You are on page 1of 10

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề tài: Nguyên tắc khách quan

Họ và tên: Văn Thị Huyền Trang


Mã số sinh viên: 11230660
STT: 48
Lớp TC: Kế Toán CFAB K65
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng

Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2023

0
LỜI MỞ ĐẦU

Chúng ta đang trải qua một thời đại kỹ thuật số-thời đại mà công nghệ xã hội phát
triển nhanh chóng nhất từ trước đến nay. Nhờ sự tiến bộ hiện đại ấy con người chúng
ta có thể tiện lợi cập nhật tin tức bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu và từ mọi nguồn khác
nhau. Tuy nhiên để nhận thức thông tin, sự vật, sự việc một cách chính xác, trung thực
nhất chúng ta cần có cái nhìn bao quát, nhìn nhận từ nhiều phía, nhiều góc cạnh.
Không nên tin vào những nguồn tin sai lệch, không chính thống. Bởi vậy biết nhiều
thông tin nhưng không biết sử dụng, lọc lựa thông tin thì cũng như không biết. Những
thất bại cũng một phần bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết, chỉ tin vào những gì cá nhân
nhìn nhận, coi nhẹ ý kiến bao quát. Thế giới này có vô vàn sự vật, hiện tượng phong
phú đa dạng, xong con người chúng ta mới chỉ hiểu biết được phần nhỏ, vì vậy để có
cái nhìn toàn diện, bao quát quả thật không dễ

Triết học, một lĩnh vực nghiên cứu sâu rộng và phức tạp, đã luôn đặt ra những
câu hỏi về thế giới xung quanh chúng ta và cách chúng ta hiểu biết về nó. Nguyên tắc
khách quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của triết học, yêu cầu phải nhận
thức và đánh giá hiện thực dựa trên những căn cứ khách quan, không bị ảnh hưởng bởi
những định kiến, thành kiến, quan điểm cá nhân hay lợi ích nhóm. Nguyên tắc khách
quan có ý nghĩa quan trọng trong việc khám phá và giải thích thế giới, trong việc xây
dựng và phát triển khoa học, trong việc định hướng và thực hiện các hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, nguyên tắc khách quan cũng gặp phải nhiều thách thức và tranh luận trong
lịch sử và hiện tại của triết học. Bài tiểu luận này sẽ trình bày về khái niệm, nội dung
và vai trò của nguyên tắc khách quan, cũng như những vấn đề và quan điểm khác nhau
liên quan đến nguyên tắc này.

1
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Vật chất và ý thức có quan hệ hai chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Vật chất và ý
thức giống như hai mặt của một vấn đề, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ. Theo triết học Mac-Lênin vật chất quyết định ý thức, vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất sinh ra ý thức vì vật chất là nguồn gốc của ý thức. Vật chất tạo ra những
điểu kiện để hiện thực hoá được ý thức.
Một ví dụ cụ thể về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong một tác phẩm văn học
là tiểu thuyết Nhà Giả Kim của nhà văn người Bồ Đào Nha Paulo Coelho. Trong tác
phẩm này, nhân vật chính là một chàng chăn cừu tên là Santiago, có một giấc mơ lặp
đi lặp lại về một kho báu ẩn giấu dưới chân kim tự tháp Ai Cập. Để theo đuổi giấc mơ
của mình, anh đã bỏ lại cuộc sống bình yên ở quê nhà, lên đường phiêu lưu qua nhiều
nơi, gặp nhiều người và trải qua nhiều thử thách. Qua hành trình đó, anh đã hiểu được
ý nghĩa của Huyền Thoại Cá Nhân, là một khái niệm mà tác giả dùng để chỉ mục đích
sống, niềm đam mê và ước mơ của mỗi con người. Anh cũng đã nhận ra rằng vật chất
và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, nhưng ý
thức cũng có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Đầu tiên, vật chất quyết định ý thức. Ví dụ về vật chất quyết định ý thức trong tác
phẩm là khi Santiago gặp một người phù thủy tên là Melchizedek, người đã chỉ cho
anh cách đọc được những dấu hiệu của vũ trụ, hay còn gọi là Ngôn Ngữ Thế Giới.
Ngôn ngữ này là một hình thức giao tiếp không dùng lời nói, mà dựa trên những hiện
tượng tự nhiên, những sự kiện, những cảm xúc và những trực giác. Ngôn ngữ này giúp
Santiago có thể hiểu được ý muốn của vũ trụ, và cũng là cách mà vũ trụ truyền đạt cho
anh những thông điệp quan trọng. Nhờ có ngôn ngữ này, Santiago đã có thể nhận biết
được những dấu hiệu dẫn đến kho báu của mình, như giấc mơ, những con chim, những
cơn gió, những vì sao, hay những lời khuyên của những người mà anh gặp trên đường.
Những hiện tượng vật chất này đã quyết định nội dung và hình thức của ý thức của
Santiago, giúp anh có thể tiếp cận với bí ẩn của thế giới.
Thứ hai, ý thức tác động trở lại vật chất. Ví dụ về ý thức tác động trở lại vật chất
trong tác phẩm là khi Santiago đến được kim tự tháp Ai Cập, nơi mà anh nghĩ rằng
kho báu của mình đang chờ đợi. Tuy nhiên, khi đào đất, anh không tìm thấy gì, thay
vào đó, anh bị một nhóm cướp tấn công và đánh đập. Trong lúc đó, anh đã kể cho
những tên cướp về giấc mơ của mình, và một trong số họ đã tiết lộ rằng anh cũng có
2
một giấc mơ tương tự, nhưng là về một kho báu ẩn giấu dưới một cây bồ đề ở Tây Ban
Nha. Đó chính là nơi mà Santiago đã bắt đầu hành trình của mình, và cũng là nơi mà
kho báu thực sự của anh nằm. Nhờ có ý thức của Santiago, những tên cướp đã vô tình
chỉ cho anh biết được địa điểm của kho báu, và cũng đã giúp anh hoàn thành Huyền
Thoại Cá Nhân của mình. Ý thức của Santiago đã tác động trở lại vật chất, biến đổi thế
giới vật chất theo ý muốn của anh.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong tác phẩm Nhà Giả Kim có ý nghĩa lớn
trong việc khuyến khích độc giả theo đuổi ước mơ và mục đích sống của mình. Tác
phẩm cũng giúp độc giả có cái nhìn khách quan, khoa học về thế giới và bản thân, có
thái độ tích cực, sáng tạo và chủ động trong hoạt động thực tiễn. Tác phẩm cũng là
một minh chứng cho quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, một trong những vấn đề cơ bản và quan trọng của triết học.
Tóm lại vật chất quyết định nội dung của ý thức, hiện thực khách quan giống như
bản chính, ý thức giống như bản sao. Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Khi
hiện thực khách quan, điều kiện sống thay đổi dẫn đến ý thức thay đổi. Hay, giữa vật
chất và ý thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận. Bên
ngoài lĩnh vực đó, sự phân biệt là tương đối. Vì vậy một chính sách đúng đắn là cơ sở
để kết hợp hai điều này.
2. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết
học Mác-Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là:
Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động nhận thức, học
tập, nghiên cứu, sản xuất và cải tạo thế giới. Điều này đòi hỏi con người phải quan sát,
xem xét, phân tích đối tượng vật chất, tác động vào chúng để bắt chúng bộc lộ những
thuộc tính, quy luật của chúng. Khi đó, ta sẽ thu nhận được tri thức khách quan về thế
giới. Đồng thời, ta cũng phải căn cứ vào hiện thực khách quan để đánh giá tình hình,
xác định phương hướng, biện pháp, lộ trình kế hoạch để đáp ứng nhu cầu của mình. Ta
phải tuân theo những quy luật khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, không phải
chỉ căn cứ vào nhu cầu, ước muốn, niềm tin của mình.
Phải phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người. Điều
này đòi hỏi con người phải không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, học tập, nghiên
cứu, sáng tạo, phát triển các hoạt động thực tiễn để biến đổi thế giới theo hướng phù
hợp với lợi ích của mình và của nhân loại. Ta phải luôn đặt mình, cơ quan, công ty
trong những hoàn cảnh, điều kiện thực tế, nhất là về vật chất, kinh tế, để tìm ra giải
pháp khả thi. Ta phải luôn nỗ lực loại bỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong cuộc sống.

II. NỘI DUNG LÍ THUYẾT


3
1. Bản chất của nguyên tắc khách quan

Như đã nói ở trên, từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết học Mác – Lênin đã rút
ra nguyên tắc phương pháp luận là phải xuất phát từ thực tế khách quan. Xuất phát từ
thực tế khách quan tức là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, chúng ta phải xuất
phát từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện gán cho sự vật cái mà nó không có hoặc là
nó chưa có. Trong hoạt động thì chúng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách
quan, mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, mục tiêu, phương hướng, học
tập, nghiên cứu thì đều phải xuất phát từ thực tế khách quan. Tôn trọng vai trò quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người. Như vậy, xuất
phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan có ý nghĩa rất lớn cho hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Có thể khái quát được rằng bản chất của nguyên tắc
khách quan đó là khi đánh giá, phân tích sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta phải
đánh giá đúng như sự vật thể hiện như vậy. Chúng ta không được gán cho sự vật cái
mà nó không có. Khi chúng ta bôi hồng hoặc tô đen sự vật là chúng ta vi phạm nguyên
tắc khách quan trong đánh giá.
1. Nội dung của nguyên tắc khách quan
Nguyên tắc khách quan trong triết học là một nguyên tắc phương pháp luận yêu cầu
chúng ta phải tôn trọng điều kiện khách quan, quy luật khách quan trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Nội dung của nguyên tắc khách quan có thể được trình bày như
sau:
-Trong nhận thức, chúng ta phải nắm bắt, tái hiện khách thể, sự vật, hiện tượng
trong chính bản thân nó, không bị ảnh hưởng bởi quan niệm, mong muốn, ý chí của
chủ thể. Chúng ta phải xuất phát từ vật chất, từ bản chất của sự vật, từ quy luật khách
quan của sự phát triển của sự vật, không được ép sự vật phải thỏa mãn sơ đồ chủ quan,
mà phải rút ra những sơ đồ từ sự vật, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng
phản ánh sự vật.
-Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta phải căn cứ vào điều kiện khách quan, quy
luật khách quan khi đề ra mục tiêu, phương hướng, phương pháp, cách thức tổ chức
hoạt động. Chúng ta phải có kế hoạch điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp khi điều kiện
khách quan có sự biến đổi. Chúng ta phải phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực
của ý thức, biết tìm tòi, phát hiện, vận dụng tri thức khoa học, dự báo, dự đoán một
cách khoa học, phù hợp quy luật.
-Chúng ta phải chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, là cách thức nhận thức và hoạt
động chỉ căn cứ vào quan niệm, mong muốn, ý chí của chủ thể mà coi thường, bất
chấp điều kiện khách quan, quy luật khách quan. Chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí có thể
dẫn đến những sai lầm, thất bại, tổn hại trong nhận thức và hoạt động.

4
Nguyên tắc khách quan là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong triết học, nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn,
khoa học và toàn diện về thế giới và con người, không bị sai lệch bởi những quan điểm
chủ quan, duy ý chí, thiên vị hay định kiến. Nguyên tắc này cũng giúp chúng ta có một
phương pháp nhận thức và thực tiễn hiệu quả, phù hợp với quy luật khách quan của sự
vật, hiện tượng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, chủ quan của con người.
Nguyên tắc này còn giúp chúng ta có một thái độ đạo đức, trách nhiệm và tôn trọng
đối với sự thật, khách quan và công bằng, không bị ảnh hưởng bởi những lợi ích cá
nhân hay nhóm. Nguyên tắc này là một tiêu chuẩn để đánh giá và phê bình những nhận
thức và hoạt động thực tiễn, nhằm khắc phục những sai sót, hạn chế và nâng cao chất
lượng. Nguyên tắc này là một nguồn động lực để chúng ta không ngừng học hỏi,
nghiên cứu, khám phá và phát triển tri thức khoa học và văn hóa nhân loại.
1. Vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực tiễn và trong nghiên cứu, học
tập của sinh viên
Trong hoạt động thực tiễn, nguyên tắc khách quan đòi hỏi con người trong nhận thức
và hoạt động phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở,
phương tiện cho hoạt động của mình
Vận dụng nguyên tắc khách quan trong nghiên cứu, học tập của sinh viên là một
vấn đề quan trọng và cần thiết. Nguyên tắc khách quan là tôn trọng tính khách quan
của vật chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực
tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Vận dụng nguyên tắc khách
quan giúp sinh viên có được những kiến thức chính xác, sâu sắc và toàn diện về thế
giới và cuộc sống, tránh những sai lầm do ảnh hưởng của chủ quan, định kiến hay tư
lợi cá nhân.
Để vận dụng nguyên tắc khách quan trong nghiên cứu, học tập, sinh viên cần làm
những việc sau:
-Nghiên cứu và tìm hiểu kỹ lưỡng các tài liệu, nguồn thông tin khách quan và đáng
tin cậy về đề tài mình quan tâm. Không chỉ dựa vào một nguồn thông tin mà phải so
sánh, đối chiếu và tổng hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau để có được cái nhìn toàn
diện và khách quan nhất.
-Phân tích và đánh giá các tài liệu, nguồn thông tin một cách logic, khoa học và
khách quan. Không để bị ảnh hưởng bởi những quan điểm, ý kiến hay lập trường chủ
quan, thiên vị hay có chủ ý của tác giả hay người cung cấp thông tin. Không bỏ qua
hay bóp méo những sự kiện, dữ liệu hay bằng chứng khách quan mà phải trình bày và
giải thích chúng một cách rõ ràng và trung thực.

5
-Tự phê bình và chấp nhận sự phê bình của người khác về công trình nghiên cứu,
học tập của mình. Không cố chấp, kiêu ngạo hay bảo vệ quan điểm của mình mà phải
lắng nghe, suy xét và tiếp thu những ý kiến đóng góp, góp ý hay chỉ ra những sai sót,
hạn chế của công trình nghiên cứu, học tập của mình. Không ngại sửa đổi, bổ sung hay
cải thiện công trình nghiên cứu, học tập của mình để đạt được kết quả tốt nhất.
Một số ví dụ về vận dụng nguyên tắc khách quan trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên là:
- Khi làm một bài tiểu luận về vấn đề xã hội, sinh viên không chỉ dùng những kiến
thức đã học trong sách giáo khoa mà còn tham khảo những tài liệu, báo cáo, thống kê,
nghiên cứu khoa học khác về vấn đề đó từ nhiều nguồn khác nhau, như internet, thư
viện, báo chí, truyền hình, phỏng vấn người dân… Sinh viên cũng không chỉ trình bày
những mặt tích cực mà còn phản ánh những mặt tiêu cực, những khó khăn, thách thức,
những giải pháp và đề xuất của vấn đề đó. Sinh viên cũng không chỉ nêu ra quan điểm
cá nhân mà còn đưa ra những lập luận, bằng chứng và ví dụ cụ thể để chứng minh
quan điểm đó.
- Khi học một môn học mới, sinh viên không chỉ nghe giảng và ghi chép những kiến
thức do giáo viên truyền đạt mà còn tự tìm hiểu thêm những kiến thức liên quan đến
môn học đó từ nhiều nguồn khác nhau, như sách tham khảo, internet, video, bài tập, thí
nghiệm… Sinh viên cũng không chỉ nhớ và hiểu những kiến thức cơ bản mà còn vận
dụng những kiến thức đó vào thực tiễn, giải quyết những bài toán, tình huống, vấn đề
thực tế liên quan đến môn học đó. Sinh viên cũng không chỉ học theo kiểu động não
mà còn học theo kiểu chủ động, sáng tạo, phát triển tư duy phản biện và logic.
Bên cạnh đó, việc vận dụng nguyên tắc khách quan trong quá trình công nghiệp hóa
- hiện đại hóa ở Việt Nam xuất phát từ việc tôn trọng các điều kiện tất yếu để nhằm
mục đích thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Với sự cạnh tranh đang
diễn ra ngày càng gay gắt trên thị trường và từ đó cũng đòi hỏi con người cần phải có
khả năng cạnh tranh trên thị trường và các vật các sản phẩm, hàng hóa sẽ cần phải
được sản xuất dựa trên nền tảng vững chắc của cơ sở vật chất và những kỹ thuật hiện
đại với cơ cấu phù hợp và với chi phí có thể bỏ ra của nền kinh tế. Từ đó sẽ góp phần
tăng khả năng tích lũy cho nền kinh tế, và thông qua đó cũng sẽ góp phần phát triển
nền kinh tế. Chúng ta nhận thấy rằng, nguyên tắc khách quan sẽ xuất phát từ quan
điểm duy vật triệt để của triết học Mác - Lenin về thế giới. Nguyên tắc khách quan là
nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
III. KẾT LUẬN
Trong mọi hoạt động thực tiễn, việc nghiên cứu và áp dụng tôn trọng nguyên tắc
khách quan là việc làm rất cần thiết và quan trọng. Mọi hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người chỉ có thể chính xác, thành công và hiệu quả khi kết hợp giữa việc
6
xuất phát từ thực tế khách quan với phát huy tính năng động sáng tạo chủ quan trên
nền tảng điều kiện khách quan, chống lại chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực
tiễn. Luôn xuất phát từ thực tế khách quan, nhận diện tôn trọng khách quan. Nghĩa là
xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng với tất cả các đặc điểm, tính chất, thuộc tính
và các quan hệ của sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất, xu hướng vận động phát triển
theo quy luật. Từ đó rút ra kết luận về sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó mà đưa ra
phương hướng và các giải pháp tác động cải biến sự vật, thế giới tự nhiên phục vụ lợi
ích của con người, không được ép buộc ý muốn chủ quan của chủ thể nhận thức lên sự
vật. Phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực, năng
động, nhiệt tình sáng tạo đồng thời phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật
chất hoá tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tôn
trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu và truyền thụ tri thức vào xã hội
quần chúng. Ý thức của con người không tách rời điều kiện vật chất vậy nên con người
phải biết dựa vào những điều kiện vật chất khách quan đã có và phản ánh đúng quy
luật khách quan một cách chủ động, sáng tạo, nắm bắt các tình huống khách quan có
thể xảy đến tránh nản lòng, thất vọng, thụ động trước hoàn cảnh.

7
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, Giáo trình Triết học Mác- Lênin, Nxb.Chính trị quốc gia sự thật, tại
Nhà in Sự thật, Giám đốc – Tổng biên tập PGS.TS. Phạm Minh Tuấn,
Hà Nội (2021).
2, V.I.Lênin Toàn tập - Tập 42, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội
(2005).
3, , lyluanchinhtri.vn, ngày cập nhật 25/10/2019, ngày truy cập
20/11/2023,
link:
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/294
0-phuongphap-luan-bien-chung-duy-vat-voi-viec-nhan-thuc-moi-
quan-he-giua-tangtruong-kinh-te-va-phat-trien-van-hoa-thuc-hien-
tien-bo-cong-bang-xa-hoi.html

8
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..1
I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC KHÁCH
QUAN…………………………………………………………………………...2
1: Mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức……………………………………………………………………………...2
2: Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức……………………………………………………………………………...3
II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU………………………………………………..3
1: Bản chất của nguyên tắc khách quan……………………………..………..4
2: Nội dung nguyên tắc khách quan.…………………..……………………...4
3: Vận dụng nguyên tắc khách quan trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên.………………………………………………………………….
…………..5III: KẾT
LUẬN………………………………………………………………...6

You might also like