn bị ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong
trào yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống
yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó giữ được quyền lãnh
đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những trong
phong trào công nhân mà còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa
cộng sản trong nông dân lao động, trí thức và trong phong trào yêu nước.

Nêu vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản VN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu khách
quan từ thực tiễn cuộc đấu tranh của Nhân dân ta chống sự nô dịch đế quốc; dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với quy luật vận động của cách
mạng thế giới và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ta được thành lập đã đáp ứng
những yêu cầu khách quan và cấp bách của dân tộc là độc lập, tự do và phát triển;
là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó có vai trò rất to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh lịch sử sáng lập chính đảng vô sản
ở Việt Nam, với những sáng tạo lý luận xuất sắc. Từ đây, cách mạng Việt Nam có
một đảng cách mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp
bức, bóc lột của thực dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do,
hạnh phúc cho Nhân dân.

- Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Trước khi Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, tại Việt Nam năm 1858,
thực dân Pháo đã nổ súng tấn công xâm lượng và từng bước thiết lập bộ máy thống
trị, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Vào thời điểm này, về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân,
tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn;
chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một
chế độ cai trị khác nhau.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta
diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả và đều rơi vào bế tắc.
Đây đều là các phong trào đấu tranh kế thừa truyền thống yêu nước, bất khuất của
dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tuy nhiên do thiếu đường lối
đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng nên các phong trào ấy mới lần lượt thất bại,
cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước.
Trước tình hình đó, ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn
Ái Quốc) đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua
nhiều quốc gia trên thế giới để phát hiện ra chân lý: chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng
là kẻ thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Năm 1917,
Người trở lại Pháp, đến Paris và đến năm 1919 gia nhập Đảng xã hội Pháp.
Tháng 6/1919 thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi bản yêu sách
8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa" của Lênin. Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là
con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người.
Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì mới có thể
xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo cách mạng phát triển
đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập
Đảng cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

- Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong
nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
+ Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước.
Người đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của
cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung qua những bài giảng của Người cho những
cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào
Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp
công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống
xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội dung truyền bá là
những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho phù hợp
với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
+ Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời
của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo
cán bộ từ các lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị
cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành
lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ
cách mạng cho 75 đồng chí, từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất
thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản
ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ
chức cho Đảng ra đời.

Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác
được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng
với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ
họ. Thông qua phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn
luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào
yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở
Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
- Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Với vai trò, trách nhiệm quan trọng trong hệ thống Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công
(Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc. Với sự nhất trí cao, Hội nghị đã đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và
thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn
tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo.
- Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý
nghĩa chiến lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp
thiết hơn bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân
dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt là do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị
thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tại sao cương lĩnh chính trị của Đảng thể hiện sự độc lập, tự chủ, sáng tạo?
(So sánh với luận cương tháng 10)
1. Phạm vi
- Luận cương chính trị: xây dựng đường lối cách mạng cho Việt Nam nói riêng và
các nước Đông Dương nói chung.
- Cương lĩnh chính trị: xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam
2. Tính chất XH: khác biệt lớn nhất vì
- Luận cương chính trị: Xã hội Đông Dương gồm hai mâu thuẫn dân tộc và giai
cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp là cơ bản nhất.
- Cương lĩnh chính trị:
Cương lĩnh là của riêng người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng, nó
không bị lệ thuộc hay bị áp đặt bởi bất kì một tổ chức nào khác. Với tư tưởng cốt
lõi bao trùm là độc lập, tự do, cương lĩnh chính trị đã vạch rõ con đường cách
mạng của Đảng đã lựa chọn, đó là con đường kết hợp: giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Vào thời kì này, ta không lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản - tổ
chức lãnh đạo chung của phong trào công nhân quốc tế, đề cao chủ nghĩa quốc tế
chứ không phải dân tộc. Chủ nghĩa Mác Angen - Bộ phận lớn của quốc tế cộng sản
đề cao giai cấp trong khi Bác Hồ đề cao vấn đề dân tộc dù nó gây khó khăn với
cách mạng VN trong quan hệ với quốc tế cộng sản. Quan điểm của cương lĩnh
chính trị đầu tiên khác với quan điểm Quốc tế cộng sản là đề cao mọi tầng lớp giai
cấp trong xã hội, đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu. Chúng ta đã không đi theo
quốc tế cộng sản mà đưa ra quan điểm phù hợp với điều kiện cụ thể thời điểm hiện
tại của VN: vấn đề dân tộc cấp bách hơn, là mâu thuẫn được đẩy lên hàng đầu, đặt
nhiệm vụ giải phóng, giành độc lập dân tộc lên cao nhất và chỉ khi đó mới huy
động được lực lượng toàn dân.
- Thực tiễn CM VN, đặc biệt giai đoạn 1939-1945 cũng đã chứng minh nhờ có việc
giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc mà chúng ta đã tập hợp được lực lượng
đông đảo quần chúng nhân dân trong mặt trận Việt Minh để làm nên thành công
của cách mạng tháng 8 – đánh giá là cuộc CM diễn ra nhanh gọn, không tốn kém
và hầu như không có đổ máu. Đây cũng chính là sự sáng tạo trong đường lối của
Đảng, nhà nước và chủ tịch HCM.
=> Bác vượt qua quan điểm của chủ nghũa cộng sản mà xuất phát từ điều kiện
hoàn cảnh thực tiễn VN để đưa ra chính sách
3. Xác định lực lượng tham gia cách mạng
- Quan điểm QTCS chỉ đề cao công nhân và nông dân, triệt để CM, còn các giai
cấp khác không phải lực lượng tham gia CM. Nhưng quan điểm cương lĩnh không
chỉ công nhân, nông dân mà mọi tầng lớp giai cấp trong XH đều được đề cao.
Đảng đã xác định cần tập hợp hầu hết giai cấp trong xã hội (sáng tạo) đại bộ phận
công nhân, nông dân; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… làm cho phú nông,
trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam đứng trung lập, từ đó xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân vững mạnh.
- Chủ trương đề ra trong cương lĩnh chính trị là hoàn toàn phù hợp hoàn cảnh VN
lúc bấy giờ – trong XH thuộc địa 1 phong kiến, không chỉ CN, ND mâu thuẫn với
thực dân Pháp mà mọi tầng lớp giai cấp đều bị ảnh hưởng và đều mâu thuẫn, do
vậy việc lôi kéo, tập hợp đông đảo lực lượng là việc đúng đắn. Thực tiễn lịch sử
cũng đã chứng minh, nhờ có việc tập hợp lực lượng, cụ thể là qua mặt trận Việt
minh, Hội cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nông dân cứu quốc..., chúng ta đã giành
được chiến thắng vang dội t8/1945.
- Tính sáng tạo:
· Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”
· Nhiệm vụ:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước
Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh và tổ chức quân
đội công nông, nhiệm vụ chống đế quốc đặt lên hang đầu
Về xã hội- kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho
Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và
chia cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày
nghèo, thi hành luật ngày làm 8h.
Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông
giáo dục theo công nông hóa.
Về lực lượng và phương pháp cách mạng: Tập hợp hầu hết giai cấp trong xã hội
(sáng tạo) đại bộ phận công nhân, nông dân; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông… làm cho phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam đứng trung lập.
Phải đoàn kết công nhân, nông dân; dựa vào dân nghèo, lãnh đạo nông dân làm
cách mạng ruộng đất. Lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông… đi vào phe vô sản
giai cấp. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh
đổ. -> cơ sở chiến lược xây dựng đại đoàn kết dân tộc, rộng rãi giữa các giai cấp .
Về lãnh đạo của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đồng thời là đội tiên phong của đạo quân vô
sản gồm 1 số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo
quần chúng.
Về mối quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới
nhất là VS Pháp. Trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải tranh thủ
sự đoàn kết, ủng hộ các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai
cấp vô sản Pháp => ĐCS VN đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc
tế của giai cấp công nhân.
Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo nên 1 cuộc khủng
hoảng chính trị sâu sắc, vậy khủng hoảng chính trị ở đây là gì?
- Tình hình quốc tế: Liên Xô thắng lớn, Pháp đc giải phóng, ưu thế trên chiến
trường dần nghiêng về phe đồng minh, phe phát xít đang dần thất bại hoàn toàn
- Tình hình trong nước: Nhật đảo chính Pháp (9/3/1944)
- Hội nghị mở rộng tại Đình Bảng – Bắc Ninh (9/3/194):
Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945)
+ Nhận định tình hình: Chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày 09/03/1945 là
một cuộc đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp.
+ Xác định kẻ thù trước mắt duy nhất của Đông Dương là phát xít Nhật, quyết định
thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật”.
+ Nhiệm vụ trước mắt: đẩy mạnh các hình thức đấu tranh vũ trang, tuyên truyền
Khẩu hiệu đấu tranh “Đánh đuổi phát xít Nhật, thành lập chính quyền CM của
nhân dân Đông Dương”
+ Phương châm đấu tranh: tiến hành KN từng phần dẫn đến Tổng KN
+ Dự kiến thời cơ:
Nếu Nhật để mất nước giống Pháp năm 1940 ta sẽ nổi dậy đấu tranh giành chính
quyền
Khi quân Đồng minh kéo vào để giải giáp quân đội Nhật thì quân Nhật sẽ kéo ra
ứng phó, ta sẽ cùng quân ĐM tạo thế 2 gọng kìm, lật đổ ách thống trị của PX
Nhâth
Tuy nhiên, bất cứ khi nào thời cơ CM xuất hiện, ta sẽ ngay lập tức Tổng KN đấu
tranh giành chính quyền
Tình thế CM đã xuất hiện nhưng thời cơ CM chưa thực sự chín muồi mà hiện chỉ
có những thời cơ tốt để tiến tới thực hiện tổng khởi nghĩa đấu tranh giành chính
quyền
o 22/9/1945, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, để rảnh tay tham gia CTTTG II và
để ngay lập tức có 1 bộ máy tay sai phục vụ Nhật mà k phải mất thời gian đào
tạo, xây dựng thì họ đã sử dụng lại ngay bộ máy cai trị của TDP để làm bàn
đạp thống trị nhân dân ta lúc bấy giờ. TDP là tay sai của phát xít Nhật trong
công cuộc áp bức bóc lột nd ta nhưng đến bây giờ, Nhật đã đảo chính Pháp để
độc chiếm Đông Dương. Đối với phát xít Nhật , Đông Dương là cứ điểm cuối
cùng của phát xít Nhật, Anh và Mỹ đã giải phóng được nước Pháp.
=> cái cũ (công cụ của TDP) đã mất đi, cái mới thì trong khoảng thời gian ngắn
PX Nhật không thể gây dựng lại ngay 1 bộ máy cai trị mới. Trong khi đó, các tầng
lớp trung gian đang ngả nghiêng dao động không biết đi đâu về đâu => Đảng ta đã
nhận định đây là 1 khoảng trống về mặt quyền lực của nhân dân ta lúc bấy giờ
=>Tình thế CM là 2 kẻ thù trực tiếp đã tiến hành đấu tranh với nhau
o Nhưng thời cơ CM chưa thực sự chín muồi vì rõ ràng trên chiến truòng, Nhật
đang trong thế thất bại nhưng Nhật xác định Đông Dương là sào huyệt cuối
cùng nên sẽ làm mọi cách để giữ Đông Dương. Quân Nhật ở Đông Dương còn
rất mạnh, chưa bị tan rã, chưa bị hoang mang
o =>Ý nghĩa:
o · - Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp
thời của Đảng ta, nhờ đó đẩy lên 1 cao trào CM, thúc đẩy tình thế CM mau
chóng chín muồi
o - Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện KN
vũ trang từng phần, tiến tới Tổng KN.
o - Thể hiện năng lực của Đảng trong việc nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối
phù hợp

Phân tích vấn đề thời cơ của CM tháng 8 và vận dụng bài học đó trong bối
cảnh quốc tế hiện nay
Nếu Nhật để mất nước giống Pháp năm 1940 ta sẽ nổi dậy đấu tranh giành chính
quyền
Khi quân Đồng minh kéo vào để giải giáp quân đội Nhật thì quân Nhật sẽ kéo ra
ứng phó, ta sẽ cùng quân ĐM tạo thế 2 gọng kìm, lật đổ ách thống trị của PX
Nhâth
Tuy nhiên, bất cứ khi nào thời cơ CM xuất hiện, ta sẽ ngay lập tức Tổng KN đấu
tranh giành chính quyền

Từ việc phân tích bài học kinh nghiệm của CMT8, anh chị vận dụng như thế
nào vào bối cảnh quốc tế hiện nay? (giữa kỳ)
● Bài học về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù vẫn còn
nguyên giá trị thực tiễn với giai đoạn hiện nay, hay nói cách khác, chính là lợi
dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn trên thế giới.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
- Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, có khả năng thay thế Mỹ - cuộc chiến tranh
thương mại ngày càng căng thẳng hơn. Nhìn sâu xa hơn, mối bất đồng của Hoa Kỳ
đối với Trung Quốc vượt xa lãnh vực thương mại. Trung Quốc táo bạo đã lợi dụng
thế giới thương mại tự do để tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự để chiếm lấy
vị trí quốc gia hàng đầu thế giới. Mỹ lo ngại sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung
Quốc có thể gây ảnh hưởng lớn về chính trị, kinh tế, thách thức địa vị của Mỹ. Về
an ninh, Mỹ lo ngại Trung Quốc phá vỡ cân bằng sức mạnh ở khu vực châu á -
Thái Bình Dương, làm lung lay địa vị bá chủ của Mỹ.
- Tham vọng này đã được thể hiện trong kế hoạch 2025, kế hoạch Vành Đai Con
Đường, hành vi hung hăng của Trung Quốc đối với các nước láng giềng từ Ấn Độ
đến Malaysia đến Nhật Bản đến Philippines đến Việt Nam, v.v. Điều này kéo theo
mâu thuẫn giữa các nước thân vs Mỹ/ Trung Quốc, cũng như quan hệ giữa TQ và
các nước châu Âu, vô hình chung thế giới sẽ được chia thành hai phe: phe Trung
Quốc và phe không Trung Quốc do Hoa Kỳ lãnh đạo. Là nền kinh tế có độ mở nhất
nhì khu vực, là đối tác thương mại lớn của cả Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam sẽ khó
tránh khỏi hệ lụy nếu không có kịch bản ứng phó chủ động.
+ Việt Nam đã có những chính sách lợi dụng mâu thuẫn này một cách khéo léo để
tạo lấy cơ hội cho quốc gia. Ví dụ, Việt Nam có thể nổi lên như một nhà cung cấp
thay thế một số mặt hàng có giá trị đối với Mỹ. Báo cáo đã ghi lại xuất khẩu VN
sang Hoa Kỳ tăng gần 15% trong hai tháng đầu năm 2018. Đây là một kết quả trực
tiếp của cuộc chiến tranh thương mại leo thang giữa hai siêu cường.
+ Đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc cũng có thể được chuyển hướng từ Trung
Quốc sang Việt Nam để tránh thuế. Ngoài ra, công ty Trung Quốc phải đối mặt với
mức thuế cao hơn từ chính quyền Trump có nhiều khả năng để chuyển hướng các
tài liệu xuất khẩu thô của họ sang Việt Nam trong một nỗ lực để che giấu nguồn
gốc thực sự của sản phẩm Trung Quốc sản xuất của họ.
Mâu thuẫn trên biển:
- Các nước đều có lợi ích ở biển Đông, trong khi đó hiện nay tình hình biển Đông
rất phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định, đặt ra những nhiệm vụ khó
khăn đầy thách thức dành cho Đảng và Nhà nước ta: TQ rất quyết liệt ở biển Đông
(đặt giàn khoan trái phép, nhận diện phòng không, kiểm soát tàu bè, đánh dấu chủ
quyền…) ngày càng muốn độc chiếm biển Đông, hiện thực hóa đường “lưỡi bò”.
TQ xem Biển Đông là khu vực để thể hiện sức mạnh và độc chiếm Biển Đông là
bước đầu tiên trong việc xác lập TQ chính là cường quốc hàng đầu thế giới trong
thời kỳ mới thông qua tham vọng chủ quyền biển Đông.
- Trong khi đó, Mỹ coi việc duy trì hiện diện ở châu Á-Thái Bình Dương và xác
định việc duy trì an ninh, ổn định ở Biển Đông là lợi ích quốc gia. Điều này đã dân
tới mâu thuẫn gay gắt ngày càng dâng cao giữa 2 cường quốc này.
- Tình hình thế giới xuất hiện nhiều diễn biến khó lường làm gia tăng căng thẳng ở
Biển Đông; sự xuất hiện của Mỹ và các đồng minh ở đây đã ngăn cản đáng kể
tham vọng bá quyền của Trung Quốc.
- Cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc (TQ) bước vào giai đoạn cao
trào, đặt ra nhiều thách thức cho những nước xung quanh, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, đi kèm với những thách thức này là hàng loạt cơ hội mà chúng ta phải
biết tận dụng để vươn lên trong điều kiện mới.
- Nhà nước đã lợi dụng khéo léo mâu thuẫn biển đảo này giữa các nước lớn thông
qua việc hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết, kiên trì bằng các biện pháp hòa bình,
cụ thể là qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trong các lĩnh vực chính trị, ngoại
giao... với các nước khác trên trường quốc tế. Nhà nước đã có chính sách đối ngoại
rộng mở, hội nhập quốc tế và hợp tác, hòa bình tốt; tránh đối đầu và không gây thù
oán với ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những điểm
tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng
hộ Việt Nam.
- Làm theo lời Bác, để tập hợp các lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam,
vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam,
về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Những năm gần đây, khi vai trò của
Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, chúng ta càng có thêm
nhiều cơ hội để đưa ra tiếng nói, khẳng định chủ quyền ở Biển Đông tại các cơ chế,
diễn đàn đa phương. Điều này đã giúp VN đưa đến cộng đồng quốc tế đcái nhìn
khách quan, đúng đắn về vấn đề này, từ đó tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của
quốc tế.
- Đảng và Nhà nước ta đã tố cáo hành vi ngang ngược của nhà nước Trung Quốc
trên trường quốc tế để tranh thủ dư luận tiến bộ trên toàn thế giới; đồng thời chúng
ta kiên trì dùng ngoại giao để các nước có chung quyền lợi trên biển Đông hợp sức
với Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động độc chiếm biển Đông của Trung
Quốc
- Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ, tăng cường hợp tác với nhiều quốc gia và
tổ chức quốc tế, linh hoạt, khôn khéo sử dụng các phương sách ngoại giao. Điển
hình như nước ta đã có những chủ trương, hành động ngoại giao mềm dẻo với Mỹ
- tận dụng sự quan tâm của Mỹ với vấn đề này để hỗ trợ, giúp đỡ ta.
Chính sách ngoại giao: không nên đứng hẳn về 1 phía
-> Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay là lâu dài, gian khổ, đòi hỏi
chúng ta phải kiên quyết, nhưng phải bình tĩnh, kiên trì, vận dụng đúng đắn những
bài học rút ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử nhằm đạt mục đích
cuối cùng là độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
● Bài học kinh nghiệm để Đảng ta hôm nay tiếp tục quán triệt và vận dụng, đặc
biệt là trong công cuộc xây dựng bảo vệ tổ quốc, phòng chống đại dịch Coovit
19 chính là phát huy năng lực lãnh đạo, kịp thời điều chỉnh, chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược một cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi.
Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp đông đảo mọi giai
tầng trong xã hội tham gia theo một chỉ đạo đường lối chung.
Bài học về hợp tác quốc tế, liên minh tương trợ giữa ba nước Đông Dương anh
em dân tộc trở nên cấp bách.
● Bài học kinh nghiệm về tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng và phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ cuộc Cách mạng T8
còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, đặt
ra những yêu cầu mới cho Đảng và nhà nước
● Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống nhất ý
chí và hành động
+ thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về công tác vận động quần chúng; nâng cao nhận thức cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên về yêu cầu, mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
+ đề cao trách nhiệm, tổ chức thực hiện nghiêm túc; không ngừng đổi mới, tự
chỉnh đốn
+ tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục những biểu hiện
tham nhũng, lãng phí, quan liêu xa rời quần chúng nhân dân.
+ Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, giữ vững
tính tiền phong, gương mẫu, gắn bó mật thiết với quần chúng, luôn luôn đặt lợi ích
của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng
của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc
của nhân dân.
+ tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, lấy đoàn kết trong Đảng làm
cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ kiên định đường lối đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc
tế; chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân; nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa; giải quyết kịp
thời các mâu thuẫn phát sinh.
Có thể nói, Qua 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Có được điều đó là nhờ nhận thức về KĐĐKTDT tiếp tục được bổ sung, phát
triển phù hợp với tình hình mới, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; theo đó, quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhân
dân ngày càng được quan tâm. Sự quyết tâm, quyết liệt của Đảng, Nhà nước trong
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, chăm lo đời sống nhân
dân đã củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, củng cố vững chắc KĐĐKTDT
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ khi người dân đoàn kết xung quanh Đảng,
tin tưởng vào Đảng, đất nước mới có thể phát triển lâu dài.
● Ngày nay, bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặt
dân tộc ta trước hàng loạt thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức.
Vận dụng sáng tạo bài học chớp thời cơ trong bối cảnh mới hiện nay đòi hỏi
Đảng phải nâng cao năng lực phân tích thực tiễn sâu sắc, tầm nhìn xa trông
rộng, trên cơ sở thấm nhuần và vận dụng một cách xuất sắc lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể, nhận diện và nắm bắt đúng thời
cơ để đưa ra các quyết sách có lợi cho cách mạng, cho đất nước. Trong quá
trình hội nhập khu vực và thế giới, trên cơ sở giữ vững quyền độc lập và tự
chủ, giữ gìn môi trường hòa bình và với nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi,
Việt Nam phải tạo ra được một năng lực nội sinh làm nền tảng cho sự phát triển
bền vững. Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô, duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; tập trung giải quyết những
vấn đề dân sinh bức xúc, bảo đảm an sinh xã hội và những yếu tố định hướng
xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường; tăng cường quốc phòng an
ninh; thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa,
đa phương hóa các quan hệ quốc tế vì hòa bình, hợp tác, phát triển; bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ
quốc. Vận hội mới, điều kiện mới càng thấy rõ yêu cầu nâng cao tầm nhìn
chiến lược, nắm bắt thời cơ của người tổ chức, lãnh đạo cách mạng- Đảng
Cộng sản Việt Nam.

Phân tích 1 trong những bài học kinh nghiệm từ CMT8/1945, vận dụng vào
bối cảnh quốc tế ngày nay (Phương pháp cách mạng: Kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang)
● Phân tích:
Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đó là Đảng ta đã làm tốt công tác vận động, tập hợp quần chúng trong một
mặt trận thống nhất, kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng chính trị với lực
lượng vũ trang, tạo sức mạnh to lớn cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Xây dựng lực lượng chính trị
Nhận thức rõ vai trò của quần chúng nhân dân là một trong những yếu tố quyết
định thành công hay thất bại nên ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tuyên truyền, vận động, giác ngộ
quần chúng, tập hợp các lực lượng yêu nước tham gia cách mạng.
Từ xác định “vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh”(1) ngay trong
Chánh cương vắn tắt đã nhấn mạnh: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận
dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa
chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(2). Bản
Luận cương Chính trị cũng xác định vô sản giai cấp là “động lực chánh và rất
mạnh của cách mạng ở Đông Dương”(3).
Tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương 6 của Đảng nhấn mạnh phải mở rộng và
nâng cao tinh thần dân tộc, làm cho mỗi người trong các giai cấp có ý thức về sự
tồn vong của dân tộc và sự liên quan mật thiết của vận mạng dân tộc với lợi ích cá
nhân; đặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, bao gồm cả tầng lớp tiểu tư
sản và tư sản bản xứ còn có ít nhiều tinh thần chống đế quốc. Như vậy, từ Luận
cương chính trị năm 1930, đến Hội nghị Trung ương 6 năm 1939, Đảng ta đã có sự
phát triển nhận thức về vai trò của quần chúng nhân dân.
Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị
quyết về đoàn kết toàn dân tộc, tạo cơ sở để thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất,
lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Mục tiêu của Mặt trận
Việt Minh là “Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt
tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để
đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”(4). Mặt trận Việt Minh đã
xây dựng được cơ sở rộng khắp ở cả vùng nông thôn và đô thị, ở cả trong nước và
nước ngoài. Ở Vân Nam (Trung Quốc), Hội Giải phóng Việt Nam cũng được thành
lập, đến cuối năm 1942 cũng đã trở thành một bộ phận của Mặt trận Việt Minh.
Các tổ chức này đều có cơ cấu từ Trung ương xuống các địa phương, thu hút được
mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội, trở thành lực lượng quan trọng cho cuộc Tổng
khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Phát triển lực lượng vũ trang
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 28-02-1943,
tại Võng La, Đông Anh đã quyết định mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất và
chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Từ nhận định: ở Đông Dương hiện nay
thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh
nên cuộc cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là
tính cách toàn dân tộc, Hội nghị đã đề ra chủ trương tập hợp, đoàn kết tất cả các
thành phần, đảng phái, các nhóm yêu nước chưa gia nhập Mặt trận Việt Minh
thông qua công tác vận động. Đến cuối năm 1944, Đảng Cộng sản Việt Nam và
Mặt trận Việt Minh đã xây dựng được một lực lượng cách mạng hùng hậu, thực sự
là một “đạo quân chính trị”. Cũng từ đây, cuộc đấu tranh đã được nâng lên một
hình thức mới, từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang. Dấu mốc là ngày
22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam đã được thành lập.
Sau một thời gian, ngày 15-5-1945 Việt Nam giải phóng quân được thành lập trên
cơ sở thống nhất cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Như vậy, cả hai lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã phát triển mạnh mẽ ở
các địa phương và tích cực chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh lập ra Ủy ban Dân tộc
giải phóng, tổ chức các lớp huấn luyện, tập dượt cho nhân dân nắm chính quyền.
Phối hợp hai lực lượng, tạo thành sức mạnh to lớn cho Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền
Vận dụng một cách khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con đường
bạo lực trong cách mạng vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định con đường
cách mạng Việt Nam là khởi nghĩa vũ trang, toàn dân đánh giặc, là bạo lực của
quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả
hai lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, và
hai hình thức đấu tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong đó,
lực lượng chính trị được coi là lực lượng cơ bản, nền tảng của cách mạng, đồng
thời là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang quân đội nhân dân. Chính
vì vậy, lực lượng chính trị mạnh thì lực lượng vũ trang mạnh.
Từ chỗ biết chuẩn bị lực lượng từ trước, biết phát huy sức mạnh của cả dân tộc
đúng lúc, đúng thời điểm, Đảng ta đã thực hiện thành công cuộc tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời
ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trong đó xác
định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát-xít Nhật và nhấn
mạnh sự cần thiết phải mở rộng Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, vận động, tập hợp
nhân dân tham gia cao trào kháng Nhật, cứu nước. Trong thời kỳ này, Đảng ta đã
ban hành nhiều chủ trương, chính sách, đề ra các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp,
đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn cách mạng. Đồng thời, phát động phong
trào “Phá kho thóc để giải quyết nạn đói”, cứu dân, để nhân dân lao động - “những
người cùng khổ” thấy rằng, muốn giành quyền sống thì nhất thiết phải đoàn kết
dưới ngọn cờ Việt Minh, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của phát-xít Nhật và bè lũ
tay sai.
Có thể thấy, trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc chuẩn bị
lực lượng, từ lực lượng chính trị đến lực lượng vũ trang đủ mạnh để kịp thời tiến
hành tổng khởi nghĩa đúng lúc có vai trò đặc biệt quan trọng. Đường lối đấu tranh
chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang đã trở thành định hướng quan trọng cho cả
một quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, mà kết quả là thắng lợi của cuộc
Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
● Vận dụng
(Căng thẳng trên biển Đông
Các nước đều có lợi ích ở biển Đông, trong khi đó hiện nay tình hình biển Đông rất
phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định, đặt ra những nhiệm vụ khó khăn
đầy thách thức dành cho Đảng và Nhà nước ta: TQ rất quyết liệt ở biển Đông (đặt
giàn khoan trái phép, nhận diện phòng không, kiểm soát tàu bè, đánh dấu chủ
quyền…) ngày càng muốn độc chiếm biển Đông, hiện thực hóa đường “lưỡi bò”.
TQ xem Biển Đông là khu vực để thể hiện sức mạnh và độc chiếm Biển Đông là
bước đầu tiên trong việc xác lập TQ chính là cường quốc hàng đầu thế giới trong
thời kỳ mới thông qua tham vọng chủ quyền biển Đông.
Đấu tranh chính trị: điện đàm, phát biểu, đấu tranh pháp lý, nâng cao nhận thức của
người dân VN cũng như nhân dân thế giới
Người dân: Mít – tinh và biểu tình phản đối
Ngày 6/5/2014, cuộc biểu tình sớm nhất để phản đối hành động này của Trung
Quốc được tổ chức trước Tòa Lãnh sự Trung Quốc tại Los Angeles. Chiều 9 tháng
5, một cuộc biểu tình nhỏ đã diễn ra trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội. Sáng
ngày 10 tháng 5, một cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đã diễn ra tại TP. HCM,
được báo chí chính thống của Việt Nam đăng tải ngay trong ngày nhằm phản đối
vụ hạ giàn khoan Hải Dương 981 của TQ
Đấu tranh quân sự: đưa tàu ra đương đầu, sẵn sàng chiến đấu nếu có hành động
quá khích
Hải quân VN chuẩn bị tàu chiến hiện đại)
- Đảng và Nhà nước ta không ngừng xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam, điều kiện tiên quyết là phải duy trì hòa bình, ổn định thì mới phát triển
kinh tế - xã hội bền vững. Để bảo vệ Tổ quốc thì phải xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng
là nhiệm vụ trung tâm, chúng ta trang bị vũ khí để phòng thủ, tự vệ; xây dựng một
nước Việt Nam giàu mạnh thì chúng ta mới có thể tự mình bảo vệ chủ quyền được.
Cụ thể, để bảo vệ chủ quyền biển đảo, Chính phủ đã tăng cường xây dựng lực
lượng thực thi pháp luật trên biển, kêu gọi hợp tác đầu tư ở vùng biển thuộc chủ
quyền Việt Nam, hỗ trợ ngư dân đóng tàu lớn, hiện đại để vươn ra khơi xa đánh bắt
hải sản…là những việc làm hết sức đúng đắn và cần thiết.
Đấu tranh chính trị
- Đảng và Nhà nước ta đã huy động lực lượng toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại vào cuộc đấu tranh chung. Để bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Nhân dân cả nước và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đã cùng lực lượng
thực thi pháp luật trên thực địa bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đảng
và Nhà nước ta đã tố cáo hành vi ngang ngược của nhà nước Trung Quốc trên
trường quốc tế để tranh thủ dư luận tiến bộ trên toàn thế giới; đồng thời chúng ta
kiên trì dùng ngoại giao để các nước có chung quyền lợi trên biển Đông hợp sức
với Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động độc chiếm biển Đông của Trung
Quốc như cách mà Hồ Chủ tịch đã làm trong việc tranh thủ các lực lượng tiến bộ
bên ngoài, phát huy nội lực bên trong tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử.

(Về phương pháp cách mạng: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa)
● Phân tích
Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo cách
mạng. Muốn có thời cơ thì phải biết tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến thì phải tận
dụng và tranh thủ thời cơ, không được bỏ lỡ.
Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 1945 là một minh chứng sinh
động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc nắm bắt thời cơ được thể hiện ngay
khi Đảng đưa ra những dự báo về tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên
giành chính quyền về tay Nhân dân.

Trong đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp chiếm để độc chiếm Việt Nam và Đông
Dương. Tuy nhiên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng xác định thời điểm này chưa
phải là thời cơ chín muồi để làm cuộc Tổng khởi nghĩa mà chủ trương chủ trương
phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề. Chỉ thị
Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945) đã chỉ rõ về vấn đề
thời cơ khởi nghĩa: “Mặc dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều
kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực chín muồi”. Đến nửa cuối năm
1945, phe phát xít đã thất bại hoàn toàn trước quân đồng minh và Liên Xô. Trước
tình hình đó, từ ngày 13 đến 15-8-1945, tại Tân Trào, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp và phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân đồng minh vào
Đông Dương. Hội nghị chỉ rõ: “Tình thế vô cùng khẩn cấp, tất cả mọi người đều
phải nhằm vào những việc chính, thống nhất về mọi phương tiện, không bỏ lỡ cơ
hội”. Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa ra ngày 13-8-1945 khẳng định: “Giờ
Tổng khởi đã đến! cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền
độc lập của nước nhà! Chúng ta phải hành động cho nhanh…” Hội nghị toàn quốc
của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ngay ở
Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17-8-1945. Đại hội tán thành hoàn
toàn chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng.

Khi phát xít Nhật nổ súng lật đổ thực dân Pháp ở Đông Dương (ngày 9/3/1945),
với chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945),
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng đã nhận định tình hình và dự đoán
hai tình huống có thể diễn ra: thứ nhất là, quân đồng minh vào Đông Dương đánh
Nhật; thứ hai là, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Và tình hình đã diễn ra đúng
như dự đoán thứ hai của Đảng ta, ngày 14/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng
đồng minh vô điều kiện đã khiến cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang cực
độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê liệt. Đến
đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn có khả năng thống trị
như cũ được nữa, thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã
xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải hành động mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp
thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng không thể
được bởi lúc này quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam để giải
giáp quân đội Nhật nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế
quốc trên danh nghĩa đồng minh.

Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng đã quyết định phát động
toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền và chỉ từ ngày 14 đến ngày
28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức, phương pháp đấu tranh cả đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tuyên truyền kết hợp với bạo lực cách mạng,
nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi một cách
nhanh, gọn, không đổ nhiều máu và thành công triệt để.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 đã chứng tỏ Đảng ta, mà đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian xác định đúng thời cơ khởi
nghĩa, cho nên Đảng và nhân dân ta đã có sự chuẩn bị lâu dài, chu đáo. Công cuộc
chuẩn bị đó không chỉ diễn ra trong thời kỳ (1939 – 1945) mà là sự chuẩn bị suốt
15 năm kể từ khi Đảng ra đời. Khi thời cơ đến, Đảng ta chủ động, chớp thời cơ
lãnh đạo nhân dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Thắng lợi đó đã chấm
dứt gần 100 năm nước ta dưới sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và xoá bỏ chế
độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta, đưa nước ta bước vào một kỷ
nguyên mới từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước tự do, độc
lập; là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động và phát triển của khởi nghĩa và cách
mạng khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.

CHƯƠNG 2.
? Phân tích cơ sở, thuận lợi của CMVN sau 7/1954
- Thuận lợi:
+ Sau 1954, hệ thống các nước XHCN phát triển mạnh mẽ, đặc biệt với sự vươn
lên phát triển mạnh mẽ của Liên Xô (năm 1950, vươn lên trở thành cường quốc
công nghiệp lớn thứ 2 trên thế giới), đạt được nhiều thành tựu liên quan đến kte và
quân sự, đặc biệt năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ
thế độc quyền của Mỹ, tạo ra sự cân bằng trên cả góc độ kinh tế và quân sự.
Hơn nữa, đây là thời điểm CTTG II kết thúc đuợc 5 năm, Liên Xô đã khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh đồng thời đã giúp các nước XHCN Đông
Âu đi lên xây dựng XHCN
=> Trở thành chỗ dựa của cách mạng thế giới. Đặc biệt, đối với VN trong hơn 20
năm, Liên Xô đã có sự hỗ trợ rất lớn về mọi mặt (vd: viện trợ kinh tế chiếm 50%
GDP)
+ Phong trào đấu tranh giải phóng dt trên thế giới phát triển mạnh mẽ, đặc biêtj sau
thắng lợi của nhân dân VN trước TDP đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ pt đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Pháp trên toàn thế giới
Bên cạnh đó, tất cả pt đấu tranh của VN trong giai đoạn này nhận được sự đồng
tình giúp đỡ của các lực lượng dân chủ ưa chuộng hoà bình trên thế giới trong đó
có cả nhân dân Mỹ
+ Phong trào công nhân ở các nước phát triển cũng đang phát triển
- Khó khăn: sau 1945, Tình hình quốc tế thay đổi rất lớn, kẻ thù lớn nhất, mạnh
nhất thế giới
Mỹ với âm mưu trở thành bá chủ thế giới với thế mạnh lớn về cả kinh tế và quân
sự, liên tục đề ra các chiến lược toàn cầu phản cách mạng (Chiến tranh cục bộ,
chiến tranh toàn đặc biệt, Việt Nam hóa chiến tranh)
+ Sự bất đồng, chia rẽ dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc giữa 2 nước lớn trong XHCN –
Liên Xô Trung Quốc
* Trong nước
- Thuận lợi:
+ Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, người dân vẫn tin tưởng vào Đảng và chủ
tịch Hồ Chí Minh, hướng tới khát vọng chung là giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.
+ Miền Bắc: tuyên bố được giải phóng, độc lập, quá độ lên CNXH, trở thành hậu
phương vững chắc cho miền Nam VN
- Khó khăn: Đế quốc Mỹ hùng mạnh đã trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân VN

Tại sao Đảng chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang?
1954 – 1957: đấu trang chính trị
- Vì đây là khoảng thời gian ta đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơ – ne – vơ (2 bên
thực hiện ngừng bắn, VN tạm thời chia cắt thành 2 miền, sau 2 năm sẽ thực hiện
Tổng tuyển cử thống nhất) nên không thực hiện đấu tranh vũ trang được
- So sánh về tương quan lực lượng
+ Kinh tế: Mỹ là nền kinh tế số 1 thế giới, VN có xuất phát điểm là nền kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển
+ Chính trị: chỉ có chính quyền ở miền Bắc, miền Nam không có chính quyền
+ Quân sự:
● Theo tinh thần của Hiệp định Giơ- ne – vơ, tất cả quân bộ đội phải tập kết ra
Bắc để thực hiện việc chuyển giao quân, ở miền Nam không đóng bất kỳ liên
minh quân sự nào, chỉ có 1 bộ phận rất nhỏ ở lại dưới danh nghĩa công nhân,
nông dân,…
● Trong khi đó, Mỹ đã kịp xây dựng 1 chế độ nguỵ quân nguỵ quyền từ 8/1950
=> Ta chưa kịp chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và buộc thi hành HĐ Giơ – ne -

1958 – 1960: đấu tranh vũ trang
- Tháng 8/1956 ( 1 năm sau HĐ được ký kết), Mỹ tuyên bố không hiệp thương
Tổng tuyển cử thống nhất đất nước
- Do chính sách của Mỹ Diệm
Đầu 1968, Mỹ Diệm thực hiện chính sách Tố cộng diệt cộng, lê máy chém khắp
miền Nam VN, thực hiện đạo luật 10/59 (với phương châm “giết nhầm còn hơn bỏ
sót” đã làm cho lực lượng CMVN tổn thất nặng nề. Theo thống kê, trong vòng 2
năm, chúng đã bắt và giết hại hơn 108 nghìn người dân vô tội)
=> Đảng đi đến nhận định: chính sách của Mỹ Diệm sẽ gây cho ta rất nhiều khó
khăn nhưng nhân dân ta sẽ đứng lên đấu tranh theo quy luật tức nước vỡ bờ
=> Tháng 1/1959, Nghị quyết số 15 về tình hình mới, đây là Nghị quyết về tình
hình phát triển ở miền Nam, như 1 ngọn đuốc ném vào đống cỏ khô để mở đường
cho CM miền Nam tiến lên. Vì nội dung của Nghị quyết vạch rõ con đường CM
khởi nghĩa ở VN phải là con đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân
trong đó sử dụng lực lượng chính trị kết hợp với lực lượng vũ trang
- Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, ngày 17/6/1960, phong trào đồng khởi Bến Tre
nổ ra do đồng chí Nguyễn Thị ĐỊnh lãnh đạo ở Mỏ Cày. Đây được xem như dấu
mốc đánh dấu cuộc chiến của nhân dân ta từ thế gìn giữ lực lượng chuyển sang thế
tiến công

Mối quan hệ của cách mạng 2 miền? Vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng
chiến lực cách mạng ở mỗi miền?
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ III CỦA ĐẢNG (9/1960)
- Vị trí, vai trò:
+ CM miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ CM
Việt Nam (cung cấp sức người, sức của)
+ CM miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền
Nam thống nhất nước nhà
+ Miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn
+ Miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước
- Mối quan hệ: đều có mục tiêu chung là hoà bình và thống nhất nước nhà
CUỐI KỲ
CHƯƠNG 1:
1. Nội dung và ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930).
● Nội dung:
- Hoàn cảnh ra đời:
Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập một chính đảng duy nhất của
Việt Nam tại Cửu Long – Hương Cảng (Trung Quốc) được tiến hành trong thời
gian từ ngày 6-1-1930 đến ngày 7-2-1930 (sau này tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng 1960 quyết nghị “từ nay trở đi sẽ lấy ngày 3/2 dương lịch mỗi
năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các
văn kiện quan trọng, trong đó có 2 văn kiện : Chánh cương vắn tắt và Sách lược
vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản
về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, 2 văn kiện trên là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nội dung:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng
Việt Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một
xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có
công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác
định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Như vậy, mục
tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung
của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập". Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ
cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế
quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ
chức. b) Nam nữ bình quyền,v.v... c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”.
Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định:
- Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp,
vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho
Chính phủ công nông binh quản lý;
- thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông
nghiệp;
- thi hành luật ngày làm tám giờ...
Xác định lực lượng cách mạng: giai cấp công nhân lãnh đạo, đồng thời
đoàn kết tất cả các giai cấp và lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế
quốc và tay sai. “Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập”.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, bằng
con đường bạo lực cách mạng của quần chúng, có sách lược thích hợp để lôi kéo
tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản nhưng kiên quyết: “bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế: tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là Pháp. “Trong khi tuyên truyền
cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên
lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”.
Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh
đạo được dân chúng".
● Ý nghĩa:
- Giá trị lý luận: (9)
+ Phản ánh 1 cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng VN
+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách
mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp CM, nhiệm vụ CM và lực lượng
CM để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra, đáp ứng được yêu cầu
cấp bách và cơ bản của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng
của nhân dân và thâm nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến
thành phong trào cách mạng, chấm dứt tình trạng bế tắc, khủng hoảng về đường lối
cách mạng.
+ Thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc
điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của
TK XX (không lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản, đề cao vấn đề
giai cấp chứ không phải dân tộc.)
+ Chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của DT Việt Nam lúc đó, đặc biệt là
việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng XH đối với nhiệm vụ giái
phóng DT
+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện nước ta, giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề như: mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến,
về lực lượng cách mạng… Qua đó, cương lĩnh đã góp phần bổ sung, phát triển làm
phong phú CN Mác – Lênin.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh
công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa trở
thành dân tộc độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ, nhưng đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là
ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, chủ
tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Cương lĩnh đã, đang, sẽ được toàn Đảng,
toàn dân trung thành, vận dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay.
Chỉ rõ tính đúng đắn của Cương lĩnh qua thực tiễn Cách mạng VN năm 1930
– 1945
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã thể hiện nhất quán xuyên suốt toàn bộ đường
lối cách mạng nước ta và khẳng định giá trị khoa học và tính đúng đắn của
con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn
1. Ngay từ khi mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cương lĩnh đầu tiên đã xác
định rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở giai
đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH. Về thực chất, đó là con
đường cách mạng giành độc lập dân tộc, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”
và các quyền dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa… cho các tầng lớp nhân dân, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn
đầu của nó. Hai cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và
thúc đẩy lẫn nhau, cuộc cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho cuộc cách
mạng sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách.

2. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến là vấn đề phức tạp. Trong 2 nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản
phong”, cương lĩnh chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả 2 nhiệm vụ phải được tiến
hành đồng thời và khắng khít với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định
phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên
hết"
Vào thời kì này, ta không lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản - tổ
chức lãnh đạo chung của phong trào công nhân quốc tế, đề cao chủ nghĩa quốc tế
chứ không phải dân tộc. Chúng ta đã không đi theo quốc tế cộng sản mà đưa ra
quan điểm phù hợp với điều kiện cụ thể thời điểm hiện tại của VN: vấn đề dân tộc
cấp bách hơn, là mâu thuẫn được đẩy lên hàng đầu, đặt nhiệm vụ giải phóng, giành
độc lập dân tộc lên cao nhất và chỉ khi đó mới huy động được lực lượng toàn dân.
Việc xác định đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn cờ dân
tộc để tập hợp lực lượng, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ
những nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của
Đảng ta bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem
xét vấn đề xã hội.
3. Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa
trên lực lượng cách mạng là liên minh công – nông làm nòng cốt, trong đó giai cấp
công nhân giữ vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời phải lôi kéo, tập hợp cả những
người yêu nước ở tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông và lợi dụng, trung lập
phú nông, trung và tiểu địa chủ, tư sản dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa
chủ ra thành những nhóm đối tượng khác nhau để có chính sách đối xử phù hợp,
tranh thủ lôi kéo những người có lòng yêu nước, trung lập những người có thể
trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết trừng trị đối với kẻ thù là thể
hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp
trong xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và sự đóng góp
của họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
4. Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh của Đảng
cộng sản Việt Nam nằm ở chỗ Đảng kết nạp đảng viên không chỉ là những công
nhân tiên tiến, mà còn kết nạp cả những người ưu tú, tiên tiến trong nông dân lao
động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng.
5. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi
dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Đây
là kinh nghiệm được rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên
thế giới đã khẳng định rằng bản chất của chủ nghĩa Đế quốc và giai cấp vô sản với
hai bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc chiến đấu không khoan
nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực phản cách mạng mới giành
được thắng lợi hoàn toàn.
6. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp
công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Nguyễn
Ái Quốc cho rằng : “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những
tư tưởng quốc tế chân chính”. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống
của bọn tư bản mà còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc
cách mạng vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của
cách mạng trong thế kỷ này.
Như vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nắm vững bản chất khoa
học và cách mang của chủ nghĩa Mác - Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân
tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai
cấp cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm
được quyền lãnh đạo cách mạng. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng
những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã nêu thời gian qua đã
chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người
nhất, để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt
Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới xây dựng CNXH ngày nay.

2. Bối cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa nghị quyết HNTW 8 (5/1941);
- Bối cảnh lịch sử
Trên thế giới:
+ WW II bùng nổ, Pháp tham chiến và thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân
chủ trong nước và phong trào CM ở thuộc địa.
+ 6/1940: Pháp đầu hàng Đức. Vì Pháp là chính quốc của VN nên khi Pháp thua sẽ
là cơ hội cho Nhật xâm chiếm Việt Nam
+ Tháng 12/1941, chiến tranh lan rộng ra Châu Á – TBD, Nhật bất ngờ tấn công
Trân Châu Cảng và đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh.
Ở Việt Nam:
+ Chiến tranh thế giới thứ II làm Đông Dương rơi vào thời chiến, Pháp ra sức đàn
áp vơ vét của cải, phát xít hóa bộ máy thống trị, tăng cường đàn áp phong trào yêu
nước của nhân dân ta, đặt Đảng CS Đông dương ra ngoài vòng pháp luật.
+ Quân phiệt Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật
để thống trị và bóc lột nhân dân ta, nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”.
-> Mâu thuẫn XH sâu sắc: mâu thuẫn giữa dân ta và phát xít Nhật, thực dân Pháp
gay gắt hơn bao giờ hết khiến cho tinh thần dân ngày càng dâng cao.
+ Ngày 17/01/1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và nhiều đồng chí Trung ương bị
địch bắt.
+ Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước và làm việc tại Cao
Bằng.
+ Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám BCH TW Đảng.
- Nội dung: Hội nghị TW nêu rõ những nội dung quan trọng:
+ Thứ nhất, nhấn mạnh mâu thuẫn phải được giải quyết cấp bách giữa Việt Nam
với đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật,
vận mạng dân tộc nguy vong”.
+ Thứ hai, khẳng định chủ trương “phải thay đổi chiến lược”. Đảng khẳng định:
“Chưa chủ trương làm CM tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải
phóng dân tộc”. Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ,
chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế
quốc và Việt gian chia cho dân nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm
tô, giảm tức.
+ Thứ ba, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Theo đó, thành lập ở mỗi nước
Đông Dương một mặt trận riêng đoàn kết dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc
chống kẻ thù chung.
+ Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “ai có lòng yêu nước thương nòi
sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc
lập, tự do cho dân tộc”.
Các tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”.
+ Thứ năm, khi cách mạng thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
– nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc”, chứ không phải “công nông liên hiệp
và chính quyền Xô viết”.
+ Thứ sáu, nhiệm vụ trung tâm là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, xác định những
điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
- Ý nghĩa:
▪ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa quyết định đối
với sự phát triển của p. trào CM, đi tới thắng lợi của CMT8/1945, giành độc lập
hoàn toàn cho Tổ quốc, phát triển và làm phong phú kho tàng lý luận Mác
Lê-nin về CM giải phóng dân tộc.
▪ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa quan trọng, nội
dung chuyển hướng chiến lược và sách lược của Đảng được đề ra ở HNTW 6
(năm 1939), khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng
10 năm 1930, đồng thời khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư
tưởng cách mạng đúng đắn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác
phẩm “Đường Cách mệnh” (1927) và Cương lĩnh chính trị đầu tiên 1930.
▪ Bên cạnh đó, Hội nghị còn khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc đúng đắn trong Cương lĩnh trính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng
giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc, sự khẳng định bước trưởng thành
vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây
dựng đường lối cứu nước, vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập
khuôn máy móc. Đó là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh
công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Phát, đuổi Nhật,
giành độc lập tự do.
▪ > Có thể nói, Chủ tịch HCM và ĐCSVN đã có bước nhận định tình hình: rất
chính xác, đúng đắn so với chiều hướng phát triển của tình hình thế giới và
trong nước, từ đó cho phép chúng ta đề ra chuyển hướng chiến lược phù hợp.
Vì sự thay đổi lớn trong nước và thế giới như vậy nên trong giai đoạn này,
Đảng đã quyết định gác lại nhiệm vụ dân chủ, tập trung vào nhiệm vụ dân tộc
(chống đế quốc), giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc.

- Bài học:
Bài học kinh nghiệm để Đảng ta hôm nay tiếp tục quán triệt và vận dụng, đặc biệt
là trong công cuộc xây dựng bảo vệ tổ quốc, phòng chống đại dịch Coovit 19 chính
là phát huy năng lực lãnh đạo, kịp thời điều chỉnh, chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược một cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi. Bài học về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp đông đảo mọi giai tầng trong xã hội tham gia
theo một chỉ đạo đường lối chung. Bài học về hợp tác quốc tế, liên minh tương trợ
giữa ba nước Đông Dương anh em.n tộc trở nên cấp bách.
Nội dung và ý nghĩa Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” ngày 12/3/1945
- Bối cảnh:
▪ Cuối năm 1944 – đầu năm 1945, WW II bước vào giai đoạn kết thúc, với
những thắng lợi liên tiếp của quân đội Liên Xô và các nước đồng minh cùng
các lực lượng dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội trên thế giới.
▪ Nhật – Pháp cấu kết với nhau đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam. Song
mâu thuẫn giữa hai đế quyết ngày càng gay gắt. Đêm ngày 9/3/1945, Nhật tiến
hành làm đảo chính Pháp để độc chiếm ĐôngDương.
▪ Đứng trước tình thế đó, ngay trong đêm 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại Từ Sơn (Bắc Ninh) để phân tích tình hình và
quyết định phát động cao trào kháng nhật, cứu nước làm tiền đề cho Tổng khởi
nghĩa.
▪ Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật – Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta.”
- Nội dung
▪ Nhận định tình hình: Chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày 09/03/1945 là
một cuộc đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp. Cuộc đảo chính của
Nhật lật đổ Pháp để chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính
trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi. Tuy vậy, hiện Đảng có
những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín
muồi.
▪ Xác định kẻ thù trước mắt duy nhất của Đông Dương là phát xít Nhật, quyết
định thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu
“Đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu Khẩu hiệu “ thành lập chính quyền CM của
nhân dân Đông Dương”
▪ Chỉ thị chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm
tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ
động, tổ chức và đấu tranh cho thời kỳ tiền khởi nghĩa nhằm động viên và tập
dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.
▪ Xác định phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích giải phóng
từng vùng, mở rộng căn cứ địa CM để chủ động đánh Nhật.
▪ Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như:
Quân Đồng minh tiến vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật kéo ra mặt trận càn
quét quân Đồng minh để sơ hở phía sau là thời cơ; cách mạng Nhật bùng nổ,
chính quyền nhân dân Nhật được thành lập; Nhật bị mất nước giống Pháp
(1940), quân viễn chinh Nhật hoang mang và mất tinh thần. Tuy nhiên chỉ thị
xác định không được trông chờ, không được ỷ lại vào bên ngoài mà phải chủ
động nắm bắt tình hình, thời cơ và phải dựa vào sức mình là chính.
- Ý nghĩa
▪ Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp thời của
Đảng ta, nhờ đó đẩy lên 1 cao trào CM, thúc đẩy tình thế CM mau chóng chín
muồi
▪ Là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào
kháng Nhật cứu nước, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng
khởi nghĩa T8 năm1945.
▪ Thể hiện năng lực của Đảng trong việc nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối phù
hợp

Nội dung và ý nghĩa Hội nghị toàn quốc của Đảng (13-15/8/45)
- Bối cảnh:
Tình hình quốc tế
▪ T5/1945, chủ nghĩa phát xít Đức thất bại hoàn toàn, T8/1945, Nhật cũng thất
bại, Mĩ ném 2 quả bom xuống Hirosima và Nagasiki, 10/8/1945, Nhật đầu hàng
quân đồng minh
Tình hình trong nước:
▪ Tháng 8-1945, Trung ương Đảng quyết định cần khẩn trương, tích cực chuẩn bị
cho cuộc Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội đại biểu. Bác Hồ
liên tục thúc giục chuẩn bị 2 hội nghị quan trọng này ngay từ tháng 7/1945,
Bác nói: “Có thể còn thiếu một số đại biểu nào đó chưa về kịp cũng họp, nếu
không thì không kịp trước tình hình chung”.
▪ Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương chính
thức khai mạc tại Tân Trào (Tuyên Quang). Tham dự Hội nghị có đủ đại biểu
các Đảng bộ Bắc, Trung, Nam và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.
- Nội dung:
+ Ngày 14-15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, do lãnh tụ
Hồ Chí Minh và Tổng Bí Thư Trường Chinh chủ trì.
+ Hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính
quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. (do
điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi: quân Nhật tan rã, mất tinh thần; bọn Việt
gian thân Nhật hoảng sợ; toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa, giành
quyền độc lập).
+ Khẩu hiệu đấu tranh:
“Phản đối xâm lược!”
“Hoàn toàn độc lập!”
“Chính quyền nhân dân!”.
+ Ba nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo khởi nghĩa:
Tập trung-tập trung lực lượng vào những việc chính.
Thống nhất-thống nhất về mọi phương diện quân sự chính trị, hành động và
chỉ huy.
Kịp thời-kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.
+ Phương hướng hành động trong Tổng khởi nghĩa:
Phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông
thôn;
Quân sự và chính trị phải phối hợp;
Phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh;
Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng Minh
vào, thành lập những Ủy ban Nhân dân ở những nơi ta đã giành được quyền
làm chủ.
- Ý nghĩa:

+ Hội nghị toàn quốc của Đảng đã đề ra những chính sách và đường lối hiệu quả.

+ Là tiền đề cho cuộc họp toàn dân diễn ra ở Tân Trào.

+ Tạo bàn đạp vững chắc để củng cố tinh thần dân quân tự vệ.

+ Giúp cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám diễn ra thành công tốt đẹp

Làm rõ sự linh hoạt của Đảng về chớp thời cơ để giành thắng lợi, trong
CMT8 năm 1945.
Thời cơ ấy là gì?

Thứ nhất, đó là bắt đầu từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít
Nhật Bản đã bị thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương
trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng
bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc
kịp thời, đồng chí Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp
ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau
cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.

Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, đang trong lúc Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp để nhận định tình hình, phân công nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa vụ trang,
thì tiếp tục nhận được thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận
và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Điều đó khiến cho quân Nhật ở Đông
Dương hoang mang cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra
hoàn toàn tê liệt. Đến đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn
có khả năng thống trị như cũ được nữa, thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta
giành chính quyền đã xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải hành động mau lẹ và kiên
quyết. Nếu không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn
năm” cũng không thể được bởi lúc này quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy
vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu
mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa đồng minh.
Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi
nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1”. Đến 23 giờ đêm cùng
ngày, bản “Quân lệnh số 1” hoàn thành và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi
nghĩa trên toàn quốc.

Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố
Hirôsima của Nhật Bản, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị họp Hội nghị toàn quốc
của Đảng tại Tân Trào. Hội nghị đã nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền
độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần
tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể
để lỡ cơ hội”.

Và chỉ từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức,
phương pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tuyên truyền
kết hợp với bạo lực cách mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi
nghĩa đã giành thắng lợi một cách nhanh, gọn, không đổ nhiều máu và thành công
triệt để.

3. Một số kinh nghiệm về lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
● Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về vấn đề tập hợp lực lượng toàn dân
tộc trong cuộc đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
2. Chủ trương của Đảng (3)
Chủ tịch HCM và ĐCSVN đã có bước nhận định tình hình: rất chính xác, đúng đắn
so với chiều hướng phát triển của tình hình thế giới và trong nước, từ đó cho phép
chúng ta đề ra chuyển hướng chiến lược phù hợp. Trong đó, Đảng đã quyết định
gác lại nhiệm vụ dân chủ, tập trung vào nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc), giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, trong đó tập trung sâu sắc vào việc tập hợp lực
lượng toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh giành chính quyền.
● Đảng đã xác định đúng tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của cương lĩnh
chính trị đầu tiên 1930. Đảng quyết định tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân
tộc, “ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu
góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”.
● 1936 – 1939: Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra đời, và để thực hiện mục
đích mới: đấu tranh giải phóng dân tộc, mang tính chất hiệu triệu hơn ->
Thành lập mặt trận Việt Minh. Mặt trận VM thành lập để đoàn kết, tập hợp
mọi tầng lớp nhân dân để hoàn thành số 1 của CM VN là đấu tranh giải
phóng dân tộc. Đồng thời cũng thành lập các hội: Nông dân cứu quốc,
Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc…
● Đây là một Chủ trương đúng đắn, thay thế sai lầm trước đây. Tổ chức Mặt
trận trong khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Sự ra đời của mặt trận
Việt Minh đóng góp vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố hàng đấu để quyết
định sự thành công của CM tháng 8. Đây cũng là quan điểm sáng tạo trong
tập hợp lực lượng cách mạng của Người
3. Chỉ đạo của Đảng (3)
● Những hoạt động của các tổ chức cứu quốc cũng như mặt trận Việt Minh
ngày càng sôi nổi và táo bạo, gây tiếng vang rộng rãi trong quần chúng, đưa
khí thế cách mạng Đảng cao; phát triển rộng khắp trên các địa bàn, tạo nên
những chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào cách mạng thời kỳ tiền khởi
nghĩa. Mặt trận Việt Minh chính là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, làm cho
“ý Đảng thấm tới lòng dân”; tạo thời cơ phát động cuộc Tổng khởi nghĩa
trong cả nước. Đảng ta đã xây dựng được một lực lượng chính trị quần
chúng mạnh mẽ, được rèn luyện qua nhiều phong trào cách mạng.
● Sau thắng lợi sẽ thành lập “Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, nhà nước của toàn
thể dân tộc
● Coi trọng công tác đào tạo cán bộ, năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng,
đẩy mạnh công tác vận động quần chúng
4. Ý nghĩa thực tiễn
Khi thời cơ lịch sử xuất hiện, Đảng ta đã phát động quần chúng tiến hành cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền. Lực lượng cách mạng tổng hợp - bao gồm lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang, lực lượng lãnh đạo, lực lượng quần chúng đã kết hợp
chặt chẽ với nhau, tạo thành sức mạnh to lớn của khởi nghĩa toàn dân đè bẹp mọi
sự phản kháng của kẻ thù, lật đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến. Chỉ trong
ngày 19/8/1945, chính quyền ở Hà Nội đã hoàn toàn thuộc về tay nhân dân. Và
cũng chỉ trong vòng 2 tuần, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã thắng lợi trọn
vẹn trên phạm vi cả nước. Lịch sử Việt Nam đã sang một trang mới. Đó chính là
minh chứng rõ ràng nhất cho sự đúng đắn, sáng tạo của chủ trương tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân.
5. Vận dụng thực tế
Nhiệm vụ
Bài học kinh nghiệm về tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng và phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ cuộc Cách mạng T8 còn nguyên giá trị
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, đặt ra những yêu cầu mới
cho Đảng và nhà nước
● Thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về công tác vận động quần chúng; nâng cao
nhận thức cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên về yêu cầu, mục đích, ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
● Đề cao trách nhiệm, tổ chức thực hiện nghiêm túc; không ngừng đổi mới, tự
chỉnh đốn
● Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục những
biểu hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu xa rời quần chúng nhân dân.
● Cán bộ, Đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, giữ
vững tính tiền phong, gương mẫu, gắn bó mật thiết với quần chúng, luôn
luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, phấn đấu
vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
● Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, lấy đoàn kết trong Đảng
làm cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
● Kiên định đường lối đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập
quốc tế; chăm lo lợi ích thiết thực, chính Đảng, hợp pháp của các giai cấp,
các tầng lớp nhân dân; nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng
xa; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn phát sinh.
● Chủ trương của Đảng về chớp thời cơ trong cách mạng T8/1945
Bài học quý giá về chớp thời cơ, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Cách mạng Tháng Tám đã chọn đúng thời cơ lịch sử để phát động tổng khởi nghĩa,
làm cho sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, giành thắng lợi triệt để
một cách nhanh, gọn, ít đổ máu.
Đảng chuyển hướng, chủ trương giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo
vào Đông Dương vì:
● Thời cơ quá chín muồi, thuận lợi, không cần sự giúp đỡ của quân Đồng
minh mà vẫn có thể giành chính quyền.
● Cần nhanh chóng giành chính quyền vì nếu ta chậm, chính quyền sẽ thuộc
về quân đông minh, ta vĩnh viễn không thể có được chính quyền, không có
chỗ dựa đấu tranh để chống lại lực lượng quân đồng minh, cụ thể là Pháp.
Khoảng thời gian 8-1945 đó xuất hiện khoảng trống quyền lực, xuất hiện
cuộc chạy đua nước rút giữa ta và quân ĐM chiếm chính quyền.
● Nếu để quân ĐM vào khi ta chưa có chính quyền, họ sẽ lấy cớ ở lại lâu trên
đất nước ta, giải phóng nước ta, đẩy ta vào tình thế phải đối mặt với nhiều kẻ
thù cùng 1 lúc.
Ngày nay, bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặt dân
tộc ta trước hàng loạt thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức. Vận dụng
sáng tạo bài học chớp thời cơ trong bối cảnh mới hiện nay đòi hỏi Đảng phải nâng
cao năng lực phân tích thực tiễn sâu sắc, tầm nhìn xa trông rộng, trên cơ sở thấm
nhuần và vận dụng một cách xuất sắc lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều
kiện lịch sử cụ thể, nhận diện và nắm bắt đúng thời cơ để đưa ra các quyết sách có
lợi cho cách mạng, cho đất nước.
Trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, trên cơ sở giữ vững quyền độc lập và
tự chủ, giữ gìn môi trường hòa bình và với nguyên tắc bình Đảng, cùng có lợi, Việt
Nam phải tạo ra được một năng lực nội sinh làm nền tảng cho sự phát triển bền
vững. Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy
trì tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; tập trung giải quyết những vấn đề dân
sinh bức xúc, bảo đảm an sinh xã hội và những yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển kinh tế thị trường; tăng cường quốc phòng an ninh; thực hiện có
hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa Đảng hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế vì hòa bình, hợp tác, phát triển; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc. Vận hội mới, điều
kiện mới càng thấy rõ yêu cầu nâng cao tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cơ của
người tổ chức, lãnh đạo cách mạng- Đảng Cộng sản Việt Nam.
● Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Lợi dụng mâu thuẫn và hòa hoãn: là yêu cầu tất yếu, là nghệ thuật chỉ đạo
cách mạng sáng suốt của Đảng
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù vừa là yêu cầu khách quan, vừa là một
nghệ thuật chỉ đạo cách mạng. Ở Việt Nam, suốt thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền, những năm 1930-1945, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phân tích đúng các
kẻ thù, trong từng giai đoạn, thời điểm; phát hiện và kịp thời lợi dụng, khoét sâu
mâu thuẫn giữa chúng và trong nội bộ chúng; do đó, làm phân hoá, giảm sức
mạnh, tiến tới làm suy yếu kẻ thù; tạo điều kiện thay đổi so sánh lực lượng có lợi
cho sự phát triển của cách mạng.
2. Cơ sở thực tiễn:
Giai đoạn 1936-1939
● Trước sự biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới và trong nước, nhất là sự
xuất hiện của chủ nghĩa phát-xít và nguy cơ Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
Đảng ta đã phân tích, chỉ rõ mâu thuẫn trong hàng ngũ bọn thống trị Pháp ở
Đông Dương là giữa phái Cộng hòa dân chủ với phái phát-xít.
● Từ đó, Đảng chủ trương hướng vào thực hiện mục tiêu trực tiếp, trước mắt là
chống chế độ phản động thuộc địa, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh đòi tự do,
dân sinh, dân chủ, hòa bình; tập trung mũi vào kẻ thù chủ yếu là bọn phản
động thuộc địa và bọn tay sai bán nước. Chủ trương này đã tạo được sự
hưởng ứng tích cực của đông đảo các thành phần, thu hút cả những người
thuộc tầng lớp trên, như: người Pháp dân chủ, địa chủ vừa và nhỏ,… tạo sức
mạnh to lớn, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp.
Giai đoạn 1939-1945
● Ta đã phân tích mâu thuẫn giữa quân đồng minh và phe phát xít (ngay trong
nội bộ của chính quyền Trần Trọng Kim), cụ thể là giữa phát-xít Nhật với
thực dân Pháp ở Đông Dương và đi đến nhận định: mâu thuẫn giữa chúng
lúc này cũng giống như hai con thú Đảng tranh nhau một miếng mồi, cùng
giành giật, cắn xé lẫn nhau và kết cục sẽ tự suy yếu.
● Từ nhận định và phân tích kẻ thù đó, Chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta đã ra đời, chỉ rõ kẻ thù chính và mục tiêu CM của từng
giai đoạn. Giai đoạn 1939-1940: tập trung chống Pháp, 1940-1945: chống
Nhật-Pháp và tay sai. Sau khi Nhật tiến hành đảo chính, lật đổ chính quyền
cai trị của Pháp ở Đông Dương (9-3-1945), Đảng ta xác định kẻ thù chính
của nhân dân Đông Dương là phát-xít Nhật và tay sai. Vì vậy, Đảng đã quyết
định thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu
“Đánh đuổi phát xít Nhật”.
> Như vậy, có thể thấy được sự sắc bén, nhanh nhạy, vận dụng sáng tạo từng
hoàn cảnh cụ thể, biến bất lợi thành có lợi, lợi dụng sự mâu thuẫn phân hoá
của kẻ thù mà Đảng ta đã giữ vững chính quyền cách mạng trong bối cảnh
hết sức khó khăn. Trong bối cảnh ấy bản lĩnh tư duy chính trị của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại càng được khẳng định.
CHƯƠNG 2:
1. Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau Cách mạng tháng Tám 1945.

Thuận lợi Khó khăn

Thế giới Sau WW2, cục diện khu vực và - Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi
thế giới có sự thay đổi có lợi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ
cho Cách mạng Việt Nam thống thuộc địa thế giới”, ra sức
tấn công đàn áp phong trào cách
- Liên Xô trở thành thành trì
mạng thế giới, trong đó có cách
của chủ nghĩa xã hội. Nhiều
mạng Việt Nam.
nước ở Đông Trung Âu, được
sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên - Các nước đế quốc với danh
Xô đã chọn con đường phát nghĩa quân Đồng Minh ồ ạt tiến
triển theo CNXH. vào nước ta giải giáp quân Nhật.
- Phong trào giải phóng dân tộc - Nền độc lập và địa vị pháp lý
ở các lục địa Á, Phi, Mỹ-La của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
tinh dâng cao. Công hòa chưa được các nước
lớn công nhận.
- Phong trào hòa bình dân chủ ở
các nước Tư bản.

Trong nước - Cách mạng tháng 8 thành - Về quân sự: nhiều kẻ thù, 5 lực
công, Việt Nam trở thành quốc lượng chiếm đóng, gồm:
gia độc lập, tự do
• 20 vạn quân Tưởng ở miền Bắc
- Nhân dân VN từ thân phận nô
• Hơn 1 vạn quân Anh ở miền
lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân
Nam
của chế độ dân chủ mới
• Hơn 10 vạn quân Pháp quay lại
- ĐCS trở thành Đảng cầm
xâm lược lần 2
quyền lãnh đạo CM trong cả
nước • 6 vạn quân Nhật chờ cướp vũ
khí
- Việc hình thành hệ thống
chính quyền CM với bộ máy • Nội phản (tay sai của Tưởng)
thống nhất từ cấp TW đến cơ và giật dây từ Mỹ.
sở, ra sức phục vụ lợi ích của - Về chính trị: hệ thống chính
Tổ quốc, nhân dân quyền non trẻ, thiếu thốn, yếu
kém về nhiều mặt.
- Chủ tịch HCM có được sự uy - Về kinh tế: nền kinh tế xơ xác,
tín tuyệt đối, trở thành biểu đìu hiu, tiêu điều, công nghiệp
tượng của nền độc lập, tự do, là
đình trệ, nông nghiệp bị hoang
trung tâm của khối đại đoàn kếthóa, ngân khố kiệt quệ, kho bạc
dân tộc VN trống rỗng. Thiên tai hạn hán, lũ
lụt hoành hành làm 9 tỉnh miền
- Quân đội quốc gia và lực
Bắc mất mùa, hơn 2 triệu đồng
lượng Công an; luật pháp của
bào chết đói, các xí nghiệp nằm
chính quyền CM được khẩn
trong tay tư bản Pháp
trương xây dựng và phát huy
vai trò đvs cuộc đấu tranh - Về văn hoá – xã hội: giặc đói,
chống thù trong giặc ngoài, XD giặc dốt (khoảng 90% dân số
chế độ mới không biết chữ) hoành hành,
cùng với đó là các hủ tục, thói
hư, tật xấu, tệ nạn xã hội là tàn
dư văn hoá lạc hậu của chế độ
thực dân và phong kiến chưa
được khắc phục.
→ Tình hình đó đã đặt nền độc
lập và chính quyền cách mạng
non trẻ của VN trước tình thế
“như ngàn cân treo sợi tóc”,
thù trong giặc ngoài

2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng, bảo vệ chính quyền
cách mạng (1945-1946). Ý nghĩa của những chủ trương đó?
Chủ trương của Đảng về xây dựng, bảo về chính quyền Cách mạng:
● Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt là: diệt giặc đói,
diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
● Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt
Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết,
Tổ quốc trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
● Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông
Dương và chỉ rõ “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, phải “lập Mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm
thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt – Miên – Lào.
● Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách
cần khẩn trương thực hiện là: “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”
● Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa
– Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính trị,
nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
Sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng, bảo vệ chính quyền Cách mạng:
● 3/9/1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt là: diệt giặc đói, diệt giăc
dốt và diệt giặc ngoại xâm.
● Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc xác định rõ: “Kẻ thù chính của ta lúc này là TDP
xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”
● Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói là một nhiệm vụ lớn, quan trọng và cấp bách lúc
bấy giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên
mọi tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào lớn, các cuộc vận động như: tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với khẩu hiệu “tăng gia sản xuất ngay, tăng gia
sản xuất nữa”; lập hũ gạo tiết kiệm, tổ chức Tuần lễ vàng, gây Quỹ độc lập, ….
Chính phủ cũng bãi bỏ nhiều thứ thuế vô lý, thực hiện chính sách giảm tô (25%).
Việc sửa chữa đê điều được khuyến khích, tổ chức khuyến nông, tịch thu đất của
đế quốc, Việt gian, đất hoang hóa chia cho dân nghèo. Đến đầu năm 1946, nạn
đói ở Việt Nam cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân được ổn định.
● Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “Bình dân học vụ”, toàn dân học
chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động người dân đẩy lùi các tệ
nạn, hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ. Nhiều trường cấp tiểu học trở
lên được thành lập. Đến cuối năm 1946, hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết
viết Quốc ngữ.
● Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng: Để khẳng định địa vị
pháp lý của nhà nước Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương
sớm tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu để
bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức.
Ngày 6/1/1946, cả nước tham gia cuộc bầu cử và có hơn 89% số cử tri đã đi bỏ
phiếu dân chủ lần đầu tiên với tinh thần “mỗi lá phiếu là một viên đạn bắn vào
quân thù”, làm thất bại âm mưu chia rẽ, lật đổ của các kẻ thù.
Bầu cử thành công đã bầu ra 333 đại biểu Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn
Hà Nội vào ngày 2/3/1946 và lập ra Chính phủ chính thức với 10 bộ và kiện toàn
nhân sự bộ máy Chính phủ do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Các địa phương cũng
đã bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn Ủy ban hành chính các cấp.
Tại kỳ họp thứ 2 (9/11/1946), Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ý nghĩa:
Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác định
đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Đã chỉ ra kịp
thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai
nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là
xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ
thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống giặc ngoài, bảo vệ
chính quyền cách mạng.
3. Nội dung, ý nghĩa HNTW 15 (1/1959).
Hoàn cảnh lịch sử:
Sau hội nghị Giơ-ne-vơ, CMVN vừa có những thuận lợi vừa có những khó khăn:
Thuận lợi:
● Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là Liên
Xô. CMVN nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các nước XHCN.
● Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới phát triển mạnh mẽ.
● Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước TBCN.
Khó khăn:
● Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế cũng như quân sự mạnh mẽ thực hiện chiến
lược toàn cầu phản CM.
● Đất nước ta bị chia làm 2 miền Nam Bắc: miền Bắc nghèo nàn lạc hậu, miền
Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ (Mỹ dựng lên chính quyền ngụy
quân, ngụy quyền ở đây).
● Thực hiện chính sách Tố cộng diệt công với phương châm Giết nhầm còn
hơn bỏ sót
=>Vì vậy phong trào CM miền Nam chịu những tổn thất hết sức nặng nề.
Về phía ta, Đảng kiên trì lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị. Tuy nhiên trước
những đòi hỏi của phong trào CM miền Nam, Đảng ta đã từng bước tìm tòi để
xây dựng đường lối CM ở miền Nam và được đánh dấu bằng nghị quyết hội
nghị TW lần 15 1/1959.
Nội dung:
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã xác định rõ:
● Về mâu thuẫn xã hội: Trên cơ sở phân tích đặc điểm, tình hình CM ở miền
Nam, có 2 mâu thuẫn cơ bản:
+ Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ - tay sai Ngô Đình
Diệm;
+ Mâu thuẫn giữa nhân dân (trước hết là nông dân với địa chủ PK)
● Về lực lượng tham gia CM: Gồm giai cấp nông dân, công nhân, tư sản dân
tộc và tiểu tư sản; Lấy liên minh công nông làm cơ sở
● Về đối tượng của CM: Đế quốc Mỹ; Tư sản mại bản; Địa chủ PK; Tay sai
● Nhiệm vụ cơ bản: của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp
phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh.
● Nhiệm vụ trước mắt: là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế
quốc xâm lược và gây chiến, đánh đổ chế độ độc tài thân Mỹ Ngô Đình
Diệm; thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam;
thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của
nhân dân, giữ vững hoà bình; thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc
lập và dân chủ, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
● Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam: là khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với
lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thiết
lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
● Về khả năng phát triển của tình hình sau những cuộc KN của quần chúng,
Hội nghị dự kiến: Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên cuộc KN của
ND miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang
thường kỳ -> Nghị quyết 15 được khái quát lên tinh thần Đảng cho đánh
rồi.
Ý nghĩa:
● Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khoá II (tháng
1-1959) có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của cách mạng miền
Nam.. Nó phản ánh đúng và giải quyết kịp thời yêu cầu của cách mạng miền
Nam trong việc khẳng định phương pháp đấu tranh dùng bạo lực cách mạng
để tự giải phóng mình là đúng đắn, phù hợp với tình thế cách mạng đã chín
muồi.
● Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng, thể hiện sâu sắc tinh thần
độc lập tự chủ, năng động sáng tạo trong đánh giá so sánh lực lượng giữa ta
và địch, trong vận dụng lý luận Mác - Lênin vào cách mạng miền Nam.
● Nghị quyết đã xoay chuyển tình thế, đáp ứng nhu cầu bức xúc của quần
chúng, dẫn đến cao trào Đồng Khởi oanh liệt của miền Nam năm 1960, mở
đường cho CM miền Nam vượt qua thử thách để tiến lên.
Nói “Nghị quyết 15 sáng soi con đường phát triển của cách mạng Việt Nam” vì:
● Nghị quyết đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta, thể hiện tinh thần độc
lập tự chủ, năng động, sáng tạo trong đánh giá, so sánh lực lượng, trong vận
dụng lý luận Mac Lenin và CM miền Nam, góp phần quan trọng vào quá
trình hình thành chiến lược chung cho cách mạng cả nước
● Nghị quyết 15 ra đời đã đáp ứng đúng đòi hỏi của tình hình và nguyện vọng
của đông đảo cán bộ, Đảng viên, nhân dân, giải quyết kịp thời yêu cầu phát
triển đi lên của cách mạng Miền Nam khi tình thế đã đầy đủ và chín muồi là
phải dùng bạo lực cách mạng, phải chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang,
để đưa phong trào vượt thoát khỏi tình thế hiểm nghèo. Ðây là một văn kiện
có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự chuyển⁹ biến về tư tưởng chỉ đạo đấu tranh
cách mạng ở cấp lãnh đạo cao nhất, sự chuyển hướng mạnh mẽ về hình thức
và phương pháp đấu tranh.
● Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi cho cao trào Ðồng khởi trên quy
mô lớn tại các địa phương ở Nam Bộ và Khu 5. Trước khi có Nghị quyết 15,
các cuộc đấu tranh có tính chất vũ trang tự vệ của quần chúng cách mạng,
yêu nước chỉ diễn ra lẻ tẻ, tự phát ở một vài địa phương. Từ giữa năm 1959
trở đi đã có hàng loạt cuộc đấu tranh mang tính bạo lực của quần chúng nổ
ra ở các địa phương, như Minh Thạnh (Tây Ninh); Dầu Tiếng (Thủ Dầu
Một); Trà Bồng (Quảng Ngãi)... Ðiều đó báo hiệu một giai đoạn đấu tranh
mới Đảng hình thành. Quá trình khởi nghĩa từng phần ở Miền Nam đã bắt
đầu. Như thế, ý nghĩa, tác động của Nghị quyết 15 là trực tiếp, nhanh chóng
và rõ rệt, mở ra hướng đi mới cho phong trào đấu tranh ở Miền Nam.
● Ngay sau khi có văn bản Nghị quyết 15, Xứ ủy Nam Bộ họp (11-1959), nhận
định: tuy địch có gây cho ta nhiều khó khăn nhưng xét về căn bản và toàn
cục thì ta đã giành được thế chủ động; cơ sở Ðảng vẫn được giữ vững,
phong trào quần chúng phát triển cao hơn so với năm 1958; hoạt động vũ
trang tuyên truyền phát huy tác động hỗ trợ cho đấu tranh chính trị.
● Nghị quyết 15 ra đời là vô cùng cần thiết, như ngọn đuốc soi sáng con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam. Nghị quyết 15 và
tiếp đó là Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng toàn quốc lần thứ 3 (9-1960), đã
hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam ở Miền Nam. Với đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn, Ðảng ta đã chỉ đạo nhân dân Miền Nam
đứng lên tiến hành cuộc Ðồng khởi vĩ đại, đánh một đòn chí tử vào hình
thức thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, tạo ra một bước ngoặt đi lên
cho cách mạng Miền Nam, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh,
chuyển sang tiến hành "chiến tranh đặc biệt" với sự dính líu và sa lầy ngày
càng tăng ở Việt Nam.
● Nghị quyết 15 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ đấu tranh
cách mạng giải phóng Miền Nam, đánh đổ sự thống trị của Mỹ-Diệm, với
nhiệm vụ xây dựng, củng cố bảo vệ Miền Bắc, hậu phương lớn và trực tiếp
của cách mạng Miền Nam. Ðồng thời, Nghị quyết 15 cũng góp phần xác
định và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và phong trào
cách mạng, đấu tranh bảo vệ hòa bình, giải phóng dân tộc trên thế giới. tiến
lên.
4. Nội dung, ý nghĩa HNTW12 (12/1965).
Hoàn cảnh lịch sử:
- Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ
của chủ nghĩa thực dân mới, ngăn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, chính
phủ Mỹ quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở MN.
- Ngày 8-3-1965 quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, đồng thời mở rộng chiến tranh
bằng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc VN nhằm làm suy yếu và ngăn
sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
- Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước thách
thức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 12 (12/1965) của Ban
chấp hành Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước trên phạm vi toàn quốc
Nội dung:
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế
thừa và phát triển đường lối chiến lược chung do Đại hội lần thứ III(1960) đề ra,
gồm các nội dung lớn:
- Quyết tâm chiến lược: Trung ương Đảng nhận định mặc dù Mỹ đưa vào miền
Nam hàng chục vạn quân, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch không thay
đổi lớn, nhân dân ta đã có cơ sở vững chắc để giữ vững thế chủ động trên chiến
trường. “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ được đề ra trong thế thất bại và bị động,
nên nó chứa đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể cứu vãn được tình thế
nguy khốn bế tắc của chúng ở miền Nam. Do đó, Trung ương khẳng định Việt
Nam có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh thắng Mỹ.
- Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến
tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
- Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh
càng mạnh; cần phải cố gắng mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền
để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định
trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên
quyết tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp
đấu tranh quân sự với chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch
trên cả ba vùng chiến lược. Trong đó, nhấn mạnh đấu tranh quân sự có tác dụng
quyết định trực tiếp, quan trọng.
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm
tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều
kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại của Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN, động viên sức người sức
của ở mức cao nhất để chi viện cho miền Nam, đồng thời tích cực đề phòng
trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.
- Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng hai miền: miền Bắc là hậu phương lớn,
MN là tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến toàn quốc chống Mỹ, nên quan hệ
khăng khít. Bảo vệ MB là nhiệm vụ của cả nước, phải đánh bại cuộc chiến
tranh phá hoại của của Mỹ ở MB, tăng cường lực lượng MB về mọi mặt. Khẩu
hiệu chung của nhân dân ta lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”.
Ý nghĩa:
Nghị quyết Trung ương lần thứ 12 của Đảng năm 1965 thể hiện tư tưởng nắm
vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta.
Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính trong hoàn cảnh mới, là cơ sở để Đảng lãnh đạo kháng chiến chống
Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi.
CHƯƠNG 3
1. Các bước đột phá về kinh tế thực hiện qua hai giai đoạn 1979-1981 và
1982-1986. Đánh giá ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới
Sau năm 1975, đất nước còn vô vàn những khó khăn.
Miền Nam hậu quả của chiến tranh và chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Miền Bắc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bị tàn phá nặng nề trong hai cuộc chiến
tranh phá hoại. Trong khi đó, Mỹ và các thế lực thù địch tăng cường chống phá
cách mạng nước ta.
Do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc chúng ta không còn
con đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi
mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế.

Giai đoạn 1979 – 1981 Giai đoạn 1982 - 1986

- HNTW 6, Khoá 4 (8/1979) được xem 1. Bước đột phá thứ hai: HNTW 8,
là bước đột phá đầu tiên, chủ trương để khoá V (6/1985) chủ trương xoá bỏ cơ
sx “bung ra”, xoá “cấm chợ, ngăn chế tập trung quan liêu, bao cấp; xoá bỏ
sông”. chế độ tem phiếu, điều chỉnh giá lương
tiền lần 2 vào 9/1985
- Quyết định tận dụng đất đai nông
nghiệp để khai hoang, phục hoá được - Điểm quan trọng là Hội nghị này đã
miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng thừa nhận sản xuất hàng hoá và những
toàn bộ sản phẩm quy luật của sản xuất hàng hoá
- Quyết định xoá bỏ những trạm kiểm - Nội dung trên giúp xoá bỏ tình trạng
soát để người sản xuất có quyền tự do Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù
đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị lỗ.
trường, cho phép kinh tế hộ gia đình - Đề cập 3 nội dụng quan trọng của cải
được chăn nuôi các loại gia súc, gia cách: Giá cả, tiền lương, tiền tệ
cầm, từ đó khuyến khích sản xuất phát + Giá cả: Thực hiện cơ chế một giá
triển thống nhất và đánh giá đúng, đủ chi
phí cho giá thành sản phẩm
- Cho phép doanh nghiệp nếu có đủ
+ Tiền lương: Thực hiện trả lương
năng lực thì hợp tác với các doanh
bằng tiền có hàng hoá đảm bảo, Xóa
nghiệp bên ngoài
bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thoát
- Một số địa phương đã tìm tòi cách ly giá trị hàng hoá.
quản lý mới, thực hiện chính sách + Tiền tệ: Đổi mới lưu thông tiền tệ;
khoán sản phẩm đến tay của nhóm và thu hút tiền nhàn rỗi; đẩy nhanh nhịp
người lao động độ quay vòng đồng tiên; chuyển
- Chỉ thị số 100 – CT/TW (1/1981) ngân hàng sang hạch toán kinh
doanh XHCN.
- Q/đ số 25 – CP (1/1981), ban hành
quyền chủ động sản xuất kinh doanh và 2. Bước đột phá thứ ba (kết luận của
quyền tự chủ về tài chính của các xí Bộ Chính trị Khoá V (8/1986) về phát
nghiệp quốc doanh triển nhiều thành phần kinh tế, xoá cơ
chế bao cấp, chuyển sang cơ chế 1 giá.
- Q/đ số 26 – CP (1/1981), mở rộng
hình thức trả lương khoán, lương sản Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
phẩm và vận dụng hình thức tiền
- Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu
thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh
đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt
doanh của Nhà nước
trận hàng đầu; ra sức phát triển công
=> Tạo nên động lực mới, góp phần nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được
thúc đẩy sx công nghiệp đạt kế hoạch, phát triển có chọn lọc;
riêng công nghiệp địa phương vượt kế - Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác
hoạch 7,5% định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
là một đặc trưng của thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta;
- Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế
hoạch làm trung tâm, nhưng đồng
thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng
hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp; chính
sách giá phải vận dụng quy luật giá
trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới
tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi
mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.

Ý nghĩa:
=> Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những
nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần
thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi
ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi
mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản
và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước
phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực
kinh tế. Những quan điểm mới được trình bày trong bản kết luận đã định hướng
cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng, thay cho bản Dự thảo Báo cáo chính trị được chuẩn bị trước
đó vẫn còn giữ lại nhiều quan điểm cũ không phù hợp với yêu cầu trước mắt là
khắc phục cho được khủng hoảng kinh tế - xã hội

Ứng dụng hiện nay


Từ năm 1986 đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới đã đáp ứng được đòi
hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.
Những thắng lợi bước đầu đó được Đảng ta từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa
đường lối đổi mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng
qua các kỳ Đại hội.
Nền kinh tế nước ta trong gần 35 năm trở lại đây đã đạt được nhiều thành tựu rất
lớn (1986-2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy có sự dao động nhất định,
song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế giới với mức tăng bình quân cả
thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 1986-1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế
nước ta chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến giai đoạn 1991-1995 là 8,2%/năm; giai đoạn
1996-2000 là 7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005 là 7,34%; giai đoạn 2006-2010 là
6,32%/năm; năm 2016 là 6,21% và năm 2017 là 6,81% , năm 2018 là 7,08%, năm
2019 tốc độ tăng trưởng 7,02%. Đặc biệt là quy mô GDP năm 2019 đạt kỷ lục từ
trước tới nay là 266,5 tỷ USD. Thu nhập (GDP) bình quân đầu người 2800 USD,
bội chi ngân sách ở mức 3,4% GDP, thấp hơn mức kế hoạch (3,6%).

2. Đại hội VI (12/1986)


● Bối cảnh lịch sử: (6)
- Cách mạng KH-KT phát triển mạnh mẽ: xu thế đối thoại trên thế giới đang
dần thay thế xu thế đối đầu
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa khủng hoảng -> tiến hành cải tổ
- VN bị bao vây, cô lập và cấm vận Kinh tế
- Khủng hoảng KT - XH trầm trọng: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng
đều khan hiếm; lạm phát tăng
- Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, niềm tin của quần chúng suy
giảm: vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến
- Đổi mới trở thành xu thế thời đại và đòi hỏi bức thiết của đất nước
Một số bài học kinh nghiệm được ĐH VI tổng kết.
● 4 bài học về xây dựng CNXH những năm 1975 – 1986
- Kết hợp sức mạnh DT vs sức mạnh thời đại.
Quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN thời kỳ mới: coi “phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố
quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan
trọng” Ta quán triệt sức mạnh dân tộc là chính, chỉ khi nào có nguồn lực trong
nước mạnh mới tranh thủ dc tốt nguồn lực bên ngoài nếu k sẽ lệ thuộc trên các lĩnh
vực, phải có sự phối hợp nhịp nhàng hiệu quả.
- Xuất phát từ thực tế.
Việt Nam đi lên XD XHCN từ 1 đất nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém
phát triển, lại chưa từng trải qua thời kỳ công nghiệp hoá bắt đầu từ nông nghiệp
nên phải ưu tiên phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ chứ không thể ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng giống Liên Xô được
- Lấy dân làm gốc.
“Nước lấy dân làm gốc” vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là bí quyết thắng lợi
của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Dựa vào dân,
tin vào lực lượng, trí tuệ của Nhân dân, chăm lo cho cuộc sống vật chất, tinh thần
của Nhân dân là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhân dân. Đó cũng chính là nền tảng của công cuộc đổi mới và phát triển
mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo Nhân dân thực hiện.
- Chăm lo XD Đảng.
Đảng có mạnh thì CM mới thành công.
Chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố,
tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các
nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ
Nội dung đổi mới về kinh tế được nêu tại ĐH VI và ý nghĩa.
Đại hội VI đánh dấu sự đổi mới toàn diện đất nước mà trọng tâm là đổi mới trên
lĩnh vực kinh tế
- Đổi mới kinh tế: Mục tiêu là ổn định kinh tế - xã hội. Sản xuất đủ tiêu dùng và
có tích luỹ.
Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế
1. Bố trí lại cơ cấu sản - Nhận thức và vận động đúng quy luật quan hệ sản
xuất xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất.
- Tập trung vào nông nghiệp với Ba chương trình:
Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Đây chính là bước đi của quá trình thực hiện
CNH (nông nghiệp – CN nhẹ - CN nặng)
=> Có 1 bước đi phát triển tuần tự đối với quá trình
thực hiện này

2. Điều chỉnh cơ cấu Xác định ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều
đầu tư thành phần.
Thay vì ưu tiên phát triển CN nặng thì bây giờ coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu

3. Nhiều thành phần Chấp nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế bên
kinh tế cạnh 2 thành phần kinh tế cơ bản là Kinh tế nhà nước và
Kinh tế tập thể:
• Kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể)
• Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá
• Kinh tế tư bản tư sản
• Kinh tế tư bản nhà nước
• Kinh tế tự nhiên tự túc, tự cấp

4. Đổi mới cơ chế - Hoàn toàn xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá
quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần
- Đổi mới kế hoạch hoá, kết hợp kế hoạch hoá với thị
trường
- Thực chất của cơ chế mới về quản lí kinh tế là cơ chế
kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ

5. Mở rộng hoạt động - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
kinh tế đối ngoại
- Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc
công bố chính sách khuyến khích đầu tư với nhiều hình
thức, nhất là những ngành đòi hỏi kĩ thuật cao và làm
hàng xuất khẩu.
- Tạo điều kiện cho người nước ngoài và Việt kiều về
nước đầu tư, hợp tác kinh doanh.

Ý nghĩa
- Đường lối đổi mới có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong quá
trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Nhìn thẳng, nói rõ, nói đúng sự thật, phân tích đúng nguyên nhân khủng hoảng
kinh tế - xã hội.
- Tìm ra con đường đưa Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
bằng việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm
ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Tạo bước ngoặt vĩ đại cho cách mạng Việt Nam, từ đây nhân dân ta bước vào
thời kỳ mới
- Đường lối đổi mới là kết tinh trí tuệ và tư duy khoa học của toàn Đảng, toàn dân,
thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng.
- Hạn chế được những khó khăn trong khâu phân phối lưu thông hàng hoá

Trình bày bài học kinh nghiệm được đại hội 6 (1986) của Đảng tổng kết: ”Phải
biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.”
Theo anh chị, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam cần có giải pháp gì để tận
dụng sức mạnh của thời đại
a. Cơ sở lý luận
Định nghĩa
● Sức mạnh dân tộc: nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền
thống (lịch sử, văn hoá), tiềm lực kinh tế, an ninh quốc phòng
● Sức mạnh thời đại: yếu tố thuận lợi của thời đại (KH-CN, xu thế toàn cầu
hóa…)
● Quan điểm cơ bản chỉ đạo của Đảng ta xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ mới: coi “phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc
là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là
yếu tố quan trọng” Ta quán triệt sức mạnh dân tộc là chính, chỉ khi nào có
nguồn lực trong nước mạnh mới tranh thủ dc tốt nguồn lực bên ngoài nếu k
sẽ lệ thuộc trên các lĩnh vực, khi sức mạnh nội lực tốt với tận dụng nguồn
lực bên ngoài, nhưng không thể phủ định nguồn lực bên ngoài, phải có sự
phối hợp nhịp nhàng hiệu quả.
b. Thực tiễn
● Hơn 80 năm qua, nhất là trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên sức mạnh
đoàn kết to lớn của dân tộc, của tất cả những người Việt Nam yêu nước, yêu
độc lập, tự do, không phân biệt trai gái, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, dân
tộc..., dựa trên nền tảng vững chắc là liên minh công nhân với nông dân và
trí thức, dưới chế độ dân chủ nhân dân và XHCN, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Mặt khác, do mục tiêu cách mạng, mục đích chính trị của cuộc chiến
tranh yêu nước, chính nghĩa của dân tộc ta phù hợp với khát vọng chung,
mục tiêu chung của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội; cùng với chiến lược đối ngoại đúng đắn của Đảng và nghệ thuật đấu
tranh ngoại giao tài tình, khôn khéo, sáng tạo, chúng ta đã phát huy cao độ
yếu tố quốc tế, yếu tố thời đại thành sức mạnh hiện thực, nên cuộc kháng
chiến của nhân dân ta ngày càng được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn,
chí tình cả về vật chất và tinh thần của các nước XHCN và lực lượng cách
mạng, tiến bộ trên thế giới.
● Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức tăng
cường đoàn kết quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối
chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành
một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về
thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Trong
đó, các nước XHCN và phong trào cộng sản quốc tế là nòng cốt, đặc biệt sự
giúp đỡ to lớn có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc, tạo ra một tập hợp lực
lượng mạnh mẽ bao vây cô lập và tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chủ trương nay vẫn còn nhiều hạn chế
● Sức mạnh dân tộc: Thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên vẫn
chỉ biết vun vén, thậm chí vơ vét cho bản thân mà thờ ơ, vô cảm trước dân.
Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế, căn bệnh độc
đoán, chuyên quyền, dân chủ hình thức còn ở đâu đó… làm ảnh hưởng tới
lòng tin của dân vào Đảng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tập hợp sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho nguồn nội lực chưa được phát huy
tốt
● Sức mạnh thời đại là xu thế hòa dịu thế giới, CM khoa học kỹ thuật, chúng
ta chưa tận dụng tốt, chưa tháo gỡ được nghi kị mặc cảm của các nước đối
với nước ta
c. Vận dụng hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải không ngừng khai thác và phát huy cao
nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế, trên cơ sở kiên định ý chí độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh
nội lực, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ ngoại lực, khai thác tối đa
sức mạnh của thời đại.
● Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực có những biến đổi to lớn và sâu sắc, với
nhiều sự cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Khu vực Đông Nam
Á tiếp tục phát triển năng động, nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất
ổn định, nhất là các hoạt động khủng bố, xung đột tôn giáo, tranh chấp tài
nguyên, lãnh thổ, biển, đảo… đòi hỏi phải có sự hợp tác giải quyết của các
nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Đối với nước ta, trong xu thế hoà
bình, hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế Đảng diễn ra mạnh mẽ, các mối
quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới cũng cần mở rộng, phát
triển cao hơn về quy mô, cấp độ và hình thức. Cùng với đó, những thách
thức về an ninh đối với nước ta cũng, phức tạp, nguy hiểm hơn, nhất là việc
giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo và chống lại mưu đồ lợi dụng “mở
cửa” để đẩy mạnh “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch.
Tình hình đó đòi hỏi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới phải có chiến lược, sách lược,
hình thức và phương pháp xử lý đúng đắn, sáng tạo.
● Thường xuyên tuyên tuyền, giáo dục, quán triệt sâu rộng quan điểm này
trong hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Qua đó, làm cho toàn dân
nhận thức sâu sắc rằng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là
tất yếu khách quan; trong đó và trước hết phải giữ vững độc lập, tự chủ, nêu
cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy cao nhất các yếu tố nội lực, dựa vào
nguồn lực trong nước là chính
● Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tranh thủ sự hợp tác, liên kết với các
nước để khai thác nguồn vốn đầu tư, khoa học, kỹ thuật, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với
những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia, dân tộc,
tận dụng tốt thời cơ để đổi mới và phát triển bền vững.
● Trong những năm chiến tranh, chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm quý về tận
dụng và phát huy những thành quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc
phòng, nhất là đào tạo cán bộ, tiếp thu những thành tựu tiên tiến của khoa
học nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự..., Ngày nay, trong điều
kiện và hoàn cảnh mới, hoạt động hợp tác quốc phòng đã có những phát
triển khác trước rất nhiều, nhiều vấn đề mới, phức tạp nảy sinh vượt ra ngoài
khả năng quốc gia, đòi hỏi phải có sự hợp tác giải quyết của các nước trong
khu vực và cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, cần nhận thức đúng về hợp tác quốc
phòng, phát huy sức mạnh thời đại để xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng trong điều kiện mới. Nhưng đều phải quán triệt và phục vụ mục tiêu
chung của cách mạng; đó là, xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.
● Trong mối quan hệ sử dụng sức mạnh nội lực và tranh thủ tối đa ngoại lực
để xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, phải nắm vững
tư tưởng chỉ đạo: tận lực khai thác mọi tiềm năng của đất nước, kinh nghiệm
và truyền thống của dân tộc; giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy ý chí tự lực,
tự cường, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó
Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Đồng thời, tranh thủ tối đa ngoại
lực, sức mạnh của thời đại, trên cơ sở tăng cường và mở rộng quan hệ hợp
tác quốc phòng giữa nước ta với các nước đối tác trên nhiều mặt

Qua hơn 35 năm đổi mới, để phát huy sức mạnh thời đại, Đảng thực hiện đường lối
đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt, nhờ đó đã đạt được những thành tựu đáng kể: “mở
rộng quan hệ về chiều rộng với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; đưa
vào chiều sâu, thực chất, tạo dựng khuôn khổ quan hệ ổn định, bền vững với các
nước, trong đó có 17 đối tác chiến lược, 13 đối tác toàn diện. Việt Nam có quan hệ
thương mại với 224 đối tác, đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), bao
gồm các FTA thế hệ mới, giúp tạo xung lực quan trọng cho phát triển kinh tế, thu
hút đầu tư nước ngoài, tham gia vào quá trình định hình luật chơi và cấu trúc kinh
tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã trở thành trung tâm của mạng lưới các hiệp
định thương mại tự do ở khu vực, cầu nối giữa các nước/khối ngoài khu vực với
ASEAN, tạo ra động lực to lớn cho phát triển của đất nước”(8). Thắng lợi đó đã
nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế như Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã khẳng định “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng:
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay”
Trình bày bài học kinh nghiệm “Lấy dân làm gốc”
a. Cơ sở lý luận
“lấy dân làm gốc”.– coi dân làm cội nguồn, là sức mạnh
● Một là, dân chúng chứa đựng một xung lực mạnh mẽ vô cùng tận, cả tài,
sức, quyền, trí, lòng dân;
Hai là, Nhân dân được hưởng tất cả lợi ích vật chất và tinh thần;
Ba là, dân chúng có trách nhiệm trong cách mạng, kháng chiến, đổi mới, xây
dựng đất nước;
Bốn là, không chỉ nước, mà Đảng cũng phải lấy dân làm gốc, do dân tổ chức
nên.
● Quan điểm Mác-Lênin trong triết học
● Tư tưởng HCM "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"
b. Cơ sở thực tiễn
Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”[5]; “Mọi chủ trương, chính sách
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động,
phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa
rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”[6].
Bởi vì, chính thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong những năm trước đổi mới đã
cho thấy, khi nào chủ trương, chính sách nào phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân,
bảo đảm các quyền và lợi ích của Nhân dân, “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện thành một, thì
chủ trương, chính sách đó được Nhân dân đồng tình ủng hộ, nhanh chóng đi vào cuộc
sống và mang lại hiệu quả; chủ trương, chính sách nào không xuất phát từ nguyện vọng,
quyền và lợi ích của Nhân dân, thì sẽ rất khó đi vào cuộc sống, thậm chí thất bại. Đường
lối đổi mới thông qua tại Đại hội VI được bắt nguồn và hình thành từ chính sáng kiến,
nguyện vọng chính đáng của Nhân dân ở các địa phương, cơ sở là một minh chứng rất
rõ về vai trò của quần chúng nhân dân trong việc hình thành chủ trương, đường lối của
Đảng.

3. Đại hội VII (6/1991)


Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội được thông qua tại ĐH VII (1991). (được xem là cương lĩnh thứ 4)
● Bối cảnh:
- Nước ta bước đầu chuyển biến tích cực, ta bước đầu đạt được thành tựu quan
trọng,
- Với quá trình thực hiện đổi mới đúng hướng, toàn diện đất nước đã tạo nên 1
bước ngoặt vĩ đại cho CM VN, đã hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng XHCN, lạm phát đã dần được đẩy lùi. Tuy vậy sau 4 năm đổi mới
vẫn chưa bước ra khỏi khủng hoảng.
- Đại hội VII của Đảng họp tại HN, được xem là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới,
dân chủ - kỷ cương – đoàn kết”, với điểm nổi bật là thông qua 2 văn kiện
quan trọng, trong đó có Cương lĩnh xây dựng đất trong thời kỳ quá độ lên
CNXH với những nội dung cơ bản sau
● Nội dung cơ bản của Cương lĩnh
- Tổng kết 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng VN.
Cương lĩnh đã chỉ ra những thành công, khuyết điểm, sai lầm trong hơn 60
năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và nêu ra 5 bài học lớn:
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
- Trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở VN là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường mà nhiệm vụ
đầu tiên trong chặng đường xây dựng phát triển kinh tế là lấy nông nghiệp
làm mặt trận hàng đầu
- Khái quát 6 đặc trưng và 7 phương hướng xây dựng CNXH
+ 6 đặc trưng của CNXH:
1. Dân làm chủ
2. Kinh tế phát triển cao
3. Văn hoá tiên tiến
4. Con người được giải phóng
5. Các dân tộc đoàn kết
6. Hữu nghị hợp tác với các nước
+ 7 phương hướng lớn XD CNXH là:
1. Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm.
3. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự
đa dạng về hình thức sở hữu.
4. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
5. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm
cho thế giới quan Mác- Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
6. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc.
7. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, QP-AN, đối ngoại
- Nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của
Đảng. Xây dựng Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
XD Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Đảng lấy chủ nghĩa
Mác -Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
● Chiến lược ổn định và phát triển KT – XH đến năm 2000
+ Mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phảt triển
GDP năm 2000 tăng gấp đôi so với 1990. Xuất phát từ sự thay đổi tư duy đối
ngoại của VN: “Khép lại quá khứ, hướng đến tương lai”
+ Các quan điểm chỉ đạo của Chiến lược: Phát triển KT-XH theo con đường
củng cố ĐLDT và XD CNXH ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn
hoá, có kỷ cương

Tập trung vào 4 lĩnh vực chính:


▪ Đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm
▪ Đổi mới về chính trị, xây dựng Đảng là then chốt
▪ Đổi mới phát triển văn hoá, xã hội, con người
▪ Tăng cường QPAN, mở rộng quan hệ đối ngoại
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.
Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu
và thu nhập hợp pháp.
+ 5 bài học bước đầu đổi mới (1986 – 1991)
=> Cương lĩnh năm 1991 đã:
● Giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
● Đặt nền tảng đoán kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động,
● Tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
* Sự đổi mới, quan tâm trên lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Vai
trò, vị trí của giai cấp nông dân, nông nghiệp và địa bàn nông thôn đvs quá
trình xây dựng, phát triển kinh tế
● Sự đổi mới, quan tâm trên lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Trong 7 phương hướng trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc,
Đảng nêu rõ: phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, trong những năm 1991-1996, Ban Chấp
hành Trung ương đã họp nhiều lần, chỉ đạo tiếp tục đổi mới toàn diện, trong đó nổi
bật trên những lĩnh vực KT chủ yếu.
Để coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và có cách nhìn toàn diện, trên cơ sở
phân tích, đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta qua những năm đầu
đổi mới, Hội nghị Trung ương 5 (6-1993), đưa ra các chính sách đối với nông dân,
nông nghiệp và nông thôn. Trung ương xác định ba mục tiêu chủ yếu là:
- Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú,
lành mạnh có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ
bản của nông dân;
- có hệ thống chính trị vững mạnh;
- phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường đoàn kết và ổn định
chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh.
Điểm mới trong chủ trương này của Đảng là đề ra các quan điểm, nhiệm vụ xây
dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện, khơi dậy mọi tiềm năng, nội lực
của nông dân. Trung ương đã đưa ra quan điểm, những phương hướng, nhiệm vụ
và giải pháp tiếp tục đổi mới, xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn
diện.
● Vai trò, vị trí của giai cấp nông dân, nông nghiệp và địa bàn nông thôn
đvs quá trình xây dựng, phát triển kinh tế
Như vậy, có thể thấy Đảng đã nhận thức đúng về vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt
quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đặc biệt quan tâm lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng, phát huy sức mạnh, vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển
nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước phải gắn liền với sự phát triển khu vực nông thôn và nâng cao trình
độ của người nông dân.
Nông nghiệp, nông thôn, nông dân là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển
nhanh, bền vững kinh tế - xã hội;
Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân là nhiệm vụ trọng
tâm của cả hệ thống chính trị;
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển, mục tiêu cao nhất là lợi
ích của người dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và người dân
nông thôn;
Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, văn minh, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội đồng bộ, kết nối với đô thị, môi trường xanh, sạch, đẹp.

GCND Việt Nam là người trực tiếp sản xuất lương thực, thực phẩm và cung cấp
nhu yếu phẩm cho con người. Là một nước nông nghiệp, đa phần dân số sống ở
nông thôn, vì vậy, GCND Việt Nam gắn bó rất lâu đời với ruộng đồng, lấy nông
nghiệp làm sinh kế ổn định, bền vững nuôi sống bản thân. Cùng với đó, GCND
cung cấp cho thị trường nhu yếu phẩm thiết yếu phục vụ cho nhu cầu đời sống con
người. Trong giai đoạn hiện nay, GCND là lực lượng chủ yếu trong xây dựng nông
thôn mới, phát triển nông nghiệp theo hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập sâu rộng vào
quốc tế.

GCND gắn bó chặt chẽ lâu đời với địa bàn nông thôn, là nơi sáng tạo và lưu giữ,
quảng bá giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc. Việt Nam xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. NND Việt Nam chính là chủ nhân
của các loại hình văn hóa, nghệ thuật dân gian, như: các điệu hò, ví dặm, dân ca,
dân vũ, chèo, cải lương, hát xoan… bắt nguồn từ những hoạt động lao động, sản
xuất, trong quan hệ ứng xử, đời sống sinh hoạt hằng ngày, định hướng, điều chỉnh
suy nghĩ, hành động của con người đúng với chuẩn mực đạo đức, lối sống của xã
hội. Đồng thời, GCND tích cực, chủ động đấu tranh loại bỏ hủ tục lạc hậu, phi văn
hóa, tệ nạn xã hội ra khỏi đời sống; không ngừng quảng bá, giới thiệu giá trị văn
hóa ra bên ngoài thông qua tổ chức lễ hội truyền thống, giới thiệu sản phẩm đặc
sản của địa phương, phát triển kinh tế du lịch gắn với các di sản văn hóa vật thể,
phi vật thể.

"Đóng góp của lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và của nông dân vào thành tựu
chung của đất nước là rất quan trọng và to lớn; khẳng định được vai trò và vị trí,
góp phần làm vững chắc thêm nền tảng cho đất nước phát triển nhanh và bền
vững", Thủ tướng phát biểu.
4. Đại hội VIII (6/1996)
Các quan điểm công nghiệp hoá - hiện đại hoá được nêu tại ĐH VIII (6/1996).
Bối cảnh: (5)
Thế giới
● Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang,
chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
● Cách mạng KH - CN tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng
nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Chủ nghĩa xã
hội hiện thực lâm vào thoái trào.
Trong nước
● Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, QPAN. Đồng thời, thành tựu 10
năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
● Bên cạnh những thành tựu dạt được, nước ta cũng phải đối đầu với nhiều
thách thức như nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế, “diễn biến hoà bình”; tệ quan
liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
=> Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra cho Đảng ta những
nhiệm vụ và bước đi mới.
6 quan điểm CNH-HĐH được nêu tại ĐH VIII (6/1996) <ý 1 và 3>
● Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính
là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
a. Cơ sở lý luận
- Đa phương hóa: là việc thực hiện đối ngoại với nhiều bên cùng một lúc, nói
cách khác là quan hệ đối ngoại có sự thỏa thuận hay tham gia của nhiều
bên.
- Đa dạng hóa: là làm cho hoạt động đối ngoại trở nên đa dạng hơn, quan hệ
trên nhiều mặt, nhiều phương diện về kinh tế chính trịxã hội.
Chủ trương đa phương hóa, đa Đảng hóa trong quan hệ đối ngoại có vai trò rất
quan trọng nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi, thân thiện và mở rộng để đẩy
mạnh kinh tế xã hội, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
- Độc lập, tự chủ là là năng lực của quốc gia giữ vững chủ quyền và sự tự
quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, không bị sự
thống trị, lệ thuộc, chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt, bắt buộc từ các
lực lượng bên ngoài. Trong quan hệ với bên ngoài vẫn luôn giữ vững độc
lập tự chủ, lấy nội lực làm chính đi đôi hợp tác quốc tế.
- Trong thời đại ngày nay, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với
cộng đồng quốc tế. Một quốc gia bảo vệ độc lập, tự chủ của mình bằng cô
lập, tách biệt khỏi cộng đồng quốc tế nhất định sẽ đi đến trì trệ, kém phát
triển, do đó, cuối cùng sẽ nhất định không thể bảo vệ được độc lập, tự chủ
của mình.
- Tư tưởng này đã có từ trong lịch sử. - Sau CM T8/1945, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính và ngoại giao của ta là tự lực
cánh sinh. Từ năm 1950, Hồ Chí Minh nhắc nhở: có sự chi viện của Liên
Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn,
nhưng giành được thắng lợi phải do nỗ lực của chính bản thân ta quyết
định. Khi nước ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ
độc lập, tự chủ vẫn là “cái gốc, điểm mấu chốt” của mọi vấn đề, kết hợp
quan hệ quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ của các nước khác.
- Trong nhiều bài phát biểu, trả lời phỏng vấn sau khi nước Việt Nam giành
được độc lập cũng như trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ
Chí Minh nhiều lần khẳng định, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước dân chủ trên thế giới2
Đó là những yếu tố khởi đầu của chính sách đa phương và đa Đảng hóa quan hệ
quốc tế của Việt Nam**.**
b. Thực tiễn
- Kể từ ĐH VIII 1996, bên cạnh nỗ lực đổi mới trong nước đặc biệt kinh tế,
chúng ta cũng đã cố gắng mở rộng quan hệ bên ngoài bằng rất nhiều biện
pháp như:
- Thiết lập quan hệ đối ngoại rộng mở với 189 quốc gia thành viên của Liên
Hiệp quốc. Chúng ta đã xây dựng được mạng lưới 30 đối tác chiến lược và
đối tác toàn diện, trong đó có tất cả các nước lớn 17/20 nước G20 và toàn
bộ các nước ASEAN.
- Tích cực đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc tham gia các tổ chức
quốc tế như ASEAN, APEC, WTO, AFTA, tham gia Diễn đàn hợp tác Á-
Âu (ASEAM) với tư cách là thành viên sáng lập. ký kết và thực thi nhiều
Hiệp định thương mại tự do FTA, trong đó có những FTA thế hệ mới, tiêu
chuẩn cao, toàn diện, cân bằng lợi ích rất quan trọng cho phát triển như
Hiệp định CPTPP, Hiệp định EFTA; phấn đấu nỗ lực bỏ bao vây cấm vận
VN 1995, kí hiệp định với cộng đồng Châu Âu EU…
- Việt Nam đảm nhiệm tốt nhiều trọng trách quốc tế lớn như Chủ tịch
ASEAN, Ủy viên Thường trực Hội đồng Liên hợp quốc, Chủ tịch Hội đồng
Liên Nghị viện các nước ASEAN (AIPA).
Mặc dù có sự tăng trưởng nhưng về mặt bằng chung, cơ cấu kinh tế và chất lượng
tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện căn bản, hiệu quả đầu tư và XNK chưa cao
như mong muốn… chứng tỏ nỗ lực đó chưa tương xứng với mong muốn, yêu cầu
quá trình phát triển đất nước cũng như công sức của ta. Điều này là do nhiều yếu
tố:
- Chưa thực sự kết hợp mạnh mẽ sức mạnh nội lực + sức mạnh bên ngoài,
đặc biệt là chưa nâng cao được nội lực trong nước. Con người chưa đáp
ứng được các yêu cầu của hội nhập quốc tế (trình độ chuyên môn, ngoại
ngữ, quan hệ ngoại giao…còn yếu kém, chưa ngang tầm).
¬ Những hạn chế của đối ngoại Việt Nam giai đoạn này suy cho cùng đều xuất
phát từ nguyên nhân cơ bản được Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ ra “là bệnh chủ
quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản; nóng vội chạy theo nguyện
vọng chủ quan”.
- Cục diện thế giới và khu vực biến đổi khó lường, khó đoán định, gây không
ít khó khăn cho công tác dự báo chiến lược. Cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn, xung đột cục bộ, các nguy cơ an ninh được dự báo sẽ tiếp tục
diễn ra phức tạp, gay gắt hơn trước. Trong khi đó Kh-KT của VN chưa thực
sự phát triển, khả năng cạnh tranh cả 3 cấp độ của nền kt vs bên ngoài còn
yếu kém, tụt hậu.
c. Hiện nay cần làm gì
● Nâng cao năng lực cạnh tranh
● Đào tạo đội ngữ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập
● Điều chỉnh chính sách luật pháp phù hợp yêu cầu kinh tế thị trường, thông lệ
quốc tế: Tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế
● Chủ động hội nhập quốc tế, nâng tầm, đẩy mạnh đối ngoại đa phương
● Đẩy mạnh quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, đưa Việt Nam
ra thế giới và đưa thế giới đến với Việt Nam bằng nhiều hoạt động đa Đảng.
—-------------------------------------------
Xây dựng nền kinh tế mở ,hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả.
Công nghiệp hóa,hiện đại hóa theo quan điểm trên mới bảo đảm kết hợp tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ vững chắc độc lập tự chủ của đất nước, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại và phù hợp với đặc điểm của thời đại,phù hợp với xu
hướng quốc tế hóa,khu vực hóa kinh tế; khai thác những ưu thế về vốn, công nghệ,
thị trường.. của thế giới và đẩy nhanh sự tăng trưởng của kinh tế và hiện đại hóa
đất nước.
Độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Điều đó thể hiện:
Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với thế giới bên ngoài, không
đứng ngoài hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết,
tự lựa chọn con đường phát triển, tự quyết định mô hình phát triển của quốc gia,
dân tộc.
Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội
nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự quyết định lộ
trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực... hội nhập quốc tế.
Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong lựa chọn, đề xuất các giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu, hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực
trong quá trình hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong
phân tích, xử lý thông tin để có những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước
sự thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực, mới chủ động, tích cực trong
hội nhập quốc tế.
Bốn là, độc lập, tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội to lớn, đồng thời hạn chế
tối đa những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước vừa, nhỏ, Đảng phát
triển như Việt Nam do quá trình toàn cầu hóa gây ra.
Năm là, độc lập, tự chủ sẽ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động phát huy được
lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm từng bước phát
triển.
Hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của
quốc gia, dân tộc. Có thể nhận rõ điều đó như sau:
Một là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững độc
lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa,
quốc phòng, an ninh.
Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để huy động
nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Muốn phát huy
được các nguồn lực bên ngoài thì phải thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế.
Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện thành công công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế sẽ cho chúng ta những cơ hội để rút ngắn quá trình này. Bởi lẽ, hội nhập
kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa sẽ có cơ hội tiếp nhận và ứng dụng nhanh
chóng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để rút ngắn quá trình phát
triển.
Bốn là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, môi trường hòa bình,
ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập,
tự chủ.
Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ, sâu
rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực. Trên
cơ sở đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và giữ vững độc lập, tự chủ.
Sáu là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế còn tạo điều kiện, cơ hội cho chúng ta
xuất khẩu lao động. Khi xuất khẩu được lao động, chúng ta sẽ có cơ hội để nguồn
lao động được tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của những
nước khác; tiếp thu được phong cách làm việc; phương thức tổ chức sản xuất của
các nước. Điều này góp phần trực tiếp vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện đột phá về nhân lực chất lượng cao.
Hơn nữa, xuất khẩu lao động còn tạo thêm công việc cho số lao động có tay nghề.
Điều này góp phần giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, trên cơ sở đó giảm
thiểu tệ nạn xã hội.
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng. Độc lập, tự chủ trong
quan hệ quốc tế và đối ngoại thể hiện trước hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng
tạo, xuất phát từ lợi ích tối cao của đất nước - dân tộc, không giáo điều, rập khuôn,
máy móc trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, trong xác
định đối tác, đối tượng và tập hợp lực lượng quốc tế. Hệ thống các quan hệ đối
ngoại rộng lớn hiện nay của Việt Nam là kết quả của một quá trình thực hiện các
bước đột phá: từ phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hoá quan hệ với các nước
lớn, cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực..., đến thực hiện chính sách đối
ngoại rộng mở, hợp tác bình Đảng cùng có lợi, là bạn với tất cả các nước, tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế.../.

● Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữa vai trò chủ đạo.
● Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.

Vấn đề con người và việc phát huy nhân tố con người được coi là một nhiệm
vụ trọng yếu, một khâu đột phá chiến lược, luôn được Đảng CSVN đề cập
tới trong nhiều kỳ đại hội, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước,
với phương châm đổi mới xuất phát từ con người và vì con người. Con
người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là chủ
thể, vừa là sản phẩm, vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất
nước. Chính vì vậy, Đảng đã khẳng định “Lấy việc phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”
a. Cơ sở lý luận: 5 lý do
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người luôn được
coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, KH &
CN, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước trong đó con
người là yếu tố quyết định. Vì các nguồn lực khác thì sẽ dần cạn kiệt nhưng
nguồn lực con người thì có khả năng tự tái sinh.
Đảng ta chủ trương CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân
lưc, nhất là trí lực (con người) có vai trò, ý nghĩa quyết định.
Xét trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế – xã hội, nguồn lực con
người luôn đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển xã
hội. Vai trò của nguồn lực con người được thể hiện với tư cách vừa là chủ thể,
vừa là khách thể. Con người là chủ thể, không chỉ quyết định hiệu quả của việc
khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác hiện có mà còn góp
phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của tương lai. Mặt khác, con người là
khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển,
qua đó đề cao, nhấn mạnh sức sáng tạo của con người
Thời đại xu thế toàn cầu hóa, ta lợi dụng, chú trọng thành tựu CM KH-CN,
yêu cầu đến phát triến nhanh và bền vững – tăng trưởng kinh tế đi liền tiến bộ
công bằng XH và bảo vệ môi trường. Con người là đối tượng thụ hưởng duy nhất
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với phương châm đổi mới xuất phát từ
con người và vì con người. Con người có điều kiện phát triển về mọi mặt. Những
mục tiêu đó có đạt được hay không là nhờ con người. Do đó, con người có vị trí
quyết đinh, giữ vai trò nền tảng, là động lực, là mục tiêu cao nhất của sự phát triển
KT – XH.
Quan điểm trên là sự tiếp thu, học tập kinh nghiệm từ rất nhiều các nước đi trước
trong quá trình CNH, HĐH mà điển hình là Nhật Bản (ngay từ những năm 70 của
TK 20)
b. Nội dung quan điểm:
● Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH cần đặc
biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo, coi “giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ con người Việt
Nam khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, có trình độ chuyên môn cao
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
● CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong
đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân
lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho CNH –
HĐH đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng
nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế
giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
● Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”. “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển
nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống
nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường”.
c. Thực trạng con người VN và tình hình phát triển nguồn nhân lực
● Thể lực: trước giờ là thấp bé nhưng giờ đã đồng đều hơn, tuy nhiên chiều
cao và cân nặng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của
CNH-HĐH
● Trí lực: nguồn lực chất lượng cao ở nước ta không có nhiều, chủ yếu là
nguồn lực trung bình, tức là lao động ở bậc phổ thông, đơn giản, lao động có
trình độ chuyên môn cao rất ít.
● Tâm lực: bản chất cần cù chịu khó nhưng ý thức kỉ luật, kĩ năng mềm còn
kém
● Tuy nhiên, việc thực hiện chưa được hiệu quả, công cuộc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao chưa được quan tâm một cách thường xuyên, liên
tục ở các thời điểm, giai đoạn khác nhau, vẫn còn xảy ra tình trạng “chảy
máu chất xám”, nguồn lực chất lượng cao hoạt động trong các lĩnh vực,
ngành nghề chưa tương đồng với nhau, có ngành rất nhiều nguồn lực chất
lượng cao, ví dụ ngành toán học, vật lý, chế tạo máy… có ngành rất ít, như:
khoa học xã hội nhân văn, văn hoá, nghệ thuật…
● Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là
hội nhập quốc tế ngày càng cao, nếu không chú trọng đến việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao để hiện thực ý chí, khát vọng vươn lên dựng
xây, kiến thiết đất nước thì Việt Nam sẽ phải đối diện với nguy cơ tụt hậu
trên thị trường lao động quốc tế.
● Giải pháp thực hiện:
● Thể lực: nâng cấp hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe, tăng cường khẩu phần
ăn cho người lao động, có các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thân thể.
● Trí lực: Chú ý tới phát triển giáo dục đào tạo, dạy nghề, thường xuyên có các
buổi luyện tập và thực hành để nâng cao và bổ sung kiến thức theo kịp thời
đại cho người lao động.
● Nhân cách đạo đức: Rèn luyện nhân cách đạo đức từ khi còn đi học tiểu học,
tích cực tuyên truyền lối sống lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội.,
d. Áp dụng hiện nay: giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của
VN trong bối cảnh cách mạng 4.0. / phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt
Nam
● Nâng cấp hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe, tăng cường khẩu phần ăn cho
người lao động, có các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thân thể để đảm
bảo tăng cường thể lực cho nguồn nhân lực
● Tăng cường thực hành dân chủ, bảo vệ quyền con người, lợi ích chính Đảng
của người dân, đồng thời với nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ với đất
nước, giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội. Phát triển đồng bộ các yếu tố,
điều kiện bảo đảm cho con người có điều kiện phát triển toàn diện, được
hưởng thụ các phúc lợi, dịch vụ ngày càng tốt hơn, như gia đình, hệ thống
giáo dục, hệ thống y tế, các công trình phúc lợi về văn hóa, thể dục, thể thao,
vui chơi giải trí...
● Đảm bảo tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với nguồn nhân lực chất
lượng cao một cách hiệu quả, tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”
● Chú ý tới phát triển giáo dục đào tạo, dạy nghề, nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học, cao Đảng.
● Thường xuyên có các buổi luyện tập và thực hành để nâng cao và bổ sung
kiến thức theo kịp thời đại cho người lao động; đẩy mạnh các hoạt động hợp
tác, liên kết giữa trường học và doanh nghiệp.
<Phát triển nhân lực chất lượng cao>
Theo các chuyên gia, cần có các chính sách, quy định phù hợp nhằm dẫn dắt nguồn
lực xã hội vượt qua các thách thức, khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực định
hướng “công dân toàn cầu” (là những người có khả năng thích ứng sống và làm
việc tại nhiều quốc gia) trong nền kinh tế số. Bên cạnh đó, cần bảo đảm nguồn tài
chính cho phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường huy động
các nguồn vốn cho phát triển nguồn nhân lực từ tất cả các thành viên xã hội.
Đồng thời, cần đổi mới mạnh mẽ giáo dục và đào tạo theo hướng thực hiện cơ chế
tự chủ cho các cơ sở giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao trình độ ngoại ngữ,
các kỹ năng sống cũng như thái độ của người công dân toàn cầu. Xây dựng nội
dung, chương trình, phương pháp giáo dục và đào tạo phù hợp chuẩn quốc tế...
Theo PGS.TS Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương, điều kiện để lao động Việt Nam có thể làm việc được ở mọi nơi trên
thế giới gồm 4 yếu tố, đó là: ngoại ngữ; kiến thức, kỹ năng và thái độ làm việc;
hiểu biết văn hóa nước sở tại; sức khỏe tốt. Tuy nhiên, theo khảo sát, trình độ tiếng
Anh của lao động Việt Nam còn rất hạn chế. Cùng với đó, kỹ năng thực hành của
lao động Việt Nam còn yếu (mặc dù lý thuyết rất giỏi), lại chưa thực sự có tác
phong công nghiệp.Do đó, phải đào tạo người lao động theo hướng có khả năng
làm việc ở môi trường quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia… Lao động Việt Nam
phải có năng lực thích ứng cao; có thể tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và
toàn cầu. Các trường đại học cần xây dựng chương trình đào tạo chuẩn quốc tế,
tăng cường đào tạo ngoại ngữ; chú trọng đào tạo các kỹ năng cho người học… Để
công dân toàn cầu cần gì, thì lao động Việt Nam đáp ứng được cái đó.
Đối với mỗi người lao động, cần phải thích nghi với những yêu cầu của thời kỳ
mới bằng cách chủ động học tập, rèn luyện để có đủ năng lực chuyên môn và kỹ
năng mềm cần thiết để đón đầu các kỹ thuật, công nghệ mới áp dụng vào nền kinh
tế thông minh và công nghiệp hóa.
<Kinh nghiệm tử các quốc gia>
Nhật Bản nghèo tài nguyên, nhiều thiên tai nhưng nhờ chất lượng giáo dục đã tạo
nên một Nhật Bản thần kỳ tăng trưởng vượt bậc. Hàn Quốc tiếp nối, trở thành con
hổ châu Á. Singapore từ 1 quần đảo thuộc địa, với tầm nhìn của người lãnh đạo và
phát triển toàn dân, trở thành trung tâm tài chính thứ 3 của thế giới.
e. Kết luận
Như vậy, vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người luôn được Đàng quan
tâm, đặc biệt trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, với quan điểm đổi mới xuất phát
từ con người, vì mục tiêu con người và “lấy việc phát huy nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Sau 30 năm đổi mới, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực đặc biệt là
nguồn lực con người, “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa”; để lại những bài học sâu sắc cho cách mạng Việt Nam, trong đó “đổi mới
phải luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân
phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực của
nhân dân…” .Trong những năm tiếp theo, đất nước ta Đảng đứng trước những thời
cơ và thách thức mới, để tiếp tục phát huy nhân tố con người trong điều kiện cách
mạng mới nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn,
cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ, tất cả vì một xã hội “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”… con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

● Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải coi khoa học và công nghệ là
động lực; coi năng lực nội sinh về khoa học- công nghệ là nền tảng của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng năng lực nội sinh về khoa học- công
nghệ để đủ sức lựa chọn, làm chủ, thích nghi với công nghệ nhập; cải tiến,
biến công nghệ nhập thành công nghệ của mình tiến tới tự tạo ra công nghệ.
Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh để
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nắm bắt các thành tựu
khoa học, công nghệ thế giới, lựa chọn và làm chủ công nghệ chuyển giao
vào Việt Nam. Quan điểm chỉ đạo về nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế là cơ khí hóa, hóa học hóa, tự động hóa. Bước đầu phát triển một
số lĩnh vực công nghệ cao về điện tử, thông tin, sinh học, vật liệu mới và tự
động hóa. Quan điểm trên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ vững mạnh; phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài trong
các lĩnh vực khoa học- công nghệ, văn hóa- nghệ thuật, quản lý kinh tế- xã
hội.. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đòi hỏi phải
kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; phải tranh thủ đi
nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định. Điều đó cho phép
kết hợp tuần tự với nhảy vọt, khai thác có hiệu quả các công nghệ cổ truyền
vừa nhanh chóng hiện đại hóa ở các khâu quyết định. Sự kết hợp đó là phù
hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và cho phép thực hiện công nghiệp
hóa “rút ngắn”, đồng thời chống lại tư tưởng bảo thủ trì trệ và nóng vội,
phiêu lưu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

● Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển,
lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.

Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong đó phát
triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc
làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình lớn thật cần
thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập
trung thích Đảng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm. Đồng
thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước, có chính
sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển.
Quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi khi xác định các
phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ, xác định quy mô,
bố trí và phân phối các nguồn lực ở các địa bàn.. phải lấy hiệu quả kinh tế-
xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xem xét.Tư tưởng chỉ đạo là phải đầu tư
chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới,
ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi
vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình thật cần thiết và có hiệu
quả, tạo ra các mũi nhọn trong từng bước phát triển. Trong việc bố trí nguồn
lực cần tập trung thích Đảng cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm, đồng
thời đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước, hỗ trợ các vùng
khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển .

● Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh


Kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn
luôn là hai nhiệm vụ chiến lược có sự tác động lẫn nhau. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa kinh tế là cơ sở tăng cường khả năng quốc phòng an ninh,
ngược lại bảo vệ vững chắc Tổ quốc giữ vững an ninh, chính trị, kinh tế.. là
điều kiện để phát triển kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh
tế cũng là quá trình tăng cường khả năng quốc phòng –an ninh của đất nước.
Quan điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải
gắn chặt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong từng
bước phát triển, trong việc lựa chọn các phương án, xác định các địa bàn,
xây dựng các công trình.... Đều phải xem xét tới cả hai lĩnh vực trên. Đồng
thời, công nghiệp quốc phòng cần được coi trọng và phát triển trong sự phát
triển chung của nền kinh tế. Phải đẩy mạnh sự liên kết giữa công nghiệp
quốc phòng với công nghiệp dân dụng để phục vụ có hiệu quả nhất cho cả
nhu cầu quốc phòng và dân dụng. Những quan điểm đó là một thể thống
nhất và quan hệ chặt chẽ với nhau biểu hiện rõ trong việc xác định mục tiêu,
nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ở việc xác định rõ
nguồn lực; động lực của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ở việc xác
định phương hướng, biện pháp cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta; và biểu hiện ở tiêu chuẩn để xác định các phương án, đánh giá kết
quả khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quan điểm đổi mới về văn hóa của ĐH VIII và HNTW 5 khóa VIII (1998).
ĐH VIII (1996) khẳng định:
● Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải
nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển
toàn diện.
NQTW5 (Khoá VIII- 1998) lần đầu tiên xác định
2 tính chất đặc trưng của nền văn hoá:
- Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Nền văn hóa Việt Nam thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Trước đây vấn đề văn hoá được xen vào trong các kỳ hội họp và được xem là nội
dung nhỏ
Đây là lần đầu tiên Đảng ta có 1 nghị quyết riêng về vấn đề văn hoá chứng tỏ Đảng
biết rõ vai trò, vị trí của văn hoá trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế

5 quan điểm chỉ đạo quá trình phát triển văn hoá trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước <quan điểm 1 và 2>:
● Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Vì sao nói văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội? Nền tảng tinh thần của xã hội
được tạo nên từ các giá trị truyền thống, lối sống, lối nghĩ của dân tộc. Đó chính là
sức mạnh cho cả dân tộc trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình.
Vì sao nói văn hóa là mục tiêu và động lực? Theo quan điểm của UNESCO: phải
tìm trong văn hóa trọng tâm, động cơ và mục đích của sự phát triển.
- Nguồn lực nội sinh cho sự phát triển nằm sâu trong văn hóa, trong các giá trị
cội nguồn của mỗi dân tộc.
- Cần khai thác các giá trị truyền thống phục vụ cho công cuộc phát triển của
đất nước.
● Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Nền văn hoá tiên tiến, đâm đà bản sắc dân tộc là: nền văn hoá mà ở đó có sự giao
lưu, học hỏi kinh nghiệm của sự phát triển kinh tế, văn hoá của các quốc gia, tiếp
nhận giá trị đó để làm giàu, phong phú thêm các giá trị văn hoá của DT mình.
Nhưng bên cạnh đó, không khi nào ta bỏ qua những giá trị bản sắc, văn hoá của
DT
“Văn hoá là nét hình hài của DT”, nét hình hài đó được hình thành cả trong quá
trình dựng nước và giữ nước của người Việt. Chính vì vậy trong quá trình xây
dựng và phát triển, luôn luôn đề cao phát triển nền văn hoá tiên tiến, đâm đà bản
sắc dân tộc
● Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam
● Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
● Văn hoá là một mặt trận; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

b. Áp dụng thực tiễn


Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
- Đến nay, cả nước có trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có
3.491 di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt; 8 di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới, 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được
UNESCO công nhận.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa không ngừng lớn mạnh, trong đó có cả
văn hóa quần chúng, nghệ nhân và văn hóa đỉnh cao.
c. Áp dụng bối cảnh hiện nay:
Để VH trở thành động lực và mục tiêu cho sự phát triển, ta cần phát triển VH gắn
liền với phát triển KT-XH, góp phần xây dựng văn hóa VN vừa tiên tiến, vừa đậm
đà bản sắc dân tộc, cụ thể là:
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; khi xác định mục
tiêu phát triển KT-XH thì phải đồng thời xác định mục tiêu VH.
- Thống nhất, đa dạng trong cộng đồng dân tộc VN, xây dựng đồng bộ môi
trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý.
- Khoa học + CN & GDDT được coi là quốc sách hàng đầu.
Tóm lại, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được đề
cập trong nhiều văn bản quan trọng. Trong đó, tính tiên tiến và bản sắc dân tộc
được hòa quyện, gắn bó hữu cơ trong các yếu tố cấu thành của nền văn hóa, đảm
bảo tính kế thừa và phát triển, vừa giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, đồng thời đảm bảo tính mở, tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại. Đồng thời,
nội hàm của tính tiên tiến và bản sắc văn hóa cũng được xác định rõ, phù hợp với
mục tiêu, đặc điểm, truyền thống của đất nước trong quá trình đi lên CNXH.
5. ĐH IX (6/2001)
Nội dung tiếp tục đổi mới về kinh tế và đổi mới về đối ngoại và ý nghĩa
Bối cảnh:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc
thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan
xen với nhiều thách thức lớn.
Thế giới:
● Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi
sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò
ngày càng quan trọng.
● Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh
tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả
trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai
và các đại dịch...

Trong nước:
Ở trong nước, sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
tạo thế và lực mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức
cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội
VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối phó với 4
nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu, “diễn biến hoà
bình” do các thế lực thù địch gây ra.
Đổi mới về kinh tế:
● Chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong TKQĐ lên
CNXH
● KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế HH nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN;
có nhiều hình thức SH, nhiều thành phần KT, nhiều hình thức phân phối, chủ
yếu phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào SX, KD và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội.
Các điểm mới:
● Điểm mới 1: xác định mô hình KTTQ của thời kỳ đổi mới mà trước đây
chưa xác định hoặc né tránh. ĐH VI xoá bỏ quan liêu bao cấp, ĐH VII và
VIII xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường còn đến ĐH IX không né tránh từ thị trường mà là kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
● Điểm mới 2: ĐH IX làm rõ 4 nội dung nhưng chỉ ở thì tương lai:
o Mục tiêu, lý tưởng: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
o Phương hướng phát triển: nền kinh tế có nhiều thành phần, nhiều hình
thức sở hữu, nhưng trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
o Định hướng xã hội và phân phối: tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
o Đề cao vai trò quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới về đối ngoại:
● Đại hội IX đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước
trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” của Đại
hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Như
vậy, sau 10 năm , thế và lực ở VN đã có sự khác hẳn. Ta khẳng định vị thế,
bước tiến và vai trò của VN trong việc chủ động hội nhập với nền kinh tế
quốc tế lúc bấy giờ.
● Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập KTQT.
● Thực hiện nhất quán đường lối ĐN độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá,
đa dạng hoá các QHQT.
● Chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Ý nghĩa:
● Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới
● Đánh dấu bước trưởng thành về nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
● Phát triển và cụ thể hoá Cương lĩnh chính trị năm 1991 của Đảng trong
những năm đầu của thế kỷ XXI
Tại sao nói nền văn hoá VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT –
XH. Trong bối cảnh hiện nay, cần làm gì để giữ gìn phát huy bản sắc DT
a. Cơ sở lý luận
Định nghĩa
● Nền tảng: Trong 1 XH, nếu muốn tồn tại và phát triển, cần có nền tảng vật
chất (kinh tế) và nền tảng về tinh thần (văn hóa) – đóng vai trò cội nguồn, là
sức mạnh
● Mục tiêu: Mục tiêu của ta hướng đến là vì con người, cho con người, tạo nền
tảng tinh thần, vật chất tốt cho sự phát triển
● Động lực:
● Văn hóa thể hiện sự sáng tạo của con người (trong văn học nghệ thuật, giáo
dục đào tạo, chữ viết, tiếng nói…). Nguồn lực nội sinh phát triển của 1 dân
tộc thấm sâu trong VH
● Văn hóa đóng vai trò điều tiết hành vi con người trong nền kinh tế thị trường
(thúc đẩy sự cạnh tranh, phát huy các nguồn lực… nhưng cũng có hạn chế:
cá lớn nuốt cá bé, hủy hoại môi trường vì mục đích kinh tế, lợi nhuận) – văn
hóa giúp nâng cao mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
● Trong quá trình hội nhập quốc tế (có vốn, kinh nghiệm, KH-CN, giao lưu
các nước khác), văn hóa giúp tận dụng sự tích cực của hội nhập, khắc phục
những nhược điểm
Vì sao nói văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội? Nền tảng tinh thần của xã hội
được tạo nên từ các giá trị truyền thống, lối sống, lối nghĩ của dân tộc. Đó chính là
sức mạnh cho cả dân tộc trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình.
- Khái niệm “nền tảng” tinh thần được hiểu là không gian tinh thần của cộng đồng,
bầu không khí tinh thần, khí thế của đông đảo quần chúng nhân dân và của cộng
đồng dân tộc, hệ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của con người, các quan
niệm đạo lý, pháp lý đạt chuẩn mực chân, thiện, mỹ...
- Vai trò nền tảng tinh thần của xã hội của văn hóa chính là sức mạnh của hệ thống
giá trị của văn hóa Việt Nam trong hiện tại và trong quá khứ. Các giá trị nói trên
tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội - vì nó được thấm nhuần trong mỗi con
người và trong cả cộng đồng; được truyền lại tiếp nối và phát huy qua các thế hệ;
được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc.

- Các giá trị này chi phối hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi
thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa. Truyền thống của nền văn hóa
dân tộc là một dòng chảy tinh thần được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, có tác
dụng chi phối, điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân -
gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý;... Các giá trị và sức mạnh đó của văn hóa và con người Việt Nam đã làm nên
nền tảng tinh thần vững chắc của dân tộc ta;
Vì sao nói văn hóa là mục tiêu và động lực phát triển KT - XH? Theo quan điểm
của UNESCO: phải tìm trong văn hóa trọng tâm, động cơ và mục đích của sự phát
triển.
● Nguồn lực nội sinh cho sự phát triển nằm sâu trong văn hóa, trong các giá trị
cội nguồn của mỗi dân tộc.
● Cần khai thác các giá trị truyền thống phục vụ cho công cuộc phát triển của
đất nước.
Thứ nhất, văn hóa và kinh tế có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời. Văn hóa
tinh thần góp phần quan trọng vào việc cung cấp những kinh nghiệm, hiểu biết, tri
thức cần thiết để thúc đẩy hoạt động kinh tế.

Thứ hai, Văn hóa thẩm thấu và được thể hiện trong toàn bộ hoạt động của nền
kinh tế. Từ nguồn nhân lực trong hoạt động kinh tế đến việc xử lý, giải quyết, tổ
chức triển khai các hoạt động kinh tế, từ thiết kế và sản xuất sản phẩm đến trao đổi,
phân phối và sử dụng sản phẩm - tất cả đều thấm đẫm yếu tố văn hóa, bởi lẽ, toàn
bộ quá trình hoạt động kinh tế đều là hoạt động của con người, thuộc về con người,
vì con người

Thứ ba, văn hóa có tính độc lập nhất định và tính ổn định tương đối. Dù có tính ổn
định tương đối, nhưng văn hóa vẫn chịu sự tác động của nhiều yếu tố, nhất là trong
quá trình giao lưu, tiếp biến. Nhờ đó, văn hóa luôn chứa đựng những giá trị tiến bộ,
yếu tố tiên tiến. Một nền văn hóa tiên tiến, tiến bộ là động lực thúc đẩy một nền
kinh tế phát triển; một nền văn hóa lạc hậu chỉ có thể đồng hành với một nền kinh
tế nghèo nàn.
Thứ tư, thế giới ngày nay đang dần bước vào kỷ nguyên kinh tế văn hóa, Trong
thời đại ngày nay, văn hóa đóng vai trò như một “sức mạnh mềm”, góp phần củng
cố hình ảnh, vị thế và tiếng nói của mỗi quốc gia trên bản đồ thế giới;

Vai trò của văn hóa trong việc thúc đẩy, hướng dẫn và hỗ trợ phát triển kinh tế ngày
càng rõ nét, bao gồm từ việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển kinh tế đến
sản xuất, quản lý doanh nghiệp và tạo ra các sản phẩm có thương hiệu, đây không
chỉ là những hoạt động kinh tế, mà còn là những hoạt động văn hóa phức tạp, đòi
hỏi phải có tư duy và trí tuệ văn hóa. Ngay cả mô hình phát triển kinh tế và đặc
điểm cơ cấu công nghiệp của một quốc gia hoặc khu vực cũng có một nền tảng văn
hóa và yếu tố con người đáng kể.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đó là mục tiêu
quan trọng của xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa Đảng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong bối cảnh hiện nay, cần làm gì để giữ gìn phát huy bản sắc DT
Thấu hiểu và tìm hiểu về truyền thống, lịch sử, ngôn ngữ, nghệ thuật và phong tục
tập quán của dân tộc mình.
Cần truyền đạt và truyền thụ những giá trị văn hóa này cho thế hệ sau và mọi người
trong cộng đồng.
tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc,
các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện
điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công
bằng,...

- Tôn vinh và bảo tồn các di sản văn hóa truyền thống của địa phương: Đây là cách
hiệu quả nhất để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chính quyền địa phương có thể
tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa như hội chợ, lễ hội, triển lãm và biểu diễn
nghệ thuật để giới thiệu và bảo tồn các di sản văn hóa truyền thống.
- Khuyến khích nghệ thuật và sáng tác văn học
- Đưa văn hoá, bản sắc DT vào chương trình giáo dục
- Xây dựng trung tâm văn hoá và nghệ thuật
- Tổ chức các cuộc thi và chương trình văn hoá: cuộc thi về nghệ thuật, văn hóa,
ẩm thực và thủ công mỹ nghệ
- Thúc đẩy việc sử dụng ngôn ngữ
- Tôn trọng và quan tâm đến người dân tộc thiểu số. Điều này sẽ giúp củng cố tình
đoàn kết giữa các dân tộc và giúp bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Giữ gìn và tuyên tuyền văn hoá dân tộc trên không gian mạng

6. ĐH XI (2011)
Cương lĩnh bổ sung và phát triển được thông qua tại ĐH XI (2011).
Bối cảnh:
● Địa điểm: tại Hà Nội từ ngày 12/1-19/1/2011
● Thế giới: diễn biến phức tạp.
Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn;
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ diễn
biến phức tạp.
Thiên tai, dịch bệnh khủng hoảng,
suy thoái kinh tế toàn cầu,
ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu xảy ra nghiêm trọng trên toàn thế
giới.
● Trong nước: Cả nước vừa kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội với
những thành tựu quan trọng nhưng còn nhiều yếu kém cần được khắc phục.
Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt
động “diễn biến hòa bình”.
Nội dung
+ Có diễn đạt mới về những thắng lợi và bài học của CM VN, vừa đảm bảo
trung thực với lịch sử, vừa cổ vũ niềm tự hào dân tộc và phù hợp với quan
hệ đối ngoại trong tinh hình mới.
+ Đánh giá về CNXH và chủ nghĩa tư bản
Đặc điểm nổi bật hiện nay của thời đại là: “Theo quy luật tiến hoá của lịch
sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”
+ Mô hình CNXH: 8 đặc trưng với diễn đạt mới
+ Mục tiêu đến giữa TK XXI là xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN
+ 8 phương hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, QPAN, đối ngoại
+ Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng: Bổ sung cách diễn đạt bản
chất của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng
o Bổ sung cách diễn đạt bản chất của Đảng: ĐCS VN là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của DT VN; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nd LĐ và
DT
o Đảng lãnh đạo bằng
Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn;
Công tác tuyên truyền, thuyết phục…;
Công tác tổ chức thực hiện;
Công tác kiểm tra, giám sát;
Hành động gương mẫu của đảng viên;
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
Điểm mới của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) là bổ sung hai đặc trưng:
● Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
● Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) điều chỉnh và hoàn chỉnh năm trong
số sáu đặc trưng mà Cương lĩnh 1991 đã nêu:
1. Điều chỉnh đặc trưng kinh tế: đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991
''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ
sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp'
2. Mở rộng biên độ “do nhân dân làm chủ” thay cho cụm từ “do nhân dân lao
động làm chủ”.
3. Điều chỉnh đặc trưng con người: bỏ cụm từ “con người được giải phóng
khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực, hướng theo lao động”. Thay vào
đó là “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện”. Điều đó chứng tỏ rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác để giải
phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn đúng, đồng thời càng khẳng định
lý tưởng nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội mà Mác đã nêu ra vẫn giữ
nguyên giá trị: đó là vì con người, phát triển và giải phóng con người mà
trước hết là những người lao động.
4. Điều chỉnh đặc trưng dân tộc: Thay cụm từ “Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết, và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”, bằng cụm từ “Các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng phát triển”.
5. Điều chỉnh đặc trưng quốc tế:
● Xác định “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”,
● Bỏ cụm từ “nhân dân”.

7. ĐH XII (2016)
Một số bài học kinh nghiệm được ĐH XII tổng kết qua 30 năm đổi mới.
Bối cảnh:
● Tình hình thế giới,
khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp;
kinh tế thế giới phục hồi chậm;
khủng hoảng chính trị ở nhiều nước;
cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực;
diễn biến phức tạp trên Biển Đông,... đã tác động bất lợi đến nước ta.
● Ở trong nước, bên cạnh thành quả quan trọng, những hạn chế, khiếm khuyết
vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết, những yếu kém trong lãnh đạo,
quản lý và những vấn đề mới phát sinh ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định
kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề.
5 bài học KN được ĐH XII tổng kết qua 30 năm đổi mới <bài học 1 và 5>:
● Một là trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết
sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
a. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Lý luận: từ những năm 30, cương lĩnh đầu tiên đã có nội dung về Đảng xác
định: “Đảng là lãnh đạo, lãnh đạo cách mạng là Đảng”
- Luận cương chính trị 10/1930, bài học kinh nghiệm rút ra luôn là xây dựng
Đảng, qua các văn kiện, giải pháp rút ra cho 5, 10, 30 năm luôn có giải pháp
về xây dựng Đảng.
- Khẳng định vấn đề then chốt là xây dựng Đảng xoay quanh xây dựng đất
nước là nhiệm vụ trọng tâm. Nếu xây dựng Đảng không tốt thì không thể
phát triển tốt đất nước theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin về Đảng cầm
quyền.
b. Thực tiễn đã như thế nào trong 30 năm đổi mới?
Thực tiễn: vai trò của Đảng và công tác xd Đảng trong suốt chiều dài lịch sử
- Có tổ chức các công cuộc chỉnh đốn Đảng ngay cả từ trước nghị quyết 11
- Từ khi Đảng ra đời cho đến nay, thành bại của cách mạng, của công cuộc đổi
mới đều gắn với Đảng, Đảng là trung tâm. Khi nào Đảng viên trong sạch
vững mạnh, có sức chiến đấu thì mới thành công, ngược lại nếu chủ trương
đường lối không tốt, đội ngũ của Đảng thoái hóa, biến chất, không thực hiện
nghiêm -> gặp khó khăn
VD: CM tháng 8, kháng chiến chống Pháp,
Tập trung phát triển văn hoá
Cải cách giá – lương - tiền sai lầm của Đảng năm 1985 để lại hậu quả nặng nề và
nỗi ám ảnh dai dẳng cho nd VN lúc bấy giờ. Việc đổi tiền là để giảm lượng tiền lưu
hành và như thế làm tăng giá trị đồng tiền nhưng kết quả là nhu cầu đổi tiền nhiều,
không thể đáp ứng được kịp, hộ gđ đổ cả xe tiền xuống sông, lạm phát tăng cao
c. Thực tế hiện Đảng cần làm gì để xd Đảng vững mạnh, có niềm tin hoàn toàn
từ nhân dân
Có thể nói, xây dựng Đảng trong thời kỳ này nhiều mặt khó khăn, phức tạp hơn so
với thời kỳ chiến tranh hoặc thời kỳ còn cơ chế kinh tế bao cấp.
- Đảng phải trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; Nhà nước cũng phải trong sạch, vững mạnh, chất lượng, hiệu quả,
năng động trong quản lý, điều hành;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ;
- Nghiêm khắc phê bình và tự phê bình, xây dựng các quy định, quy chế cụ thể
thực hiện nguyên tắc này một cách chặt chẽ, nghiêm khắc, phối hợp với các
nguyên tắc,
- Đối với những cán bộ, Đảng viên vi phạm phải kiên quyết xử lý, xử lý kịp thời,
chính xác, công khai, minh bạch, công bằng, coi trọng trách nhiệm giải trình.
Xiết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, Đảng có kỷ cương thì ngoài xã hội mới
có kỷ cương.
● Hai là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát
thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo những diễn
biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải
pháp cho phù hợp.
● Ba là gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh
tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa-nền
tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm QPAN là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên.
● Bốn là kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng
thời tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách,
trước mắt, giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá để giữ
vững và đẩy nhanh nhịp độ phát triển; phát huy mọi nguồn lực trong và
ngoài nước đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
● Năm là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự
chủ, lấy lợi ích quốc gia-dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
a. Cơ sở lý luận
● Cơ sở từ thời k> ỳ trước
Ngay từ những năm 1945, Việt Nam vừa tuyên bố độc lập, Bác đã gửi thư,
điện, công hàm ngoại giao đến Liên hợp quốc và nhiều Chính phủ trên thế
giới
Trong thư, Bác thể hiện rõ quan điểm hội nhập, tinh thần VN sẵn sàng mở
cửa đón nhận đầu tư của tư bản.
- Vai trò hội nhập quốc tế: kết hợp nội lực và ngoại lực = nguồn lực tổng hợp.
b. Thực trạng qua 30 năm đổi mới
- Thời gian qua, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh,từ khi tiến hành đổi mới,
có nhiều nghị quyết của bộ chính trị, hội nghị trung ương chứng tỏ sự quan tâm
đến vẫn đề hội nhập về mặt chủ trương đường lối. Hoạt động đối ngoại và hội
nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
- Thiết lập quan hệ đối ngoại rộng mở với 189 quốc gia thành viên của Liên Hợp
quốc. Chúng ta đã xây dựng được mạng lưới 30 đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện, trong đó có tất cả các nước lớn 17/20 nước G20 và toàn bộ các nước
ASEAN.
- Từ một nền kinh tế khép kín, bao cấp, ngành ngoại giao đã góp phần quan
trọng trong tích cực đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc tham gia các
tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, WTO, AFTA,
- VN tích cực mở rộng đối ngoại theo hướng đa phương hóa,đa dạng hóa; đặt
quan hệ ngoại giao với rất nhiều các nước khác như TQ, Mỹ, Nga, Nhật Bản…,
đẩy mạnh hđ XNK bên ngoài; mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng
hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ
- Ban hành luật đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài,mở rộng thị
trường, tiếp thu khoa học công nghệ và khả năng quản lí.
c. Kết quả:
- Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên tăng đáng kể,
kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn cũng như tăng thu nhập
của người lao động.
- Giải quyết vấn đề nợ quốc tế: trong những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối
quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài của
Việt Nam trước đây được giải quyết, góp phần ổn định cán cân thu chi ngân
sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong
nước.
- Tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến,
đào tạo cán bộ quản lý..
- Hội nhập quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền
quốc gia, mở rộng và tăng cường quan hệ với các quốc gia
=> những thành tựu đạt được sau 35 năm đổi mới tiếp tục khẳng định sự đúng đắn
của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; chủ trương chủ động tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện và sâu rộng của Việt Nam
Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đạt được hiệu quả đã
đề ra, gặp nhiều trở ngại lớn
Mặc dù có sự tăng trưởng nhưng về mặt bằng chung, cơ cấu kinh tế và chất lượng
tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện căn bản, hiệu quả đầu tư và XNK chưa cao
như mong muốn… chứng tỏ nỗ lực đó chưa tương xứng với mong muốn, yêu cầu
quá trình phát triển đất nước cũng như công sức của ta. Điều này là do nhiều yếu
tố:
d. Hiện nay cần làm gì
- Nâng cao năng lực cạnh tranh
- Đào tạo đội ngữ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập
- Quá trình chuyển đổi số, làn sóng hội nhập ngày càng mạnh mẽ đặt ra những
yêu cầu mới, như đổi mới tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và
tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và
tham gia định hình các cơ chế hợp tác”. Nếu không kịp chuyển đổi kịp thời về
tư duy và hành động, nguy cơ tụt hậu của đất nước càng nghiêm trọng.
Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc
Hội nhập là cần thiết, là không thể tránh khỏi, trong thời đại CNH, HĐH hiện nay
thì Việt Nam cũng Đảng tích cực phát triển
- Nhận thức rõ về tầm qtrọng của việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá dân tộc, cái xấu loại bỏ, cái tốt
học tập.
- Chủ động tích cực trong học tập và tìm hiểu về văn hoá dân tộc.
- Hòa nhập chứ không hòa tan.

Quan điểm chỉ đạo của HN TW 5, khóa XII (2017) về phát triển kinh tế tư
nhân.
Thành tựu lớn nhất là đã nhìn rõ cần phát triển phát triển kinh tế tư nhân như
động lực quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế, xã hội => Đưa ra
nhiều chính sách thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.
Quan điểm chỉ đạo của HN TW 5, khóa XII (2017) về phát triển kinh tế tư nhân:
● Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu
khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
● Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế, vậy nên cần
tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa
dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỉ
trọng đóng góp trong GDP.
● Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các hộ kinh
doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt
động theo mô hình doanh nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và
đúng định hướng.
Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân, tạo sự lan toả
rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng
và mở rộng thị trường tiêu thụ; đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra,
giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt
tiêu cực.
● Khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh
nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá hoặc Nhà nước thoái vốn.
● Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp
hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư
nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
● Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực,
tự cường,.... Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh,
có ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo,
quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hoá doanh nghiệp, đạo đức doanh
nhân.
Giải pháp từ nhà nước
Định hướng xã hội, phân phối:
● Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội; Thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
● Phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã
hội, phúc lợi xã hội.
Quản lý kinh tế - xã hội:
● Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò định
hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình
Đảng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ,
chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và
bảo vệ môi trường, phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội.
● Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN bằng luật pháp, các cơ chế,
chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế.
● Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.

8. Hạn chế của công cuộc đổi mới và nguyên nhân của những hạn chế đó.
Hạn chế:
● Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một
số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung
cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước.
● Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động. Chất lượng hiệu quả, năng suất lao
động xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp, phát
triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường.
● Còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội; bốn nguy cơ mà
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa 7 của Đảng (năm 1994) nêu
lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Niềm tin của cán bộ, Đảng viên
và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
Nguyên nhân:
● Nguyên nhân khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu
dài, khó khăn, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có
những mặt tác động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch, phản động và cơ hội chính trị.
● Nguyên nhân chủ quan:
● Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được quan tâm đúng
mức, đối mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu,
hạn chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình chậm và
thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng của các quyết sách, chủ
trương, đường lối của Đảng.
● Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước Việt
Nam còn nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền
hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không được quy định rõ ràng; thiếu
cơ chế kiểm soát quyền lực.
● Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, Đảng viên chưa được coi trọng
thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ưungs được yêu cầu, chưa
tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong
Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình hình.
Biện pháp đảm bảo an sinh xã hội

Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp
theo hướng linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế; Có chính sách ưu tiên nguồn
lực tài chính cho ASXH, nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước dựa trên sự đóng
góp, chia sẻ của cộng đồng doanh nghiệp và khu vực tư nhân.

Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền về các mô hình ASXH với nhiều cách làm sáng tạo
để tạo chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ làm
công tác ASXH trong các lĩnh vực, dịch vụ.

Ba là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để hoàn thiện hệ sinh thái an sinh
số, đảm bảo hệ thống vận hành công khai, minh bạch và kịp thời trong hoạt động
hỗ trợ người dân.
Bốn là, củng cố và phát triển hệ thống BHXH, tăng độ bao phủ BHXH, BHYT và
bảo hiểm thất nghiệp với tư cách là trụ cột chính của hệ thống ASXH.

Năm là, có cơ chế phối hợp triển khai chính sách, chương trình ASXH đồng bộ để
triển khai chương trình ASXH thống nhất, minh bạch, tránh phân tán, không hiệu
quả.

Sáu là, chú trọng các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát trong lĩnh vực
ASXH nhằm công khai, minh bạch ASXH của những chủ thể có trách nhiệm thực
hiện nhiệm vụ được giao, từ đó kịp thời phát hiện, xử lý sai phạm theo quy định
của pháp luật.

An sinh xã hội ứng phó với đại dịch Covid-19


Đại dịch Covid-19 bùng phát đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế-xã
hội. Sản xuất, kinh doanh bị đình trệ dẫn đến doanh nghiệp phá sản, hoặc ngừng
sản xuất, lao động nghỉ việc. Tình trạng không có việc làm, giảm thu nhập trở nên
phổ biến trong mỗi làn sóng đại dịch, khiến cho hàng trăm nghìn lao động bị mất
việc, hàng triệu lao động phải nghỉ giãn việc. Nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ buộc phải ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Các nhóm đối
tượng yếu thế, đặc biệt lao động trong khu vực phi chính thức càng khó khăn hơn,
do sinh kế của họ gắn nhiều với các hoạt động tiếp xúc trực tiếp với nguy cơ lây
nhiễm cao. Trong tình hình đó, chính sách ASXH kịp thời sẽ góp phần hỗ trợ, giảm
thiểu những tác động tiêu cực của đại dịch, bảo đảm đời sống và an toàn cho người
lao động, thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế-xã hội.
Trước những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đối với người lao động và
doanh nghiệp, ngày 9/4/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP và
Quyết định 15/QĐ-TTg về việc thực hiện gói hỗ trợ gần 62 nghìn tỷ đồng nhằm hỗ
trợ cho các lao động bị mất việc, suy giảm thu nhập và các doanh nghiệp chịu tác
đông của đại dịch Covid-19.

9. PHẦN KẾT LUẬN


Bài học thứ 2: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân (Trang 424 - Giáo trình).
● Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là người làm
nên lịch sử, là chủ thể của lịch sử, đó là quan điểm cơ bản trong lý luận
Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về cách mạng xã hội.
● Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công
phải lấy dân chúng làm gốc; có dân thì có tất cả, nghĩa là phải dựa vào dân,
tổ chức, vận động để nhân dân hiểu rằng cách mạng là công việc của chính
nhân dân. Khi Đảng nắm chính quyền, thì chính quyền đó là để gánh việc
chung cho dân chứ không phải để cai trị dân; việc gì có lợi cho dân thì hết
sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh.
● Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, chính nhân dân là người làm nên
những thắng lợi lịch sử từ Cách mạng Tháng Tám 1945, hai cuộc kháng
chiến và công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Toàn bộ những
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
Từ khi thành lập năm 1930, Đảng đã xác định luôn luôn gắn bó mật thiết với
nhân dân. Nhân dân là người bảo vệ Đảng, giúp đỡ Đảng về mọi mặt trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và chính phong trào cách mạng của
nhân dân đã hiện thực hóa mục tiêu cách mạng do Đảng đề ra.
● Phải phòng ngừa nguy cơ sai lầm về đường lối, nguy cơ xa rời quần chúng
nhân dân và cả nguy cơ suy thoái của một bộ phận cán bộ, Đảng viên.
Cương lĩnh năm 2011 đã nêu rõ, quan liêu, tham nhũng, rời xa nhân dân sẽ
dẫn đến tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã
hội chủ nghĩa và của Đảng. Thấm nhuần tư tưởng chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. Trong công cuộc đổi
mới, cùng với bài học lấy dân làm gốc, Đảng chú trọng thực hiện phương
châm: dân biết, dân bàn, dâm làm, dân kiểm tra.

Bài học thứ 3: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế (Trang 426 - Giáo
trình).
● Đoàn kết là nguyên tắc của Đảng chân chính cách mạng. Trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản (1848), Các-Mác và Ăng-ghen đã nêu rõ khẩu hiệu
chiến lượng: Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Đối
với dân tộc Việt Nam, đoàn kết là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức
mạnh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đại đoàn kết dân tộc là điểm
căn bản và nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn
kết là thành công.
● Nhờ sức mạnh đoàn kết dân tộc mà toàn dân Việt Nam đã tạo nên sức mạnh
tổng hợp, làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám và các cuộc kháng
chiến cứu nước, tranh thủ được sự đoàn kết và ủng hộ của đồng chí, bè bạn
và nhân dân thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng,
phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
● Trong công cuộc đổi mới, Đảng nhấn mạnh chiến lược đại đoàn kết dân tộc,
lấy mục tiêu chung của lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng, tôn
trọng lợi ích của các tầng lớp, giai cấp không trái với lợi ích chung. Đại đoàn
kết dân tộc, nhân dân luôn luôn gắn liền với phát huy và hoàn thiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng quyền con
người, quyền và trách nhiệm công dân.

Câu 1: Trình bày hoàn cảnh lịch sử của Chiến lược chuyển hướng chỉ đạo được đề
ra trong Hội nghị TW 8
Câu 2: Phân tích Đường lối Đổi mới trên lĩnh vực kinh tế tại đại hội lần thứ VI
(12/1986). Theo anh/chị, Đảng cần có chủ trương gì để nâng cao hiệu quả kinh tế
Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần?
1. Chủ trương kháng chiến kiến quốc, làm rõ ý nghĩa chủ trương với việc đưa
nước ta ra khỏi tình thế nghìn cân treo sợi tóc.
2. Trình bày kinh nghiệm được đại hội 12 của Đảng rút ra: "Chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ lấy lợi ích quốc gia, dân
tộc làm mục tiêu cao nhất". Theo anh chị, hiện nay Việt Nam cần giải pháp
gì để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện hội nhập?
Cuối kỳ hay ra vào các bài học, cô có nói cần làm rõ 3 yếu tố:
● Cơ sở lý luận, thực tiễn của bài học
● Bài học này áp dụng như nào trong hoàn cảnh đó
● Bài học này áp dụng như nào trong hiện tại
● Câu 1: Từ nội dung cơ bản của Nghị quyết 15 (tháng 1/1959) về Cách mạng
miền Nam, anh/chị hãy làm rõ nhận định: "Nghị quyết 15 soi sáng con
đường phát triển của Cách mạng VN".
● Câu 2: Từ chủ trương của Đảng về xdung nền vhoa VN tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc (thể hiện trong cương lĩnh Đại hội XI - 2011), theo anh/chị, VN
cần có các giải pháp gì để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc trong bối cảnh hội
nhập?
**
Câu 1: Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên 2/1930
Câu 2: Nội dung cơ bản của Đại hội VI, ý nghĩa công cuộc đổi mới ở nước ta

Câu 1: Nêu nội dung chỉ thị "Kháng chiến, kiến quốc"? Từ đó chỉ ra ý nghĩa của
chỉ thị trong việc giúp nước ta thoát khỏi thế "ngàn cân treo sợi tóc"?
Câu 2: Phân tích quan điểm CNH-HĐH của Đảng: "Lấy việc phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao làm yếu tố cơ bản để phát triển và xây dựng đất nước"? Là 1 SV
FTU, e có thể làm gì để nâng cao nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
cách mạng 4.0 hiện nay?

Câu 1: Nêu nội dung cơ bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930)
Câu 2: Phân tích bài học kinh nghiệm của Đảng sau 90 năm lãnh đạo Cách mạng: “
Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Từ đó, là một
sinh viên, em cần hành động gì trong bối cảnh toàn cầu hoá? ( ý này mình nhớ
same same là vậy)
**
Câu 1. Nêu nội dung và ý nghĩa của nghị quyết 15 (1/1959)
Câu 2. Phân tích bài học rút ra từ hội nghị 6: lấy dân làm gốc. Là một sinh viên, em
làm gì để thực hiện chủ trương của đảng: dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng

Câu 1: Nội dung và ý nghĩa chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc"
Câu 2: Bối cảnh lịch sử và những nội dung đổi mới về kinh tế được nêu tại đại hội
VI. Nêu ý nghĩa của những đổi mới đó sau 1986

Câu 1: Nêu nội dung chủ trương "kháng chiến - kiến quốc"
Câu 2: Bài học kinh nghiệm rút ra sau hơn 90 năm của ĐCS VN: "Đoàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế". Vận dụng thực tiễn
là 1 sinh viên em cần thấy phải làm gì.

Câu 1: Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng (thể hiện
tại HNTW 8 T5/1941)
Câu 2: Nêu 6 đặc trưng cơ bản của XHCN mà nhân dân cần xây dựng (Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại ĐH VII (1991)).
Sinh viên phải làm gì để xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
trong thời kì hội nhập?

Câu 1: Nội dung, ý nghĩa của chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc 25/11/1945.
Câu 2: Phân tích nội dung của cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
CNXH được thông qua tại ĐH VII năm 1991. Vận dụng bài học "củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân" của cương lĩnh trong giai đoạn hiện nay.
Câu 1 (4đ): Trình bày sự chuyển biến trong chỉ đạo của Đảng ở HNTW 8 (t5/1941)
Câu 2 (6đ): Phân tích quan điểm sau của Đảng về vấn đề CNH- HĐH: "Lấy việc
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững". Theo em cần làm gì để thu hút được sinh viên học tập tại nước ngoài quay
trở về nước sau khi học xong?
**
Câu 1: (4₫) Phân tích hoàn cảnh lịch sử của hội nghị trung ương 8(5/1941)
Cau 2: (6₫) Nêu những đổi mới về kinh tế trong đại hội 6(12/1986) và từ chủ
trương mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại thì hiện nay VN cần làm gì
để nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế

Câu 1: Từ nội dung cơ bản của nghị quyết số 15 (tháng 1/1959) về cách mạng
Miền Nam. Anh, chị hay nêu ý nghĩa của nghị quyết đối với sự phát triển của cách
mạng miền Nam.

Câu 2: Phân tích làm rõ sự bổ sung, phát triển của cương lĩnh năm 2011 về đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội so với cương lĩnh 1991. Là sinh viên, anh/chị
cần làm gì để góp phần xây dựng nên văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
đã được nêu trong cương lĩnh.

Câu 1(4đ): Từ chủ trương tập hợp lực lượng toàn dân tộc của Hội nghị Trung ương
8 (5/1941), anh/chị làm rõ ý nghĩa của chủ trương đó đối với việc củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Câu 2(6đ): Từ nội dung đường lối đổi mới trên lĩnh vực kinh tế được nêu tại Đại
hội 6 (1986) của Đảng, theo anh/chị, hiện nay Việt Nam cần có các giải pháp gì để
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

Câu 1: Nội dung chính hội nghị BCH TW Đảng lần 8 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
tại Cao Bằng.
Câu 2:
2.1. Phân tích kết quả trận chiến không quân 1972 và bài học kinh nghiệm "Điện
Biên Phủ trên không" và áp dụng vào công cuộc phát triển, bảo vệ đất nước ngày
nay.
2.2. Bài học kinh nghiệm kháng chiến chống Mỹ và liên hệ, vận dụng vào công
việc sau này.

Câu 1: Trình bày nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng (
tại HNTW lần thứ 8 - 5/1941)
Câu 2: Bối cảnh lịch sử và nội dung đường lối đổi mới trên lĩnh vực kinh tế
được nêu tại đại hội t6 năm 1986.
Ý nghĩa đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam sau năm 1986.
**
Câu 1: Nội dung và ý nghĩa của chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta" 12/3/1945
Câu 2: Phân tích các bước đột phá trong chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội
(1979 - 1981) và (1985 - 1986). Ý nghĩa của các bước đột phá đó trong công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước ta

Câu 1: (3d)
a) Ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị của Đảng (2/1930)
b) Vì sao tronng HN TW 12, Đảng lại đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước trên phạm vi cả nước?
Câu 2: (7d)
Phân tích quan điểm CNH, HDH của Đảng: "Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Theo anh(chị),
những kỹ năng mềm nào là cần thiết cho xây dựng nguồn lực con người trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ngày nay?

Câu 1: (4đ) trình bày những cơ sở và biện pháp của chính sách hòa với Tưởng
(9/1945-2/1946)
Câu 2: (6đ) trình bày những đường lối đổi mới về quản lý kinh tế trong Đại hội VI
(12/1986). Từ chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, theo anh chị,
Việt Nam cần có những biện pháp gì để phát triển nền kinh tế tư nhân thành động
lực chính của phát triển kinh tế.

Câu 1: Trình bày những thuận lợi và khó khăn đối với VN sau Cách Mạng Tháng 8
Câu 2: Phân tích nội dung đường lối đổi mới trên lĩnh vực kinh tế được nêu tại Đại
hội lần thứ VI ( 1986 ) của Đảng. Theo anh chị, đường lối đó có ý nghĩa như thế
nào với sự phát triển của nền kinh tế VN sau 1986

1. a) Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng CSVN tại HNTW
8 (5/1941)
b) Tại sao trg ĐH III (9/1960), Đảng xác định " CM miền Nam giữ vai trò qđ trực
tiếp" ?
2. PT quá trình đổi mới tư duy của Đảng CSVN về CNH, HĐH thời kỳ đổi mới.
Theo a/c, VN cần có những giải pháp gì để xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường ko
khí tại các đô thị lớn hiện nay.
Ps: Học đề cương 10 trang và ôn thêm ý nghĩa lịch sử của các HNTW, cương lĩnh
ctri là ổn nha.

1. (4đ) Nêu nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930)
2. (6đ) Nêu nội dung Cương lĩnh 1991 (Cương lĩnh của đại hội VII). Nêu bài
học cho Việt Nam hiện tại.

Câu 1: Nội dung, ý nghĩa của Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần 8 (1941)
Câu 2: Nội dung cơ bản của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được
đề ra tại ĐH XI. Giải pháp cho VN

You might also like