You are on page 1of 31

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP NHÓM


HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

Sinh viên thực hiện: Tô Thị Thảo Ngân - 11216454


Nguyễn Thúy Ngân - 11216453
Hoàng Thanh Lam - 11216435
Nguyễn Khánh Linh - 11216438
Bế Thị Trà Mi - 11216447
Vũ Kiều Linh - 11213478
Nguyễn Tiến Đạt - 11211272
Nguyễn Sơn Tùng - 11216491
Dương Hồng Thái – 11216473
Lớp học phần: LLTT1101(123)_33
Giảng viên: TS. Nguyễn Hồng Sơn
Hà Nội, 2023

MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU............................................................................................................. 3
II. NỘI DUNG........................................................................................................4
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế...............................................4
1.1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế........................................................4
1.2. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức................................8
1.3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế................................................................12
2. Vận dụng.....................................................................................................16
2.1. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại......................16
2.2. Vận dụng tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế ở giai đoạn hiện nay.20
2.3. Giải pháp tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc
tế trong giai đoạn hiện nay............................................................................27
III. TỔNG KẾT....................................................................................................30
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................31

2
I. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại rất nhiều những di sản vô giá và hữu ích cho
con đường cách mạng Việt Nam, là kim chỉ nam dẫn những cuộc cách mạng Việt
Nam đến bước thắng lợi, góp phần to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sinh
thời, Hồ chủ tịch cũng đã để lại những tư tưởng thiết thực cho kinh tế xã hội thời
nay, đặc biệt là tư tưởng về đoàn kết quốc tế

Đoàn kết quốc tế là sự liên kết gắn bó, hợp tác giữa các dân tộc, các quốc gia
trên thế giới trên cơ sở những nguyên tắc chung, nhằm mục tiêu chung. Trong đó,
đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức, bóc lột, vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của đoàn kết
quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Người đã dành nhiều
tâm huyết nghiên cứu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt
Nam, xây dựng nên một hệ thống tư tưởng về đoàn kết quốc tế phong phú và sâu
sắc.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, đoàn kết quốc tế là một nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng vô sản. Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc,
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
thực tiễn Việt Nam, xác định đoàn kết quốc tế là nền tảng, là sức mạnh vô địch của
cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã khẳng định, đoàn kết quốc tế là một trong những nguyên tắc cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Người đã nhiều lần nhấn mạnh: "Đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là tất cả".

3
II. NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
1.1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế

Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một hệ thống các nguyên lý, quan
điểm, quan niệm về thế giới và thời đại, về đường lối quốc tế, chiến lược và sách
lược ngoại giao. Tư tưởng đó còn thể hiện trong chính sách và hoạt động đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta. Đó là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Đó là quyền tự do của các dân tộc được sống trong hòa bình, là tư tưởng hòa bình
cho Việt Nam và hòa bình cho thế giới, chống chiến tranh xâm lược, chống can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước, chống các chính sách cường quyền và áp
đặt trong quan hệ quốc tế.

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế là tập hợp lực lượng
bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. Đây là một trong những nội
dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là một trong những bài học kinh
nghiệm quan trọng nhất, mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.

Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước
hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc, sức
mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập
tự do… Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, khó khăn
trong dựng nước và giữ nước. Sức mạnh dân tộc ấy từng được chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định trong “Báo cáo chính trị”, trình bày tại đại hội lần thứ hai của
Đảng Lao Động Việt Nam họp tại Việt Bắc tháng 2 năm 1951: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
cướp nước và lũ bán nước!” Thực tiễn lịch sử cũng cho thấy, dân tộc Việt Nam

4
chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi nhờ toàn dân luôn đoàn kết
một lòng, cùng nhau đứng lên bảo vệ tổ quốc.

Sức mạnh thời đại là sức mạnh phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức
mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết
thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát
hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn của các phong trào cách mạng thế giới mà Việt
Nam cần tranh thủ. Các phong trào đó nếu được liên kết, tập hợp trong một khối
đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ sung
những nhân tố mới, phản ánh sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử toàn
thế giới và tiến trình chính trị quốc tế sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga năm 1917. Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức còn là
sức mạnh của tiến bộ khoa học công nghệ, làm thay đổi có tính cách mạng về các
lĩnh vực như: năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, giao thông vận tải,... Loài
người đã tiến một bước dài trong việc chinh phục, khám phá và vận dụng thiên
nhiên, mang lại hy vọng cho tương lai.

Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành công và thành công đến nơi
khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.“Cách mệnh An
Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế
giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Cùng với quá trình phát triển thắng lợi
của cách mạng Việt Nam trong quan hệ quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào
cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và
cụ thể hơn. Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong
buổi nói chuyện với đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961, Hồ Chí Minh nói: “Có
sức mạnh cả nước một lòng…lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ
có một sức mạnh tổng hợp công với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định
cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng”

Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là
đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư bản chủ
nghĩa nói chung; đoàn kết với nước Nga Xô Viết, với Liên Xô và sau này mở rộng
ra tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết với phong trào đấu tranh vì hòa bình,
5
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới; đặc biệt là đoàn
kết với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, hai nước cùng cảnh ngộ với Việt
Nam trên bán đảo Đông Dương, thực hiện khối đoàn kết Việt - Miên - Lào trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân giành độc lập tự do cho mỗi dân
tộc và hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước.

Tóm lại, theo Hồ Chí Minh thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với
đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết
quốc tế. Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ
thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và
hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại

Trong tác phẩm Thường thức chính trị (1945), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Tinh
thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân với các nước khác để gìn
giữ hòa bình thế giới, chống chế sách xâm lược và chiến tranh của đế quốc”.
Người cũng từng đưa ra một luận điểm nổi tiếng:

“Quan sơn muôn dặm một nhà

Bốn phương vô sản đều là anh em”

Như vậy, Người muốn chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi
nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc và thế lực phản động quốc tế vì mục tiêu cách mạng thời đại.

Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm
dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng

6
sâu rộng cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời
vận mệnh chung của cả loài người. Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại
mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng
Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Trong suốt quá trình
đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình mà còn kiên trì đấu
tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách
mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh
vì mục tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới kiên trì chống lại mọi khuynh
hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh...
những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng
cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản trên thế giới phải tiến hành
có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế vô sản cho nhân dân.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh,
thắng lợi của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã
được bổ sung nguồn lực mới. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam
đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế, huy động được sức mạnh của
các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội,
chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.

Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng
nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời
đại. Bởi lẽ, nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước
mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống
còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

7
1.2. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức

Các lực lượng cần đoàn kết

Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, song
tập trung chủ yếu vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ thế giới.

Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

Đây là lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh cho rằng, sự
đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của
chủ nghĩa cộng sản. Do đánh giá rất cao vai trò của khối đoàn kết của giai cấp vô
sản thế giới, tháng 12-1920, tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh
đã lên tiếng: "Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã
hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi".
Nhờ việc tiếp nhận học thuyết Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tìm thấy "cái cẩm nang thần kỳ" cho sự nghiệp
cứu nước của các dân tộc bị nô dịch. Đồng thời Người cũng tìm thấy một lực
lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Đó là phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô và sau này là các
nước xã hội chủ nghĩa, là Quốc tế thứ ba và sau này là Cục Thông tin quốc tế. Từ
đó, Người đã dành nhiều thời gian và tâm lực, phấn đấu, không mệt mỏi cho việc
xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.

Hơn nữa, chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các
đảng cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của
giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là
một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế
giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình
và ủng hộ lẫn nhau của lao động toàn thế giới theo tinh thần "bốn phương vô sản
đều là anh em" mới có thể chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa
đế quốc thực dân. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt
8
Nam không thể tách rời sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa khác, của các đảng cộng sản và công nhân thế giới. Nó
khẳng định trên thực tế những giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản
mà sinh thời Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ. Cho dù lịch sử có đổi
thay, song sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện về vật chất của các nước xã hội chủ
nghĩa, của các lực lượng cộng sản và công nhân cho Việt Nam theo tinh thần quốc
tế vô sản là không thể phủ nhận.

Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc

Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các
nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc nhằm làm
suy yếu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì
vậy, Người đã kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp
nhằm "Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu
biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương
lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản''.
Thêm vào đó, để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô
sản chính quốc như hai cái cánh của cách mạng thời đại. Hồ Chí Minh còn đề nghị
Quốc tế cộng sản bằng mọi cách phải "Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc
địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự
hợp tác thật sự sau này. Và chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công
nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng". Người nói đứng trước chủ nghĩa đế quốc,
quyền lợi của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là
thống nhất.

Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do
và công lý

Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh
giai cấp, Hồ Chí minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu
bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của
các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt
9
Chính phủ Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố: "Chính sách ngoại giao của Chính
phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới
để gìn giữ hòa bình"; "Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một
thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè". Bên cạnh ngoại giao nhà
nước, Hồ Chí Minh đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của
nhân dân Việt Nam tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa của
nhân dân thế giới, của nhân dân Á Phi..., xây dựng các quan hệ hữu nghị, đoàn kết
với các lực lượng tiến bộ thế giới.

Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và
công lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của những người tiến bộ, tạo nên
những tiếng nói liên hệ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và
từng con người trên hành tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành được sự
đồng tình, ủng hộ rộng rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí Minh khẳng
định: Chính vì biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp bức mà Đảng ta đã vượt qua
được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ
vang như ngày nay.

Hình thức tổ chức

Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách
lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi
khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ năm 1924 Hồ
Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập "Mặt Trận thống nhất của nhân dân
chính quốc và thuộc địa'' chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế
Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để đến Đại hội VI (1928), quan điểm này trở
thành sự thật. Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị
- xã hội trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng
trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết
quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.

10
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan
tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm
tương đồng về lịch sử văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm
1941 để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết định
thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Ngày 19-5-
1941, Mặt trận Việt Minh đã ra đời thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập
mặt trận của mình. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông
Dương (Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào) phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng
chiến đấu, cùng thắng lợi.

Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết
hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần "vừa là đồng chí, vừa là anh em" với
Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời với Việt Nam:
thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc
lập. Với các dân tộc Châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền
hòa bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á quan hệ mật thiết với
vận mệnh dân tộc Việt Nam, Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với
việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp. Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của
mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất
hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham gia sáng
lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận
nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.

Những năm đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với Mặt trận dân chủ và lực lượng Đồng minh chống phát xít nhằm tạo
thế dựa cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có
cả nhân dân Pháp trong kháng chiến chống thực dân Pháp và nhân dân Mỹ trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với
Việt Nam chống đế quốc xâm lược.

11
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã
định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc;
Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt
Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại
đoàn kết của Hồ Chí Minh.

1.3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế

Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có tình

Muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế, phải tìm ra được những điểm tương
đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào
cách mạng thế giới. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này
nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của
cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của
Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết
thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có
lý, có tình. Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh dành suốt
đời đấu tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong cách mạng thế
giới, trước hết là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người chỉ ra rằng
đoàn kết giữa các Đảng là “điều kiện quan trọng để đảm bảo cho phong trào cộng
sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng
của toàn thể loài người. Thực hiện sự đoàn kết đó cũng phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa
quốc tế vô sản. “Có lý” tức là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới, đồng thời
phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của mỗi
nước, mỗi đảng. “Có tình” là sự cảm thông, tôn trọng nhau trên tinh thần của
12
những người chung lý tưởng, mục tiêu đấu tranh. Tôn trọng lợi ích của mỗi dân
tộc, mỗi đảng nếu lợi ích đó không phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng,
dân tộc khác. “Có lý, có tình” vừa thể hiện nguyên tắc, vừa là một nội dung của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng
lớn lao trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và tình
đoàn kết trong nhân dân lao động.

Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập,
tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư
tưởng nhất quán, được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là “lẽ phải không ai chối cãi
được”. Người không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lâp, tự do của dân tộc mình mà
còn đấu tranh cho độc lập, tự do cho các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt
Nam và các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với các quốc
gia trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc:
Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
quyền tự quyết của tất cả các dân tộc, quốc gia trên thế giới, đồng thời mong muốn
các nước trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những
nguyên tắc đó. Những quan điểm trên được Người thể chế hóa sau khi Việt Nam
giành được độc lập. Tháng 9 năm 1947, trả lời nhà báo Mỹ S. Êli Mâysi, Hồ Chí
Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả
mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.

Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trên hầu khắp các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người
không chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc
đấu tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng
độc lập và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi
xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của nhân dân thế giới
trong việc khẳng định bản sắc dân tộc, đồng thời thúc đẩy sự đoàn kết, hữu nghị
giữa các dân tộc trên thế giới vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.

13
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống
hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những
giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương
cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho một nền hòa bình thật sự cho tất cả các dân
tộc - “hòa bình trong độc lập, tự do”. Nền hòa bình đó không phải là một nền hòa
bình trừu tượng, mà là “một nền hòa bình chân chính xây trên công bằng và lý
tưởng dân chủ", chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của các
quốc gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hòa bình trong công lý, lòng
thiết tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí
Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng
cảm hoá, lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam
đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình. Trên thực tế, đã hình thành một mặt
trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ

Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập nền ngoại
giao Việt Nam hiện đại. Trên cương vị Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước, Người
luôn quan tâm chỉ đạo công tác đối ngoại, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy sức
mạnh của dân tộc, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các nước và nhân dân thế giới
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Xuất phát từ truyền
thống ngoại giao và thực tiễn Việt Nam, Người đề xuất và xây dựng nhiều nguyên
tắc, quan điểm, lý luận về thời đại, về đường lối quan hệ quốc tế và chính sách đối
ngoại của Việt Nam. Tư tưởng độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hợp tác quốc tế
đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt các hoạt động đối ngoại từ khi lập quốc đến
nay. Nguyên lý chủ yếu của tư tưởng đó là “muốn người ta giúp cho, thì trước
mình phải tự giúp lấy mình đã”. Giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là
nguyên tắc bất biến để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Theo Hồ Chí
Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi, giáo điều. Tự chủ
là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước
nhân dân, trước đất nước, biết làm chủ bản thân và công việc.
14
Đồng thời, đoàn kết, hợp tác quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng, không thể
thiếu của cách mạng Việt Nam. Bởi đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế nhằm tăng thêm nội lực và tạo môi
trường quốc tế thuận lợi, sức mạnh tổng hợp để hoàn thành tốt các nhiệm vụ cách
mạng đã đặt ra. Mối quan hệ biện chứng giữa “độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường với
đoàn kết, hợp tác quốc tế” chính là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa sức
mạnh nội lực và nguồn lực ngoại sinh. Trong đó, nội lực, thực lực là nhân tố quyết
định: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng, chiêng có
to tiếng mới lớn và Người còn nhấn mạnh cái gốc, cái điểm mấu chốt về chính trị,
quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh. Chính vì vậy,
Người đã nêu cao khẩu hiệu :” Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Quan
điểm về mối quan hệ biện chứng là cơ sở của tư tưởng “gắn kết giữa độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường với đoàn kết, hợp tác quốc tế”. Để tăng cường đoàn kết, hợp
tác quốc tế, trước hết phải phát huy độc lập, tự chủ: “Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”, hơn thế nữa: “Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ
ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cầu thị, học
tập, hợp tác quốc tế, nhưng nhấn mạnh phải giữ gìn “bản sắc”, tránh rơi vào hai
khuynh hướng sai lầm: nếu không “chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong
khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm
chủ nghĩa giáo điều”; ngược lại, “nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ
nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì
sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người
nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không
có sự can thiệp ở ngoài vào”. Trong quan hệ giữa các đảng thuộc phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế, Người xác định:”Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và
bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng
lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, với đường lối độc lập, tự chủ, giương cao hai ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc và lợi ích
quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt

15
Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước xã hội
chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này đang có
những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt
Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến
chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước
xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.

2. Vận dụng
2.1. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế bắt nguồn từ tình yêu
thương đối với con người, nhân loại, đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải
phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt cách
mạng Việt Nam trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920,
khi tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua với tư
cách là đại biểu Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế Cộng sản, trở thành một thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ đây,
Người đã đặt nền móng cho tình đoàn kết giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Pháp, tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa phong trào cách mạng Việt Nam
với phong trào cách mạng thế giới.

Trong giai đoạn hoạt động cách mạng ở Pháp và Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, Hội liên hiệp thuộc
địa, Quốc tế Cộng sản nhằm thiết lập mối quan hệ với các nhà lãnh đạo của các
phong trào cách mạng thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc,
với các hoạt động ngoại giao khôn khéo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tranh thủ được
sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kể cả Quốc dân Đảng, tổ chức một số
hoạt động nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động cách mạng của ta, như thành lập
“Việt Nam độc lập đồng minh hội Hải ngoại biện sự xứ” - cơ quan đại diện của
Mặt trận Việt Minh ở nước ngoài - nhằm duy trì quan hệ với Quốc dân Đảng
Trung Quốc và làm nơi liên lạc quốc tế của cách mạng Việt Nam. Với cơ quan đại

16
diện này, cách mạng Việt Nam đã có sự liên hệ với các lực lượng cách mạng ở
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.

Như vậy, có thể thấy, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác
quốc tế được hình thành và phát triển trong suốt quá trình hoạt động cách mạng
của Người. Qua các bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các văn
kiện về đường lối, chính sách đối ngoại, đoàn kết quốc tế của Đảng và Nhà nước
ta; từ những tác phẩm của các học trò xuất sắc của Người; từ các chiến sĩ cộng sản
quốc tế, các chính khách, các nhân sĩ, tri thức và bạn bè quốc tế viết, nói về Bác...
cho thấy nét đặc sắc, toàn diện về tư duy, phương pháp, phong cách đoàn kết và
hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, đoàn kết, hợp tác quốc tế có mối quan hệ biện chứng với độc
lập, tự chủ

Với tư duy nhất quán “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp
lấy mình đã”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao “độc lập, tự chủ” trong hợp tác và
đoàn kết quốc tế. Theo Người, giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là
nguyên tắc bất biến để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc. “Đó chính là kết
tinh của sự nghiệp đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước,
không giáo điều. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ, hành động của
mình, tự chịu trách nhiệm trước nhân dân, đất nước, biết làm chủ bản thân và công
việc. Trong quan hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Độc lập nghĩa là
chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở
ngoài vào”. Người kiên quyết: “Độc lập mà không có quân đội riêng, ngoại giao
riêng, kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc
lập giả hiệu ấy”. Như vậy, không chỉ dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, mà lĩnh vực ngoại giao, đối ngoại cũng phải độc lập, không bị
bất kỳ thế lực, lực lượng nào chi phối.

Với nhãn quan chiến lược sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sâu
sắc, cụ thể mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với đoàn kết, hợp tác quốc
tế; giữa tự lực, tự cường với hợp tác và phát triển. Người không tuyệt đối hóa một
17
nhân tố nào, mà đề cập rất rõ ràng, sinh động về vị trí, vai trò của từng nhân tố, sự
liên kết của sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài. Trong mối quan hệ biện
chứng đó, “độc lập, tự chủ” luôn giữ vai trò quyết định, là nền tảng vững chắc để
thúc đẩy hợp tác quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế; đồng
thời, đoàn kết, hợp tác quốc tế chính là tạo môi trường quốc tế thuận lợi, sức mạnh
tổng hợp để giữ vững độc lập, tự chủ. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ
với đoàn kết, hợp tác quốc tế chính là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa đối
nội và đối ngoại, sức mạnh bên trong và sức mạnh bên ngoài, giữa sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại.

Thứ hai, đoàn kết, hợp tác quốc tế phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia,
dân tộc

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết, hợp tác quốc tế trong
đường lối đối ngoại của Việt Nam là phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết,
trước hết; nói cách khác, muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc. Ngày 14-1-
1950, trong Lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng
Chính phủ các nước trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước
nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước
Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”.

Rõ ràng, quan điểm đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, lấy mục tiêu
độc lập dân tộc là hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn hợp quy luật
và lô-gíc phát triển của hoạt động đối ngoại cũng như truyền thống chống ngoại
xâm của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là khát khao cháy bỏng, nguyện vọng chính
đáng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, cần hiểu đúng quan điểm “bảo đảm lợi ích
quốc gia, dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa biệt phái.

Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn chủ trương tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự hợp tác quốc tế, coi đây
là vấn đề mang tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu của đoàn kết, hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự

18
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, thúc đẩy khả năng tự lực, tự
cường, tạo điều kiện làm chuyển biến so sánh lực lượng thuận lợi cho cách mạng.
Theo đó, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường phải gắn với đoàn kết, hợp tác quốc tế
với mục tiêu mang lại thắng lợi cho cách mạng, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trong đoàn kết, hợp tác quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chủ trương đối
thoại, hợp tác với bên ngoài, với các nước bằng mọi giá, mà phải dựa trên cơ sở
giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Theo Người, bất kỳ
nước nào muốn hợp tác với Việt Nam, muốn đem tư bản đến kinh doanh ở Việt
Nam với mục đích làm lợi cho cả hai bên thì sẽ được Việt Nam hoan nghênh.
Ngược lại, bất kỳ nước nào mong muốn đưa tư bản đến để ràng buộc, áp đặt thì
Việt Nam sẽ kiên quyết từ chối. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định độc lập,
chủ quyền, bình đẳng là nền tảng trong mọi quan hệ hợp tác quốc tế. Người chỉ rõ:
“Trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao và thương mại với tất cả các nước”. Ngay khi mới giành được chính
quyền, Người sẵn sàng mời những nhà chuyên môn đến từ Pháp, Mỹ, Nga,... qua
Việt Nam giúp ta kiến thiết đất nước, nhưng với điều kiện họ phải thừa nhận quyền
độc lập của nước ta. Theo Người, “Nếu không vậy, thì không thể nói chuyện gì
được cả”. Đó là một nguyên lý cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là “sợi chỉ đỏ”
xuyên suốt toàn bộ hoạt động ngoại giao Việt Nam.

Thứ ba, đoàn kết, hợp tác quốc tế để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ
lực góp phần tăng cường hiểu biết giữa các dân tộc, xây dựng tình đoàn kết giữa
các lực lượng cách mạng và dân chủ, thúc đẩy quan hệ quốc tế hữu nghị và hợp tác
giữa các quốc gia nhằm củng cố, bảo vệ, giữ vững hòa bình và độc lập dân tộc.
Người chủ trương tích cực, chủ động đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững
độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau; thực hiện phương châm “làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, “thêm bạn, bớt thù” và “giúp bạn
là tự giúp mình”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết, hợp tác quốc tế không
những để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, mà còn là thể hiện
trách nhiệm ủng hộ, giúp đỡ các nước khác, thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Vì lẽ đó,
Người chủ trương, một mặt, cần ra sức kháng chiến, tham gia các phong trào ủng
19
hộ hòa bình trên thế giới; mặt khác, hợp tác phải đi đôi với đấu tranh. Người kiên
quyết đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, cường quyền, áp đặt trong quan hệ
quốc tế, cũng như mọi hành động can thiệp và xâm phạm lợi ích chính đáng của
các dân tộc. “Những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các
dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

2.2. Vận dụng tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế ở giai đoạn hiện nay

Quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế của Đảng
ta

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là
tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Các quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế được hình thành từ rất sớm - giai
đoạn lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bôn ba tìm đường cứu nước. Đó là một quá trình
nhận thức cả lý luận và thực tiễn về sự phát triển và hội nhập với thế giới, từ tự
thân hội nhập đến hoạt động không mệt mỏi của Người nhằm đưa cách mạng Việt
Nam hội nhập vào dòng chảy cách mạng thế giới.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế là yêu cầu và nội dung
quan trọng được Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện từ sớm, đặc biệt sau khi tiến
hành sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Đảng và Nhà nước ta xác định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho nhận thức và
hành động trong quá trình kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đẩy
mạnh hội nhập quốc tế.

Dấu mốc đầu tiên cho quá trình đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là Nghị
quyết số 19-NQ/TW ngày 17/7/1984 của Bộ Chính trị về quan hệ kinh tế giữa Việt
20
Nam và các nước. Nghị quyết nêu rõ: “Ưu tiên dành sự hợp tác cho các nước xã
hội chủ nghĩa. Trong những lĩnh vực và quy mô ta định hợp tác, khả năng và yêu
cầu của bạn đến đâu, ta hợp tác đến đó. Phần còn lại hợp tác với các nước dân tộc
chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa phát triển”.

Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã quyết
định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra thời kỳ mới của hội nhập quốc tế. Đại hội
quyết định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI nêu
rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải
tham gia sự phân công lao động quốc tế;… tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và
khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi”…”; “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới
nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng
xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật Đầu tư, cần có các chính sách và biện
pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp
tác kinh doanh”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra: “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, và “Chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 (1991-2000)”, thể hiện đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa theo tinh thần “Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển”, nhằm tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế.
Trong đó: “Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết mối quan
hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa”.
Khai thông quan hệ với các tổ chức tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB),… mở rộng quan
hệ với các tổ chức hợp tác khu vực ở châu Á - Thái Bình Dương.

Tháng 6/1996, Đại hội đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng khẳng định
chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ
kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những
hàng hóa trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường
quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với
21
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và cùng có lợi. Tháng 6/1996, Việt Nam tham gia tổ chức Diễn đàn hợp tác Á
- u (ASEM); tháng 11/1998 trở thành thành viên Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định Thương mại với
Hoa Kỳ. Đây là sự biểu hiện sinh động trong việc hiện thực hóa quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực hội
nhập quốc tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) đã khẳng
định: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Ngày
27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế
quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng liên quan trực tiếp đến chính sách hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam; là sự kế thừa có phát triển trên tầm cao mới theo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện
lịch sử cụ thể của Việt Nam và quan hệ quốc tế.

Ngày 03/02/2004, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số
34-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Nghị quyết nhấn
mạnh nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là chủ động và khẩn
trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa
phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia
nhập WTO; tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định,
thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực; tăng nhanh xuất khẩu và thu
hút mạnh đầu tư nước ngoài.

Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020”, trong đó có một phần riêng về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về hội nhập quốc tế. Tiếp tục cụ thể hóa các quan điểm, nguyên tắc của Nghị
quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế, trong mục tiêu và phương hướng
tổng quát của 5 năm 2006-2010, Đảng ta nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế”.

22
Từ thực tiễn đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu rõ:
“Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới… coi trọng huy động các nguồn
ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển
đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Trong nhiệm kỳ 2006-2010, Đảng ta đã tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của đất nước để đẩy mạnh hoạt
động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế
toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao
nhất.

Tiếp tục phát huy thành quả đạt được của nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, Đảng ta xác
định mục tiêu, phương hướng: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo
lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại
tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu
quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát
triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có
hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành
viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)”.

Đặc biệt, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại, gắn chặt việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
với tăng cường năng lực thể chế đồng bộ, hiện đại. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả
công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đẩy
mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, kết hợp chặt chẽ với đối ngoại song
phương…’’.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong
đường lối đối ngoại hiện nay

23
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối
ngoại vẻ vang của dân tộc, nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc
tế, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa
phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đại hội XIII của
Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng
có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành
viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Tại Hội nghị Đối ngoại
toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng năm 2021, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối
ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới
và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối
ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm
bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”,... thấm
đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”. Chính vì vậy, để vận
dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình
hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều thời cơ thuận lợi và khó khăn,
thách thức đan xen, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết, hợp tác quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối
ngoại hiện nay.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế là quá trình
thực hành các quan điểm có chọn lọc và sáng tạo. Theo đó, công tác hoạch định,
thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay cần chọn lọc những nội dung phù hợp với
yêu cầu thực tiễn để thực hành một cách sáng tạo, trên cơ sở kết hợp những chỉ
dẫn, nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh với điều kiện, đặc điểm và môi
24
trường vận dụng. Có như vậy mới mang lại hiệu quả thiết thực, tránh rơi vào vận
dụng hình thức, máy móc, rập khuôn, thiếu hiệu quả.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế cùng các quan điểm về
đối ngoại có giá trị lịch sử sâu sắc, mang ý nghĩa thời đại, nhưng không phải là bất
biến, cố định, mà cần phải được bổ sung những yếu tố phù hợp với sự vận động,
phát triển không ngừng của thực tiễn. Có như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh mới có
sức sống mạnh mẽ, dẫn dắt, soi đường cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhất là
khi “chúng ta phải nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công,
dám vượt ra khỏi khuôn khổ những tư duy cũ, những lĩnh vực quen thuộc để có
suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế. Chúng ta
cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan
hệ với các nước, song phương cũng như đa phương”.

Để vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp
tác quốc tế đạt kết quả, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân cần nhận thức rõ thế nào là
“vận dụng”, thế nào là “phát triển”; đồng thời, cần nắm vững đối tượng để “vận
dụng” và “phát triển”. Vấn đề đặt ra đối với sự “vận dụng” là phải đúng đắn, sáng
tạo; “phát triển” cần bảo đảm tính kế thừa, đúng hướng. Phát triển là cập nhật nội
dung mới, nâng tầm nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc
tế, góp phần nâng cao giá trị của tư tưởng, lý luận.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt về nội dung, giá
trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đa dạng hóa hình thức
tuyên truyền và làm phong phú các nội dung nhằm mang lại hiệu quả thiết thực
trên không gian rộng hơn. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, cần chú ý đến
hiệu quả, tránh chạy theo số lượng, hình thức; nội dung tuyên truyền cần phù hợp
với từng đối tượng trong xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến thế hệ trẻ, như thanh,
thiếu niên, sinh viên.

Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc
gia, dân tộc.

25
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác
quốc tế ở nước ta hiện nay phải thống nhất hai mặt của mối quan hệ biện chứng:
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng;
tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các
nước, để ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục
tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh
tế - xã hội; đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính
đáng của đất nước phù hợp với luật pháp quốc tế. Một trong những yêu cầu then
chốt nhằm bảo đảm môi trường hòa bình là phải luôn kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt,
khôn khéo, xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ
quyền, lãnh thổ. Đây là “nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị,
trong đó ngành ngoại giao là những người đi đầu”.

Như một tất yếu khách quan, để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm
soát và hóa giải các thách thức, ứng phó tốt với những chuyển biến bên ngoài, cần
ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự nghiệp làm nên bởi chữ Đồng. Theo
đó, cần chú trọng đề cao việc xây dựng và giữ gìn đoàn kết và đồng thuận trong
nước. Với mục tiêu lớn nhất, cao nhất là phải kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc, “tất cả mọi người đều phải vì nước, vì dân”. Có như vậy, trong triển khai
công tác đối ngoại mới có thể vận dụng và sáng tạo một cách hiệu quả nhất tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp tác quốc tế, “kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại”; thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Điểm mấu
chốt là giữ “trái tim nóng, cái đầu lạnh” và “kiên quyết, kiên trì” để xử trí các thách
thức đối ngoại, tranh thủ điểm “tương đồng” về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát
triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế.

Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là
trong các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh
với các nước trên thế giới.

Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, từ một nền
kinh tế lạc hậu, xếp hạng cuối trong số các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam đã
vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
26
(ASEAN) với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở mức hơn 340 tỷ USD (năm 2020).
Giá trị thương hiệu quốc gia hiện đứng ở vị trí thứ 33 trong top 100 thương hiệu
quốc gia giá trị nhất thế giới, chỉ số ảnh hưởng ngoại giao đứng thứ 9/26 ở khu vực
châu Á và đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Nhằm tiếp tục nâng cao vị
thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả
các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trên các lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa,
chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước. Trong đó, cần tập trung kết hợp chặt
chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà
nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc; kiên quyết, kiên trì
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ
sớm, từ xa”; chủ động phòng ngừa và hóa giải các nguy cơ an ninh thông qua thúc
đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và thượng tôn pháp luật.
Tiếp tục duy trì các mối quan hệ với các đối tác, “trước hết là các nước láng giềng
và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ
đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, đồng
thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, kiểm
soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực”.

Thực tiễn minh chứng, hợp tác kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an
ninh là một thể thống nhất, không tách rời nhau, không thể hợp tác thành công nếu
chỉ hợp tác trên một mặt, một lĩnh vực. Đoàn kết, hợp tác quốc tế trên một lĩnh vực
tạo ra các nhu cầu hợp tác và tác động mạnh mẽ đến kết quả hợp tác trên các lĩnh
vực khác, cũng như kết quả chung của quá trình hợp tác quốc tế. Trong đó, hợp tác
về kinh tế giữ vị trí trung tâm, có vai trò tiên phong thúc đẩy các mặt hợp tác khác
phát triển ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng. Hợp tác về quốc phòng, an ninh phải
dựa trên nền tảng hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Quá trình hợp tác
quốc phòng, an ninh là nhằm tạo môi trường hòa bình cho công cuộc phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước và hợp tác quốc tế ngày càng toàn diện hơn. Hợp tác
về quốc phòng, an ninh càng gắn bó chặt chẽ, càng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Di sản đường lối đối ngoại, trong đó có tư tưởng về đoàn kết, hợp tác quốc
tế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là một kho tàng vô cùng quý giá.
Vận dụng sáng tạo và hiệu quả tư tưởng của Người trong công tác đối ngoại hiện

27
nay góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

2.3. Giải pháp tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế trong giai đoạn hiện nay

Đối với Đảng, nhà nước

Quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Cụ thể, Đảng, nhà nước cần có những
chủ trương, chính sách cụ thể để thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước lớn, các nước thành viên ASEAN.
Ví dụ, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, ASEAN,
APEC,... và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do với các nước, trong đó có các
nước lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc,...

Tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân về tầm quan trọng
của đoàn kết quốc tế, từ đó tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội để thực hiện thắng
lợi đường lối đối ngoại của Đảng. Ví dụ, Đảng, nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo về công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có
nội dung về đoàn kết quốc tế.

Tăng cường hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học -
công nghệ. Đây là những lĩnh vực có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp
tác quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Ví dụ, Việt
Nam đã hợp tác với nhiều nước trong lĩnh vực kinh tế như đầu tư, thương mại, du
lịch,...; hợp tác trong lĩnh vực văn hóa như giao lưu văn nghệ, triển lãm,...; hợp tác
trong lĩnh vực giáo dục như trao đổi sinh viên, giáo viên,...; hợp tác trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ như nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ,..

28
Đối với học sinh, sinh viên, thế hệ trẻ

Tích cực học tập, rèn luyện để trở thành người có tri thức, có kỹ năng, có
phẩm chất tốt. Đây là nền tảng để học sinh, sinh viên có thể đóng góp tích cực vào
sự phát triển của đất nước và góp phần thực hiện đoàn kết quốc tế.

Tham gia các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế. Đây là cơ hội để học
sinh, sinh viên có thể giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với bạn bè quốc tế, từ
đó góp phần tăng cường sự hiểu biết, gắn bó giữa Việt Nam với các nước trên thế
giới.

Có thái độ tích cực, ủng hộ các hoạt động hòa bình, hữu nghị, hợp tác
quốc tế. Đây là cách thể hiện trách nhiệm của học sinh, sinh viên trong việc góp
phần xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.

Tuyên truyền, vận động người thân, bạn bè cùng tham gia các hoạt động
đoàn kết quốc tế.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế là một quy luật khách quan
của lịch sử, là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và tiến bộ xã hội. Người đã khẳng định: "Đoàn kết là sức mạnh,
đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là sức mạnh".

Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục thực hiện tư tưởng này một cách
hiệu quả, cần có sự chung tay của cả hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ.

29
III. TỔNG KẾT
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là một hệ thống tư tưởng phong
phú và sâu sắc, được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin và được Người vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Tư tưởng này đã
góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong tình hình hiện nay,Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn còn
nguyên giá trị và tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong
quá trình hội nhập quốc tế và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, ta cần chú trọng
những vấn đề sau:

Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế
Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế. Cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về
tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế, coi đoàn kết quốc tế là nền tảng, là sức mạnh
vô địch của cách mạng Việt Nam.

Tăng cường hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực


Đây là phương thức quan trọng để thực hiện đoàn kết quốc tế. Cần tăng cường hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giáo dục, đào
tạo,... nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Đấu tranh bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Đây là mục tiêu của đoàn kết quốc tế. Cần tích cực tham gia các hoạt động đấu
tranh bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là một tài sản vô giá của dân tộc
Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Việc tiếp tục thực hiện tốt tư tưởng này sẽ góp phần
to lớn vào việc xây dựng một thế giới hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ.

30
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mạnh Quang Thắng (2019), “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật.

2. TS Lê Văn Hải (2023). Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

3. PGS, TS. Nguyễn Hồng Vinh (2021). Tính chiến đấu, tính thuyết phục trong
những bài Bác Hồ trả lời phỏng vấn của các nhà báo.

4. Nguyễn Văn Nguyên (2016). Phẩm chất và bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

6. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 5

7. PGS, TS. Trần Vi Dân: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối
ngoại, đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong tình hình hiện nay”, Tạp chí
Cộng sản điện tử.

8. Bảo tàng Hồ Chí Minh: “Về Nghị quyết của UNESCO vinh danh Chủ tịch
Hồ Chí Minh”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
tr.88.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, tr.161-162, tr.282-283.

31

You might also like