You are on page 1of 17

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC SÀI GÒN


KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN

MÔN: GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH (I)

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Sinh viên thực hiện : Tờ Ngọc Trâm Anh


MSSV : 3120430003
Lớp : DLU1202
Phòng thi : Nhóm 14

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2022


MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................... 1


LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 2
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ............................................................................. 3
1.1. Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh ........................................................................ 3
1.2. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Le-nin ....................................... 3
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ....................... 4
Chương 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA ................................................................................................................................. 7
2.1. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là tất yếu khách quan thể hiện ý chí quyết tâm của nhân dân ta
7
2.2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nghĩa vụ
trách nhiệm của mọi công dân ............................................................................................ 7
2.3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp với
sức mạnh thời đại ............................................................................................................... 8
2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa 8
Chương 3 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI ..................................................................................... 10
3.1. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta .................................................................................. 10
3.2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là toàn diện, cả phương diện tự
nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất ........................................... 10
3.3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp; củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng
11
3.4. Quốc phòng và an ninh quan hệ chặt chẽ, thống nhất trong mục tiêu bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa ............................................................................................................... 11
3.5. Có kế sách phòng, chống các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động
phòng ngừa, khắc phục các yếu tố tác động tiêu cực đến sự nghiệp củng cố quốc phòng, giữ
vững an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới............................................. 12
3.6. Quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn ........................................................................................ 12
3.7. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước ..................................................................................... 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 14
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BVTQ Bảo vệ Tổ quốc
CNXH Chủ nghĩa xã hội
XHCN Xã hội chủ nghĩa

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển đất nước 5 năm tới; trong đó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là một nội dung
quan trọng. Quán triệt sâu sắc tinh thần đó sẽ là cơ sở quan trọng để xác định phương
hướng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, bảo vệ
Tổ quốc trong thời gian tới.
Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc qua 30 năm đổi mới;
đồng thời, tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại, Đại hội XII của Đảng kiên định và xác định
những vấn đề cơ bản về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới, thể hiện
sâu sắc tư duy mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng ta.
Do đó, tác giả chọn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.

2. Mục tiêu đề tài


Mục đích của đề tài tiểu luận là làm rõ lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

3. Phương pháp nghiên cứu


Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phương pháp cụ thể là: phân tích,
tổng hợp, so sánh, hệ thống, kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp, thống
kê, lôgic…
4. Cơ cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Chương 3: Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
tình hình mới

2
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ
TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng XHCN.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn
70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam.

1.2. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Le-nin
Từ thực tiễn tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và công cuộc đấu
tranh chống xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ chính quyền Xô viết non trẻ - Nhà
nước XHCN đầu tiên trên thế giới; đồng thời, kế thừa tư tưởng vũ trang quần chúng bảo
vệ thành quả cách mạng XHCN của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã tổng kết, bổ
sung, phát triển, xây dựng nên học thuyết BVTQ XHCN. Trong đó, Ông đã khái quát
và luận giải những vấn đề có tính nguyên tắc đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, như: tính tất yếu khách quan, mục tiêu,
nhiệm vụ, phương thức, lực lượng và sức mạnh BVTQ XHCN; vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước; xây dựng và củng cố khả năng quốc phòng;
tổ chức, xây dựng quân đội kiểu mới; vấn đề vũ trang cho toàn dân; mối quan hệ giữa
xây dựng với BVTQ XHCN, v.v.
Theo V.I. Lênin, để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, giai cấp vô sản
tất yếu phải cầm vũ khí chiến đấu BVTQ XHCN. Người viết: “Không cầm vũ khí bảo
vệ nước cộng hòa XHCN, thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không
bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh
trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ
chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”. Đồng thời, BVTQ bao giờ cũng gắn
với bảo vệ Đảng Cộng sản, Nhà nước và chế độ XHCN. Người chỉ rõ: “Chúng ta tán
thành “BVTQ”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc

3
chiến tranh BVTQ XHCN, bảo vệ CNXH với tính cách là tổ quốc, bảo vệ nước Cộng
hòa Xô viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của CNXH”.
Trong bối cảnh Nhà nước Xô viết vừa mới ra đời, để chống lại sự tấn công vũ
trang của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên trong, V.I. Lênin nhấn mạnh
phương thức đấu tranh bằng vũ trang của giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo
vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của lực lượng quần
chúng công - nông - binh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự tổ chức, quản lý của
Chính quyền Xô viết, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Trong đó, V.I. Lênin
đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của quần
chúng nhân dân lao động, Người chỉ rõ: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi
đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”. Cùng với
đó, V.I. Lênin luôn quan tâm đến xây dựng và củng cố quốc phòng cả về tiềm lực và thế
trận, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. Người căn dặn, phải tranh thủ thời gian
hòa bình, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi, ra sức xây dựng các tiềm lực kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, quân sự và chuẩn bị đất nước sẵn sàng chiến
đấu, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân biến các tiềm lực và thế trận quốc phòng
thành sức mạnh hiện thực để BVTQ XHCN. Đó là trách nhiệm của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự tổ chức, quản lý của Nhà nước chuyên chính vô sản.
Người khẳng định: “Nghĩa vụ tuyệt đối của toàn thể quần chúng lao động là đem hết
sức mình ra để khôi phục và tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước” và “Chính
vì chúng ta chủ trương BVTQ, nên chúng ta đòi hỏi phải có thái độ nghiêm túc đối với
vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”. Kết
hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ XHCN là vấn đề được V.I.
Lênin luôn quan tâm; là nguyên tắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Người đã đề ra hệ
thống lý luận, nguyên tắc về tổ chức, xây dựng và hoạt động của quân đội kiểu mới của
giai cấp công nhân; đồng thời, yêu cầu Đảng Cộng sản, Nhà nước phải hết sức chăm lo
xây dựng quân đội hùng mạnh, làm nòng cốt trong sự nghiệp BVTQ, trên cơ sở vũ trang
toàn dân.
Thực tiễn công cuộc bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I. Lênin
và Đảng Bolshevik (Bôn-sê-vích) lãnh đạo và công cuộc BVTQ của các nước XHCN
đã khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng to lớn của học thuyết BVTQ của
V.I. Lênin. Những tư tưởng đó, không những có giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa hiện
thực tiếp tục chỉ đạo công cuộc BVTQ XHCN hiện nay.

1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, vận dụng sáng tạo học thuyết của V.I. Lênin đề
ra đường lối cách mạng xây dựng và BVTQ đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử, nhất là trong trong công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết, tư duy lý luận của Đảng
về BVTQ có sự phát triển, chuyển từ coi BVTQ chủ yếu là các vấn đề quân sự và chiến
tranh sang tư duy BVTQ bằng sức mạnh tổng hợp và tất cả lực lượng; BVTQ ngay từ
thời bình, từ sớm, từ xa, từ lúc đất nước chưa nguy. Đảng xác định và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và BVTQ, đó là: “Dựng nước
đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây dựng CNXH và

4
BVTQ XHCN là quy luật phát triển của cách mạng nước ta”. Đây là sự khẳng định đúng
đắn, có tính quy luật, trên cơ sở lý luận và thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cũng như trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của
Đảng tiếp tục xác định: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu,
thường xuyên”.
Về mục tiêu BVTQ, nhận thức của Đảng ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn, thấy
rõ mối quan hệ biện chứng giữa các mặt tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội. Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ XHCN,
nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính
trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành
mạnh để phát triển đất nước theo định hướng XHCN”.
Về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam, Đảng ta chỉ rõ: những ai chủ
trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác và
bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có
âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
BVTQ đều là đối tượng đấu tranh. Xác định như vậy là sự phát triển về tư duy, nhận
thức của Đảng về đối tượng, đối tác, thấy được sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng,
đối tác, trong đối tượng có những mặt cần tranh thủ hợp tác, trong đối tác có những mặt
cũng cần cảnh giác, đấu tranh. Nhờ đó, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho xây dựng
và BVTQ, nhất là trong các hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Về phương thức và lực lượng, Đảng chủ trương phát huy cao nhất sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ
tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình
phù hợp với luật pháp quốc tế. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng
và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh
nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc
phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại.
Trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về xây dựng quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng luôn quan tâm, đề ra đường lối, nguyên tắc tổ
chức, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại; lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức
mạnh chiến đấu, bảo đảm Quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân
dân. Nhờ đó, Quân đội nhân dân cùng toàn Đảng, toàn dân lập nhiều chiến công hiển
hách, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thực sự là

5
nòng cốt trong sự nghiệp BVTQ. Hiện nay trước yêu cầu sự nghiệp xây dựng và BVTQ
trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn,
mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức
và cán bộ”. Đồng thời, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác đảng, công tác chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp BVTQ.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và BVTQ đặt ra yêu cầu cao. Vì vậy, hơn lúc nào
hết, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần nhận thức sâu sắc, vận dụng và phát triển
sáng tạo học thuyết BVTQ xã hội của nghĩa của V.I. Lênin đề ra đường lối, chiến lược
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

6
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
2.1. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là tất yếu khách quan thể hiện ý chí quyết tâm của
nhân dân ta
Tính tất yếu khách quan BVTQ được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, ý chí giữ nước
của Người rất sâu sắc, kiên quyết. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đêm ngày
19/12/1946 Người nói: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”.
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không phân chia tôn giáo,
Đảng phải, dân tộc. Ai có súng thì dùng súng, ai có gươm thì dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta”.
Ngay sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực
dân, đế quốc và bọn phản động các loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta đề ra
nhiều biện pháp thiết thực cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng
chiến lâu dài. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do….Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta,
thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”. Trong lời di chúc cuối cùng của Người căn
dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải
hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta cũng phải quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”.
2.2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
nghĩa vụ trách nhiệm của mọi công dân
- Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. BVTQ
XHCN là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, BVTQ là sự gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, là sự thống
nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung giai cấp và nội dung thời đại.
- Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đã xác định BVTQ XHCN là trách nhiệm, là nghĩa
vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước.
Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do
độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu gọi: Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc.

7
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Người kêu gọi nhân dân cả nước
quyết tâm chiến đấu thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến
tới thống nhất nước nhà.
2.3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết
hợp với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp
trong nhiệm vụ BVTQ XHCN. Sức mạnh tổng hợp là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn
dân, của từng người dân, của các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, là sức mạnh
của các nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, an ninh, ngoại giao, văn hoá – xã hội, sức
mạnh truyền thống với sức mạnh hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong sức mạnh tổng hợp đó, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng sức mạnh nhân dân, sức
mạnh lòng dân. Người khẳng định, phải “dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân”,
“toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng, quyết không làm nô lệ; kết hợp với sức mạnh thời
đại.
So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân
từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng
lớn của các nước XHCN anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định
thắng.
Để BVTQ XHCN, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân, coi đó là lực lượng
chủ chốt để BVTQ. Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng
mạnh, sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây
dựng CNXH.
2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa
Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự
nghiệp BVTQ XHCN phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “ Đảng và
chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên
CNXH, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân
chủ bằng phương pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hòa bình ở Á đông và trên
thế giới” và khẳng định “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chính phủ, với sự đoàn
kết nhất chí, lòng tin tưởng vững chắc vào tinh thần tự lực cánh sinh của mình, với sự
giúp đỡ vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình
trên thế giới nhất là nhân dân các nước Á phi, nhân dân ta nhất định khắc được mọi khó
khăn, làm tròn được mọi nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và chính phủ đã đề ra”.

8
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về BVTQ, ngày nay toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công CNXH và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Để thực hiện được thắng lợi nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chiến lược sau đây:
Một là: Xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo
ra thế và lực mới cho sự nghiệp BVTQ XHCN.
Hai là: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây
dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại.
Ba là: Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong
mọi hoàn cảnh, tình huống chiến tranh.
Bốn là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp
quốc phòng và an ninh, BVTQ.
Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều
biến đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay tư tưởng Hồ Chí Minh về
BVTQ vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung cơ bản
trên, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong giai
đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

9
Chương 3
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI
3.1. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu,
thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Đại hội XII của Đảng xác định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc
gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân là nòng cốt”. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan
trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân ta xác định và
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh theo chức năng, nhiệm vụ
của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Khẳng định củng cố quốc phòng, an ninh, BVTQ là nhiệm vụ “trọng yếu, thường
xuyên”, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhưng không coi nhiệm vụ củng cố quốc
phòng, an ninh, BVTQ là thứ yếu. Bởi, củng cố quốc phòng, an ninh là cơ sở trực tiếp
tạo thuận lợi cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; ngược lại, kinh tế phát triển,
đất nước mạnh lên sẽ là “phương thức hữu hiệu” để BVTQ. Đây là quan điểm lý luận
cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung, quan điểm của Đảng về quốc phòng,
an ninh, BVTQ trong tình hình mới.
3.2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là toàn diện, cả phương
diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất
Đại hội XII của Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là:
Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh
thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân
tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội”. Trong tình hình mới, nhiệm vụ BVTQ phải bảo đảm được lợi ích quốc gia, dân
tộc khi nước ta tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo thuận lợi cho sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; giữ
vững môi trường ổn định, hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước trên thế giới
hợp tác với Việt Nam. Các nội dung BVTQ quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau trong
chỉnh thể thống nhất; bảo vệ lĩnh vực này cũng có nghĩa là góp phần bảo vệ lĩnh vực
khác và ngược lại, không xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một lĩnh vực nào.

10
3.3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp; củng cố quốc phòng, an
ninh, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới
sự lãnh đạo của Đảng
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Lực lượng BVTQ là toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang
nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Đó là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố: chính trị, quân
sự, kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, đối ngoại; biểu hiện sức mạnh vật chất,
tinh thần của toàn bộ nhân dân trong nước và kiều bào Việt Nam định cư ở nước ngoài
luôn hướng về Tổ quốc. Đó còn là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh
bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, Đảng ta xác định: tập trung
xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan
trọng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị, nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và nhân dân; phải “Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế
hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống”3.
Quan điểm sức mạnh tổng hợp và lực lượng toàn diện BVTQ, phản ánh sâu sắc tính chất
toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong sự nghiệp
BVTQ thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục khẳng định với nội hàm sâu, rộng thêm.
3.4. Quốc phòng và an ninh quan hệ chặt chẽ, thống nhất trong mục tiêu bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Theo đó, quốc phòng và an ninh đều hướng vào mục tiêu chung là bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; được thể hiện trong sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng
lực lượng và thế trận của nền quốc phòng toàn dân với xây dựng lực lượng và thế trận
của nền an ninh nhân dân. Đại hội XII nhấn mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng
và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững
chắc”4. Mối quan hệ biện chứng đó đặt trong tổng thể thống nhất và gắn bó chặt chẽ với
sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ đó phản ánh yêu cầu, nhiệm vụ
cơ bản của hai lĩnh vực hoạt động đặc thù nhằm mục tiêu BVTQ trong tình hình mới.
Xây dựng thế trận và lực lượng của quốc phòng và an ninh phải đảm bảo toàn diện, đồng
bộ, quan hệ chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả cao trên phạm vi toàn quốc, cũng như
trong từng địa bàn, từng lĩnh vực cụ thể.

11
3.5. Có kế sách phòng, chống các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa;
chủ động phòng ngừa, khắc phục các yếu tố tác động tiêu cực đến sự nghiệp củng
cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới
Đây là kinh nghiệm quý, một phương thức giữ nước đặc sắc của dân tộc, được
Đảng ta kế thừa và phát huy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ mới. Theo đó, quốc phòng và an ninh phải có đủ sức mạnh để “ngăn ngừa các
nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và
triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”, để đất
nước “không bị động, bất ngờ”; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện
thuận lợi cho bạn bè quốc tế trong hợp tác với Việt Nam. Đại hội XII chỉ rõ: phải “Chủ
động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch;
ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và
tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền
thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới
và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển bền vững đất nước”.
3.6. Quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn
Đây là quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Mối quan hệ giữa
xây dựng và BVTQ trong tình hình mới có tầm quan trọng đặc biệt, là quan hệ cơ bản,
chi phối, thẩm thấu vào các mối quan hệ khác; được giải quyết trong sự gắn kết chặt chẽ
và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng
Đảng là then chốt; phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc
phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, xây dựng, củng cố
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng Đảng và phát triển văn hóa. Trong xây dựng Đảng, phải đạt đến mục đích là
giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ quốc phòng và an ninh.
Trong phát triển văn hóa phải chú ý gia tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh, phục vụ
cho xây dựng và phát huy các tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là tiềm lực chính trị
tinh thần. Mối quan hệ tác động lẫn nhau đó cần phải được nhận thức thấu đáo và xử lý
đúng trong thực tiễn trên tất cả các lĩnh vực. Phải “kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng,
an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”. Việc giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng và BVTQ phải được thể hiện cụ thể ở sự kết hợp chặt
chẽ giữa các lĩnh vực trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; trong đó,
chú trọng phát triển kinh tế, gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh ở các địa bàn trọng
yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.

12
3.7. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Để thực hiện thắng lợi mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp BVTQ”. Trong nhận thức lý luận
cũng như trong tổ chức thực tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của
cách mạng để tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh,
BVTQ. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là cơ sở chắc chắn nhất bảo
đảm cho Tổ quốc được bảo vệ vững chắc trong bối cảnh có nhiều biến động phức tạp.
Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, với âm mưu “phi chính
trị hóa” lực lượng vũ trang hòng làm cho Quân đội và Công an mất phương hướng chính
trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, thì vấn đề tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, Công an và sự
nghiệp BVTQ càng trở nên quan trọng, cấp bách hơn. Đây không chỉ là sự trung thành
với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của
giai cấp công nhân, mà còn là đòi hỏi bức thiết từ tình hình, nhiệm vụ của cách mạng
nước ta thời kỳ mới. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên, vấn đề then chốt là phải xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Quan điểm về BVTQ được Đảng ta khẳng định trong Đại hội XII là sự trung
thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện mới và từ tư duy, phát triển lý luận đến tổng kết thực tiễn của Đảng, nhất là 30 năm
đổi mới, xây dựng, BVTQ vừa qua. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an
ninh, BVTQ mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra.

13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. GIÁO TRÌNH
1. Giáo trình Giáo dục quốc phòng – an ninh, Nxb. Giáo dục Việt Nam
II. BÀI VIẾT, TẠP CHÍ, LUẬN ÁN
1. Lý Tưởng, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN”,
https://lytuong.net/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-bao-ve-to-quoc-xhcn/, truy cập
15/1/2022.
2. Nguyễn Thị Huyền, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”,
https://luathoangphi.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-bao-ve-to-quoc-xa-hoi-chu-
nghia/, truy cập 15/1/2022.
3. Trung tướng, PGS, TS. Nguyễn Đình Minh, “Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”,
http://tapchiqptd.vn/vi/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/quan-diem-
cua-dang-ve-bao-ve-to-quoc-viet-nam-xa-hoi-chu-nghia-trong-tinh-hinh-
moi/9022.html, truy cập 15/1/2022.
4. Đại tá, TS. Nguyễn Tiến Chung, “Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
của V.I. Lênin và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
http://m.tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/hoc-thuyet-bao-ve-to-quoc-xa-
hoi-chu-nghia-cua-vi-lenin-va-su-van-dung-cua-dang-cong-san-viet-nam-
17127.html, truy cập 15/1/2022.

14

You might also like