You are on page 1of 122

CHƯƠNG 1.

TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC

Nội dung

Bài này nhằm giới thiệu tổng quan về kinh tế học và hai bộ phận của nó là kinh tế học vi mô
và kinh tế học vĩ mô. Chương này giới thiệu vấn đề khan hiếm – một thực tế kinh tế của mọi xã
hội và cách giải quyết vấn đề đó trong các cơ chế kinh tế khác nhau. Ngoài ra, chương này còn
đưa ra các quy luật tác động đến việc ra quyết định lựa chọn của các thành viên kinh tế.

Mục tiêu

 Giúp học viên nắm rõ về các khái niệm kinh tế học, kinh tế học vĩ mô, kinh tế học vi
mô, nền kinh tế, các thành viên kinh tế và các cơ chế kinh tế phối hợp

 Giúp học viên hiểu rõ bản chất mô hình kinh tế và ứng dụng của mô hình kinh tế

 Giúp học viên hiểu được một số quy luật trong lý thuyết lựa chọn: quy luật khan hiếm,
chi phí cơ hội tăng dần và lợi suất giảm dần

 Hiểu rõ ba vấn đề kinh tế cơ bản, các cơ chế giải quyết ba vấn đề cơ bản.

 Giúp học viên hiểu rõ nguyên tắc lựa chọn kinh tế theo phương pháp tối ưu-phân tích
cận biên

Tình huống dẫn nhập

1.1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC

1.1.1 Các khái niệm cơ bản về kinh tế học

Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự phát triển vô cùng mạnh mẽ trong suốt thế kỷ
qua. Giá trị của cải và sự phong phú của hàng hoá và dịch vụ đã tăng lên rất nhiều. Có nhiều
quốc gia trở nên rất giầu có, trong khi còn nhiều quốc gia khác lại rất nghèo. Nhưng một thực
tế kinh tế luôn tồn tại ở mọi nơi và mọi lúc đó là sự khan hiếm. Sự khan hiếm là việc xã hội
với các nguồn lực hữu hạn không thể thoả mãn tất cả mọi nhu cầu ngày càng tăng của con
người. Tất cả mọi nền kinh tế đều tìm cách sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm một cách
có hiệu quả nhất để thỏa mãn nhu cầu của con người. Kinh tế học giúp chúng ta hiểu về cách
giải quyết vấn đề khan hiếm đó trong các cơ chế kinh tế khác nhau.
Kinh tế học là môn khoa học giúp cho con người hiểu cách thức vận hành của nền kinh
tế nói chung và cách thức ứng xử của từng thành viên tham gia vào nền kinh tế nói riêng.

1
Nền kinh tế là một cơ chế phân bổ các nguồn lực khan hiếm cho các mục tiêu cạnh
tranh. Cơ chế này nhằm giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là: i) sản xuất cái gì?, ii) sản xuất
như thế nào?, iii) sản xuất cho ai?
Nền kinh tế bao gồm các bộ phận hợp thành và sự tương tác giữa chúng với nhau. Nền
kinh tế có hai bộ phận cơ bản là: i) người ra quyết định và ii) cơ chế phối hợp:
Người ra quyết định: là bất cứ ai hoặc tổ chức nào ra các quyết định lựa chọn, gồm có
hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ.
Hộ gia đình là một đơn vị ra quyết định. Tùy thuộc vào thị trường mà các hộ gia đình
đóng các vai khác nhau. Trong thị trường sản phẩm, hộ gia đình là người tiêu dùng, quyết
định mua hàng hóa và dịch vụ nào và mua với số lượng bao nhiêu. Trong thị trường các yếu
tố, hộ gia đình là người chủ của các nguồn lực. Họ quyết định cung cấp bao nhiêu các nguồn
lực đó cho các doanh nghiệp. Có ba nguồn lực cơ bản là lao động, vốn và đất đai. Đất đai
được hiểu là diện tích đất và các tài nguyên thiên nhiên như quặng kim loại, dầu mỏ, khí thiên
nhiên, than, nước và không khí. Lao động là thời gian và công sức làm việc mà con người bỏ
ra để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Lao động có thể bao gồm lao động thể chất (như các công
nhân đào mỏ than) hoặc lao động trí óc (như những chuyên gia phân tích kinh tế). Chất lượng
lao động phụ thuộc vào kiến thức và kỹ năng mà người lao động có được từ giáo dục, đào tạo
hoặc kinh nghiệm làm việc. Vốn là các công cụ, máy móc thiết bị, nhà xưởng và những yếu tố
khác do con người tạo ra được sử dụng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Doanh nghiệp là tổ chức mua hoặc thuê các yếu tố sản xuất và kết hợp các yếu tố đó để
sản xuất và bán các loại hàng hoá và dịch vụ.
Chính phủ tham gia vào nền kinh tế với tư cách là nhà cung cấp các hàng hoá dịch vụ và
điều tiết phân phối lại thu nhập. Thông thường các chính phủ cung cấp hệ thống pháp luật, hạ
tầng cơ sở, quốc phòng... , giới hạn sự lựa chọn của người tiêu dùng, và điều tiết sản xuất và
phân phối lại thu nhập.
Cơ chế phối hợp là cơ chế phối hợp sự lựa chọn của các thành viên kinh tế với nhau.
Có ba loại cơ chế kinh tế cơ bản là: i) cơ chế mệnh lệnh, ii) cơ chế thị trường, iii) cơ chế hỗn
hợp.
Cơ chế mệnh lệnh (kế hoạch hoá tập trung): Trong một nền kinh tế được quản lý theo cơ
chế này, các vấn đề kinh tế cơ bản đều được giải quyết tập trung. Nhà nước xác định toàn bộ
kế hoạch sản xuất, tiêu thụ cho các doanh nghiệp, quyết định cả việc tiêu dùng của mọi thành
viên kinh tế.

2
Cơ chế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, các vấn đề kinh tế cơ bản phải được
giải quyết thông qua mối quan hệ cung cầu, cạnh tranh trên thị trường. Cơ chế thị trường có
ưu điểm nổi bật trong việc đáp ứng các nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của người
tiêu dùng. Các doanh nghiệp chủ động điều tra nhu cầu của thị trường, nắm bắt thị hiếu của
người tiêu dùng và tổ chức sản xuất nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Cơ chế thị trường
khuyến khích cạnh tranh, đổi mới công nghệ kỹ thuật và sử dụng các nguồn tài nguyên của xã
hội một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên cơ chế này cũng có một số nhược điểm cơ bản như
phân phối thu nhập không công bằng, việc chạy theo lợi nhuận thuần tuý có thể làm ô nhiễm
môi trường, không cung cấp đủ hàng hoá công cộng...
Cơ chế hỗn hợp: Trong nền kinh tế thị trường, ở một số lĩnh vực thị trường không đem
lại hiệu quả tối ưu đối với xã hội, Chính phủ cần trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các
vấn đề kinh tế cơ bản. Chính phủ thường cung cấp các hàng hoá công cộng, khắc phục các
thất bại của thị trường, điều tiết phân phối thu nhập thông qua việc đánh thuế thu nhập để đảm
bảo công bằng cho xã hội,...
Mô hình dòng luân chuyển. Một nền kinh tế đơn giản được mô tả bằng hình 1-1 dưới
đây.Trong mô hình kinh tế này, các thành viên kinh tế tương tác với nhau trên hai thị trường
là thị trường sản phẩm và thị trường yếu tố sản xuất. Tham gia vào thị trường sản phẩm, các
hộ gia đình chi tiêu thu nhập của mình để đổi lấy hàng hoá hoặc dịch vụ cần thiết còn các
doanh nghiệp bán sản phẩm của mình và nhận lại doanh thu. Tham gia vào thị trường yếu tố
sản xuất, các hộ gia đình đóng vai trò là người cung cấp các nguồn lực như lao động, đất đai
và vốn cho các doanh nghiệp để đổi lấy thu nhập mà các doanh nghiệp trả cho việc sử dụng
các nguồn lực đó còn doanh nghiệp tham gia vào thị trường yếu tố để mua hoặc thuê các yếu
tố sản xuất cần thiết cho hoạt động của mình. Chính phủ tham gia vào hai thị trường này để
cung cấp các hàng hoá mà thị trường không sản xuất một cách hiệu quả nhưng lại rất cần thiết
đối với đời sống xã hội ví dụ như các hàng hóa công cộng, an ninh quốc phòng. Ngoài ra chính
phủ còn điều tiết thu nhập thông qua thuế và các chương trình trợ cấp.

3
Hàng hoá, Hàng hoá, dịch
dịch vụ vụ
Thị trường sản phẩm
Tiền Tiền (Doanh
(Chi tiêu) thu)

Thuế Thuế

Chính phủ
Hộ gia đình Doanh nghiệp
Trợ cấp Trợ cấp
Yếu Yếu tố
Tố Tiền Tiền (Chi
(Thu nhập) phí)
sx
sx
Thị trường yếu tố

Hình 1-1 Mô hình dòng luân chuyển

1.1.2. Các bộ phận của kinh tế học

 Kinh tế học vi mô
Kinh tế học vi mô nghiên cứu hành vi và cách thức ra quyết định của các thành viên
kinh tế (hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ). Ví dụ như người tiêu dùng sẽ sử dụng thu
nhập hữu hạn của mình như thế nào? Tại sao người họ lại thích hàng hóa này hơn hàng hoá
khác. Hoặc doanh nghiệp sẽ sản xuất bao nhiêu sản phẩm để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận? Nếu giá đầu vào tăng lên, doanh nghiệp sẽ phải làm gì? Chính phủ sẽ phân bổ ngân
sách hữu hạn của mình cho các mục tiêu như giáo dục, y tế như thế nào?...

 Kinh tế học vĩ mô
Kinh tế học vĩ mô là bộ phận kinh tế học nghiên cứu các vấn đề kinh tế tổng thể của nền
kinh tế như các vấn đề tăng trưởng, lạm phát, việc làm và thất nghiệp, cán cân thương
mại,...Kinh tế học vĩ mô tìm cách giải đáp các câu hỏi quan trọng như các yếu tố nào quyết
định và ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô trên, các biến số thay đổi theo thời gian như thế nào
và các chính sách vĩ mô tác động thế nào đến các biến số.
Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô tuy có đối tượng nghiên cứu khác nhau nhưng
đều là những nội dung quan trọng của kinh tế học, hai bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ tác
động qua lại lẫn nhau.

 Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc


Kinh tế học là một môn khoa học xã hội và giống như tất cả các môn khoa học khác,
các nhà kinh tế học phải phân biệt hai câu hỏi: Là cái gì? và Nên như thế nào?

4
Trả lời cho câu hỏi “Là cái gì” được gọi là kinh tế học thực chứng – nghiên cứu thế
giới thực tế và tìm cách lý giải một cách khoa học các hiện tương quan sát được. Kinh tế học
thực chứng tìm cách xác định các nguồn lực trong nền kinh tế thực tế được phân bổ như thế
nào.
Kinh tế học chuẩn tắc thì lại liên quan đến câu hỏi: Nên như thế nào? Kinh tế học chuẩn
tắc có yếu tố đánh giá chủ quan của các nhà kinh tế - phát biểu về cách các nguồn lực của nền
kinh tế cần phải được phân bổ như thế nào.
Để hiểu được sự phân biệt giữa kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc, chúng
ta xem xét tình huống về thị trường bất động sản. “Chính sách thắt chặt của Chính phủ theo
Nghị quyết 11 vào tháng 2 năm 2011 khiến thị trường bất động sản suy giảm do tín dụng phi
sản xuất bị hạn chế mạnh” là một tuyên bố thực chứng. “Cần phải điều chỉnh tín dụng cho
từng phân khúc bất động sản để để tránh đổ vỡ thị trường này trong giai đoạn hiện nay” lại là
một tuyên bố chuẩn tắc.

1.2. CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ CƠ BẢN

1.2.1 Những vấn đề kinh tế cơ bản

Vì tài nguyên là khan hiếm nên mọi nền kinh tế đều phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ
bản là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai. Ba vấn đề kinh tế cơ bản
được hiểu như sau:
Sản xuất cái gì?
Vì nhu cầu của các thành viên trong xã hội là vô hạn mà khả năng đáp ứng các nhu cầu
đó là hữu hạn, nên không có xã hội nào có thể sản xuất được moijt hứ mà các thành viên trong
xã hội mong muốn. Bởi vậy mỗi xã hội đều phải cân nhắc, lựa chọn để thỏa mãn một trong số
các nhu cầu khác nhau rồi sau đó quyết đính sản xuất hàng hóa và dịch vụ nào với số lượng
bao nhiêu. Chẳng hạn, một xã hội cần quyết định sản xuất bao nhiêu tấn lượng thực, bao
nhiêu bộ quần áo...

Sản xuất như thế nào?


Sau khi đã quyết định sản xuất những hàng hóa và dịch vụ nào, mỗi xã hội phải lựa
chọn các yếu tố sản xuất và phương pháp sử dụng các yếu tố sản xuất đã lựa chọn. Thông
thường các hàng hóa và dịch vụ có thể được sản xuất ra bằng nhiều cách, tùy vào mục đích cụ
thể và trong giới hạn khả năng cho phép, người sản xuất quyết định sẽ sản xuất theo cách nào.

5
Sản xuất cho ai?
Vấn đề cuối cùng mà mỗi nền kinh tế phải xem xét đó là sản xuất cho ai, nghĩ là phân
phối số lượng hữu hạn các hàng hóa và dịch vụ đã được sản xuất ra cho những người mong
muốn nhận được chúng.

1.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ HỌC

Kinh tế học cũng là một môn khoa học nên phương pháp nghiên cứu cũng giống như
các môn khoa học tự nhiên khác. Tuy nhiên vì kinh tế học nghiên cứu hành vi của con người
nên phương pháp nghiên cứu kinh tế học cũng có nhiều điểm khác biệt.
Quy trình nghiên cứu kinh tế học thường được tiến hành theo các bước:

 Quan sát và đo lường


 Xây dựng mô hình
 Kiểm định mô hình

1.3.1. Quan sát và đo lường

Các nhà kinh tế học thường phải quan sát, thu thập số liệu và đo lường các biến số kinh
tế để phục vụ cho quá trình phân tích. Một số biến số mà các nhà kinh tế phải đo lường như
giá hàng hóa, số lượng hàng hóa tiêu thụ, chỉ số giá chung, thuế và chi tiêu chính phủ, sản
lượng và thu nhập của nền kinh tế, giá trị hàng hóa dịch vụ giao dịch với các nước khác...

1.3.2. Xây dựng mô hình

 Xác định vấn đề nghiên cứu


Đây chính là bước phải xác định các câu hỏi nghiên cứu. Ví dụ tại sao giá xăng dầu và
giá lương thực thế giới tăng cao đột biến trong quý 1 năm 2011? Tác động của gói kích thích
kinh tế năm 2009 đến ổn định kinh tế vĩ mô? Nếu chính phủ trợ giá nông sản thì người nông
dân có được lợi hay không? Tại sao chính phủ lại kiểm soát giá xăng dầu, kiểm soát lãi suất...

6
Quan sát và đo lường

Xây dựng mô hình

- Xác định vấn đề nghiên cứu


- Xây dựng các mối quan hệ
dựa trên những giả định đơn
giản hoá so với thực tế
- Xác lập các giả thuyết kinh tế
để giải thích vấn đề nghiên cứu

Kiểm định mô hình

- Thu thập số liệu


- Phân tích số liệu
- Kiểm định
Hình 1-2 Trình tự phương pháp nghiên cứu kinh tế học

 Xây dựng các mối quan hệ dựa trên các giả định đơn giản hóa so với thực tế
Mô hình kinh tế chính là một cách thức mô tả thực tế đã được đơn giản hoá để hiểu và
dự đoán được mối quan hệ của các biến số. Cách thức mô tả xây dựng các mối quan hệ giữa
các biến số có thể biểu đạt bằng lời, bảng số liệu, đồ thị hay các phương trình toán học.
Thực tế các hoạt động kinh tế thì rất phức tạp với những mối quan hệ tương tác giữa các
thành viên kinh tế, giữa các biến số kinh tế mà các nhà kinh tế không thể bao quát. Vì vậy, mô
hình kinh tế đơn giản hóa thực tế bằng cách mô tả một vài khía cạnh quan trọng nhất, loại bỏ
những chi tiết không quan trọng, không cần thiết cho mục đích nghiên cứu.

 Xác lập các giả thuyết kinh tế để giải thích vấn đề nghiên cứu
Mục tiêu của mô hình kinh tế là dự báo hoặc tiên đoán kết quả khi các biến số thay đổi.
Vì vậy, khi xây dựng mô hình, cần thiết lập các giả thuyết kinh tế. Các giả thuyết kinh tế mô
tả mối quan hệ giữa các biến số mà sự thay đổi của biến số này là nguyên nhân khiến một
(hoặc) các biến số khác thay đổi theo.

1.3.3. Kiểm định mô hình

Các nhà kinh tế học sẽ tập hợp các số liệu và phân tích để kiểm chứng lại giả thuyết.
Nếu kết quả thực nghiệm phù hợp với giả thuyết thì giả thuyết được công nhận còn nếu ngược
lại, giả thuyết sẽ bị bác bỏ. Trong trường hợp nếu các phép thử được thực hiện lặp đi lặp lại
nhiều lần đều cho kết quả thực nghiệm đúng như giả thuyết thì giả thuyết kinh tế được coi là
lý thuyết kinh tế. Một vài giả thuyết và lý thuyết kinh tế được công nhận một cách rộng rãi thì
được gọi là qui luật kinh tế.

7
Tuy nhiên đưa ra kết luận cuối cùng cần rất thận trọng. Thứ nhất là vấn đề liên quan đến giả
định các yếu tố khác không thay đổi. Đây là một trong những khó khăn lớn trong phân tích kinh
tế, đòi hỏi những kỹ thuật thống kê phức tạp. Thứ hai là vấn đề liên quan đến quan hệ nhân quả.
Một lỗi thường gặp là kết luận sai lầm về quan hệ nhân quả: sự thay đổi của một biến này là
nguyên nhân thay đổi của biến kia chỉ bởi vì chúng có xu hướng xảy ra đồng thời. Các phương
pháp thống kê phức tạp cũng cần được sử dụng để xác định xem liệu sự thay đổi của một biến có
thực sự là nguyên nhân gây ra sự thay đổi quan sát được ở biến khác hay không. Trong cả hai
trường hợp, bên cạnh nguyên nhân khó có thể có những thực nghiệm hoàn hảo như trong phòng
thí nghiệm như các môn khoa học khác, những phương pháp thống kê không phải lúc nào cũng
đủ sức thuyết phục các nhà kinh tế học tin vào mối quan hệ nhân quả thực sự.

1.4. LÝ THUYẾT LỰA CHỌN KINH TẾ

Phần này sẽ giới thiệu một số lý thuyết lựa chọn và quy luật kinh tế cơ bản tác động đến
quá trình lựa chọn trong nền kinh tế như là một đối tượng của môn kinh tế học.

1.4.1. Quy luật chi phí cơ hội tăng dần

Chi phí cơ hội là cơ hội tốt nhất bị bỏ qua khi đưa ra một sự lựa chọn về kinh tế. Khái
niệm này cũng có thể được phát biểu là những hàng hoá và dịch vụ cần thiết nhất bị bỏ qua để
thu được những hàng hoá và dịch vụ khác. Ví dụ: một người có một lượng tiền mặt là 1 tỷ
đồng và cất giữ ở trong két tại nhà. Nếu anh ta gửi lượng tiền đó vào ngân hàng với lãi suất có
kỳ hạn 1 tháng là 1,30% thì sau một tháng anh ta có được một khoản lãi là 13 triệu đồng. Như
vậy, chi phí cơ hội của việc giữ tiền (1 tỷ đồng) là tiền lãi (13 triệu đồng) bị bỏ qua. Đây là số
tiền lãi có thể thu được nếu gửi tiền vào ngân hàng. Một ví dụ khác về chi phí cơ hội của lao
động là thời gian nghỉ ngơi bị mất đi. Nếu bạn quyết định đi làm thêm vào thứ bảy và Chủ
nhật, bạn có thể kiếm được một lượng thu nhập nào đó, ví dụ là 500 ngàn đồng để chi tiêu.
Tuy nhiên, thời gian của thứ bảy và Chủ nhật đó lại không được sử dụng để nghỉ ngơi. Thời
gian nghỉ ngơi bị mất đi chính là chi phí cơ hội của việc làm thêm cuối tuần của bạn. Hoặc khi
người nông dân quyết định trồng hoa trên mảnh vườn của mình thay cho cây ăn quả hiện có,
thì chi phí cơ hội của việc trồng hoa là lượng hoa quả bị mất đi.
Như vậy khi đưa ra bất cứ sự lựa chọn kinh tế nào, chúng ta cũng phải cân nhắc so sánh
các phương án với nhau để xem phương án lựa chọn nào là tốt nhất. Đó chính là việc tính toán
chi phí cơ hội của sự lựa chọn. Tất nhiên, cần nhấn mạnh rằng việc tính toán chi phí cơ hội
không phải là đơn giản vì sự lựa chọn phải được cân nhắc rất kỹ trên nhiều phương diện khác
nhau. Và sự lựa chọn này còn phụ thuộc vào quy luật chi phí cơ hội tăng dần.

8
Quy luật chi phí cơ hội tăng dần phát biểu rằng để thu thêm được một số lượng hàng
hoá bằng nhau, xã hội ngày càng phải hy sinh ngày càng nhiều hàng hoá khác. Tại sao chi phí
cơ hội lại tăng lên? Câu trả lời tương đối đơn giản. Không phải tất cả các nguồn lực đều giống
nhau, một số nguồn lực phù hợp với sản xuất hàng hóa này hơn so với việc sản xuất hàng hóa
kia.Ví dụ răng giả định nên kinh tế có 2 ngành là trồng ngô và dệt vải, một số lao động và
máy móc thiết bị phù hợp với việc dệt vải trong khi một số lao động và máy móc khác lại phù
hợp hơn cho việc sản xuất ngô. Vì thế khi nền kinh tế mở rộng sản lượng dệt vải thì phải sử
dụng những tài nguyên không phù hợp lắm với việc sản xuất vải. Lúc đầu, tăng số lượng mét
vải không khó khăn lắm, chẳng hạn chuyển giảm diệt tích trồng ngô để chuyển sang trồng
bông dệt vải. Nhưng khi tiếp tục tăng sản lượng vải thì phải sử dụng cả những tài nguyên kém
phù hợp hơn. Chẳng hạn chuyển nhà máy chế biến ngô sang nhà máy chế biến sợi bông, việc
chuyển đổi trang thiết bị sản xuất này đòi hỏi phải hi sinh sản lượng ngô ngày càng lớn hơn.
Quy luật chi phí cơ hội tăng dần thường được minh hoạ qua đường giới hạn năng lực
sản xuất (PPF) - mô tả các mức sản lượng tối đa có thể sản xuất được với các nguồn lực hiện
có trong điều kiện công nghệ nhất định. Hãy xem xét quy luật này thông qua một ví dụ cụ thể
sau đây: Giả sử một nền kinh tế giản đơn có 2 ngành sản xuất là trồng ngô và dệt vải. Giả
định rằng các nguồn lực được sử dụng một cách tối ưu. Các khả năng có thể đạt được của nền
kinh tế đó được cho ở Bảng 1-1 dưới đây:
Bảng 1-1. Các khả năng sản xuất của một nền kinh tế

Các khả năng Sản lượng ngô (tấn) Sản lượng vải (nghìn mét)
A 25 0
B 20 4
C 15 7
D 9 9
E 0 10
Nếu chúng ta biễu diễn các khả năng sản xuất đó trên đồ thị ta sẽ có đường giới hạn khả
năng sản xuất (PPF) sau đây.

9
Ngô A
25  B
  K
20

15  C

10 H   D

5
E

2 4 6 8 10 Vải
Hình 1-3. Đường giới hạn khả năng sản xuất
Các điểm nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất như điểm A, B, C, D, E minh họa
khả năng sản xuất cao nhất của một nền kinh tế. Nền kinh tế không thể sản xuất nhiều hơn các
mức đó được. Các điểm này được coi là đạt hiệu quả về mặt kỹ thuật hay sản xuất. Các điểm
nằm bên ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất như điểm K là những điểm không khả thi, nền
kinh tế không thể đạt được. Còn các điểm nằm trong đường giới hạn khả năng sản xuất như
điểm H cho thấy việc sản xuất chưa hiệu quả - chưa tận dụng hết nguồn lực cũng như công nghệ
hiện có.
Đường giới hạn khả năng sản xuất minh họa chi phí cơ hội như thế nào? Quan sát 2
điểm A và B ta thấy như sau: để thu được 4 nghìn mét vải, nền kinh tế bây giờ chỉ có thể sản
xuất tối đa là 20 tấn ngô, có nghĩa là giảm bớt đi 5 tấn (bằng 25 tấn – 20 tấn). Chúng ta coi 5
tấn ngô mất đi này là chi phí cơ hội của việc sản xuất 4 nghìn mét vải đầu tiên. Tương tự như
vậy, ta có thể tính toán chi phí cơ hội của việc sản xuất vải của nền kinh tế này thông qua
Bảng 1-2 sau đây:

10
Bảng 1-2. Chi phí cơ hội của việc sản xuất vải

Chi phí cơ hội của 1


nghìn mét vải (tấn
ngô)

4 nghìn mét vải đầu tiên đòi hỏi phải bỏ qua 5 tấn ngô 5/4

3 nghìn mét vải tiếp theo đòi hỏi phải bỏ qua 5 tấn ngô 5/3

2 nghìn mét vải tiếp theo đòi hỏi phải bỏ qua 6 tấn ngô 3

1 nghìn mét vải cuối cùng đòi hỏi phải bỏ qua 9 tấn 9
ngô

Có thể nhận thấy rằng để thu thêm được cùng một số lượng vải (1 nghìn mét) số lượng
ngô bị mất ngày càng tăng. Điều này minh họa quy luật chi phí cơ hội tăng dần.

1.4.3. Phân tích cận biên - phương pháp lựa chọn tối ưu

Phân tích cận biên cấu thành cách tiếp cận phân tích của chúng ta đối với vấn đề lựa chọn.
Phương pháp này cho phép chúng ta hiểu được bản chất tối ưu của các quyết định kinh tế. Khi
đưa ra các quyết định kinh tế, các thành viên kinh tế theo đuổi các mục tiêu kinh tế khác nhau.
Cụ thể người tiêu dùng muốn tìm cách để tối đa hoá lợi ích, doanh nghiệp muốn tối đa hoá lợi
nhuận còn chính phủ muốn tối đa hoá phúc lợi công cộng. Dù các mục tiêu có khác nhau song
các thành viên kinh tế đều có chung một giới hạn đó là ràng buộc về ngân sách.
Phép phân tích cận biên sẽ giúp chúng ta hiểu được cách thức lựa chọn của các thành
viên kinh tế. Bất cứ sự lựa chọn kinh tế nào cũng liên quan đến hai vấn đề cơ bản là: chi phí
và lợi ích của sự lựa chọn. Cả hai biến số này đều thay đổi khi các thành viên kinh tế đưa ra
các sự lựa chọn với quy mô khác nhau. Mọi thành viên kinh tế đều mong muốn tối đa hoá lợi
ích ròng (hiệu số giữa lợi ích và chi phí).
Lợi ích ròng = Tổng lợi ích – Tổng chi phí
Giả sử hàm tổng lợi ích là TB = f(Q), hàm tổng chi phí là TC = g(Q). Điều đó có nghĩa
là tổng lợi ích thu được cũng như tổng chi phí bỏ ra cho một sự lựa chọn phụ thuộc vào qui
mô của sự lựa chọn đó (Q). Khi đó lợi ích ròng là NB = TB - TC = f(Q) - g(Q).
NB đạt giá trị cực đại khi (NB)’(Q) = 0, ta có:
(NB)’(Q) = TB’(Q) - TC’(Q) = 0

11
=> MB - MC = 0
=> MB = MC
MB = MC
Vậy lợi ích ròng đạt giá trị cực đại khi
- Nếu MB > MC thì mở rộng quy mô hoạt động sẽ làm tăng lợi ích ròng;
- Nếu MB = MC quy mô hoạt động là tối ưu;
- Nếu MB < MC thì thu hẹp quy mô hoạt động sẽ làm tăng lợi ích ròng.
Trong đó:
- MB là lợi ích cận biên: là phần lợi ích tăng thêm khi mở rộng mức độ hoạt động thêm
một đơn vị

- MC là chi phí cận biên phần chi phí tăng thêm khi mở rộng mức độ hoạt động thêm một
đơn vị

Như vậy, khi đưa ra các quyết định về sự lựa chọn kinh tế các thành viên kinh tế luôn phải
so sánh giữa phần tăng thêm về lợi ích và phần tăng thêm về chi phí nhằm mục đích xác định
một mức sản lượng tối ưu.

12
TÓM TẮT
Sự khan hiếm các nguồn lực là một đặc trưng vốn có của mọi kinh tế. Sự khan hiếm là
việc xã hội với các nguồn lực hữu hạn không thể thoả mãn tất cả mọi nhu cầu vô hạn và ngày
càng tăng của con người. Kinh tế học giúp chúng ta hiểu về cách giải quyết vấn đề khan hiếm
đó trong các cơ chế kinh tế khác nhau.
Kinh tế học là môn khoa học giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền
kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng thành viên tham gia vào nền kinh tế nói riêng.
Nền kinh tế là một cơ chế phân bổ các nguồn lực khan hiếm cho các mục đích sử dụng
khác nhau. Cơ chế này nhằm giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất
như thế nào? sản xuất cho ai? Các bộ phận hợp thành nền kinh tế là người ra quyết định bao
gồm hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ. Các thành viên này tương tác với nhau theo các
cơ chế phối hợp khác nhau. Mỗi thành viên có những mục tiêu và hạn chế của mình.
Kinh tế học bao gồm hai bộ phận cơ bản là kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô. Kinh
tế học vi mô nghiên cứu hành vi của các thành viên kinh tế. Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu các
vấn đề kinh tế tổng thể của nền kinh tế như các tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, các cân
thương mại,...
Kinh tế học thực chứng trả lời câu hỏi “Là cái gì” – tìm cách lý giải một cách khoa học
các hiện tượng quan sát được, xác định các nguồn lực trong nền kinh tế thực tế được phân bổ
như thế nào. Kinh tế học chuẩn tắc trả lời câu hỏi “Nên như thế nào” - đánh giá chủ quan của
các nhà kinh tế - phát biểu về cách các nguồn lực của nền kinh tế cần phải được phân bổ như
thế nào.
Phương pháp nghiên cứu kinh tế học bao gồm: i) quan sát và đo lường (số liệu theo thời
gian và số liệu chéo, chỉ số, biến danh nghĩa và biến thực tế, sự thay đổi của các biến số), ii)
xây dựng mô hình (xác định vấn đề nghiên cứu, xây dựng các mối quan hệ dựa trên những giả
định đơn giản hoá so với thực tế, xác lập các giả thuyết kinh tế để giải thích vấn đề nghiên
cứu), iii) kiểm định mô hình.
Chi phí cơ hội được hiểu là giá trị của cơ hội tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện một sự lựa
chọn về kinh tế. Chi phí cơ hội tuân theo quy luật chi phí cơ hội tăng dần.
Đường giới hạn năng lực sản xuất (PPF) được hiểu là đường mô tả tất cả các kết hợp
hàng hoá tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất với ràng buộc về các nguồn lực sản xuất và
công nghệ hiện có. Đường giới hạn khả năng sản xuất thể hiện sự khan hiếm của các nguồn
lực và quy luật chi phí cơ hội tăng dần.
Phương pháp phân tích cận biên chỉ ra rằng các thành viên kinh tế sẽ lựa chọn tại mức
mà lợi ích cận biên bằng với chi phí cận biên (MB = MC) để tối đa hóa lợi ích ròng.

13
CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT CUNG – CẦU
Nội dung
Chương này giới thiệu nội dung cơ bản của kinh tế thị trường đó là quan hệ cung cầu.
Các vấn đề cơ bản về cung cầu như khái niệm, quy luật, các nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu
sẽ được xem xét để thấy rõ cơ chế hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường và sự điều
chỉnh của thị trường. Ngoài ra, chương này xem xét các chính sách can thiệp của chính phủ và
phân tích tác động của các chính sách đó tới thị trường như chính sách giá trần, giá sàn và
chính sách thuế, chính sách thương mại.
Mục tiêu:

 Giúp học viên nắm được khái niệm cầu, cầu cá nhân, cầu thị trường. Hiểu được các
nhân tố ảnh hưởng tới cầu. Phân biệt sự vận động dọc đường cầu với sự dịch chuyển
của đường cầu

 Giúp học viên nắm được khái niệm cung, cung cá nhân, cung thị trường. Hiểu được
các nhân tố ảnh hưởng tớ cầu. Phân biệt sự vận động dọc đường cung và sự dịch
chuyển của đường cung

 Giúp học viên hiểu được khái niệm cân bằng thị trường cũng như cơ chế xác lập trạng
thái cân bằng của thị trường.

 Giúp học viên nắm vững khái niệm dư thừa và thiếu hụt.

 Giúp học viên có thể sử dụng mô hình cung cầu để phân tích các trường hợp trạng thái
cân bằng thay đổi.

 Giúp học viên nắm chắc những tác động của chính sách chính phủ lên trạng thái cân
bằng

Tình huống dẫn nhập

2.1. CẦU

2.1.1. Khái niệm

Cầu là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng
mua ở các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định, ceteris paribus1.
Như vậy cầu bao gồm hai yếu tố hợp thành đó là ý muốn mua và khả năng mua. Nếu
bạn rất muốn mua một chiếc máy tính xách tay SonyVaio đời mới rất đẹp và sang trọng

1
Ceteris paribus – Tiếng La Tinh có nghĩa là các điều kiện khác không đổi

14
nhưng vì giá nó rất cao và bạn không có đủ tiền thì cầu của bạn đối với máy tính xách tay đó
bằng không. Tương tự, nếu bạn có rất nhiều tiền nhưng bạn không muốn mua chiếc máy tính
Acer cũ thì cầu của bạn cũng không tồn tại. Như vậy cầu đối với hàng hoá hoặc dịch vụ chỉ
tồn tại khi người tiêu dùng vừa mong muốn mua hàng hoá đó và sẵn sàng chi trả tiền cho
hàng hoá đó .
Lượng cầu là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và sẵn sàng
mua tại một mức giá nhất định,ceteris paribus.
Lượng cầu đối với một hàng hoá nào đó có thể lớn hơn lượng hàng hoá thực tế bán ra.
Ví dụ, để thu hút khách hàng, mỗi tháng cửa hàng đĩa hát CD bán khuyến mại một lần vào
ngày đầu tháng 20 đĩa ca nhạc với giá 10.000 đồng 1 chiếc. Tại mức giá thấp đó, người tiêu
dùng muốn và sẵn sàng mua 30 chiếc CD, nhưng vì cửa hàng chỉ bán 20 chiếc đĩa hát nên
người tiêu dùng chỉ mua được 20 chiếc CD. Vậy lượng cầu là 30 – là lượng người tiêu dùng
muốn mua nhưng lượng thực tế bán ra chỉ là 20 chiếc.
Như vậy có thể thấy là cầu biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu và giá,trong điều kiện
các yếu tố khác không thay đổi.
Hình 2.1 minh hoạ đường cầu ước lượng đối với thịt lợn tại Canada (Moschini và
Meilke, 1992). Trên đồ thị 2.1 trục tung biểu diễn giá tính bằng đôla/kg còn trục hoành biểu
diễn sản lượng đo bằng nghìn tấn/năm. Trong trường hợp này thì đường cầu là một đường
thẳng tuyến tính còn nhìn chung đường cầu là đường nghiêng xuống về phía bên phải.

P $/kg

14.30

D1

3.30

2.30

Q ngh×n
220 240 286
tÊn/n¨m

§/kg
Hình 2.1. Đường cầu (D1) đối với thịt lợn của Canada

15
Tại mức giá là 14.30 đôla/kg hoặc cao hơn thì lượng cầu sẽ bằng không. Còn 286 nghìn
tấn cho biết lượng thịt lợn mà người tiêu dùng muốn nếu giá bằng không. Tại mức giá là
3,30đôla/kg thì lượng cầu sẽ là 220 nghìn tấn một năm.
Như vậy, một điều đặc biệt quan trọng cần ghi nhớ ở đây là đồ thị đường cầu chỉ minh
hoạ mối quan hệ giữa lượng cầu và giá. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến cầu như thu nhập, thị
hiếu, giá của hàng hoá liên quan như giá thịt bò, thịt gà... được coi như không đổi bằng giả
định ceteris paribus.
Bảng 2.1 Biểu cầu đối với thị lợn Canada:

Mức giá Lượng cầu(nghìn


(đôla/kg) tấn)

0 286

1 266

1.3 260

2.3 240

3.3 220

4.3 100

2.1.2. Luật cầu

Luật cầu được phát biểu như sau: người tiêu dùng sẽ mua nhiều hàng hoá hoặc dịch vụ
hơn nếu như giá của hàng hoá hoặc dịch vụ đó giảm xuống, ceteris paribus.
Theo như luật cầu thì đường cầu là đường dốc xuống về phía bên phải như minh hoạ trên
hình 2.1.
Đường cầu cũng minh hoạ tác động của giá tới lượng cầu. Khi giá của thịt lợn giảm
xuống từ 3.30$ tới 2.30 $ thì lượng cầu đối với thịt lợn tăng lên từ 220 nghìn tấn đến 240
nghìn tấn. Phản ứng của lượng cầu đối với sự thay đổi của giá được minh hoạ trên đường cầu
D1 và các nhà kinh tế gọi đó là sự vận động dọc theo đường cầu.

2.1.3. Cầu cá nhân và cầu thị trường

Nếu chúng ta biết được đường cầu của các cá nhân tiêu dùng riêng biệt thì làm cách nào
để xác định tổng cầu của họ? Cầu thị trường là cầu của tất cả những người mua. Tổng lượng
cầu tại một mức giá đã cho bằng tổng lượng cầu của tất cả người tiêu dùng tại mức giá đó.

16
Lưu ý rằng việc cộng các lượng cầu lại với nhau chỉ có nghĩa khi cả hai người tiêu dùng
cùng gặp một mức giá.
Ví dụ: Giả sử trên thị trường kem có 2 người mua là anh A và anh B với biểu cầu được cho
như sau:
P qA qB
QD = qA + qB
(nghìn đồng) (chiếc) (chiếc)
1 5 4 9
2 4 4 8
3 3 2 5
4 2 0 2
5 1 0 1
Trong đó:

QD là lượng cầu thị trường

qA, qB là lần lượt là lượng cầu của A và B

Như vậy lượng cầu của thị trường tại mỗi mức giá bằng tổng lượng cầu của tất cả người
mua trên thị trường tại cùng mức giá đó. Trên đồ thị, đường cầu thị trường là tổng theo chiều
ngang của tất cả các đường cầu cá nhân.

P P P
P P
1
P 1
P
2
2
d d D
1 2

qA q qB q QD Q
A 2 = qA + qB
Hình 2.2. Tổng các đường cầu cá nhân

2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu

2.1.4.1. Thu nhập.


Thu nhập là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định mua gì và bao nhiêu đối
với người tiêu dùng vì thu nhập quyết định khả năng mua của người tiêu dùng.
Đối với đa số hàng hoá và dịch vụ, khi thu nhập tăng lên thì cầu đối với chúng tăng lên
và ngược lại. Các hàng hoá đó được gọi là các hàng hoá bình thường. Ví dụ các hàng hoá như
lương thực, thực phẩm, Đi du lịch, mua bảo hiểm là hàng hoá bình thường.

17
Đối với một số hàng hoá và dịch vụ, khi thu nhập tăng lên người tiêu dùng mua ít đi.
Các hàng hoá đó có tên gọi là hàng hoá cấp thấp. Ví dụ trong thời bao cấp chúng ta thường
phải ăn độn gạo và ngô hoặc khoai. Ngày nay khi thu nhập (mức sống) cao lên việc tiêu dùng
ngô, khoai giảm xuống.
Xét ví dụ cầu về thịt lơn. Giả sử rằng thịt lợn là một loại hàng hóa bình thường, hình 2.3
sẽ minh họa rằng khi thu nhập tăng lên, thì lượng cầu thịt lợn đều tăng lên tại mọi mức giá.
Trước đây khi giá là 3.3$/kg thì thị trường mua 220 nghìn tấn một năm do thu nhập tăng nên
tại mức giá đó thị trường mua 232 tấn một năm. Toàn bộ mối quan hệ giữa giá và lượng thay
đổi- cầu thay đổi. Đường cầu thay đổi vị trí chuyển từ D1 sang D2 – ta gọi đó là sự dịch
chuyển của đường cầu

$/kg
14.30
D2

D1

3.30

Q ngh×n
220 232 286 tÊn/n¨m

§/kg
Hình 2.3. Cầu thịt lợn tăng khi thu nhập tăng
2.1.4.2. Thị hiếu
Thị hiếu là ý thích của con người. Thị hiếu cho biết người tiêu dùng muốn mua loại
hàng hóa nào. Tuy nhiên, thị hiếu thường rất khó quan sát và các nhà kinh tế thường giả định
là thị hiếu không phụ thuộc vào giá của hàng hoá và thu nhập của người tiêu dùng. Thị hiếu
phụ thuộc vào các nhân tố như tập quán tiêu dùng, tâm lý lứa tuổi, giới tính, tôn giáo... Thị
hiếu cũng có thể thay đổi theo thời gian và chịu ảnh hưởng lớn của quảng cáo.Ví dụ khi phim
Hàn quốc được phát sóng trên truyền hình và được giới trẻ Việt Nam đón nhận nồng nhiệt, họ
thay đổi cách ăn mặc, bắt chước các ngôi sao Hàn quốc nên cầu về quần áo thời trang Hàn
quốc tăng lên. Trên đồ thị, điều đó sẽ được minh họa bằng sự dịch chuyển của đường cầu
sang bên phải.

18
2.1.4.3. Giá của hàng hoá liên quan.
Khi mua sắm hàng hóa người tiêu dùng còn rất quan tâm đến giá của các hàng hóa liên
quan. Vậy các hàng hóa liên quan là gì? Mỗi hàng hoá có hai loại hàng hoá liên quan là hàng
hoá thay thế và hàng hoá bổ sung.
Hàng hoá thay thế là những hàng hoá có thể dùng thay cho hàng hoá đang xem xét
hoặc có cùng giá trị sử dụng hay thoả mãn cùng nhu cầu ví dụ như chè và cà phê, rau muống
và rau cải, nước chanh và nước cam...
Ta thấy thịt lợn và thịt bò là hai hàng hóa thay thế. Tại mức giá thịt lợn đã cho nếu giá
thịt bò lại tăng lên từ 4$/kg lên 4.60$/kg thì một số người tiêu dùng sẽ thay thế thịt bò bằng
thịt lợn. Cụ thể, trước đây khi giá thịt bò là 4$/kg thì thị trường tiêu thụ 220 tấn thịt lợn mỗi
năm, sau khi giá thịt bò tăng lên 4.60$/kg, lượng cầu đối với thịt bò sẽ tăng lên 232 tấn/năm.
Tại tất cả mọi mức giá, lượng cầu thịt lợn đều tăng lên. Trên đồ thị hình 2.4 đường cầu
mới là đường D2. Đường D2 cho biết tại mọi mức giá thì người tiêu dùng đều mua nhiều thịt
lợn hơn so với đường cầu D1.

$/kg
14.30 D2

D1

3.30

220 232 286 Q ngh×n


tÊn/n¨m

§/kg

Hình 2.4. Cầu đối với thịt lợn khi giá thịt bò tăng
Hàng hoá bổ sung là các hàng hoá được sử dụng cùng nhau ví dụ như chè Lipton và
chanh, xăng và xe máy... Khi giá chè Lipton giảm xuống người tiêu dùng sẽ mua nhiều chè
hơn và do vậy sẽ cầu nhiều chanh hơn – cầu với chanh tăng lên và ngược lại khi giá chè tăng
lên, cầu với chanh sẽ giảm xuống. Hình 2.5 minh họa sự thay đổi của cầu đối với chanh khi
giá chè Lipton giảm. Đường cầu đối với chanh dịch chuyển về phía bên phải – từ D1 sang D2 -
cầu chanh tăng.

19
P

D2

D1

Hình 2.5. Cầu đối với chanh khi giá chè Lipton giảm
2.1.4.4. Số lượng người tiêu dùng.
Số lượng người tiêu dùng hay quy mô thị trường là một trong những nhân tố quan
trọng xác định lượng tiêu dùng tiềm năng. Thị trường càng nhiều người tiêu dùng thì cầu tiềm
năng sẽ càng lớn. Ví dụ, nếu chúng ta so sánh thị trường gạo của Trung Quốc với Việt Nam.
Rõ ràng với hơn 1,35 tỷ dân Trung Quốc sẽ cầu nhiều gạo hơn Việt Nam với chỉ hơn 85 triệu
dân. Trên hình 2.6 đường cầu D1 là đường cầu đối với gạo của Việt Nam và đường cầu D2 là
đường cầu của Trung Quốc.

D2

D1

Hình 2.6. Đường cầu đối với gạo của Việt Nam và Trung Quốc
2.1.4.5. Các kỳ vọng.
Khi mua sắm hàng hóa, người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến các yếu tố như trình
bày ở phần trên. Các kỳ vọng cũng chi phối rất nhiều quyết định mua sắm của họ. Ví dụ, nếu

20
bạn kỳ vọng rằng giá hàng hóa bạn định mua sẽ giảm mạnh trong thời gian tới, tất nhiên bạn
sẽ cân nhắc việc dừng mua tại thời điểm hiện tại – có nghĩa là cầu giảm. Hoặc nếu bạn kỳ
vọng rằng thu nhập của bạn sẽ tăng cao trong thời gian tới (do ký được hợp đồng, do được
thăng tiến...) bạn có thể tiêu dùng nhiều hơn trong hiện tại – cầu của bạn tăng. Thực tiễn thời
gian qua khi chính phủ dự định cho nhập khẩu xe ô tô cũ cho thấy là rất nhiều người tiêu dùng
kỳ vọng và “chờ đợi” để mua ô tô với giá rẻ và cầu đối với ô tô sản xuất trong nước tạm thời
giảm xuống.
Kết luận: Sự thay đổi của giá bản thân hàng hóa gây ra sự vân động dọc đường cầu. Sự
thay đổi của bất cứ yếu tố nào khác giá của hàng hoá đó sẽ gây ra sự dịch chuyển của đường
cầu . Khi đường cầu dịch chuyển sang bên phải, chúng ta gọi là cầu tăng và khi cầu dịch sang
bên trái, chúng ta gọi là cầu giảm.

2.1.5. Hàm cầu

Cầu đối với hàng hóa phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Chúng ta có thể biểu diễn mối
quan hệ giữa lượng cầu đối với hàng hoá và các yếu tố ảnh hưởng dưới dạng hàm số tổng quát
sau:
Qdx=f(Px,Py,Pz,I,N...) (2.1)
Trong đó
- Qdx lượng cầu đối với hàng hoá X,
- Px giá của hàng hoá X,
- Py giá của hàng hoá Y,
- Pz giá của hàng hoá Z,
- I thu nhập của người tiêu dùng,
- N số lượng người tiêu dùng.

2.2. CUNG
Hiểu được người tiêu dùng muốn mua bao nhiêu hàng hoá là một điều rất quan trọng
nhưng vẫn chưa đủ để biết được giá và sản lượng hàng hoá đó trên thị trường là bao nhiêu. Để
trả lời được vấn đề đó, chúng ta còn cần phải hiểu người sản xuất hay các hãng muốn bán bao
nhiêu hàng hoá. Hành vi của các hãng được giải thích qua khái niệm kinh tế là cung.

2.2.1. Khái niệm

Cung là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người sản xuất muốn bán và có khả năng
bán ở các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định, ceteris paribus.

21
Cũng giống như trong khái niệm cầu, cung bao gồm cả hai yếu tố đó là sự muốn bán và
khả năng bán của nhà sản xuất. Ý muốn bán thường gắn với lợi nhuận có thể thu được còn
khả năng bán lại phụ thuộc vào năng lực sản xuất của hãng.
Lượng cung là số lượng hàng hoá mà hãng muốn bán và có thể bán tại một mức giá đã
cho với các yếu tố khác không đổi, ceteris paribus.
Chúng ta có thể thấy là cung biểu diễn mối quan hệ giữa giá và lượng cung, ceteris
paribus. Khi chúng ta biểu diễn mối quan hệ này trên đồ thị, chúng ta sẽ có đường cung. Hình
2.7 minh hoạ đường cung S1 đối với thịt lợn ở Canada. Đường cung này là một đường thẳng
nhưng các đường cung khác có thể có hình dạng khác. Cũng như đối với đường cầu, trục tung
biểu diễn giá còn trục hoành biểu diễn sản lượng. Như vậy đường cung giúp chúng ta trả lời
câu hỏi các hãng sẽ bán bao nhiêu hàng hoá ở các mức giá khác nhau.
P

S1

5.30

3.30

Q ngh×n
220 300 tÊn/n¨m

§/kg

Hình 2.7. Đường cung thịt lợn S1 tại Canada

2.2.2. Tác động của giá tới lượng cung

Chúng ta minh hoạ tác động của giá tới lượng cung trên đồ thị đường cung hình 2.7.
Như đã trình bày ở trên, đường cung thịt lợn tại Canada là một đường thẳng dốc lên trên. Khi
giá thịt lợn tăng lên, các hãng cung cấp nhiều thịt lợn hơn. Nếu giá là 3,30$/kg lượng cung
trên thị trường là 220 nghìn tấn. Nếu giá tăng lên 5,30$/kg lượng cung sẽ tăng lên 300 nghìn
tấn. Sự thay đổi của giá thịt lợn gây ra sự vận động dọc theo đường cung.
Mặc dù luật cầu đòi hỏi rằng đường cầu dốc xuống, song luật cung không đòi hỏi đường
cung phải có một hình dạng nhất định. Đường cung thị trường có thể là đường dốc lên, thẳng
đứng, nằm ngang hay dốc xuống2. Trong ngắn hạn, hầu hết đường cung dốc lên như đường

2
Chúng ta sẽ nghiên cứu các đường cung dài hạn trong phần cấu trúc thị trường

22
cung thịt lợn trong ví dụ của chúng ta. Đối với các đường cung này, khi giá cao hơn các hãng
muốn bán nhiều hơn, ceteris paribus.

2.2.3. Cung cá nhân và cung thị trường

Đường cung thị trường cho biết tổng số hàng hoá được cung bởi tất cả các hãng tại các
mức giá khác nhau. Tương tự như phần xác định đường cầu của thị trường, đường cung thị
trường là tổng số của tất cả các đường cung cá nhân. Trong phần này chúng ta sẽ minh hoạ sự
tổng hợp đường cung bằng đồ thị.
Giả sử có hai hãng cung cấp hàng hoá với hai đường cung tương ứng là Sd và Sf. Đường
tổng cung St là tổng theo chiều ngang của hai đường Sd và Sf. Để tính lượng tổng cung, chúng
ta cộng lượng cung cá nhân theo mỗi mức giá. Ví dụ, tại mức giá P1 lượng tổng cung bằng
Qd1 + Qf1. Tại mức giá P2, lượng tổng cung sẽ là Qd2+Qf2. Hình 2.8 minh họa rất rõ cách xác
định đường tổng cung.

P P P
Sd Sf St
P2 P2 P2

P1 P1 P1

Q Q
Q
Qd1 Qd2 Qf1 Qf2 Qd1+Qf1 Qd2+Qf2

Hình 2.8. Tổng cộng các đường cung

2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới cung

2.2.4.1. Công nghệ sản xuất.


Công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng hàng hoá được sản xuất ra. Công
nghệ tiên tiến sẽ làm tăng năng suất và do đó nhiều hàng hoá hơn được sản xuất ra. Hãy xem
xét một ví dụ cụ thể về sản xuất rượu theo phương pháp truyền thống và phương pháp hiện
đại. Để sản xuất rượu theo công nghệ truyền thống, ta thấy giai đoạn lên men rất dài vì phụ
thuộc vào nhân tố khách quan như nhiệt độ môi trường, do đó hạn chế số lượng rượu sản xuất
ra chưa kể là chất lượng không ổn định. Theo phương pháp hiện đại sử dụng công nghệ vi
sinh tiên tiến, một môi trường thuận lợi nhất được tạo ra đối với quá trình lên men đảm bảo
không chỉ tính ổn định về chất lượng mà còn tăng sản lượng trong thời gian ngắn hơn. Chúng

23
ta minh họa điều này qua hình 2.9. Với công nghệ hiện đại, đường cung sẽ là S2 so với S1
công nghệ truyền thống, thủ công.

P
S1

S2

O
Q

Hình 2.9. Cung rượu với hai công nghệ sản xuất
2.2.4.2. Số lượng người sản xuất.
Số lượng người sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng hàng hoá được bán ra trên
thị trường. Càng nhiều người sản xuất thì lượng hàng hoá càng nhiều, đường cung dịch
chuyển sang bên phải. Ngược lại, nếu ít người sản xuất đường cung dịch chuyển sang bên trái.
2.2.4.3. Giá của các yếu tố đầu vào.
Giá yếu tố đầu vào tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và do đó ảnh hưởng đến
lượng hàng hoá mà các hãng muốn bán. Nếu như giá của các yếu tố đầu vào giảm, chi phí sản
xuất sẽ giảm, lợi nhuận sẽ lớn và do đó hãng sẽ muốn cung nhiều hàng hóa hơn. Khi giá đầu
vào tăng lên, chi phí sản xuất tăng, khả năng thu lợi nhuận giảm do đó hãng cung ít sản phẩm
hơn. Trong ví dụ của chúng ta về thị trường thịt lợn của Canada khi giá của thức ăn cho lợn
tăng lên từ 1,50$/kg đến 1,75$/kg thì đường cung sẽ dịch chuyển sang bên trái từ S1 đến S2
như minh hoạ trên hình 2.10

24
P
S2
$/kg S1

3.30

Q ngh×n
205 220 tÊn/n¨m

Hình 2.10. Cung giảm khi giá đầu vào tăng


2.2.4.4. Chính sách thuế.
Nhà nước sử dụng thuế như công cụ điều tiết sản xuất. Đối với các hãng thì thuế là
chi phí do vậy khi chính phủ giảm thuế, miễn thuế hoặc trợ cấp có thể khuyến khích sản xuất
làm tăng cung. Ngược lại, nếu chính phủ đánh thuế sẽ hạn chế sản xuất và làm giảm cung.
Hình 2.11 minh họa tác động của thuế làm dịch chuyển đường cung về bên trái từ S1 đến S2.

P
S2

S1

O
Q

Hình 2.11. Thuế làm dịch chuyển cung về bên trái

2.2.4.5. Các kỳ vọng.


Cũng giống như người tiêu dùng, các nhà sản xuất cũng đưa ra quyết định cung cấp của
mình dựa vào các kỳ vọng. Ví dụ, nếu các nhà sản xuất kỳ vọng thời gian tới giá hàng hóa sẽ
giảm vì chính phủ sẽ mở cửa thị trường đối với các nhà sản xuất nước ngoài – các nhà sản
xuất có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, họ phải cố gắng sản xuất để tăng cung hiện tại.
Như vậy khi phân tích tác động của một yếu tố nào đó đến lượng cung, chúng ta phải
phân biệt sự vận động dọc theo đường cung và sự dịch chuyển của đường cung. Sự thay đổi

25
giá của một hàng hóa gây ra sự vận động dọc theo đường cung đối với hàng hóa đó, còn sự
thay đổi của bất cứ yếu tố nào ngoài giá của hàng hoá đó như công nghệ, giá yếu tố đầu vào, chi phí,
chính sách thuế sẽ gây ra sự dịch chuyển của đường cung.

2.2.5. Hàm cung

Chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung và yếu tố khác dưới dạng tổng
quát sau:
Qsx = f(Px, Py, Pz, Nsx,...) (2.2)
Trong đó
- Qsx là lượng cung hàng hoá X;
- Px là giá của X;
- Py là giá của Y;
- Pz là giá của Z;
- Nsx là số lượng người sản xuất.

2.3. CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG

2.3.1. Khái niệm

Thị trường theo một nghĩa chung nhất là nơi gặp gỡ của cung và cầu.Thị trường gồm
hai lực lượng là người bán (phía cung) và người mua (phía cầu). Sự tác động qua lại tự do
giữa hai lực lượng này hình thành nên giá và lượng cân bằng đối với hàng hóa.
Cân bằng thị trường là một trạng thái tại đó không có sức ép làm thay đổi giá và sản
lượng. Hay nói cách khác đó là trạng thái lượng cung bằng lượng cầu tại một mức giá nhất
định
Đường cầu cho biết lượng hàng hoá mà người tiêu dùng muốn mua tại các mức giá khác
nhau và đường cung cho biết số lượng hàng hoá mà các hãng muốn bán tại các mức giá khác
nhau. Khi tất cả mọi người tham gia vào thị trường có thể mua hoặc bán một lượng bất kỳ mà
họ mong muốn, chúng ta nói rằng thị trường trong trạng thái cân bằng: đó là trạng thái mà cả
người mua và người bán đều không thích thay đổi hành vi của họ. Mức giá mà người mua
muốn mua và người bán muốn bán theo ý của họ được gọi là mức giá cân bằng. Sản lượng
được mua và bán tại mức giá cân bằng gọi là lượng cân bằng.

2.3.2. Sự hình thành trạng thái cân bằng

26
Thị trường có khả năng tự điều chỉnh để đạt được trạng thái cân bằng. Nếu giá khác với
mức giá cân bằng thì người tiêu dùng và hãng sẽ có động cơ để thay đổi hành vi của họ để
đưa giá quay trở lại trạng thái cân bằng. Có thể minh hoạ điều này ở hình 2.12 về sự điều
chỉnh của thị trường thịt lợn ở Canada.
Khi giá là 2.65$/kg, các hãng chỉ muốn bán 194 nghìn tấn mỗi năm trong khi người tiêu
dùng lại muốn mua 233 nghìn tấn. Tại mức giá này lượng cầu lớn hơn lượng cung, trên thị
trường có hiện tượng dư cầu hay còn gọi là hiện tượng thiếu hụt hàng hóa, lượng thiếu hụt là
39 nghìn tấn (233-194) mỗi năm. Một số người tiêu dùng may mắn sẽ mua được thịt lợn với
giá 2,65$/kg. Nhưng nhiều người tiêu dùng khác không thể tìm được người bán với giá đó.
Một vài người trong số họ có thể sẵn sàng trả mức giá cao hơn là 2.65$/kg. Những người bán
nhận ra những người tiêu dùng này và họ có thể sẽ nâng giá lên. Những hành động như vậy
của người mua và người bán sẽ làm cho giá thị trường tăng lên. Khi giá thị trường tăng lên
theo luật cầu thì lượng cầu giảm đi trong khi lượng cung lại tăng lên. Sức ép tăng giá này sẽ
tiếp tục cho tới khi không còn tình trạng thiếu hụt- tức là lượng cung bằng lượng cầu ở mức
giá 3.3 $/kg.

$/kg

S1

3.95

3.30

2.65

D1

Q ngh×n
194 207 220 233 246 tÊn/n¨m

Hình 2.12. Điều chỉnh của thị trường


Ngược lại, khi giá là 3,95$/kg thì người bán sẽ muốn bán 246 nghìn tấn mỗi năm nhưng
người mua chỉ muốn mua 207 nghìn tấn như minh hoạ trên hình 2.12. Lúc này tại mức giá
3.95 $, lượng cung lại lớn hơn lượng cầu, tồn tại dư cung hay còn gọi là dư thừa hàng hoá.
Trong trường hợp này không phải là tất cả các hãng đều bán được lượng hàng như hãng mong
muốn, các hãng sẽ giảm giá bán để thu hút thêm khách hàng, khi giá giảm, lợi nhuận của hãng
giảm xuống, hãng sẽ muốn cung ít hàng hóa hơn và do đó lượng cung giảm. Trong khi đó,
theo luật cầu, khi giá hàng hóa giảm, người tiêu dùng muốn mua nhiều hàng hóa hơn, lượng

27
cầu giảm, Sức ép giảm giá này sẽ tiếp tục cho tới khi không còn tình trạng dư thừa- tức là
lượng cung bằng lượng cầu ở mức giá 3.3 $/kg.
Tóm lại, Hiện tượng dư thừa hoặc thiếu hụt tạo ra sức ép thay đổi giá cả hàng hóa và thị
trường luôn có xu hướng thay đổi giá để đạt được mức giá cân bằng khi không còn dư thừa
hoặc thiếu hụt.

2.3.3. Xác định trạng thái cân bằng

2.3.3.1. Xác định trạng thái cân bằng theo đồ thị


Để xác định trạng thái cân bằng của thị trường bằng đồ thị cung cầu, chúng ta quay trở
lại ví dụ về thị trường thịt lợn tại Canada. Hình 2.13 minh hoạ các đường cung và cầu thịt lợn
tại Canada. Các đường này cắt nhau tại điểm E, đó là trạng thái cân bằng thị trường với giá
cân bằng là 3.30$/kg và lượng cân bằng là 220 nghìn tấn/năm.

$/kg S1

pe =3.30

D1

Q ngh×n
tÊn/n¨m
Qe=220

Hình 2.13. Cân bằng thị trường

2.3.3.2. Xác định cân bằng thị trường bằng toán học
Chúng ta cũng có thể xác định cân bằng thị trường bằng công cụ toán học nhờ việc sử
dụng các phương trình cung cầu. Nhớ lại phương trình cầu đối với thịt lợn cho biết mối quan
hệ giữa lượng cầu QD và giá P là QD =286 - 20P
Phương trình biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung QSvà giá P là QS = 88 + 40P
Chúng ta sẽ tìm được giá Pe tại đó Qs=Qd=Qe. Dễ dàng giải phương trình và thu được
giá cân bằng Pe=3.30$/kg và lượng cân bằng Qe=220 nghìn tấn/năm.

28
2.3.4 Thay đổi trạng thái cân bằng

Cân bằng thị trường không phải là một trạng thái vĩnh cửu mà nó có thể thay đổi khi các
yếu tố của cung và cầu thay đổi. Các yếu tố đó thay đổi sẽ làm dịch chuyển đường cung và
đường cầu. Kết quả là các trạng thái cân bằng mới được thiết lập. Chúng ta quay trở lại ví dụ
về thị trường thịt lợn tại Canada và xem xét các tình huống cụ thể sau đây:

2.3.4.1. Tác động của sự dịch chuyển của cầu

Giả sử giá thịt bò tăng lên 60 cent/kg lúc đó người tiêu dùng sẽ tiêu dùng nhiều thịt lợn
hơn vì thịt lợn là hàng hoá thay thế cho thịt bò. Kết quả là đường cầu đối với thịt lợn dịch
chuyển từ D1 đến D2 như minh hoạ trên hình 2.14.

$/kg S1

D1
3.50
0
3.30
D2

228 Q ngh×n
220 232
tÊn/n¨m

Hình 2.14. Tác động của sự dịch chuyển của đường cầu
Tại mức giá cân bằng ban đầu của thịt lợn là 3.30$/kg, bây giờ người tiêu dùng muốn
mua 232 nghìn tấn thịt lợn mỗi năm. Tuy nhiên tại mức giá này,vì đường cung không đổi nên
các hãng sản xuất vẫn chỉ muốn bán 220 nghìn tấn. Kết quả là lượng cầu dư ra 12 nghìn tấn
mỗi năm. Sự thiếu hụt hàng hóa tao ra sức ép tăng giá. Giá tăng lên cho đến khi không còn
tình trạng thiếu hụt, thị trường đạt được mức cân bằng mới là 3,50$/kg. Tại mức giá đó các
hãng muốn bán 228 nghìn tấn và người tiêu dùng muốn mua 228 nghìn tấn. Kết quả khi cung
không đổi, của sự tăng cầu làm giá và sản lượng cân bằng đều tăng.

2.3.4.2 Tác động của sự dịch chuyển của đường cung

Bây giờ giả sử giá của thức ăn cho lợn lại tăng lên 25cent/kg. Việc chăn nuôi lợn trở lên
đắt hơn vì giá của thức ăn (đầu vào) đã tăng lên.. Tại mọi mức giá, các hãng bây giờ đều

29
muốn cung ít hơn so với trước kia khi giá thức ăn chưa tăng. Kết quả là đường cung thịt lợn
dịch chuyển lên trên từ S1 đến S2 như minh hoạ trên hình 2.15
Tại mức giá cân bằng ban đầu của thịt lợn là 3,30$/kg người tiêu dùng vẫn muốn mua 220
nghìn tấn mỗi năm, nhưng các hãng chỉ muốn cung một lượng là 205 nghìn tấn. Như vậy,
lượng cầu dư sẽ là 15 nghìn tấn. Sự thiếu hụt hàng hóa tạo sức ép tăng giá. Giá tăng đến khi
không còn thiếu hụt, thị trường đạt đến trạng thái cân bằng mới là 3,55$/kg và sản lượng cân
bằng sẽ là 215 nghìn tấn. Tóm lại,khi cầu không đổi và cung giảm thì làm giá cân bằng tăng là
lượng cân bằng giảm.

P
S2
$/kg

S1
3.55
0
3.30

D1

205 215 220 Q ngh×n


3.30 tÊn/n¨m

Hình 2.15. Tác động của sự dịch chuyểnnn¨m


đường cung
§/kg
2.3.4.3. Tác động của sự dịch chuyển của cả đường cầu và đường cung

Chúng ta vừa xem xét tác động của sự dịch chuyển của đường cầu và đường cung riêng
biệt. Tuy nhiên, cả hai đường đó đều có thể thay đổi vì các nhân tố ảnh hưởng đến cung và cầu
luôn luôn biến đổi. Tuy nhiên, việc xác định lượng cân bằng trở nên khó khăn hơn khi sự thay
đổi của giá cân bằng và lượng cân bằng còn phụ thuộc vào mức độ tăng(giảm) của cầu và cung.
Ta xét một trường hợp đó là khi cung giảm và cầu tăng

30
S2
P
S1

E2
P2

P1 E1
D2
D1
0
Q2 Q1 Q

S2
P
S1
E2
P2

E1
P1
D2
D1
0
Q1 Q2 Q

P S2
S1
E2
P2

P1 E1
D2
D1
0
Q1 Q

Hình 2.16. Khi cung giảm và câu tăng

Như nghiên cứu ở phần trước, cầu tăng làm cho giá cân bằng và lượng cân bằng đều
tăng, cung giảm làm cho giá cân bằng tăng còn lượng cân bằng sẽ giảm. Như vậy trong
trường hợp cung giảm, cầu tăng ta chỉ có thể kết luận rằng giá cân bằng sẽ tăng,còn không thể
kết luận được về chiều hướng thay đổi của lượng cân bằng. Nếu mức độ tăng của cầu lớn hơn
mức độ giảm của cung thì lượng cân bằng tăng lên, ngược lại nếu mức độ giảm của cung tăng

31
lớn hơn mức độ tăng của cầu thì lượng cân bằng giảm và nếu mức độ giảm cung ngang bằng
với mức độ giảm cầu thì lượng cân bằng không thay đổi.

2.4 Tác động của sự can thiệp chính phủ

2.4.1 Chính sách làm dịch chuyển đường cung

Các chính sách của chính phủ có thể gây ra sự dịch chuyển của đường cung hoặc đường
cầu. Ở đây chúng ta sẽ xem xét một trường hợp trong đó chính sách của chính phủ làm dịch
chuyển đường cung

Chính sách thuế

Chính phủ có thể làm thay đổi cân bằng của thị trường bằng việc đánh thuế hàng hóa.
Hình 2.17 sẽ minh họa tác động của thuế đánh vào hàng hóa. Nếu thuế bằng t trên 1 đơn vị
sản phẩm thì đường cung có thuế St sẽ dịch chuyển lên trên so với đường cung S1 ban đầu
một lượng là t. Giá cân bằng sẽ tăng lên từ P1 đến P2 và lượng cân bằng sẽ giảm từ Q1 xuống
Q2. Các nhà hoạch định chính sách rất quan tâm tới ảnh hưởng của thuế đến người mua và
người bán.
Hình 2.17 cho chúng ta thấy phần giá hàng hoá tăng lên (P2-P1) sẽ do người tiêu dùng
chịu. Họ phải trả giá P2 cho mỗi đơn vị hàng hóa họ mua. Người sản xuất (người bán) chịu
phần còn lại [t – (P2 – P1)] và thực tế họ chỉ nhận được một lượng P3 cho mỗi đơn vị hàng hóa
bán ra. Có thể nhận thấy sự thay đổi của giá nhiều hay ít khi có thuế và ai là người chịu nhiều
thuế hơn phụ thuộc vào hình dạng của đường cung và đường cầu. Chúng ta sẽ nghiên cứu cụ
thể ở các chương sau.

P
St

S1
P2 t

P1
P3

D1

Q2 Q1 Q

Hình 2.17. Tác động của thuế

32
2.4.2. Chính sách làm cho lượng cung và lượng cầu khác nhau

Chính phủ có thể tác động vào thị trường thông qua các chính sách can thiệp trực tiếp
vào giá làm cho lượng cung và lượng cầu khác nhau. Chúng ta sẽ xem xét các trường hợp đặt
giá trần và giá sàn của chính phủ.
2.4.2.1. Giá trần
Giá trần là mức giá cao nhất đối với một mặt hàng nào đó do chính phủ ấn định. Các
hãng sản xuất không được bán hàng hóa với giá cao hơn mức giá trần đó. Như vậy, có thể
thấy là mục tiêu của chính phủ khi đặt giá trần là bảo vệ người tiêu dùng. Và để mức giá trần
phát huy được tác dụng thì nó luôn phải thấp hơn mức giá cân bằng do thị trường xác định.
Giả sử chính phủ áp dụng giá trần là Pc (hình 2.18). Tại mức giá Pc, lượng cầu( QD ) là
Q1 và lượng cung( Qs) là Q2. Ta thấy rằng Q1 > Q2 , thị trường xảy ra hiện tượng thiếu hụt.

P S

e
Pe

Pc Pc

Q2 Qe Q1 Q

Hình 2.18. Giá trần


2.4.2.2. Giá sàn
Giá sàn là mức giá thấp nhất đối với một hàng hoá hoặc dịch vụ cụ thể nào đó do chính
phủ quy định. Ví dụ, khi được mùa giá nông sản thường giảm rất mạnh và người nông dân
thậm chí bị lỗ. Chính phủ quy định giá sàn – mức giá tối thiểu mà các doanh nghiệp phải mua
nông sản cho người nông dân hay như chính phủ quy định mức lương tối thiểu đối với người
lao động.
Như vậy, mục tiêu của giá sàn là bảo vệ người bán. Để chính sách này phát huy tác
dụng thì giá sàn luôn phải được đặt cao hơn mức giá cân bằng do thị trường tự xác định.

33
Giả sử chính phủ đặt giá sàn là Pf (hình 2.19). Tại mức giá Pf, QD = Q2 , Qs = Q1. Ta
thấy rằng Q2 < Q1 hay , QD < Qs , thị trường xảy ra hiện tượng dư thừa.

P S

Pf Pf
Pe

Q2 Qe Q1 Q

Hình 2.19. Giá sàn

34
TÓM TẮT
Cầu: Số lượng hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua ở
các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định, ceteris paribus. Cầu phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác nữa như thu nhập, thị hiếu, dân số, giá hàng hóa liên quan và kỳ vọng.
Nếu các điều kiện khác không thay đổi, khi giá hàng hóa tăng lên, lượng cầu đối với hàng hóa
giảm xuống. Sự thay đổi giá bản thân hàng hóa gây ra sự vận động dọc theo đường cầu. Sự thay
đổi các nhân tố khác giá làm cho đường cầu dịch chuyển. Đường cầu thị trường là tổng của các
đường cầu cá nhân theo chiều ngang.
Cung: Số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người sản xuất muốn bán và có khả năng bán
ở các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định, ceteris paribus. Cung phụ thuộc
vào các yếu tố khác như công nghệ sản xuất, giá yếu tố đầu vào, số lượng người sản xuất,
chính sách thuế và các kỳ vọng. Nếu các điều kiện khác không thay đổi, giá hàng hóa tăng lên
thì lượng cung tăng lên. Sự thay đổi giá bản thân hàng hóa gây ra sự vận động dọc theo đường
cung. Sự thay đổi các nhân tố khác giá làm dịch chuyển đường cung. Đường cung thị trường
là tổng các đường cung cá nhân theo chiều ngang.
Cân bằng thị trường: Sự tương tác của cung và cầu xác định giá và lượng cân bằng trên
thị trường. Tại mức giá cao hơn giá cân bằng sẽ xuất hiện dư thừa hàng hóa, giá sẽ có xu
hướng giảm xuống. Tại mức giá thấp hơn giá cân bằng sẽ xuất hiện thiếu hụt hàng hóa, giá sẽ
tăng.
Sự thay đổi trạng thái cân bằng: Một sự thay đổi của yếu tố không phải là giá của hàng
hóa sẽ làm cho đường cung hoặc đường cầu dịch chuyển. Một trạng thái cân bằng mới sẽ
được thiết lập.
Sự can thiệp của chính phủ: Chính phủ có thể làm thay đổi trạng thái cân bằng của thị
trường bằng cách can thiệp vào thị trường làm thay đổi đường cung hoặc đường cầu. Chính
phủ đặt giá trần hoặc giá sàn sẽ làm xuất hiện dư thừa hoặc thiếu hụt hàng hóa.
Điều kiện áp dụng mô hình cung cầu: Mô hình cung cầu là một công cụ rất mạnh để
hiểu biết và giải thích các thay đổi trên thị trường khi các nhân tố thay đổi. Tuy nhiên, mô
hình này thích hợp với điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo trong đó rất nhiều người mua
và người bán, sản phẩm giống nhau, thị trường có thông tin hoàn hảo và chi phí giao dịch
thấp.

35
CHƯƠNG 3. ĐỘ CO GIÃN CỦA CẦU VÀ CUNG

Nội dung
Trong chương này, chúng ta sẽ sử dụng khái niệm “độ co giãn” để đo lường phản ứng của
lượng cầu khi giá hàng hóa, giá hàng hóa liên quan và thu nhập thay đổi, của lượng cung khi giá
hàng hóa thay đổi, đồng thời phân tích những yếu tố tác động đến độ co giãn của cung và cầu
theo giá.
Mục tiêu
 Giúp học viên nắm được khái niệm, công thức tính độ co giãn của cầu theo
giá. Hiểu rõ co giãn điểm và co giãn khoảng
 Phân biệt co giãn và không co giãn
 Hiểu rõ ứng dụng và các yếu tố ảnh hưởng tới độ co giãn của cầu theo giá
 Nắm chắc khái niệm, công thức tính và giá trị của co giãn chéo, co giãn theo
thu nhập, co giãn của cung theo giá.
Tình huống dẫn nhập
3.1. ĐỘ CO GIÃN CỦA CẦU
Lượng cầu của một hàng hóa phụ thuộc bởi rất nhiều yếu tố. Bên cạnh các yếu tố cơ bản
được phân tích trong lý thuyết cổ điển về cầu như thu nhập, giá hàng hóa, giá hàng hóa liên quan
(bổ sung và thay thế), thị hiếu, kỳ vọng, số lượng người mua; thì trong thực tế còn rất nhiều các
yếu tố khác có thể tác động đến lượng cầu.
Một khi các yếu tố trên thay đổi thì lượng cầu sẽ có phản ứng, và độ co giãn sẽ là một biến
số được dùng để đo lường mức độ phản ứng đó và từ đó có thể đánh giá được lượng cầu nhạy
cảm với các yếu tố trên hay không. Một cách đơn giản, có thể hiểu độ co giãn của cầu theo một
yếu tố X (yếu tố có thể ảnh hưởng đến lượng cầu) là phần trăm thay đổi của lượng cầu khi yếu tố
X thay đổi 1%. Vì vậy, công thức của độ co giãn được viết như sau:
%Q
EXD 
%X
Trong đó:
E XD là độ co giãn của cầu theo các biến ảnh hưởng

%Q là % thay đổi của lượng cầu hàng hóa


%X là % thay đổi của yếu tố X.
Trong bài này, chúng ta lựa chọn yếu tố X là giá của hàng hóa, giá của hàng hóa liên quan
và thu nhập, và tương ứng, chúng ta sẽ nghiên cứu độ co giãn của cầu theo giá, độ co giãn chéo
theo giá hàng hóa liên quan và độ co giãn của cầu theo thu nhập.

36
3.1.1. Độ co giãn của cầu theo giá
3.1.1.1 Khái niệm và công thức tính
Độ co giãn của cầu theo giá là thước đo phản ứng của lượng cầu hàng hoá khi giá hàng hóa
thay đổi, với điều kiện các yếu tố khác giữ nguyên, và được đo bằng phần trăm thay đổi của
lượng cầu theo 1% thay đổi của mức giá theo công thức tổng quát sau:
Thay đổi phần trăm của lượng cầu
Độ co giãn của cầu
=
theo giá Thay đổi phần trăm của giá

Q
* 100%
%Q Q Q P
EP 
D
  *
%X P P Q
* 100%
P
Ở đây có 2 cách tính độ giãn: co giãn khoảng và co giãn điểm:
Co giãn khoảng được sử dụng khi sự thay đổi của giá là lớn. Ví dụ, giả sử giá của iPhone
lúc ban đầu là P1 = 11 triệu đồng/1 chiếc, lượng cầu là Q1 = 7000 chiếc. Nếu giá Iphone tăng lên
P2 = 12 triệu đồng/1 chiếc (các yếu tố khác được giữ nguyên) thì lượng cầu là Q2 = 6000 chiếc.
Từ những số liệu này, chúng ta có thể tính được độ co giãn khoảng theo công thức trên. Trong đó
∆Q = Q2 – Q1, ∆P = P2 – P1. Giá trị P và Q ở công thức trên sẽ không là giá trị giá và lượng cầu ở
thời điểm ban đầu hay sau khi thay đổi giá, mà được tính là giá và lượng cầu trung bình để tránh
có hai giá trị độ co giãn của cầu, phụ thuộc vào liệu giá tăng hay giảm. Theo đó, P = (P1+P2)/2; Q
= (Q1+Q2)/2.
Giá trị độ co giãn trong ví dụ trên được tính như sau:
Q2  Q1 P2  P1
EPD  *
P2  P1 Q2  Q1
6000  7000 12  11
EPD  *  1,769
12  11 6000  7000
Giá trị -1,769 được hiểu là trong khoảng giá từ 11 triệu đến 12 triệu, nếu giá iPhone tăng
1% thì lượng cầu iPhone sẽ giảm 1,769% và ngược lại (các yếu tố khác được giữ nguyên).
Co giãn điểm được sử dụng khi sự thay đổi của giá là rất nhỏ, theo đó công thức tính là:
dQ P
EPD  *
dP Q
Ví dụ, nếu đường cầu Nokia của thị trường được ước lượng là P = 15 – Q chúng ta có thể
tính được độ co giãn tại mức giá P = 11 triệu đồng là -2,75. Giá trị này được hiểu là tại mức giá
11 triệu đồng, nếu giá tăng lên 1%, lượng cầu Nokia sẽ giảm 2,75% và ngược lại (các yếu tố
khác giữ nguyên).
Cần lưu ý, độ co giãn của cầu theo giá là một thước đo không đơn vị (do phần trăm thay
đổi của các biến số không phụ thuộc vào đơn vị đo biến số). Ngoài ra, độ co giãn này luôn mang

37
dấu âm do lượng cầu thường phản ứng ngược chiều với giá nếu các yếu tố khác giữ nguyên (theo
quy luật cầu). Vì vậy, để phân tích mức độ nhạy cảm của lượng cầu hay để so sánh độ phản ứng
theo giá giữa các hàng hóa, người ta thường dùng giá trị tuyệt đối của độ co giãn của cầu theo
giá.
3.1.1.2 Phân loại độ co giãn của đường cầu
Tùy thuộc vào giá trị của độ co giãn, chúng ta có thể đánh giá được mức độ co giãn của
đường cầu. Hình 3-1 (a) thể hiện một đường cầu thoải, ở đó, phần trăm thay đổi của lượng cầu
lớn hơn phần trăm của thay đổi của giá, giá trị tuyệt đối của độ co giãn lớn hơn 1 và cầu hàng
hoá được coi là co giãn. Hình 3-1 (b) thể hiện một đường cầu dốc, ở đó, thay đổi phần trăm của
lượng cầu ít hơn thay đổi phần trăm của giá, giá trị tuyệt đối của độ co giãn nhỏ hơn 1, cầu hàng
hoá được coi là không co giãn. Hình 3-1 (c) thể hiện một đường cầu với phần trăm thay đổi của
lượng cầu cân bằng phầm trăm thay đổi của giá, giá trị tuyệt đối của độ co giãn bằng 1, hàng hoá
được coi là có cầu co giãn đơn vị.
Ngoài ra, có hai trường hợp đặc biệt của đường cầu. Hình 3-1 (d) là đường cầu nằm ngang,
lượng cầu phản ứng vô hạn với bất kỳ sự thay đổi nào của giá, giá trị tuyệt đối của độ co giãn là
vô cùng, hàng hoá được coi là có cầu hoàn toàn co giãn
Trường hợp đặc biệt thứ 2 được thể hiện ở. Hình 3-1 (e) thể hiện một đường cầu thẳng
đứng, ở đó, lượng cầu không thay đổi cho dù giá thay đổi như thế nào, độ co giãn của cầu theo
giá bằng 0, cầu hàng hóa được gọi là hoàn toàn không co giãn

EDP < 1
EDP > 1
P2 Cầu không
P2 Cầu co giãn
10% 10%
P1 P1 co giãn
D
20% 4%
D
0 0
(a) Q2 Q1 (b) Q2 Q1

EDP =
EDP =1
P2 Cầu hoàn toàn
10% Cầu co giãn đơn vị
P2=P1 D
P1 co giãn
D 10%

10%
0
0
(c) Q2 Q1 (d) Q2 Q1
D

P2 EDP =0
10%
P1 Cầu hoàn toàn

không co giãn
38

0 (e) Q2=Q1
Hình 3.1. Độ co giãn của cầu theo giá
3.1.1.3 Đặc điểm độ co giãn dọc theo đường cầu tuyến tính
Độ co giãn và độ dốc của đường cầu đều có thể cho biết sự phản ứng của lượng cầu khi giá
thay đổi, nhưng đây lại là hai khái niệm khác nhau và có ý nghĩa khác nhau. Điều này có thể thấy
được bằng cách quan sát độ co giãn dọc theo đường cầu tuyến tính với độ dốc không thay đổi.
Hình 3-2 minh hoạ một đường cầu tuyến tính với 2 điểm được lựa chọn để tính độ co giãn
dQ P
là A và B. Độ co giãn tại điểm A và B được xác định bằng công thức điểm EPD  * . Do A
dP Q
và B là hai điểm nằm trên đường cầu tuyến tính nên thừa số đầu tiên ở công thức trên là như
nhau. Tuy nhiên, giá trị (P/Q) tại điểm A lớn hơn tại điểm B nên |EA| > |EB|.
Tại điểm giao cắt của đường cầu với trục giá (điểm M), do Q = 0 nên |EM| = , cầu hoàn
toàn co giãn tại điểm M. Ngược lại, tại điểm giao cắt của đường cầu với trục sản lượng, (điểm
N), do P = 0 nên |EN| = 0, cầu hoàn toàn không co giãn tại điểm N.
Như vậy có thể khẳng định, dọc theo đường cầu tuyến tính từ trái sang phải, giá trị tuyệt
đối của độ co giãn khác nhau và có xu hướng giảm dần từ  về 0, do đó, sẽ có 1 điểm (điểm K)
là co giãn đơn vị. Nói một cách khác, cầu co giãn trong đoạn từ K đến M, trong khi không co
giãn trong đoạn từ K đến N.

Giá
M

A
Co giãn

B Co giãn đơn vị

K
Không co giãn

Lượng
Hình 3.2. Co giãn dọc theo đường cầu tuyến tính
3.1.1.4 Doanh thu, chi tiêu và độ co giãn
Một trong những ý nghĩa ứng dụng của độ co giãn là để phân tích tổng doanh thu của
doanh nghiệp (cũng có nghĩa là chi tiêu của người mua) thay đổi như thế nào khi giá hàng hóa
thay đổi. Tổng doanh thu (TR) được tính bằng giá hàng hóa (P) nhân với lượng hàng hóa được
tiêu dùng (Q). Vì thế, nếu cầu hàng hóa co giãn, 1 phần trăm giá giảm sẽ tăng lượng bán ra nhiều
hơn 1 phần trăm và tích của hai biến số (tổng doanh thu) gia tăng. Ngược lại, nếu cầu hàng hóa
không co giãn, 1 phần trăm giá giảm sẽ làm tăng lượng bán ra ít hơn 1 phần trăm và tổng doanh

39
thu giảm. Nếu cầu hàng hóa co giãn đơn vị, giá giảm 1 phần trăm làm tăng lượng bán đúng bằng
1 phần trăm, khiến tổng doanh thu không đổi.
Mối quan hệ giữa tổng doanh thu (tổng chi tiêu của người tiêu dùng) với độ co giãn và giá
hàng hóa có thể được thể hiện ở Bảng 3-1
Bảng 3.1. Mối quan hệ giữa doanh thu và độ co giãn của cầu theo giá

Độ co giãn P tăng P giảm

|E| > 1 TR giảm TR tăng

|E| < 1 TR tăng TR giảm

|E| = 1 TR không đổi TR không đổi


Mối quan hệ này cũng có thể được biểu thị qua Hình 3-3. Như đã phân tích ở trên, có hai
đoạn trên đường cầu tuyến tính. Ở đoạn co giãn của đường cầu, khi giá giảm (vận động từ trái
sang phải), tổng doanh thu tăng (thay đổi ngược chiều với giá). Ở đoạn không co giãn của đường
cầu, (di chuyển tiếp sang phải), giá giảm tiếp khiến tổng doanh thu giảm (thay đổi cùng chiều với
giá). Như vậy, tại điểm co giãn đơn vị, tổng doanh thu đạt mức tối đa. Giá thay đổi nhỏ xung
quanh điểm này không làm cho tổng doanh thu thay đổi.
Giá

Co dãn

Co dãn

đơn vị Không co dãn

Lượng
(a) Đường Cầu

TR Tổng doanh
thu tối đa

Khi cầu co Khi cầu


giãn, giảm giá
sẽ làm tăng không co giãn,
doanh thu giảm giá sẽ
làm giảm Q
doanh thu
40

(b) Tổng doanh thu


Hình 3.3. TR dọc theo đường cầu tuyến tính
3.1.1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến độ co giãn
a.. Số lượng và sự sẵn có của hàng hoá thay thế
Những hàng hóa có nhiều hàng hóa thay thế gần gũi thường có cầu co dãn hơn bởi vì
người mua sẽ dễ dàng chuyển tiêu dùng từ hàng hóa này sang hàng hóa khác. Ví dụ, gas tiêu
dùng có nhiều hàng hóa thay thế như điện, than,… nên khi giá gas tăng lên một chút, với giả
định giá điện hay than giữ nguyên, lượng gas bán ra sẽ giảm xuống đáng kể. Ngược lại, vì muối
là hàng hóa không có hàng hóa thay thế gần gũi nên dù giá muối có tăng mạnh thì lượng muối
người tiêu dùng mua giảm xuống không đáng kể. Do đó, cầu về muối sẽ ít co giãn hơn cầu về
gas tiêu dùng.
b. Tỷ lệ thu nhập chi tiêu cho hàng hoá
Nếu các yếu tố khác không đổi, tỷ lệ thu nhập chi tiêu cho hàng hoá càng cao thì cầu hàng
hoá đó càng co giãn. Nếu người tiêu dùng chỉ chi tiêu phần nhỏ trong thu nhập cho hàng hoá thì
giá cả hàng hoá thay đổi có ảnh hưởng không đáng kể đến ngân sách tổng thể của họ và do đó
người tiêu dùng không mấy quan tâm đến sự thay đổi của giá. Tuy nhiên, sự gia tăng nhỏ của giá
hàng hoá mà người tiêu dùng phải chi phần lớn thu nhập để mua sẽ làm họ giảm đáng kể lượng
mua hàng hoá đó. Ví dụ, nếu giá của hộp C-sủi tăng 5%, người tiêu dùng sẽ giảm khối lượng
mua nhưng mức độ giảm không đáng kể bởi 5% tăng giá C-sủi không ảnh hưởng lớn đến thu
nhập. Nhưng nếu giá của xe ô tô cũng tăng 5% thì người tiêu dùng sẽ phải đắn đo suy nghĩ liệu
có nên mua hay không bởi mức tăng phần trăm là nhỏ nhưng con số tuyệt đối lại là rất lớn so với
C-sủi, và vì thế, số lượng xe tiêu thụ trên thị trường có thể có mức độ giảm mạnh hơn. Hay ví dụ
khác như độ co giãn về bia nói chung nhỏ hơn độ co giãn của bia Hà nội.
Khoảng thời gian khi giá thay đổi
Đối với phần lớn các hàng hóa, khoảng thời gian kể từ khi giá thay đổi càng dài, độ co giãn
của cầu càng lớn. Trong thời gian ngắn rất khó để thay đổi thói quen tiêu dùng, khi giá thay đổi,
người tiêu dùng thường vẫn tiếp tục mua lượng hàng hoá tương tự trong thời điểm đó. Tuy
nhiên, khi có đủ thời gian, người tiêu dùng có thể thay đổi thói quen, họ sẽ tìm hàng hoá thay thế
có thể chấp nhận được và có chi phí ít hơn.
3.1.2. Độ co giãn chéo của cầu theo giá hàng hóa khác
Lượng cầu của hàng hoá không những chỉ phụ thuộc vào giá của bản thân hàng hóa, mà
còn phụ thuộc vào giá của các hàng hóa khác có liên quan như hàng hoá thay thế hay hàng hoá
bổ sung. Để đo lường phản ứng của lượng cầu hàng hóa theo giá hàng khóa khác (các yếu tố
khác giữ nguyên), chúng ta sử dụng khái niệm độ co giãn chéo của cầu, là thước đo độ phản ứng
của cầu hàng hóa này với thay đổi của giá hàng hóa khác, với điều kiện các yếu tố khác không
thay đổi. Công thức tổng quát:

Độ co giãn chéo của cầu Thay đổi phần trăm của lượng cầu hàng hóa
=
theo giá hàng hóa khác Thay đổi phần trăm của giá hàng hóa bổ
sung hoặc thay thế

41
Qx
 100%
Qx Qx Py
Exy 
D
 
Py Py Qx
 100%
Py
Tương tự độ co giãn theo giá, độ co giãn chéo của cầu theo giá hàng hóa khác cũng có
hai cách tính: cách tính khoảng và cách tính điểm.
Cách tính khoảng được sử dụng khi giá hàng hóa liên quan thay đổi một khoảng lớn, và
có công thức tính sau:

Qx 2  Qx1 Py 2  Py1
ExyD  
Py 2  Py1 Qx 2  Qx1
Cách tính điểm được sử dụng khi giá hàng hóa liên quan thay đổi một khoảng rất nhỏ, và
có công thức tính sau:
dQx Py
    EPD  
dPy Qx
Độ co giãn chéo của cầu đối với giá của hàng hóa thay thế sẽ mang dấu dương và đối với
giá của hàng hoá bổ sung mang dấu âm.
3.1.3. Độ co giãn của cầu theo thu nhập
Để trả lời câu hỏi: khi thu nhập thay đổi, lượng cầu hàng hoá thay đổi như thế nào, chúng
ta có thể sử dụng khái niệm độ co giãn của cầu hàng hoá theo thu nhập. Độ co giãn của cầu theo
thu nhập là thước đo độ phản ứng của lượng cầu đối với biến động thu nhập (các yếu tố khác
được giữ nguyên). Độ co giãn này cho biết phần trăm thay đổi của lượng cầu khi thu nhập thay
đổi 1% và được tính bằng công thức sau:
Độ co giãn của cầu Thay đổi phần trăm trong lượng cầu
theo thu nhập =
Thay đổi phần trăm trong thu nhập
Q
 100%
Q Q I
EI 
D
 
I I Q
 100%
I
Có hai cách tính độ co giãn theo thu nhập. Nếu thu nhập thay đổi một khoảng lớn, chúng ta
sử dụng độ co giãn khoảng theo công thức:
Q2  Q1 P2  P1
EID  
I 2  I1 I 2  I1
Nếu thu nhập thay đổi một khoảng rất nhỏ không đáng kể, chúng ta sử dụng độ co giãn
điểm theo công thức:

42
dQ I
EID  
dI Q
Thu nhập có thể có các tác động khác nhau đến lượng cầu của hàng hóa, phụ thuộc vào bản
chất của hàng hóa. Vì thế, độ co giãn của cầu theo thu nhập cũng thay đổi tùy theo hàng hóa
đang xét là hàng hóa loại gì. Những hàng hoá có độ co giãn của cầu theo thu nhập dương gọi là
hàng hoá bình thường (bao gồm hàng hóa xa xỉ và hàng hóa thiết yếu). Trong đó, nếu hàng hóa
là xa xỉ, độ co giãn lớn hơn 1, và với hàng hóa thiết yếu, độ co giãn lớn hơn 0 nhưng nhỏ hơn 1.
Ngược lại, những hàng hoá có độ co giãn của cầu theo thu nhập là âm được gọi là hàng hoá thứ
cấp.
Hình 3-4 (a) biểu thị độ co giãn của cầu theo thu nhập lớn hơn 1, khi thu nhập tăng, lượng
cầu hàng hóa tăng, nhưng mức độ tăng nhanh hơn thu nhập. Những hàng hóa này thuộc loại xa
xỉ như du lịch nước ngoài, điện thoại đắt tiền, đồ trang sức hay các tác phẩm nghệ thuật. Hình 3-
4 (b) biểu thị độ co giãn của cầu theo thu nhập có giá trị từ 0 đến 1, theo đó, lượng cầu tăng khi
thu nhập tăng nhưng mức độ tăng thấp hơn mức độ tăng của thu nhập. Các hàng hóa thiết yếu
thuộc loại này như lương thực, quần áo, báo chí…
Hình 3-4 (c) biểu thị độ co giãn của cầu theo thu nhập có cả hai giá trị dương và âm.

Lượng cầu Lượng cầu Lượng cầu


Không co giãn
theo thu nhập
Co giãn
theo thu
nhập

Co giãn Co giãn
theo thu theo thu
nhập nhập âm
dương
O O O
Thu nhập Thu nhập m Thu nhập

(a) Co giãn lớn hơn 1 (b) Co giãn nằm trong 0-1 c) Co giãn nhỏ hơn 1 và âm

Hình 3.4. Co giãn của cầu theo thu nhập

3.2 ĐỘ CO GIÃN CỦA CUNG THEO GIÁ


Tương tự lượng cầu, lượng cung của một hàng hóa phụ thuộc bởi rất nhiều yếu tố như giá
hàng hóa, giá các yếu tố đầu vào, công nghệ, thuế, trợ cấp, số lượng người bán,…Để đo lường
mức độ phản ứng của lượng cung theo các yếu tố này, người ta dùng khái niệm độ co giãn của
cung, từ đó có thể đánh giá liệu lượng cung có phản ứng mạnh (nhạy cảm) đối với các yếu tố
trên hay không. Trong phần này, chúng ta chỉ tập trung vào yếu tố giá hàng hóa với khái niệm độ
co giãn của cung theo giá.
3.2.1. Khái niệm và công thức tính

43
Độ co giãn của cung theo giá đo lường mức độ phản ứng của lượng cung hàng hoá khi giá
hàng hóa thay đổi (với điều kiện các yếu tố khác là giữ nguyên). Độ co giãn này cho biết phần
trăm thay đổi của lượng cung khi giá hàng hóa thay đổi 1%, và được tính theo công thức:
Thay đổi phần trăm của lượng cung
Độ co giãn của cung theo giá =
Thay đổi phần trăm của giá
Cũng tùy vào liệu giá hàng hóa thay đổi một khoảng lớn hay chỉ thay đổi rất nhỏ không
đáng kể xung quanh mức giá hiện tại, người ta có thể sử dụng công thức khoảng và công thức
điểm. Cần lưu ý, nếu các yếu tố khác giữ nguyên, khi giá hàng hóa tăng, lượng cung sẽ tăng. Vì
vậy, độ co giãn của cung theo giá mang dấu dương.
3.2.2. Phân loại độ co giãn của đường cung
Cũng giống như đối với cầu, nếu 1% giá tăng khiến lượng cung tăng nhiều hơn 1%, hàng
hóa được gọi là có cung co giãn theo giá, và đường cung sẽ có xu hướng thoải. Còn nếu lượng
cung tăng ít hơn 1% khi giá tăng 1%, cung hàng hóa được coi là không co giãn, đường cung có
xu hướng dốc. Nếu mức độ thay đổi của lượng cung bằng với mức độ thay đổi của giá, cung
hàng hóa được gọi là co giãn đơn vị.
Có hai trường hợp đặc biệt về độ co giãn của cung. Nếu lượng cung luôn cố định cho dù
giá hàng hóa thay đổi thì độ co giãn của cung bằng 0 (cung hoàn toàn không co giãn), đường
cung có hình dạng thẳng đứng. Ngược lại, bất kỳ sự thay đổi nào, dù rất nhỏ của giá đều khiến
lượng cung biến động cực lớn (vô hạn), đường cung có độ co giãn là vô cùng (cung hoàn toàn co
giãn), đường cung là đường nằm ngang.
(a) Cung hoàn toàn không co giãn: độ
co giãn bằng không
(c) Co giãn đơn vị: độ co giãn bằng 1
P
S P

0
0 Q
Q

(b) Cung không co giãn: độ co giãn nhỏ hơn 1


(d) Cung co giãn: độ co giãn lớn hơn 1
P P
S S

0
44 0 Q
Q
(e) Cung hoàn toàn co giãn: độ co giãn bằng
vô cùng
P

0
Q

Hình 3.5. Độ co giãn của cung theo giá


3.2.3. Những yếu tố tác động đến độ co giãn của cung
Độ co giãn của cung phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố chính
 Khả năng thay thế các yếu tố sản xuất
 Khoảng thời gian khi giá thay đổi
3.2.3.1 Khả năng thay thế các yếu tố sản xuất
Với một số hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi các yếu tố hiếm có hoặc duy nhất thì độ
co giãn của cung theo giá rất thấp, thậm chí cung hoàn toàn không co giãn. Trong khi các hàng
hóa được sản xuất bởi các yếu tố đầu vào phổ biến hơn, có thể thay thế được cho nhau thì độ co
giãn của cung sẽ cao hơn. Ví dụ, bức họa nàng Mona Lisa của Leonardo De Vinci được tạo ra
bởi đầu vào duy nhất – lao động của tác giả, mà không có bất kỳ yếu tố nào có thể thay thế được.
Vì vậy, dù giá bức tranh có tăng rất cao, lượng cung là duy nhất, đường cung hoàn toàn không co
giãn. Trong khi đó, cung lúa gạo thường rất co giãn bởi đất để trồng lúa gạo có thể trồng các
hàng hóa khác như ngô, khoai, sắn và chi phí cơ hội của lúa gạo theo các hàng hóa này thường
không đổi, do đó, khi giá lúa gạo giảm (nếu các yếu tố khác giữ nguyên), sản lượng lúa cung cấp
có thể giảm mạnh do người nông dân có thể chuyển sang trồng các sản phẩm khác trên mảnh đất
của họ.
3.2.3.2 Khoảng thời gian khi giá thay đổi
Trong ngắn hạn, cung thường ít co giãn hơn. Lý do là trong thời gian ngắn, các hãng không
thể dễ dàng thay đổi được quy mô nhà máy, máy móc, thiết bị, nhà xưởng để sản xuất nhiều hay
ít hàng hóa hơn khi giá hàng hóa thay đổi. Ngay cả đối với những hãng có thể tăng sản lượng
trong ngắn hạn thì do hạn chế mà các hãng gặp phải, việc tăng lượng cung nhanh sẽ rất tốn kém,
do vậy cần có sự tăng giá rất mạnh để có động lực tăng thêm sản lượng chút ít trong ngắn hạn.
Vì vậy, trong ngắn hạn, phản ứng của lượng cung đối với giá là tương đối yếu. Tuy nhiên, trong
dài hạn, các hãng có thể xây thêm nhà máy mới hoặc đóng cửa nhà máy cũ, thay đổi được dây
chuyền sản xuất hay nhà xưởng, thuê thêm lao động thậm chí có thể thay đổi công nghệ. Ngoài
ra, các hãng mới có thể gia nhập thị trường, các hãng cũ có thể đóng cửa sản xuất và rời bỏ thị
trường. Vì vậy, lượng cung dài hạn sẽ có phản ứng mạnh hơn đối với giá.

45
TÓM TẮT
Độ co giãn của cầu theo giá phản ánh độ nhạy cảm của lượng cầu khi giá hàng hóa thay
đổi, và được đo bằng phần trăm thay đổi của lượng cầu chia cho phần trăm thay đổi của mức giá
(các yếu tố khác giữ nguyên).
Tùy vào mức độ phản ứng của lượng cầu khi giá thay đổi, một hàng hóa có thể có cầu co
giãn, cầu không co giãn, cầu co giãn đơn vị, cầu hoàn toàn co giãn hay cầu hoàn toàn không co
giãn. Độ co giãn ở các điểm sẽ khác nhau dọc theo đường cầu tuyến tính.
Độ co giãn của cầu theo giá phụ thuộc vào: i) sự sẵn có của hàng hoá thay thế, ii) tỷ lệ thu
nhập dùng để chi tiêu cho hàng hoá, iii) định nghĩa phạm vi thị trường, iv) khoảng thời gian khi
giá thay đổi.
Tổng doanh thu và giá có mối quan hệ phụ thuộc vào độ co giãn của cầu theo giá: i) nếu
cầu co giãn, giá giảm dẫn đến tổng doanh thu tăng, ii) nếu cầu co giãn đơn vị, giá thay đổi không
làm thay đổi tổng doanh thu, iii) nếu cầu không co giãn, giá giảm dẫn đến tổng doanh thu giảm.
Độ co giãn chéo của cầu cho biết phần trăm thay đổi của lượng cầu một hàng hoá khi giá
hàng hóa khác thay đổi 1% (các yếu tố khác giữ nguyên). Độ co giãn chéo của cầu theo giá hàng
hoá thay thế có giá trị dương và theo giá hàng hoá bổ sung có giá trị âm.
Độ co giãn của cầu theo thu nhập được tính là thay đổi phần trăm của lượng cầu chia cho
thay đổi phần trăm của thu nhập (các yếu tố khác giữ nguyên). Khi độ co giãn của theo thu nhập
trong khoảng từ 0 đến 1, cầu không co giãn theo thu nhập và hàng hóa được coi là thiết yếu. Khi
độ co giãn của cầu theo thu nhập lớn hơn 1, cầu co giãn theo thu nhập và hàng hóa được coi là xa
xỉ. Khi độ co giãn của cầu theo thu nhập nhỏ hơn 0, cầu giảm khi thu nhập tăng và hàng hoá
được coi là thứ cấp.
Độ co giãn của cung đo lường mức độ phản ứng của lượng cung hàng hoá khi giá hàng hoá
thay đổi (các yếu tố khác giữ nguyên), và được tính bằng thay đổi phần trăm của lượng cung chia
cho thay đổi phần trăm của giá.
Tùy thuộc vào độ lớn của độ co giãn của cung, có thể phân loại cung hàng hóa là co giãn,
không co giãn, co giãn đơn vị, hoàn toàn co giãn và hoàn toàn không co giãn. Độ co giãn điểm
dọc theo đường cung thường là khác nhau.
Các yếu tố tác động đến độ co giãn của cung theo giá là: i) khả năng thay thế các yếu tố
sản xuất và ii) khoảng thời gian khi giá thay đổi.

46
CHƯƠNG 4. LÝ THUYẾT HÀNH VI NGƯỜI TIÊU DÙNG
Nội dung:
Chương này phân tích hành vi của người tiêu dùng hợp lí( cá nhân, hộ gia đình) trên thị
trường hàng hóa. Nội dụng chính đề cập đến một trong những lí thuyết cơ bản về hành vi người
tiêu dùng đó là Lý thuyết lợi ích và Lý thuyết phân tích bang quan-Ngân sách. Dựa trên lý thuyết
này và một số công cụ khác chúng ta sẽ phân tích quyết định tối ưu của người tiêu dùng dưới ảnh
hưởng của các nhân tố khách quan và chủ quan,t ừ đó rút ra cơ sở khoa học về đường cầu dốc
xuống thường được sử dụng phân tích kinh tế.
Mục tiêu
 Giúp học viên nắm được các khái niệm của lý thuyết lợi ích, quy luật lợi ích
cận biên giảm dần
 Giúp học viên hiểu về mối quan hệ giữa lợi ích cận biên và đường cầu
 Giúp học viên nắm được nguyên tắc tối đa hóa tỉ lệ lợi ích cận biên trên một
đồng giá.
Tình huống dẫn nhập
4.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Tiêu dùng là hành động nhằm thoả mãn những nguyện vọng, trí tưởng tượng riêng và các nhu
cầu về tình cảm, vật chất của một cá nhân hoặc hộ gia đình nào đó thông qua việc mua sắm các sản
phẩm và sử dụng các sản phẩm đó.
Khi bạn cảm thấy đói, bạn mua bánh ngọt để ăn là nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh tồn của bạn.
Học đại học tức là bạn bỏ tiền để mua dịch vụ giáo dục đại học nhằm trang bị cho mình một công cụ
để kiếm tiền trong tương lai. Đó là những hành vi tiêu dùng.
Hộ gia đình với tư cách một đơn vị ra quyết định trong nền kinh tế, được hiểu là một nhóm
người có chung một quyết định tiêu dùng. Trong thị trường hàng hóa, hộ gia đình là người tiêu
dùng.
Mục tiêu của người tiêu dùng. Mục tiêu của người tiêu dùng là tối đa hóa sự thỏa mãn/hài
lòng khi tiêu dùng hàng hóa/dịch vụ mang lại với ràng buộc nhất định về thu nhập.
Ràng buộc ngân sách
Người tiêu dùng luôn muốn tối đa hóa lợi ích của mình nhưng muốn có tiêu dùng thì phải có
ngân sách hay chính là thu nhập. Như vậy, khi tiêu dùng người tiêu dùng gặp phải hạn chế về
ngân sách và sở thích tiêu dùng. Hay nói cách khác người tiêu dùng bị hạn chế bởi thu nhập và
mức giá hàng hoá trên thị trường.
Công cụ để biểu diễn hạn chế ngân sách là đường ngân sách. Đường ngân sách là tập hợp tất
cả các kết hợp hàng hoá hay các “giỏ” hàng hoá mà người tiêu dùng có thể mua được với thu
nhập và mức giá hiện hành.

47
Ví dụ, người tiêu dùng có thu nhập dành cho tiêu dùng là I để mua 2 loại hàng hóa với số
lượng X và Y. Giá 1 đơn vị hàng hóa X là Px và giá 1 đơn vị hàng hóa Y là Py.
Phương trình ràng buộc ngân sách có dạng:
X*Px + Y*Py = I

Y
A
I/Py

BL

B
0 I/Px X

Điểm A là điểm người tiêu dùng chỉ mua hàng hóa Y và không mua hàng hóa X và số lượng Y là
I/Py.
Điểm B là điểm mà người tiêu dùng sử dụng toàn bộ ngân sách của mình để mua hàng hóa X và
mua được số lượng X là I/Px.
Các điểm nằm trên đường ngân sách biểu diễn các lựa chọn tiêu dùng kết hợp X và Y với hạn
mức nhất định về thu nhập và mức giá của hàng hóa.
Khi thu nhập I của người tiêu dùng tăng lên I’, người tiêu dùng sẽ có khả năng mua được
nhiều hơn số lượng hàng hóa X và Y so với ban đầu. Do đó, đường ngân sách sẽ dịch chuyển
song song với đường ngân sách ban đầu từ AB sang A’B’
Y
Y
A’

I/Py A I/Py A

BL’ BL’
BL
BL
B B’ B B’
0 0 I/Px I/P’x X
I/Px X

Hình 4.1. Sự thay đổi của đường ngân sách

48
Khi thu nhập không đổi mà giá hàng hóa X giảm xuống, người tiêu dùng có khả năng mua
được nhiều X hơn so với ban đầu. Khi đó, giá Y không đổi nên I/Py không đổi. Giá X giảm nên
I/P’x tăng lên. Đường ngân sách xoay ra ngoài: AB dịch chuyển sang AB’.
4.2. LÝ THUYẾT LỢI ÍCH
Phần lớn các hàng hoá được tạo ra trong quá trình sản xuất để phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng. Tuy nhiên hành vi tiêu dùng của từng cá nhân lại rất khác nhau phụ thuộc vào nhu cầu và
sở thích của họ. Điều đó hàm ý rằng ở đây chúng ta chỉ đề cập tới tiêu dùng cá nhân. Lý thuyết
lợi ích giả định rằng mục tiêu của người tiêu dùng là tối đa hóa lợi ích đo được với ràng buộc
ngân sách.
Trong lí thuyết lợi ích có một số giả định:
Tính hợp lý: người tiêu dùng có mục tiêu là tối đa hóa lợi ích của mìh với các điều kiện đã
cho về thu nhập và giá cả hàng hóa
Lợi ích của hàng hóa có thể đo được: Giả thiết rằng người tiêu dùng có thể gán cho mỗi
hàng hóa hoặc mỗi kết hợp hàng hóa một co số đo độ lớn của lợi ích tương ứng. ví dụ:
Đối với một người tiêu dùng A:
1 cốc nước cam ----10 đơn vị lợi ích
2 cốc nước cam ----17 đơn vị lợi ích
3 cốc nước cam----22 đơn vị lợi ích
Tổng lợi ích phụ thuộc vòa số lượng hàng hóa mỗi loại mà người tiêu dùng sử dụng. Ví
dụ một người tiêu dùng khi tiêu dùng 3 cốc nước cam đem lại cho anh ta 22 đơn vị lợi ích và
tiêu dùng 1 kg cá đem lại 40 đơn vị lợi ích . Thì tổng lợi ích người này thu được khi tiêu dùng cả
hai mặt hàng là 22+ 40 = 62 đơn vị lợi ích
4.2.1. Khái niệm, công thức tính và đơn vị đo lợi ích
Lợi ích (U) được hiểu là sự thoả mãn và hài lòng do tiêu dùng hàng hoá mang lại.
Tổng lợi ích (TU) là toàn bộ sự thoả mãn và hài lòng từ việc tiêu dùng một số lượng nhất
định hàng hoá.
Trong định nghĩa lợi ích và tổng lợi ích sự thoả mãn được người tiêu dùng cảm nhận khi
tiêu dùng hàng hoá đã bao hàm sự đánh giá có tính cá nhân và chủ quan, nghĩa là cùng một hàng
hoá có thể mang lại lợi ích cho người tiêu dùng này và có thể không mang lại lợi ích cho người
tiêu dùng khác. Vì vậy lợi ích và tổng lợi ích là những khái niệm trừu tượng do đó để đo lợi ích
người ta dùng một đơn vị qui ước gọi là Utils. Đơn vị đo lợi ích chính là giả định quan trọng của
các lý thuyết khác nhau về hành vi người tiêu dùng.
Lợi ích cận biên (MU) của một hàng hoá là mức thay đổi của tổng lợi ích do thay đổi về
lượng tiêu dùng hàng hoá đó với điều kiện giữ nguyên mức tiêu dùng các hàng hoá khác, tức là
mức độ thoả mãn và hài lòng do tiêu dùng một đơn vị sau cùng của hàng hoá đó mang lại.

Lợi ích cận biên Thay đổi trong tổng lợi ích
=
Thay đổi lượng hàng hóa tiêu dùng
49
Nếu có giả thiết về tính đo được của tổng lợi ích, thì sự gia tăng của lợi ích sẽ bằng một
con số xác định, và được biểu thị bằng một số đơn vị lợi ích nhất định. Về ý nghĩa toán học thì
lợi ích cận biên của hàng hoá chính là đạo hàm của hàm tổng lợi ích TU.
Có thể viết công thức xác định lợi ích cận biên như sau:
MU = TU/Q = (TU)’Q.
Đặc biệt khi việc tiêu dùng hàng hoá là rời rạc hay Q = 1 tức là mỗi lần tiêu dùng thêm đúng
1 đơn vị hàng hoá đó thì sẽ có công thức đơn giản để tính lợi ích cận biên MU = TU
Để thấy được rõ cách tính ta lấy ví dụ về tiêu dùng nước cam của cá nhân A ở Bảng 4-1 sau:
Bảng 4.1. Tổng lợi ích và lợi ích cận biên tiêu dùng hàng hóa (nước cam)

Lượng
Tổng Lợi ích
tiêu
lợi ích cận biên Sự thay đổi của TU và MU
dùng
( TU) (MU)
(Q)

0 0 -

1 4 4

2 7 3 MU > 0; tăng tiêu dùng Q thì TU tăng

3 9 2

4 10 1

5 10 0 MU = 0; tiêu dùng tới hạn Q* có TUMax

6 9 -1 MU < 0; tăng tiêu dùng Q thì TU giảm

4.2.2. Quy luật lợi ích cận biên giảm dần


Quy luật lợi ích cận biên giảm dần được phát biểu là lợi ích cận biên của một hàng hoá có
xu hướng giảm xuống ở một điểm nào đó khi hàng hoá đó được tiêu dùng nhiều hơn trong một
thời gian nhất định với điều kiện giữ nguyên mức tiêu dùng các hàng hoá khác. Hay nói cách
khác mỗi đơn vị hàng hoá kế tiếp được tiêu dùng sẽ mang lại lợi ích bổ sung (lợi ích cận biên) ít
hơn đơn vị hàng hoá tiêu dùng trước đó. Quy luật lợi ích cận biên giảm dần cho biết khi tiêu
dùng ngày càng nhiều hơn một mặt hàng nào đó thì tổng lợi ích sẽ tăng tuy nhiên với tốc độ
chậm dần. Việc tăng chậm này là do lợi ích cận biên (lợi ích tăng thêm do tiêu dùng đơn vị sau
cùng của một hàng hoá) giảm đi khi ta tiêu dùng thêm hàng hoá đó.
Quy luật lợi ích cận biên được minh hoạ bằng Hình 4-2 xét với ví dụ là lợi ích đem lại khi
tiêu dùng nước cam. Hình 4-2a thể hiện quan hệ giữa tổng lợi ích với số lượng hàng hóa tiêu

50
dùng. Chú ý rằng tổng lợi ích tiếp tục tăng lên khi tiêu dùng năm cốc nước cam đầu tiên. Nhưng
tổng lợi ích tăng với mức gia tăng ngày càng nhỏ. Mỗi mức gia tăng tiếp theo của đường tổng lợi
ích trong Hình 4-2a lại nhỏ đi một ít. Chiều cao của mỗi bước gia tăng của đường tổng lợi ích
trong Hình 4-2a phản ánh lợi ích cận biên giảm dần. Tổng lợi ích sẽ còn tăng khi nào lợi ích cận
biên còn là số dương.

Tổng lợi
ích

0 1 2 3 4 5 6 Số cốc nước cam

a)

Lợi ích cận


biên

0
1 2 3 4 5 6 Số cốc nước
b) cam

Hình 4.2. Tổng lợi ích và lợi ích cận biên


Lợi ích cận biên cũng được minh hoạ ở Hình 4-2b. Khi uống đến cốc nước cam thứ sáu,
cảm giác mát ngon hoàn toàn biến mất, thay vào đó là cảm giác đầy bụng và khó chịu (phản lợi
ích- disutility). Khi lợi ích cận biên âm thì tổng lợi ích giảm xuống. Tổng lợi ích lớn nhất khi lợi
ích cận biên bằng không. Tuy nhiên trên thực tế không phải việc tiêu dùng mọi hàng hoá đều dẫn
đến lợi ích cận biên âm.
Quy luật lợi ích cận biên giảm dần được hầu hết các nhà kinh tế thừa nhận, nhưng đó chỉ là
quy luật trừu tượng. Trong tiêu dùng chúng ta thừa nhận có quy luật lợi ích cận biên giảm dần
nhưng đó chỉ là cảm nhận định tính vì sự thoả mãn hay sự hài lòng rất khó đo lường. Ngoài ra yếu
tố thời gian cũng có ý nghĩa quan trọng đối với quy luật này. Nói một cách khác quy luật lợi ích
cận biên giảm dần chỉ thích hợp trong thời hạn ngắn.
4.2.3. Lợi ích cận biên và đường cầu

51
Trong phần này chúng ta sẽ vận dụng khái niệm lợi ích, lợi ích cận biên và quy luật lợi ích
cận biên giảm dần để giải thích vì sao đường cầu lại dốc xuống dưới về phía phải.
Với giả định lợi ích đo được có thể dùng mức giá sẵn sàng trả để đo lợi ích cận biên của
việc tiêu dùng một hàng hoá nào đó vì lợi ích cận biên của hàng hoá tiêu dùng càng lớn thì người
tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả giá cao cho nó, còn khi lợi ích cận biên giảm xuống thì sự sẵn sàng chi
trả của người tiêu dùng cũng giảm đi. Người tiêu dùng chỉ mua lượng hàng hóa nhiều hơn nếu
giá hàng hóa giảm, điều này hoàn toàn phù hợp với luật cầu. Như vậy, dạng đường cầu cũng
giống như dạng của đường lợi ích cận biên. Và chính do quy luật lợi ích cận biên giảm dần nên
đường cầu dốc xuống dưới về phía phải.
Về mặt hình học, lợi ích cận biên của hàng hóa là độ dốc của tổng lợi ích. Như vậy, lợi ích
cận biên của các đơn vị hàng hóa có thể là số dương, bằng không và là số âm. Khi lợi ích cận
biên của hàng hóa đo bằng giá, thì đường cầu chính là phần dương của đường biểu diễn lợi ích
cận biên. Đường cầu thị trường là tổng cộng theo chiều ngang của các đường cầu cá nhân.

TU

TU

x Q

MU

MU

x Q

Hình 4.3. Đường tổng lợi ích và lợi ích cận biên
4.2.4. Thặng dư tiêu dùng

52
Thặng dư tiêu dùng (CS) khi tiêu dùng thêm 1 đơn vị hàng hóa là chênh lệch giữa lợi ích cận
biên của người tiêu dùng (MU) với chi phí tăng thêm để thu được lợi ích đó hay giá hàng hóa, tức
là sự khác nhau giữa giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trả cho một hàng hoá và giá mà thực tế phải
trả khi mua hàng hoá đó. Tổng hợp thặng dư tiêu dùng của từng cá nhân là thặng dư tiêu dùng của
thị trường.
Người tiêu dùng đạt trạng thái cân bằng hay tối ưu (tối đa hóa lợi ích) bằng cách gia tăng
lượng mua một sản phẩm cho đến khi lợi ích mà họ gán cho đơn vị sản phẩm cuối cùng bằng với
mức giá của sản phẩm đó. Như vậy thặng dư của người tiêu dùng là lợi ích ròng mà người tiêu
dùng thu được từ việc mua sản phẩm- chênh lệch giữa lợi ích cận biên và giá hàng hóa. Nói cách
khác, đó là hiệu số giữa số lượng tiền tối đa mà người tiêu dùng sẵn sàng trả và số lượng tiền thực
trả.

Lợi ích cận


biên C
CS
4000

3000
E Giá hàng hoá
2000
B
1000

0 4 5
2 3 6 Số cốc nước
1
cam

Hình 4.4. Đường cầu và thặng dư tiêu dùng


Trong Hình 4.4 giá thị trường bằng 2000 đồng một cốc nước cam được thể hiện bằng
đường ngang BE, nó phản ánh chi phí cận biên của người tiêu dùng. Trong trạng thái rất khát và
mệt, người tiêu dùng A sẵn sàng trả cho cốc nước cam thứ nhất là 4000 đồng. 4000 đồng đó
phản ánh lợi ích cận biên mà người tiêu dùng cảm nhận đối với cốc nước cam thứ nhất. Nhưng
trên thực tế, người tiêu dùng này chỉ phải trả 2000 đồng một cốc theo giá thị trường, được thể
hiện bằng ô chữ nhật màu đen ở dưới ứng với cốc nước cam thứ nhất. Do vậy người tiêu dùng A
sẽ có được một khoản thặng dư 2000 đồng (= 4000 - 2000) và được thể hiện bằng ô chữ nhật có
dấu chấm chấm ở phía trên ứng với cốc nước cam thứ nhất. Tương tự với cốc nước cam thứ hai,
thặng dư của người tiêu dùng A sẽ chỉ là 1000 đồng (= 3000 - 2000). Thặng dư xuất hiện do
người tiêu dùng thu được lợi ích lớn hơn mức họ phải trả. Người tiêu dùng là người tối đa hoá lợi
ích, nên anh ta sẽ mua nước cam cho đến khi lợi ích cận biên của cốc nước cam cuối cùng bằng
với chi phí cận biên của nó là 2000 đồng (giá thị trường). Như vậy người tiêu dùng A sẽ mua đến
cốc nước cam thứ ba. Anh ta không mua cốc nước cam thứ bốn vì đối với anh ta nó chỉ đáng
1000 đồng. Do quy luật lợi ích cận biên giảm dần, người tiêu dùng sẽ hưởng được thặng dư tiêu

53
dùng ở các cốc nước cam trước đó. Toàn bộ thặng dư tiêu dùng đó được thể hiện bằng phần diện
tích có dấu chấm chấm của hình 4-4
P, MU

4000
A
CS

E
2000
B
D = MU
0

Số cốc nước cam


Hình 4.5. Thặng dư tiêu dùng của thị trường

Trong ví dụ trên, chúng ta thấy trường hợp chỉ có một người tiêu dùng uống nước cam.
Tuy nhiên do đường cầu thị trường là tổng cộng của các đường cầu cá nhân nên chúng ta có thể
áp dụng khái niệm thặng dư tiêu dùng cho toàn bộ thị trường. Lôgíc thặng dư tiêu dùng cá nhân
cũng đúng với toàn bộ thị trường. Trong Hình 4-5, giá thị trường bằng 2000 đồng được thể hiện
bằng đường nằm ngang BE và thặng dư tiêu dùng được thể hiện bằng tam giác ABE (phần nằm
dưới đường cầu và trên mức giá hàng hoá).
4.2.5. Lựa chọn tiêu dùng tối ưu
4.2.5.1. Sự lựa chọn tối ưu của người tiêu dùng
Giả định người tiêu dùng theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi ích. Chúng ta xem xét trường
hợp đơn giản nhất đó là tiêu dùng một loại hàng hóa X. Người tiêu dùng có thể mua hàng hóa X
hoặc cất tiền đi, hay nói cách khác là phải lựa chọn. Người tiêu dùng có thể gia tăng tổng lợi ích
của mình mỗi lần anh ta mua một đơn vị hàng hoá X mà lợi ích tăng thêm (MU) lớn hơn là chi
phí tăng thêm phát sinh do việc mua hàng hoá đó hay giá hàng hoá (P). Như thế, nếu MU > P,
việc mua thêm hàng hoá sẽ gia tăng tổng lợi ích. Ngược lại, nếu MU < P thì việc mua hàng hoá
đó là điều kém khôn ngoan. Người tiêu dùng sẽ dừng việc mua các đơn vị hàng hoá tăng thêm
khi đã đạt đến mức mà ở đó lợi ích cận biên (MU) do sản phẩm đem lại vừa bằng giá mua sản
phẩm đó. Vì người tiêu dùng có xu hướng tự nhiên là mua một số lượng hàng hoá ở mức thoả
mãn cho điều kiện này, nên người ta thường gọi đó là trạng thái cân bằng của người tiêu dùng
hay điểm tiêu dùng tối ưu của người tiêu dùng. Ở trạng thái cân bằng tiêu dùng, lợi ích cận biên
của hàng hóa X bằng với giá của nó. Biểu thị bằng công thức ta có MUx = Px. Như vậy, người tiêu
dùng sẽ thu được lợi ích tối đa khi MUx = Px (lợi ích cận biên bằng với giá hàng hoá).
Quay trở lại ví dụ đã nêu trên với đường biểu diễn lợi ích cận biên (MU) ở hình 4-4. Người
tiêu dùng theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi ích sẽ mua số lượng nước cam ở mức thoả mãn cho
điều kiện MU = P - vì nếu giá P không đổi, thì giá và chi phí tăng thêm như nhau. Nếu một đơn
vị tiền tệ nào đó (1 đồng, 1000 đồng hay 1 đô la Mỹ,...) lại cũng được định nghĩa là một “đơn vị”

54
lợi ích, thì rất dễ dàng quy đổi đường biểu diễn lợi ích cận biên mang màu sắc tâm lý chủ quan
của Hình 4-4 thành một đường biểu diễn lượng cầu mang tính khách quan. Quan hệ khách quan
này có thể được suy diễn ra từ đường biểu diễn lợi ích cận biên (MU) hàm chứa trong đó, bằng
cách cho phép người tiêu dùng cực đại hoá mức độ thoả mãn của mình ở các mức giá khác nhau
và quan sát hành vi mua sắm của anh ta. Đường mà trước đây trong Hình 4-1b và Hình 4-4 ta gọi
là đường biểu diễn lợi ích cận biên (MU) giờ đây trở thành đường biểu diễn số lượng hàng hoá
mà người tiêu dùng sẽ mua ở mỗi mức giá nhất định.
4.2.5.2 . Nguyên tắc tối đa hoá lợi ích (Giả sử lợi ích đo được)
Mục đích của người tiêu dùng là đạt được sự thoả mãn tối đa với thu nhập hạn chế. Việc
chi mua của họ đều phải chấp nhận một chi phí cơ hội, vì việc mua hàng hoá này đồng thời sẽ
làm giảm cơ hội mua nhiều hàng hoá khác. Muốn tối đa hoá lợi ích, người tiêu dùng phải so sánh
lợi ích cận biên trên 1 đơn vị tiền tệ (1VND,1$...) chi mua các hàng hóa với nhau tức là so sánh các
MUi/ Pi. Nếu lợi ích cận biên trên một đơn vị tiền tệ của hàng hóa X lớn hơn lợi ích cận biên trên
một đơn vị tiền tệ của hàng hóa Y thì người tiêu dùng lựa chọn tăng tiêu dùng hàng hóa X. Khi
lượng hàng hóa X tăng lên thì lợi ích cận biên của hàng hóa X có xu hướng giảm xuống làm cho
lợi ích cận biên trên một đơn vị tiền tệ của hàng hóa X giảm đi cho đến khi bằng với lợi ích cận
biên trên một đơn vị tiền tệ của hàng hóa Y. Tổng lợi ích tăng theo chiều hướng chậm dần và đến
thời điểm này không tăng thêm được nữa, nó đã đạt giá trị lớn nhất. Lúc này người tiêu dùng
không còn phải so sánh, cân nhắc việc mua thêm hàng hóa này hay hàng hóa kia là có lợi hơn.
Trạng thái cân bằng tiêu dùng đạt được khi lợi ích cận biên trên một đồng chi tiêu cho
hàng hoá này phải bằng lợi ích cận biên trên một đồng chi tiêu cho mỗi hàng hoá khác (Nguyên
tắc cân bằng tiêu dùng cận biên)
MU x MU y MU z
   .....
Px Py Pz
trong đó x, y, z, ... là các loại hàng hoá khác nhau, và Px, Py, Pz, ... là các giá tương ứng của
chúng đó được thị trường xác định.
Nguyên tắc tối đa hóa lợi ich được thể hiện rõ trong sự lựa chon sản phẩm tiêu dùng tối ưu
của người tiêu dùng: để tối đa hoá tổng lợi ích, mỗi lần mua họ sẽ lựa chọn hàng hoá nào có lợi
ích tăng thêm nhiều nhất khi bỏ ra một đơn vị tiền tệ chi mua
 MUi 
Maxi  
 Pi 
Trong đó: MUi là lợi ích cận biên của hàng hóa i
Pi là giá của hàng hoá i
Hãy xem xét một ví dụ cụ thể sau đây: Một người tiêu dùng có thu nhập là 55 ngàn đồng
để chi tiêu cho 2 hàng hoá X (mua sách) và Y (chơi game). Giá của hàng hoá X là 10 ngàn
đồng/đơn vi, giá hàng hoá Y là 5 ngàn đồng/đơn vị. Lợi ích thu được từ việc tiêu dùng tương ứng
là TUx và TUy thể hiện ở bảng sau:

55
Bảng 4.2. Tổng lợi ích khi tiêu dùng các hàng hóa
Hàng hoá 1 2 3 4 5 6 7
X;Y
TUx (Utils) 60 110 150 180 200 206 211
TUy (Utils) 20 38 53 64 70 75 79
Bảng 4-3. Lợi ích cận biên và lợi ích cân biên trên 1 đồng chi mua
X TUX MUX MUX/PX Y TUY MUY MUY/PY
1 60 60 6 1 20 20 4
2 110 50 5 2 38 18 3,6
3 150 40 4 3 53 15 3
4 180 30 3 4 64 11 2,2
5 200 20 2 5 70 6 1,2
6 206 6 0,6 6 75 5 1
7 211 5 0,5 7 79 4 0,8
Áp dụng nguyên tắc Max(MU/P) ta có X* = 4 và Y* = 3 với quá trình phân bổ thu nhập cho
chi tiêu như sau:
Lần mua thứ nhất người tiêu dùng sẽ chọn mua X do lợi ích cận biên tính trên 1ngàn đồng
chi mua là 6 lớn hơn so với lợi ích cận biên tính trên 1ngàn đồng chi cho Y là 4 và lợi ích thu
được ở lần thứ nhất là 60. Tổng số tiền chi tiêu là 10000 đồng.
Tương tự như vậy các lần lựa chọn sau sẽ là:
Lần mua thứ hai người tiêu dùng chọn mua X và tổng số tiền chi tiêu cộng dồn là 20000 đồng.
Lần mua thứ ba người tiêu dùng chọn mua cả X và Y và tổng số tiền chi tiêu cộng dồn là
35000 đồng.
Lần mua thứ tư người tiêu dùng chọn mua Y và tổng số tiền chi tiêu cộng dồn là 40000.
Lần mua thứ năm người tiêu dùng đồng thời chọn mua X và Y với tổng số tiền chi tiêu
cộng dồn là 5500 đồng.
Đến đây thì người tiêu dùng đã chi tiêu hết số tiền 55 ngàn đồng. Như vậy, theo cách phân
tích trên, tổng lợi ích thu được lớn nhất với thu nhập hiện có là 4 lần mua sách và 3 lần chơi
game thoả mãn điều kiện cân bằng: MUx/ Px = MUy/ Py = 3 và X.Px + Y.Py = 55 ngàn đồng.
Tổng lợi ích lớn nhất thu được là: TUMax = 180 + 53 = 233 lớn hơn lợi ích thu được từ bất
cứ tập hợp tiêu dùng khả thi nào khác.
4.3. LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH BÀNG QUAN – NGÂN SÁCH

56
4.3.1. Các giả định

- Tính hợp lý: người tiêu dùng có mục tiêu là đạt được mức thoả mãn định tính cao
nhất với hạn chế ngân sách của mình;
- Lợi ích có thể so sánh được: người tiêu dùng có khả năng xếp hạng các kết hợp
hàng hóa căn cứ vào sự thỏa mãn mà mỗi kết hợp hàng hóa đó mang lại cho họ (Sở thích
của người tiêu dùng là hoàn chỉnh);

- Lợi ích cận biên giảm dần: khi tiêu dùng thêm các đơn vị hàng hóa, lợi ích bổ sung
mà người tiêu dùng thu được từ chúng giảm xuống;

- Sự nhất quán và tính bắc cầu của sự lựa chọn. Thứ nhất là kết hợp hàng hoá bất kỳ
phải được sắp xếp theo một trình tự không thể đảo ngược, nói cách khác nếu A được ưu
thích hơn B thì trong mọi trường hợp B không bao giờ được ưu thích hơn A. Điều kiện
thứ hai chính là tính chất bắc cầu, nghĩa là nếu kết hợp hàng hoá A được ưa thích hơn kết
hợp hàng hoá B và B được ưa thích hơn C thì A phải được ưa thích hơn C.
4.3.2. Đường bàng quan và “Bản đồ” các đường bàng quan

a. Đường bàng quan là tập hợp các kết hợp hàng hóa hay các “giỏ” hàng hoá mang
lại cùng một mức lợi ích cho người tiêu dùng. Người ta còn gọi các đường bàng quan là
đường đồng mức lợi ích hay đường đồng mức thoả mãn.
Các đường bàng quan nhìn chung đều dốc xuống về phía bên phải và lồi so với gốc
toạ độ. Điều đó cho thấy nếu người tiêu dùng có ít hàng hoá này thì họ cần nhiều hàng hoá
kia để đạt cùng mức thoả mãn. Các đường bàng quan lồi so với gốc tọa độ là do người tiêu
dùng đạt được sự thoả mãn tăng thêm ngày càng ít hơn từ mỗi đơn vị tiêu dùng bổ sung
của một hàng hoá.

B

A

C

X

Hình 4.6. Đường bàng quan

57
Hình dạng chính xác của các đường bàng quan phụ thuộc vào sở thích tương đối của
người tiêu dùng về hai hàng hoá đang xem xét.
b. Bản đồ các đường bàng quan hay còn gọi là họ đường bàng quan là tập hợp các
đường bàng quan của người tiêu dùng.
Y

IC5
IC4
IC3
IC2
IC1

Hình 4.7 Bản đồ đường bàng quan

Bản đồ bàng quan có hai tính chất cần được lưu ý. Thứ nhất, các điểm trên một
đường bàng quan là các tập hợp hàng hóa khác nhau sinh ra cùng một lượng lợi ích cho
người tiêu dùng. Đường bàng quan nằm ngoài biểu diễn lượng lợi ích cao hơn, hay các
đường bàng quan càng xa gốc toạ độ biểu thị các mức độ thoả mãn càng cao. Người tiêu
dùng sẽ thích chuyển theo hướng mũi tên trên hình 4.7. Thứ hai, các đường bàng quan
không thể cắt nhau. Nếu chúng cắt nhau, như biểu thị ở hình 4.8 thì có sự mâu thuẫn về
mặt lô gích. Điểm A nằm trên đường bàng quan I1 phải biểu thị mức độ thoả mãn cao hơn
điểm B trên đường IC2. Nhưng điểm C nằm trên cả hai đường, đem lại mức độ thoả mãn
giống như A và B. Rõ ràng điều này không thể xảy ra.

A
B  

IC2
IC1
X

58
Hình 4.8. Các đường bàng quan không cắt nhau

c. Tỷ lệ thay thế cận biên giữa hai hàng hoá

Đường bàng quan dốc xuống và lồi về phía gốc toạ độ thể hiện giả thuyết cơ bản của
lý thuyết lợi ích về tỷ lệ thay thế cận biên giảm dần. Tỷ lệ thay thế cận biên (MRS) là số
đơn vị hàng hoá X cần mua thêm khi giảm đi một đơn vị hàng hoá Y để vẫn đạt được mức
ích lợi đã cho và được xác định bằng công thức:

MU X
MRS X / Y  = - ΔY/ΔX (= độ dốc của đường bàng quan)
MU Y
MRS là tỷ lệ thay thế giữa 2 hàng hóa mà vẫn bảo đảm lợi ích không thay đổi đối
với người tiêu dùng (vẫn nằm trên đường bàng quan ban đầu).
Khi vận động dọc theo đường bàng quan từ trái qua phải, để giữ nguyên mức lợi ích thì
khi tăng hàng hoá X phải giảm lượng tiêu dùng hàng hoá Y dó đó lợi ích cận biên của hàng
X sẽ giảm xuống theo quy luật lợi ích cận biên giảm dần còn lợi ích cận biên của hàng hoá Y
lại tăng lên vì vậy MRS sẽ giảm xuống.

I2
Y2
ΔY
I1
Y1

0 X1 X
X2 ΔX
Hình 4.9. Tỉ lệ thay thế cận biên MRS

Các trường hợp đặc biệt của đường bàng quan.

- Trường hợp 1: Khi các hàng hoá có thể hoàn toàn thay thế nhau trong tiêu dùng.
Trong trường hợp này, các đường bàng quan là các đường thẳng và MRS là một hằng số.
Điều đó có nghĩa là tỷ lệ thay thế cận biên giữa bơ và margarine là như nhau tại mọi điểm
trên mỗi đường bàng quan (hình a).

59
- Trường hợp 2: Các hàng hoá được tiêu dùng cùng với nhau theo những tỷ lệ cố
định. ở trường hợp này, các đường bàng quan có dạng chữ "L" và chỉ có một kết hợp giầy
trái và giầy phải có thể được sử dụng để có kết hợp tiêu dùng nhất định. Chẳng hạn, ở điểm
A (hình b) số giầy trái và số giầy phải là kết hợp có hiệu quả của các hàng hoá để đạt mức
thoả mãn IC1. Việc dùng thêm giầy trái và vẫn giữ cố định lượng giầy phải ở mức ban đầu,
hoặc tăng thêm giầy phải và cố định lượng giầy trái ở điểm A đều không làm thay đổi mức
thoả mãn IC1.

bơ Giầy
trái

IC3
C  IC3
IC2 B IC2
IC1 A
 IC1
0 0
margarine Giầy phải

a. Thay thế hoàn hảo b. Bổ sung hoàn


hảo
Hình 4.10. Các đường bàng quan đặc biệt

4.3.3. Giới hạn ngân sách của người tiêu dùng

Mỗi người tiêu dùng có một mức thu nhập nhất định và đó chính là giới hạn của
người tiêu dùng. Các kết hợp hàng hoá mà người tiêu dùng có thể mua được phụ thuộc
vào thu nhập của họ và giá của các hàng hoá và được biểu thị bằng đường ngân sách.
Đường ngân sách biểu thị tất cả các kết hợp hàng hoá mà người tiêu dùng có thể
mua được bằng cả thu nhập của mình. Giả sử chúng ta xem xét trường hợp hai hàng hóa,
phương trình giới hạn ngân sách được biểu diễn như sau
I = Px.X+ Py.Y

Trong đó:

- I là thu nhập của người tiêu dùng

- Px là giá hàng hoá X

- Py là giá hàng hoá Y

60
- X là số lượng hàng hoá X

- Y là số lượng hàng hoá Y

Phương trình trên có thể biến đổi lại như sau:

PX
Y = I/ Py - X
PY

Px
Độ dốc của đường ngân sách = -
Py

Độ dốc của đường này bằng tỷ số giá của hai hàng hoá. Giả định rằng thu nhập của
người tiêu dùng được chi hết cho hai hàng hoá X và Y là hai hàng hoá duy nhất sẵn có.
Phân tích này có thể mở rộng một cách dễ dàng để bao quát nhiều hàng hoá bằng việc
thay sơ đồ bằng công thức toán. Chẳng hạn với 3 hàng hoá thì phương trình đường ngân
sách sẽ là: I = Px.X+ Py.Y+ PZ. Z
Khi minh họa bằng đồ thị, đường ngân sách với 2 hàng hoá sẽ là một đường thẳng
như trên hình vẽ 4.11. Có thể dễ dàng nhận thấy phần diện tích nằm dưới đoạn thẳng AB
minh họa mọi khả năng chi tiêu của người tiêu dùng. Những kết hợp nằm ngoài đường
ngân sách là không thể đạt được. Vì vậy đường ngân sách còn được gọi là đường giới hạn
khả năng tiêu dùng. Điểm A minh họa số lượng hàng hoá Y tối đa mà người tiêu dùng có
thể mua được khi sử dụng hết số thu nhập I cho trước (bằng I/Py) và điểm B minh họa
lượng hàng hoá X tối đa có thể mua được khi sử dụng hết số thu nhập I cho trước (bằng
I/Px). Khi giá của các hàng hóa hoặc thu nhập của người tiêu dùng thay đổi thì đường ngân
sách ban đầu cũng sẽ thay đổi theo.
Y
A

X
B

Hình 4.11. Đường ngân sách


4.3.4. Trạng thái cân bằng của người tiêu dùng

61
Đường ngân sách mô tả những tập hợp hàng hoá có thể mua được với thu nhập hiện
có của người tiêu dùng (giả định toàn bộ số thu nhập đó được chi tiêu không có tiết kiệm)
và giá của các hàng hoá do thị trường xác định và vì vậy người tiêu dùng không thể tác
động đến chúng được. Các đường bàng quan cho thấy sở thích của người tiêu dùng. Bây
giờ chúng ta có thể chỉ ra được người tiêu dùng lựa chọn như thế nào để mua mỗi hàng
hoá với số lượng là bao nhiêu. Chúng ta cũng giả định người tiêu dùng có sự lựa chọn
hợp lý, tức là họ lựa chọn các hàng hoá để tối đa hoá sự thoả mãn mà họ có thể đạt được
với một ngân sách giới hạn của mình. Vì vậy kết hợp hàng hoá tối ưu cho người tiêu
dùng phải thoả mãn hai điều kiện sau: Thứ nhất nó phải nằm trên đường ngân sách và
Thứ hai phải nằm ở đường bàng quan cao nhất có thể. Với bản đồ đường bàng quan và
đường ngân sách trên hình 4.12, trạng thái cân bằng là điểm E - là tiếp điểm của đường
ngân sách và đường bàng quan xa nhất có thể. Người tiêu dùng sẽ sử dụng một lượng Xe
hàng hoá X và Ye hàng hoá Y để tối đa hoá lợi ích của mình. Tại điểm cân bằng E độ dốc
của đường ngân sách bằng độ dốc của đường bàng quan. Như vậy, mức độ thoả mãn sẽ
được cực đại hoá ở điểm mà một đường bàng quan tiếp xúc với đường ngân sách. ở vị trí
đó, độ dốc của đường bàng quan (tức là tỷ lệ thay thế cận biên các loại hàng hoá X và Y
với nhau theo sở thích của người tiêu dùng) sẽ bằng với độ dốc của đường ngân sách (tỷ
lệ thay thế cận biên trên thị trường)

Chúng ta đã có công thức tỷ lệ thay thế cận biên hàng hoá Y lấy hàng hoá X:

y MU x
MRS x/y = - = và
x MU y

Độ dốc của đường bàng quan = MRSx/y

Vậy điều kiện tối ưu của người tiêu dùng là:


Px MU x
=
Py MU y

MU x MU y
Hay là =
Px Py

Kết luận này hoàn toàn giống với kết luận đã thu được ở mục trước. Tương tự ta có
thể mở rộng điều kiện tối ưu của người tiêu dùng cho trường hợp tổng quát.

MU x MU y MU z
= = =…
Px Py Pz

62
Y

Ye E

Xe X
Hình 4.12. Trạng thái cân bằng của người tiêu dùng
4.3.5. Cách thức xác định đường cầu

Xác định đường cầu bằng đồ thị: khi giá của hàng hóa X giảm xuống (giả sử thu
nhập I và giá hàng hoá Y giữ nguyên) thì đường ngân sách của người tiêu dùng xoay ra
bên ngoài từ vị trí ban đầu AB sang vị trí AB’ vì sức mua của người tiêu dùng đối với
hàng hóa X tăng lên. Khi sức mua tăng lên, người tiêu dùng có thể mua nhiều hàng hóa
hơn cả X và Y. Đường ngân sách mới sẽ tiếp xúc với một đường bàng quan xa hơn.
Trạng thái cân bằng mới sẽ cho biết số lượng hàng hóa X và Y mà người tiêu dùng sẽ
mua.

Đường tiêu dùng - giá

Hình 4.13a. Đường tiêu dùng- giá

63
PX

P1

P2

P3
x1 x2 x3
Qx

Hình 4.13b. Rút ra đường cầu hàng hoá X dốc xuống

Tập hợp tất cả các điểm cân bằng đó gọi là đường tiêu dùng- giá. Đồng thời các điểm cân
bằng đó cho ta biết lượng hàng hóa X được tiêu dùng ứng với mỗi mức giá của nó - đó là
đường cầu đối với hàng hóa X. Kết quả trên có thể thấy trên hình 4.13a.

TÓM TẮT
Lý thuyết lợi ích đo được là lý thuyết đơn giản nhất (tất nhiên sẽ có nhiều hạn chế) đề cập
tới tiêu dùng cá nhân với đối tượng nghiên cứu là người tiêu dùng hợp lý được hiểu là hộ gia
đình - một nhóm người sống cùng với nhau như một đơn vị ra quyết định tiêu dùng nhằm mục
tiêu tối đa hóa lợi ích với thu nhập nhất định (ràng buộc ngân sách).
Lợi ích (U) là sự thoả mãn và hài lòng có được khi tiêu dùng hàng hoá.
Tổng lợi ích (TU) được hiểu là toàn bộ sự thoả mãn và hài lòng khi tiêu dùng một số
lượng nhất định hàng hoá và dịch vụ.
Lợi ích và Tổng lợi ích là những khái niệm trừu tượng do đó để đo lợi ích người ta dùng
một đơn vị qui ước gọi là Utils.
Lợi ích cận biên (MU) là lợi ích tăng thêm khi tiêu dùng thêm một đơn vị hàng hoá nào đó
với điều kiện giữ nguyên mức tiêu dùng các hàng hoá khác
Quy luật lợi ích cận biên giảm dần được phát biểu là lợi ích cận biên của một hàng hoá
có xu hướng giảm xuống từ một thời điểm nào đó khi hàng hoá hoặc dịch vụ đó được tiêu dùng
nhiều hơn trong một thời gian nhất định với điều kiện giữ nguyên mức tiêu dùng các hàng hoá
khác. Hay nói cách khác mỗi đơn vị hàng hoá kế tiếp được tiêu dùng sẽ mang lại lợi ích bổ sung
(lợi ích cận biên) ít hơn đơn vị hàng hoá tiêu dùng trước đó.

64
Quy luật lợi ích cận biên giảm dần gắn với tâm lý chủ quan của người tiêu dùng, nặng về
định tính nhưng giải thích được vì sao đường cầu lại nghiêng xuống dưới về phía phải. Khi lợi
ích cận biên của hàng hóa đo bằng giá, thì đường cầu giống như phần dương của đường lợi ích
cận biên. Đường cầu thị trường là tổng cộng theo chiều ngang của các đường cầu cá nhân.
Thặng dư tiêu dùng (CS) là sự chênh lệch giữa giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trả cho
một hàng hoá và giá mà thực tế đã trả khi mua hàng hoá đó. Tổng hợp thặng dư tiêu dùng của
từng cá nhân là thặng dư tiêu dùng chung của thị trường.
Người tiêu dùng đạt trạng thái cân bằng bằng cách gia tăng mua một sản phẩm cho đến khi
MU = P.
Để tối đa hoá lơị ích đo được cần tuân theo nguyên tắc cân bằng tiêu dùng cận biên: MU1/
P1 = MU2/ P2 = MU3/ P3 =... = MUn/ Pn.
Quy tắc này nói lên rằng người tiêu dùng hợp lý sẽ mua mỗi loại hàng hoá cho đến khi tỷ
lệ giữa lợi ích tăng thêm thu được so với giá phải trả là bằng nhau cho mỗi loại hàng hoá. Hay
nói cách khác, lợi ích cận biên phát sinh do mỗi đơn vị tiền tệ chi ra phải là như nhau đối với mỗi
loại hàng hoá.
Đường bàng quan thể hiện sự kết hợp giữa 2 hàng hóa mà tất cả các kết hợp đều mang lại
cùng 1 lợi ích như nhau đối với người tiêu dùng.
Kết hợp tiêu dùng tối ưu thể hiện đường ngân sách tiếp xúc với đường bàng quan cao
nhất tại 1 điểm, và điều kiện là MUX/MUY = PX/PY.

65
CHƯƠNG 5. SẢN XUẤT, CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN
Nội dung
Chương 4 đã nghiên cứu lý thuyết tiêu dùng đề cập tới mục tiêu tối đa hoá lợi ích của
người tiêu dùng. Khi phân tích chúng ta đã bỏ qua vấn đề là các hàng hoá, dịch vụ đó đã được
sản xuất như thế nào mà mặc nhiên giả định rằng chúng đã có sẵn để sử dụng. Việc nghiên cứu
hành vi của người tiêu dùng đôi khi được xem như nghiên cứu phía cầu của nền kinh tế. Chương
này nghiên cứu về phía cung - hành vi của người sản xuất trong ngắn hạn, đề cập tới mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận của hãng hay doanh nghiệp… trong mối quan hệ giữa sản lượng, chi phí và lợi
nhuận.
Mục đích

 Đầu vào tối ưu trong ngắn hạn,kết hợp đầu vào tối thiểu hóa chi phí hoặc tối .

 Giúp học viên nắm được hàm sản xuất ngắn hạn, quy luật năng suất cận biên giảm dần,
mối quan hệ giữa năng suất bình quân và năng suất cận biên, nguyên tắc sử dụng đa
hóa sản lượng

 Giúp học viên nắm được các chi phí trong ngắn hạn

 Nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của hãng

Tình huống dẫn nhập

5.1. LÝ THUYẾT SẢN XUẤT

5.1.1 Các khái niệm

Hãng hay doanh nghiệp được hiểu là

Các yếu tố đầu vào là các tài nguyên sử dụng trong việc sản xuất ra hàng hóa/dịch vụ, gồm
có 3 nhóm là nguyên vật liệu, đất đai và lao động..

Khi xây dựng mô hình hành vi người sản xuất, các nhà kinh tế học giả định:

+ Chỉ có hai đầu vào – tư bản và lao động.

+ Tất cả những người lao động đều cung cấp những dịch vụ lao động giống nhau. Tức là bỏ
qua trình độ của người lao động trong thực tế.

66
+ Các doanh nghiệp có hành vi là tối đa hoá lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Tuy
nhiên trên thực tế, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất đối với hành vi của doanh nghiệp.
Còn có nhiều mục tiêu khác mà doanh nghiệp có thể theo đuổi như: tối đa hoá doanh thu, tối đa
hoá thu nhập cho các cổ đông bằng việc trả cổ tức cao nhất, doanh nghiệp có thể ứng xử sao cho
công chúng được lợi từ sản phẩm của mình, tối thiểu hoá ảnh hưởng cuả sản xuất đối với môi
trường...

Ngắn hạn (SR) là khoảng thời gian trong đó có ít nhất một đầu vào của doanh nghiệp là cố
định (không thể thay đổi được trong quá trình sản xuất đang xem xét). Chẳng hạn trong ngắn hạn
thường thì số nhân công có thể thay đổi nhưng quy mô nhà máy và số máy móc thì không thể.

Dài hạn (LR) được định nghĩa là khoảng thời gian trong đó doanh nghiệp có thể thay đổi
tất cả các đầu vào sử dụng trong quá trình sản xuất.

Khi nghiên cứu sản xuất ngắn hạn (SR) chúng ta sẽ giả định rằng chỉ có lượng đầu vào lao
động là có thể thay đổi được còn lượng tư bản sử dụng là cố định ở mức K. Do đó hàm sản xuất
là hàm một biến số theo L được biểu thị là: Q = f (L).
5.1.2 Năng suất bình quân (Sản phẩm bình quân)
Sản phẩm bình quân hay năng suất bình quân - AP (Average Product) của một yếu tố đầu
vào phản ánh số sản phẩm trung bình mà một đơn vị đầu vào đó tạo ra và được tính bằng công
thức sau đây:

Tổng sản lượng


Sản phẩm bình quân =
Số lượng đầu vào

Năng suất bình quân hay sản phẩm bình quân của lao động (APL) là lượng sản phẩm tính
theo một đơn vị đầu vào lao động, được xác định bằng cách lấy sản lượng đầu ra chia cho số lao
động mà hãng đã sử dụng để sản xuất

Tổng sản lượng


Sản phẩm bình quân =
Số lao động sử dụng
của lao động

Công thức tính toán: APL = Q/ L

67
Trong đó: APL: Năng suất bình quân của lao động
Q: Số lượng sản phẩm (đầu ra)
L: Số lao động (đầu vào)
(Năng suất bình quân hay sản phẩm bình quân của tư bản (APK) là APK = Q/ K; công
thức và cách tính tương tự)
5.1.3. Năng suất cận biên (Sản phẩm cận biên)
Để nghiên cứu năng suất cận biên chẳng hạn của lao động, chúng ta hãy bỏ qua các yếu tố
sản xuất khác mà giả định chỉ xem xét mối quan hệ giữa lao động tăng thêm và số lượng sản phẩm
sản xuất ra.
Sản phẩm cận biên hay năng suất cận biên - MP (Marginal Product) phản ánh số sản phẩm
tăng thêm do một đơn vị đầu vào bổ sung mang lại và được tính theo công thức sau:

Thay đổi của tổng sản lượng


Sản phẩm cận biên =
Thay đổi của lượng đầu vào
(MP)

Nếu đầu vào là lao động thì ta có công thức xác định năng suất cận biên hay sản phẩm cận
biên của lao động (MPL) như sau:
Thay đổi của tổng sản lượng
Sản phẩm cận biên =
Thay đổi số lượng lao động
của lao động (MPL)

Công thức tính toán: MPL = Q/L = (Q)’L

Trong đó: MPL: Năng suất cận biên của lao động

Q : Thay đổi của tổng sản lượng (đầu ra)

L: Thay đổi của số lượng lao động (đầu vào)

Đặc biệt khi L = 1 thì MPL = Q

(Năng suất cận biên hay sản phẩm cận biên của tư bản (MPK) là MPK = Q/K = (Q)’K -
công thức và cách tính tương tự như năng suất cận biên của lao động).

68
Chúng ta hãy lấy một ví dụ về một hãng may quần áo trẻ em với các số liệu giả định về số
bộ quần áo trẻ em sản xuất được mỗi ngày tương ứng với số lao động đã sử dụng. Để vấn đề
được đơn giản ta cố định đầu vào máy khâu, số lượng lao động có thể thay đổi
Bảng 5.1. Hàm sản xuất ngắn hạn

Số lượng lao động (L) Số bộ quân áo (Q)


0 0
1 15
2 34
3 44
4 48
5 50
6 51
7 47
Số máy khâu cố định: K = 1đơn vị

Số lao động sử dụng mỗi ngày L


Số bộ quần áo mỗi ngày Q
Với các số liệu ở Bảng 6-1 kết quả tính toán năng suất bình quân và năng suất cận biên của
lao động được thể hiện ở Bảng 6-2 sau đây:
Bảng 5.2. Năng suất bình quân và năng suất cận biên của lao động

L K Q APL(Q/L) MPL (Q/L)


0 1 0 - -
1 1 15 15 15
2 1 34 17 19
3 1 44 14,66 10
4 1 48 12 4
5 1 50 10 2
6 1 51 8,5 1
7 1 47 6,71 -4

69
55 G
F
50
E
D H
45
Tổng đầu ra

40 (mỗi ngày)

35
C

30

25
c
20
B Sản phẩm cận biên của lao
động
15 b
d
10
e
5
f g
a

A 1 2 3 4 5 6 7
0 h
Lượng lao động mỗi ngày

Hình 5.1. Mối quan hệ giữa sản lượng và năng suất cận biên

5.1.4 Quy luật năng suất cận biên giảm dần


Đối với hầu hết các quá trình sản xuất, sản phẩm cận biên của lao động giảm dần ở một
thời điểm nhất định (và điều này cũng đúng với sản phẩm cận biên của các đầu vào khác). Quy
luật năng suất cận biên giảm dần phát biểu rằng năng suất cận biên của một đầu vào biến đổi sẽ
giảm dần khi sử dụng ngày càng nhiều hơn đầu vào đó trong quá trình sản xuất (với điều kiện
giữ nguyên lượng sử dụng các đầu vào cố định khác). Lý do là vì khi càng nhiều đơn vị đầu vào
biến đổi chẳng hạn lao động được sử dụng thì các yếu tố cố định như tư bản, đất đai, nhà xưởng,
không gian...để kết hợp với đơn vị lao động sẽ không còn nữa. Thực tế đúng như vậy, nếu các

70
yếu tố đầu vào khác cố định, mà số lao động sử dụng càng tăng lên thì thời gian chờ đợi, thời
gian "chết" sẽ nhiều hơn và do đó số sản phẩm cận biên của lao động sẽ giảm đi. Điều này xảy ra
vì việc đưa thêm một đơn vị lao động nữa vào dây chuyền sẽ làm cản trở việc sản xuất (5 người
có thể vận hành một dây chuyền sản xuất tốt hơn 2 người, nhưng đến 10 người thì chỉ làm vướng
chân nhau); do đơn vị lao động bổ sung ấy phải chia sẻ các đầu vào vào cố định với các đơn vị
lao động trước đó để kết hợp tạo ra sản phẩm.Và nếu tiếp tục tăng thêm lao động có thể sẽ làm
giảm tổng sản lượng, cũng có nghĩa là năng suất cận biên của lao động là âm.
Quy luật năng suất cận biên giảm dần cho biết mỗi một đơn vị đầu vào biến đổi tăng thêm
được sử dụng trong quá trình sản xuất sẽ đem lại lượng sản phẩm bổ sung (sản phẩm cận biên) ít
hơn đơn vị đầu vào trước đó. Nghĩa là sản phẩm cận biên của đầu vào biến đổi bắt đầu giảm tại
một mức đầu vào biến đổi nhất định và có thể bằng không hoặc âm.
5.1.5 . Quan hệ giữa năng suất bình quân và năng suất cận biên, năng suất cận biên và tổng sản
lượng
Đường tổng sản lượng mô tả sự thay đổi của đầu ra khi lượng đầu vào biến đổi (lao động)
được sử dụng trong quá trình sản xuất tăng lên có dạng hình chuông tăng, đạt giá trị lớn nhất và
giảm xuống. Khi có sự thay đổi (chẳng hạn cải tiến công nghệ) sẽ làm cho tổng sản lượng được
sản xuất ra từ một lượng đầu vào biến đổi như cũ tăng lên (tăng năng suất lao động) thì đường
tổng sản lượng dịch chuyển lên trên.
Sản phẩm cận biên của đầu vào biến đổi là độ dốc của đường tổng sản lượng tăng sau đó giảm
đến 0 khi sản lượng Q là lớn nhất và tiếp đó là âm. Nếu mỗi lao động tăng thêm làm ra được nhiều sản
phẩm hơn những đơn vị lao động trước (năng suất cận biên tăng) thì năng suất bình quân sẽ tăng lên.
Ngược lại nếu mỗi lao động bổ sung làm ra được ít sản phẩm hơn đơn vị lao động trước (năng suất cận
biên giảm) thì năng suất bình quân giảm xuống
Số bộ quần áo

55
G
F
50
E
45 D H

40
Tổng đầu ra
35
C
30
25 c
20 B
Sản phẩm bình quân
15 b d
10 e
71
5 f
g Lượng lao động
A
1 2 3 4 5 6 7 mỗi ngày
Hình 5.2. Mối quan hệ giữa năng suất bình quân và năng suất cận biên

Sản phẩm bình quân lúc đầu tăng khi năng suất cận biên nằm trên năng suất bình quân, sau
đó sản phẩm bình quân sẽ giảm khi năng suất cận biên nằm dưới năng suất bình quân và cuối
cùng năng suất bình quân đạt giá trị lớn nhất khi năng suất cận biên bằng năng suất bình quân.

Nếu MPL > APL thì đẩy năng suất bình quân tăng lên

Nếu MPL < APL thì đẩy năng suất bình quân xuống

Nếu MPL = APL thì APL đạt lớn nhất

Chứng minh:

Sản lượng đạt giá trị lớn nhất khi sản phẩm cận biên bằng 0: MPL=0

APL max khi (APL)’ = 0

(𝑄)′ 𝐿 ∗𝐿−𝑄∗𝐿′ 𝐿
 =0
𝐿2

𝑄
 𝑀𝑃𝐿 − 𝐿 = 0

 MPL = APL

Vậy, đường năng suất cận biên của lao động cắt đường năng suất bình quân của lao động tại
điểm có năng suất bình quân của lao động lớn nhất.

5.2. LÝ THUYẾT CHI PHÍ

Trong nền sản xuất hàng hoá có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và vận động theo
cơ chế thị trường, các hãng luôn phải đối mặt với cạnh tranh. Muốn thắng trong cạnh tranh, một
vấn đề quan trọng mà bất kỳ một hãng nào cũng đều phải quan tâm là giảm chi phí sản xuất vì
giảm một đồng chi phí có nghĩa là tăng một đồng lợi nhuận (với điều kiện các yếu tố khác không
đổi). Hơn nữa các hãng sẽ quyết định mức sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm nào đó tuỳ theo chi
phí và giá bán sản phẩm. Vấn đề chi phí sản xuất không chỉ là sự quan tâm của các hãng mà còn
là mối quan tâm của người tiêu dùng, của xã hội nói chung.

72
5.2.1. Các chi phí về tài nguyên

Chi phí tài nguyên là chi phí các nguồn lực tính bằng hiện vật để sản xuất ra sản phẩm. Để
sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ nhất thiết phải có những tài nguyên, nguồn lực. Một hãng muốn
sản xuất ra quần áo phải có diện tích mặt bằng, nhà xưởng, máy may, nguyên vật liệu (vải), lao
động... Muốn sản xuất ra thóc lúa người nông dân phải có đất đai, nước, thóc giống, phân bón,
lao động...Muốn vận hành máy móc thiết bị phải có xăng dầu và điện...Chi phí về xăng dầu đã sử
dụng và điện năng tiêu thụ gọi là chi phí vể tài nguyên.

5.2.2. Chi phí kinh tế và chi phí tính toán

Chi phí kinh tế là giá trị toàn bộ các nguồn tài nguyên sử dụng để sản xuất ra hàng hoá và
dịch vụ (bao gồm các khoản được chi trả - chi phí hiện và chi phí ẩn- không chi trả). Chi phí kinh
tế khác với chi phí tính toán hay chi phí kế toán. Chi phí tính toán hay chi phí kế toán là những
khoản chi phí hiện (tường minh, nhìn thấy rõ) đó là chi phí mà hãng đã thực sự bỏ ra để sản xuất
các hàng hoá dịch vụ, không tính đến các chi phí cơ hội của các yếu tố đầu vào đã sử dụng trong
quá trình sản xuất.

Ví dụ, chi phí kinh tế để sản xuất ra 15 bộ quần áo trẻ em là 245 ngàn đồng là tổng giá trị
thị trường của tất cả các đầu vào mà doanh nghiệp đã sử dụng để sản xuất bao gồm tiền thuê địa
điểm đặt nhà máy, tiền khấu hao máy móc, tiền thuê lao động, tiền mua vải. Chi phí tính toán chỉ
gồm những chi phí mà chủ doanh nghiệp thực sự phải bỏ ra. Giả sử chủ doanh nghiệp này không
thuê thợ may mà tự mình may quần áo thì chi phí tính toán chỉ là: 245.000 - 10.000 = 235.000đ

Hoặc trong trường hợp không phải thuê nhà xưởng do thừa kế gia sản để lại thì chi phí tính
toán lúc ấy chỉ còn là 245.000 - 100.000 = 145.000đ. Như vậy, chi phí kinh tế và chi phí tính
toán sẽ khác nhau khi bất cứ một yếu tố sản xuất nào không được tính đến.

5.2.3. Chi phí ngắn hạn

Chi phí ngắn hạn là những chi phí của thời kỳ mà trong đó có ít nhất một đầu vào của hãng
không thay đổi. Thông thường thì quy mô nhà máy, số lượng máy móc,…được coi là cố định.
5.2.3.1 . Tổng chi phí - Chi phí cố định - Chi phí biến đổi
Tổng chi phí (TC) là toàn bộ các chi phí để sản xuất ra sản phẩm.
Chúng ta hãy lấy một ví dụ cụ thể về sản xuất quần áo trẻ em. Để đơn giản vấn đề chúng ta
chỉ xét các nguồn tài nguyên sau đây: Nhà máy, máy khâu, vải và lao động. Giả sử để sản xuất

73
10 bộ quần áo trẻ em mỗi ngày, cần 1 máy khâu, 1 lao động, 7,5 mét vải. Nhà máy và máy khâu
được hãng thuê theo hợp đồng, giá trị thị trường của từng yếu tố được xác định như sau:
Bảng 5.3. Các chi phí của sản xuất 10 bộ quần áo

Đầu vào Giá trị thị trường (1000 đồng)


Thuê nhà máy 100
Tiền thuê/khấu hao máy khâu 20
Lao động 10
Vải 75
Tổng chi phí 205

Tổng chi phí sẽ thay đổi một khi mức sản lượng thay đổi song không phải mọi chi phí đều
tăng lên theo sản lượng. Người ta phân biệt hai loại chi phí: Chi phí cố định (FC) và chi phí biến
đổi (VC).
- Chi phí cố định( FC) là những chi phí không thay đổi khi sản lượng thay đổi. Trong ví dụ
trên đây thì tiền thuê nhà máy, tiền thuê máy khâu là chi phí cố định. Nói rộng ra chi phí cố định
là những chi phí mà hãng phải thanh toán dù không sản xuất ra 1 sản phẩm nào.
- Chi phí biến đổi(VC) là những chi phí phụ thuộc vào các mức sản lượng, tăng giảm cùng
với việc tăng giảm của sản lượng. Chẳng hạn như tiền mua nguyên, nhiên vật liệu, tiền lương
công nhân… Trong ví dụ của chúng ta chi phí biến đổi bao gồm: tiền công (10.000đ), tiền vải
(75.000đ).
- Tổng chi phí TC là tổng của chi phí cố định FC và chi phí biến đổi VC ở mọi mức sản
lượng.
Mối quan hệ và hình dạng của các chi phí tổng được thể hiện ở hình 5.3. Đường biểu diễn
FC là đường nằm ngang vì chi phí cố định không thay đổi theo sản lượng Q. Đường biểu diễn
chi phí biến đổi VC có xu hướng tăng và đi qua gốc O phản ánh khi chưa sản xuất thì không có
tiền mua nguyên, nhiên vật liệu, tiền lương công nhân…. Đường biểu diễn tổng chi phí TC có
được bằng cách tịnh tiến đường VC lên phía trên 1 khoảng đúng bằng chi phí cố định vì TC =
FC + VC. Ngoài ra đường biểu diễn TC phải bắt đầu tại FC vì ở mức sản lượng bằng 0 thì tổng
chi phí chính là chi phí cố định hay FC = TCQ=0 sau đó tăng khi mức sản lượng tăng lên. Trên đồ

74
thị 2 đường biểu diễn TC và VC luôn cách đều nhau/ “song song” vì khoảng cách giữa 2 đường
chính là chi phí cố định FC = TC -VC

Chi phí
TC

VC

FC

0
Sản lượng (Q)

Hình 5.3. Các chi phí tổng TC, FC và VC


5.2.3.2 . Các chi phí bình quân
Tổng chi phí bình quân( ATC ) hay chi phí trung bình là chi phí tính trên một đơn vị sản
phẩm. Trong ví dụ của chúng ta là chi phí sản xuất ra một bộ quần áo trẻ em. Để tính được tổng
chi phí bình quân, ta lấy tổng chi phí chia cho sản lượng. Chẳng hạn tại mức sản lượng 10 bộ
quần áo trẻ em, chi phí bình quân là ATC = TC/Q = 20,5 nghìn đồng (= 205.000đ:10 bộ)
Chi phí cố định bình quân (AFC) là tổng chi phí cố định tính trên một đơn vị sản phẩm:
AFC = FC/ Q.
Chi phí biến đổi bình quân (AVC) là tổng chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm:
AVC = VC/ Q.
Tổng chi phí bình quân có thể tính bằng tổng của chi phí biến đổi bình quân và chi phí cố
định bình quân.

TC FC  VC FC VC
ATC    
Q Q Q Q

Hay ATC = AFC + AVC.


Các đường chi phí bình quân

75
Chi phí cố định không đổi tại mọi mức sản lượng nên tại mức sản lượng thấp chi phí cố
định bình quân (AFC) cao hơn ở những mức sản lượng lớn, do đó, đường AFC dốc xuống và
tiệm cận đến trục sản lượng. Doanh nghiệp muốn giảm chi phí sản xuất bình quân thì phải sử
dụng triệt để các tài sản cố định như nhà máy và thiết bị.

Hình dạng của AVC do quy luật năng suất cận biên của lao động giảm dần chi phối. Ta
thấy chi phí nguyên vật liệu đầu vào không thay đổi nhưng ban đầu, năng suất lao động của
những lao động đầu tiên tăng lên làm cho chi phí biến đổi bình quân giảm xuống. Nhưng năng
suất cận biên của lao động chỉ tăng đến một mức nhất định rồi sẽ giảm nên chi phí biến đổi bình
quân giảm xuống đến mức thấp nhất sẽ lại tăng lên. Do đó, đường biểu diễn chi phí biến đổi bình
quân có dạng hình chữ U.

Chứng minh:

𝑉𝐶 𝑤𝐿 𝑤
𝐴𝑉𝐶 = = =
𝑄 𝑄 𝐴𝑃𝐿

AVC có dạng ngược lại với APL mà APL có dạng hình quả chuông và có điểm APL nên
AVC có dạng hình chữ U và có AVCmin.

Đường tổng chi phí bình quân (ATC) cũng có dạng hình chữ U và đáy hình chữ U là
chi phí bình quân tối thiểu. Ở những mức sản lượng nhỏ, doanh nghiệp tăng sản lượng thì
AFC giảm mạnh lấn át sự tăng lên của AVC nên ATC giảm xuống. ATC sẽ giảm đến mức
ATCmin và sau đó sẽ tăng lên do lúc này khi doanh nghiệp tăng sản lượng thì AFC lại giảm
ít còn AVC lại tăng mạnh do ở mức sản lượng càng lớn thì năng suất cận biên càng giảm
nhiều hơn, thậm chí còn âm.

Ở những mức sản lượng nhỏ ban đầu, chi phí cố định bình quân còn lớn nên khoảng
cách giữa AVC và ATC còn rộng, sau đó chi phí cố định bình quân AFC giảm dần nên AVC
tiệm cận dần với ATC.

Điểm M là điểm tổng chi phí bình quân tối thiểu (ATCmin). Đây là điểm sản xuất mà
doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí ít nhất, đối với xã hội thì đây là điểm tiêu hao một lượng tài
nguyên ít nhất để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

76
P
ATC
AVC

ATCmin
M

AVCmin

AFC
0 Q

Hình 5.4. Các đường chi phí bình quân trong ngắn hạn
5.2.3.3 . Chi phí cận biên
Chi phí cận biên (MC) là tổng chi phí tăng thêm để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Ta
có công thức xác định như sau:
Thay đổi của tổng chi phí
Chi phí cận biên =
Thay đổi của tổng sản lượng

MC = TC/Q = (TC)’Q .

Đặc biệt khi Q =1 thì MC = TC

Nói chung chi phí cận biên có dạng hình chữ U, song trong một số trường hợp nhất định nó
cũng có thể có hình dạng bậc thang hoặc liên tục tăng dần, chẳng hạn khi cần nhanh chóng tăng
sản lượng hãng phải huy động vào sản xuất cả những máy móc, thiết bị kém hoàn hảo, kỹ thuật
lạc hậu khi ấy chi phí sản xuất sẽ cao.
Tuy nhiên chúng ta thấy rằng để sản xuất thêm một sản phẩm hãng sẽ chỉ phải bỏ thêm các
khoản chi phí biến đổi còn chi phí cố định vẫn không thay đổi. Nghĩa là chi phí cận biên (MC)
không phụ thuộc vào chi phí cố định (FC). Hay nói cách khác chi phí cận biên biểu thị mức thay
đổi của tổng chi phí biến đổi VC khi sản xuất thêm 1 đơn vị sản phẩm.

Thay đổi của chi phí biến đổi


Chi phí cận biên =
Thay đổi của tổng sản lượng

77
MC = VC/Q= (VC)’Q .

Mối quan hệ giữa chi phí cận biên và chi phí bình quân, dễ thấy cũng tương tự như quan
hệ giữa năng suất cận biên và năng suất bình quân. Chừng nào chi phí cận biên thấp hơn tổng chi
phí bình quân thì nó kéo chi phí bình quân xuống, khi chi phí cận biên vừa bằng chi phí bình
quân thì chi phí bình quân không tăng, không giảm và ở vào điểm tối thiểu. Ngược lại khi chi phí
cận biên cao hơn chi phí bình quân thì tất yếu nó sẽ đẩy chi phí bình quân lên.

$
ATC
MC
AVC

MC = ATC
AFC M

MC = AVC
N

Q1 Q2
Hình 5.5. Mối quan hệ giữa các đường ATC, AVC và MC

Mối quan hệ giữa chi phí cận biên và chi phí bình quân cũng tương tự như năng suất cận
biên và năng suất bình quân. Khi chi phí cận biên thấp hơn tổng chi phí bình quân thì nó kéo chi
phí bình quân xuống, khi chi phí cận biên vừa bằng chi phí bình quân thì chi phí bình quân
không tăng, không giảm và ở vào điểm tối thiểu. Ngược lại khi chi phí cận biên cao hơn chi phí
bình quân thì nó sẽ đẩy chi phí bình quân lên.

Nếu MC < ATC thì kéo ATC xuống

Nếu MC > ATC thì đẩy ATC lên

Nếu MC = ATC thì ATC đạt nhỏ nhất

Đường chi phí cận biên cắt ATC và AVC tại điểm ATCmin và AVCmin.

78
Chứng minh:
ATCmin khi (ATC)’Q = 0
 (TC/Q)’Q = 0

(𝑇𝐶)′ 𝑄 ∗𝑄−𝑇𝐶∗𝑄 ′ 𝑄
 𝑄2
=0

𝑇𝐶
 𝑀𝐶 − 𝑄
=0

 MC = ATC

Vậy, MC cắt ATC tại điểm ATCmin

∆𝑉𝐶 𝑤∗∆𝐿 𝑤 𝑤
Ta có: 𝑀𝐶 = = = ∆𝑄/∆𝐿 = 𝑀𝑃
∆𝑄 ∆𝑄 𝐿

𝑉𝐶 𝑤𝐿 𝑤
𝐴𝑉𝐶 = = =
𝑄 𝑄 𝐴𝑃𝐿

MC = AVC  MPL = APL


Phần trước ta đã chứng minh được MPL = APL tại điểm APL max, mà AVC = w/APL nên AP

5.3. LỢI NHUẬN

5.3.1. Khái niệm và công thức tính

Lợi nhuận là chênh lệch giữa tổng doanh thu (TR) và tổng chi phí sản xuất (TC) trong một
khoảng thời gian xác định.
Có 2 công thức chính để tính lợi nhuận như sau: Tổng lợi nhuận chính là hiệu số giữa tổng
doanh thu từ việc bán sản phẩm và tổng chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Hoặc chúng ta cũng có thể tính lợi nhuận bằng cách xác định lợi nhuận của một đơn vị sản
phẩm và nhân số đó với sản lượng: Tổng lợi nhuận = lợi nhuận đơn vị x lượng bán
Trong đó: Lợi nhuận đơn vị = giá bán - tổng chi phí bình quân
ở đây tổng chi phí bình quân của đơn vị sản phẩm sẽ bằng tổng chi phí chia cho sản lượng
sản xuất ra.

79
Viết ở dạng biểu thức toán học thì (Q) = TR(Q) - TC(Q) hay  = Q  (P - ATC) (với
các ký hiệu  là lợi nhuận, TR là tổng doanh thu, TC là tổng chi phí, Q là số lượng hàng hóa, P
là giá, ATC là tổng chi phí bình quân cho một đơn vị sản phẩm). Công thức thứ hai cho thấy
tổng lợi nhuận của hãng phụ thuộc không chỉ lợi nhuận bình quân mà còn phụ thuộc lượng bán.
Vì vậy khi hãng đạt lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm cao nhất thì chưa chắc tổng lợi nhuận tối
đa.
Cần phân biệt lợi nhuận và thặng dư sản xuất (PS)
Thặng dư sản xuất = Tổng doanh thu - Tổng chi phí biến đổi
PS(Q) = TR(Q) - VC(Q)
Vì vậy Lợi nhuận = Thặng dư sản xuất - Tổng chi phí cố định

Hay (Q) = PS(Q) – FC

5.3.2. Lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận tính toán

Lợi nhuận kinh tế được định nghĩa là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí kinh
tế, còn lợi nhuận tính toán là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí tính toán. Vì chi
phí kinh tế thường lớn hơn chi phí tính toán do đó lợi nhuận kinh tế thường nhỏ hơn lợi nhuận tính
toán nhưng lợi nhuận kinh tế phản ánh lại chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của hãng.

5.3.3. Nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận

Để xác định mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận cần so sánh giữa MR và MC trong đó doanh
thu cận biên - (MR) là mức thay đổi của tổng doanh thu (TR) do tiêu thụ thêm một đơn vị sản
phẩm (Q).

TR
MR 
Q

Hoặc

MR  (TR)' Q

80
Chi phí cận biên (MC) là mức thay đổi của tổng chi phí (TC) khi sản xuất thêm một đơn vị
sản phẩm (Q)

TC
MC  hoặc MC  ( TC )' Q
Q

Hành vi tối đa hoá lợi nhuận của hãng theo nguyên tắc sau:

Nếu MR > MC thì phần doanh thu thu được khi bán được thêm sản phẩm sẽ lớn hơn phần chi
phí để sản xuất ra sản phẩm đó nên doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuân.

Nếu MR < MC thì việc doanh nghiệp giảm Q sẽ làm giảm chi phí nên làm tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp.

MR = MC thì doanh nghiệp đạt được mức sản lượng tối ưu (Q*) để và lợi nhuận lớn nhất (max).

 Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận:

 (Q)  max với  (Q) = TR(Q) - TC(Q)


Để tối đa hoá lợi nhuận, các điều kiện sau đây phải được thoả mãn:
d  /dQ = dTR/dQ - dTC/dQ = 0
 MR - MC = 0
 MR = MC

Đây chính là nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận theo phương pháp phân tích cận biên đã được
nhắc đến ở bài 1. Vậy nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận là doanh nghiệp sản xuất tại một mức sản
lượng tại đó doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên.

81
TÓM TẮT

Sản xuất là việc sử dụng các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau, gọi là các đầu vào hoặc
các yếu tố sản xuất, để tạo ra hàng hoá dịch vụ mới, gọi là đầu ra (hay sản lượng).
Hãng hay doanh nghiệp được hiểu là tổ chức kinh tế sử dụng các yếu tố sản xuất (đầu
vào) sản xuất ra các hàng hoá, dịch vụ (đầu ra) để bán nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận.
Trong thực tế, các hãng có hình thức và quy mô khác nhau nhưng được giả định có mục tiêu
chung là tối đa hoá lợi nhuận.
Trong lý thuyết sản xuất và chi phí người ta sử dụng hai khái niệm: ngắn hạn (SR) và dài
hạn (LR). Ngắn hạn là khoảng thời gian trong đó có ít nhất một đầu vào cố định. Dài hạn được
định nghĩa là khoảng thời gian trong đó hãng có thể thay đổi tất cả các đầu vào sử dụng trong
quá trình sản xuất.
Sản phẩm bình quân (AP) hay năng suất bình quân của lao động là APL = Q/L. Đối với tư
bản, sản phẩm bình quân là APK = Q/K.
Năng suất cận biên của 1 đầu vào biến đổi phản ánh số sản phẩm tăng thêm khi hãng tăng
thêm 1 đơn vị đầu vào biến đổi đó trong quá trình sản xuât.
Quy luật năng suất cận biên giảm dần cho rằng sản phẩm cận biên của bất cứ yếu tố sản
xuất nào sẽ bắt đầu giảm xuống tại một điểm nào đó khi mà càng có nhiều yếu tố đó được sử
dụng trong quá trình sản xuất đã có (với điều kiện giữ nguyên mức sử dụng các đầu vào cố định
khác) hay nói cách khác mỗi một đơn vị đầu vào biến đổi tăng thêm được sử dụng trong quá
trình sản xuất sẽ đem lại lượng sản phẩm bổ sung (sản phẩm cận biên) ít hơn đơn vị đầu vào
trước đó.
Chi phí về tài nguyên (hay là chi phí bằng hiện vật), chi phí kinh tế và chi phí tính
toán, chi phí cơ hội...là những khái niệm khác nhau và giúp phân biệt 2 khái niệm lợi nhuận
kinh tế và lợi nhuận tính toán hay còn gọi là lợi nhuận kế toán. Lợi nhuận kinh tế được định
nghĩa là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí kinh tế, còn lợi nhuận tính toán là
phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí tính toán.
Các chi phí ngắn hạn bao gồm Tổng chi phí - Chi phí cố định - Chi phí biến đổi và các
chi phí bình quân như chi phí cố định bình quân AFC = FC/Q. Chi phí biến đổi bình quân

82
AVC = VC/Q. Chi phí bình quân ATC= TC/Q. Chi phí bình quân có thể tính bằng tổng của
chi phí biến đổi bình quân và chi phí cố định bình quân ATC = AFC + AVC.
Lợi nhuận là chênh lệch giữa tổng doanh thu (TR) và tổng chi phí (TC) trong một khoảng
thời gian xác định. Tổng lợi nhuận = lợi nhuận đơn vị x lượng bán, Trong đó Lợi nhuận đơn vị
= giá bán - tổng chi phí bình quân
Quy tắc chung để hãng tối đa hoá lợi nhuận là tăng sản lượng khi nào doanh thu cận biên còn
vượt quá chi phí cận biên cho đến khi doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên thì dừng lại, khi MR
= MC hãng đạt mức sản lượng tối ưu (Q*) để tối đa hoá lợi nhuận (max).

83
CHƯƠNG 6. CÁC CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG
Nội dung
Ở chương 4 chúng ta đã học về hành vi người tiêu dùng với vai trò là người mua và chương 5
nghiên cứu về hành vi người sản xuất với vai trò là người bán. Người mua và người bán gặp
nhau trên thị trường nhưng thị trường lại có các hình thức, cấu trúc khác nhau và hai lực lượng
chính của thị trường sẽ có những hành vi thích ứng tương thích với từng cấu trúc thị trường. Sự
trao đổi diễn ra trên thị trường là hoạt động trao đổi tự nguyên, các thành viên tham gia đều
muốn tối đa hóa lợi ích của mình – người bán muốn tối đa hóa lợi nhuận còn người mua muốn
tối đa hóa sự thỏa mãn (lợi ích). Trong chương 6 chúng ta sẽ đi vào xem xét và phân tích các cấu
trúc thị trường với hai loại cấu trúc điển hình là cạnh tranh và độc quyền.
Mục tiêu:
 Giúp học viên nắm được các đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đặt điểm
của hãng cạnh tranh hoàn hảo, quyết định sản xuất tối ưu và các điểm hòa vốn,
điểm đóng cửa của hãng cạnh tranh hoàn hảo.

 Giúp học viên hiểu được nguồn gốc của thị trường độc quyền, quyết định sản xuất
của nhà độc quyền, khoản mất không xã hội, các hình thức phân biệt giá

 Đặc điểm, quyết định sản xuất của hãng cạnh tranh độc quyền trong ngắn và dài hạn

 Mô hình đường cầu gẫy khúc , đặc điểm giá cứng nhắc trong thị trường độc quyền
tập đoàn.

Tình huống dẫn nhập


6.1 Các loại thị trường
Cấu trúc thị trường là thuật ngữ để phản ánh hành vi tương tác giữa người mua và người bán
trong các thị trường khác nhau. Các loại cấu trúc thị trường:

Cạnh tranh Cạnh tranh Độc quyền


hoàn hảo độc quyền tập đoàn Độc quyền

84
Tiêu thức phân loại cấu trúc thị trường:

Cạnh tranh Cạnh tranh Độc quyền


Tiêu thức Độc quyền
hoàn hảo độc quyền tập đoàn

Số lượng Vô số người Nhiều người Một vài người Một người


người bán bán (người bán (người bán (người bán (người
mua) mua) mua) mua)

sản phẩm Đồng nhất Khác nhau Tiêu chuẩn


Duy nhất
(tiêu chuẩn) khác nhau

Sức mạnh thị Hãng chấp Mức độ kiểm Mức độc kiểm
Hãng quyết
trường nhận giá thị soát giá thấp soát giá cao
định giá
trường

Các trở ngại Không có trở Trở ngại nhỏ Trở ngại lớn
Trở ngại rất
khi gia nhập ngại khi gia khi gia nhập
lớn
thị trường nhập

Hình thức Không có Quảng cáo Quảng cáo và


cạnh tranh phân biệt sản phân biệt sản Quảng cáo
phi giá phẩm phẩm

Ví dụ Nông sản: lúa, Bột giặt, nước Ôtô, luyện Điện,nước,
trứng gà rửa bát, dầu kim, chế tạo dịch vụ xã
gội đầu hội

6.2. Cạnh tranh hoàn hảo


6.2.1 Đặc điểm thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Một thị trường được coi là cạnh tranh hoàn hảo khi nó thoả mãn các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, có vô số người mua và người bán trên thị trường. Sản lượng của họ là tương đối
nhỏ so với lượng cung trên thị trường. Chính vì vậy mà họ không thể tác động tới giá của thị
trường được. Nói một cách khác họ không có sức mạnh thị trường. Tham gia vào thị trường này
các hãng sản xuất là người "chấp nhận giá" sẵn có trên thị trường. Mỗi hãng đều có thể bán toàn
bộ sản lượng của mình ở mức giá "chấp nhận" đó. Hay nói một cách khác đường cầu đối với
hãng là một đường nằm ngang.

85
Thứ hai, sản phẩm đồng nhất và người tiêu dùng có đầy đủ thông tin về sản phẩm: Trong thị
trường cạnh tranh hoàn hảo sản phẩm của các hãng phải giống nhau để đảm bảo cho việc người
mua không cần quan tâm đến việc họ sẽ mua của ai. Thí dụ các sản phẩm như gạo, ngô, trứng,
cửa hàng bán đĩa DVD có thể ghi được v.v... đều giống nhau và mỗi người bán đều phải bán theo
giá thị trường và không thể định giá riêng cho sản phẩm của mình được.
Thứ ba, thông tin trên thị trường hoàn hảo, tức là mọi hành vi của người mua và người bán
đều được phản ánh đầy đủ trên trên thị trường. Như vậy, mọi thông tin về sản phẩm, giá cả đều
được người mua biết rõ.
Thứ tư, việc xâm nhập và rút khỏi thị trường là tự do: Lợi nhuận kinh tế là động lực, sức hút
mạnh mẽ đối với những ai muốn gia nhập thị trường. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo không
có trở ngại đáng kể đối với việc này. Thí dụ để sản xuất ra lúa ngô, trứng, lượng đầu tư bỏ ra rất
ít so với việc mở ra các nhà máy sản xuất ô tô, luyện kim... Khi càng nhiều nhà sản xuất tham gia
vào thị trường, lợi nhuận kinh tế sẽ giảm xuống và tiến dần đến số không và các nhà sản xuất lại
có xu hướng rút khỏi thị trường này. Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo việc xâm nhập và
rút khỏi thị trường là tự do.
6.2.2 Đặc điểm của hãng cạnh tranh hoàn hảo.
Thứ nhất, hãng cạnh tranh hoàn hảo là người chấp nhận giá thị trường do nó bán một mức
sản lượng rất nhỏ so với toàn bộ sản lượng thị trường. Hay hãng cạnh tranh hoàn hảo không có
sức mạnh thị trường
Thứ hai, hãng cạnh tranh hoàn hảo có thể bán tất cả sản lượng của mình ở mức giá thị
trường, nếu hãng đặt giá cao hơn sẽ không bán được sản phẩm vì người tiêu dùng sẽ mua của
người khác. Như vậy, hãng canh tranh hoàn hảo hoàn toàn không có sức mạnh thị trường, tức là
không có khả năng kiểm soát giá thị trường đối với sản phẩm mình bán.

P P

P d
P
D

Q q

Hình 6.1. Đường cầu của hãng cạnh tranh hoàn hảo và đường cầu của thị trường
Doanh thu cận biên bằng giá: MR = P
MR = TR’(q) = (P*q)’ = P.

86
Trên đồ thị đường biểu diễn doanh thu cận biên của hãng chính là đường cầu d.
+ Đường cầu của hãng nằm ngang tại P*
Ví dụ khi giá xăng tăng lên thì nhu cầu đi lại sẽ giảm xuống làm cho lượng cầu về xăng giảm
xuống. Cân bằng thị trường đạt được tại điểm có cung = cầu. Giá cân bằng của thị trường chính
là giá mà hãng cạnh tranh hoàn hảo chấp nhận cung sản phẩm. Đường cầu đối với sản phẩm của
hàng là đường nằm ngang tại mức giá cân bằng đó.
Như vậy ta biết được thế nào là thị trường cạnh tranh hoàn hảo – một thị trường mang tính cơ
sở lý thuyết, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là người chấp nhận giá nên có đường cầu nằm
ngang. Tuy nhiên đường cầu thị trường vẫn là đường dốc xuống
6.2.3. Quyết định sản xuất trong ngắn hạn của hãng cạnh tranh hoàn hảo
Mục đích ngắn hạn của một nhà sản xuất là xác định được sản lượng mang lại lợi nhuận tối
đa. Quyết định sản xuất của một hãng là sự lựa chọn mức sản lượng ngắn hạn (với nhà máy và
thiết bị sẵn có). Như ta đã biết mọi hãng sản xuất đều tìm kiếm mức sản lượng tại đó doanh thu
cận biên bằng chi phí cận biên (MR=MC).
Doanh thu cận biên là sự thay đổi của tổng doanh thu khi bán thêm một sản phẩm. Một
hãng cạnh tranh hoàn hảo có thể bán hết sản phẩm tại mức giá hiện hành quy tắc lựa chọn sản
phẩm mang lại lợi nhuận tối đa với hãng cạnh tranh hoàn hảo là:

Chi phí cận biên = giá bán

(MC = P)
MC
P
ATC
AVC
A
P* d, MR

ATC* B

q* q

Hình 6.2 quyết định sản xuất của hãng cạnh tranh hoàn hảo

87
6.2.3.1 Trường hợp giá lớn hơn tổng chi phí bình quân (P>ATC).
Hãng sẽ quyết định mức sản lượng tối ưu đảm bảo điều kiện giá bằng chi phí cận biên và
thu được lợi nhuận kinh tế lớn hơn 0 như thể hiện trong hình 6.3. Lợi nhuận của doanh nghiệp là
phần hình chữ nhật bôi đậm.

• Tối đa hoá lợi nhuận khi


Giá P=MR = MC

14 • ATC = TC/Q
13
• TC = ATC  Q
12
11 • TR = P  Q
10 MC
•  = (P - ATC) Q
9
8
7 ATC

6 d
5
P = MR = AR
4
3
2
1

0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Sản lượng

Hình 6.3 : Hãng cạnh tranh hoàn hảo có lợi nhuận kinh tế dương
6.2.3.2. Điểm hoà vốn của hãng
Điểm hoà vốn là điểm có tổng doanh thu bằng tổng chi phí. Ở điểm hoà vốn hãng không có
lợi nhuận kinh tế (lợi nhuận kinh tế bằng 0). Trong ngắn hạn, điểm hoà vốn của hãng là điểm giá
bằng tổng chi phí bình quân nhỏ nhất (P = ATCmin) như hình dưới và B gọi là điểm hòa vốn

88
Giá
14
13 • Hoà vốn khi
12
P=MR = MC=ATCmin
11
10
MC
•  = (P - ATC) Q=0
9
8
ATC
7
6 AVC
B
5
P = MR = AR=d
4
3
2
1

0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Sản lượng

Hình 6.4 : Hãng cạnh tranh hoàn hảo hòa vốn


6.2.3.3. Nếu giá nằm trong khoảng tổng chi phí bình quân và chi phí biến đổi bình quân
(AVC ≤ P ≤ ATC)
Tuy nhiên, trong ngắn hạn không phải lúc nào hãng cũng có lãi. Khi chí phí cố định của
hãng quá cao làm cho tổng chi phí bình quân tăng nhanh nhưng chi phí biến đổi bình quân và chi
phí cận biên vẫn giữ nguyên. Ở mức sản lượng tối ưu q*, giá thấp hơn tổng chi phí bình quân và
như vậy hãng bị lỗ phần hình chữ nhật bôi đậm trong hình 6.5 và hãng sẽ phải lựa chọn phương
án nào trong ngắn hạn: sản xuất hoặc đóng cửa?
Chúng ta thấy nếu hãng đóng cửa sản xuất sẽ mất toàn bộ chi phí cố định đã bỏ ra. Nếu
doanh nghiệp tiếp tục sản xuất sẽ bị mất ít hơn là đóng cửa sản xuất. Như vậy, chi phí cố định
không liên quan đến quyết định sản lượng của hãng trong ngắn hạn nhưng lại là yếu tố quyết
định đối với việc xem xét có nên rời bỏ ngành trong dài hạn hay không.

89
Giá 14
13
12
11 • Lỗ vốn nhỏ nhất khi
10 MC
P=MR = MC
9
8 • Lỗ = ($3 - 4)  6 = $6
7
6 ATC
5
4 AVC d
3
2
P=MR=AR
1

0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Lượng

Hình 6.5 : Hãng cạnh tranh hoàn hảo bị lỗ nhưng vẫn sản xuất
6.2.3.4. Điểm đóng cửa sản xuất của hãng
Trong kinh doanh không phải thua lỗ là đóng cửa, nhưng đã đến điểm (hoặc ngưỡng) đóng
cửa thì cần phải đóng cửa ngay. Điểm đóng cửa là giá nhỏ hơn hoặc bằng chi phí biến đổi bình
quân nhỏ nhất (PAVCmin). Xác định mức giá ở điểm đóng cửa thực chất là xác định chi phí biến
đổi bình quân nhỏ nhất. Điều kiện này cũng có nghĩa là tổng doanh thu nhỏ hơn hoặc bằng chi
phí biến đổi. Điều này được thể hiện trên hình dưới với S được goi là điểm đóng cửa.
Trên phương diện toán học ta có Π=TR-VC-FC, nếu TR≤VC thì sản xuất sẽ bị lỗ lớn hơn
hoặc bằng chi phí cố định đã bỏ ra (Π≤-FC), do đó hãng nên đóng cửa sản xuất (Q=0).

90
14 Giá
13
12
11 • Đóng cửa sản xuất khi
10
MC P = MR = MC ≤ AVCmin
9
8 •  = (P - ATC).Q ≤ 0
7
ATC
6
5 AVC
4
S
3
d=P = MR = AR
2
1

0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Sản lượng

Hình 6.6 Điểm đóng cửa của hãng


6.2.4. Đường cung ngắn hạn của hãng canh tranh hoàn hảo
Như chúng ta biết rằng, lợi nhuận có sức cám dỗ mãnh liệt đối với các doanh nghiệp. Tùy
thuộc vào mức độ kiếm được lợi nhuận lớn hay nhỏ thì các hãng sẽ cung cấp nhiều hay ít ra thị
trường. Đường cung của một hãng cho chúng ta biết hãng phải sản xuất sản lượng đầu ra là bao
nhiêu tại mọi mức giá có thể có. Chúng ta cũng đã biết rằng các hãng phải tăng sản lượng đến
một điểm mà ở đó giá bằng chi phí cận biên và sẽ đóng cửa sản xuất nếu giá nhỏ hơn chi phí
biến đổi bình quân

91
(a) (b) l (c)
Giá Giá Giá
S = ΣMC

MC A
MC B

G
P2 P2 P2

F
P1 P1 P1

q A1 q A2 q B1 q B2 ( q A1 + q B1 ) (q A2 + q B2 )

Sản lượng Sản lượng Sản lượng

Hình 6.7 Đường cung ngắn hạn của hãng và của thị trường
Đường cung của hãng cạnh tranh hoàn hảo chính là đường chi phí cận biên (MC) phần
nằm trên điểm đóng cửa, hoặc với mọi giá trị của giá lớn hơn chi phí biến đổi bình quân nhỏ nhất
(PS = MC với P > AVCmin). Còn đường cung thị trường cạnh tranh hoàn hảo là tổng hợp các
đường cung cá nhân của từng hãng theo chiều ngang như hình trên thể hiện cung thị trường với
giả định có hai hãng chấp nhận giá.
Đường cung ngắn hạn của các hãng cạnh tranh hoàn hảo dốc lên do quy luật năng suất cận
biên giảm dần đối với một hoặc nhiều yếu tố sản xuất. Giá thị trường tăng sẽ làm cho các hãng
trong ngành tăng sản lượng.
6.2.5. Thặng dư sản xuất trong ngắn hạn (PS)
Khái niệm thặng dư sản xuất (PS) minh họa lợi ích của người sản xuất từ việc bán sản
phẩm của họ trên thị trường. Thặng dư sản xuất là hiệu số giữa giá bán sản phẩm và mức giá tối
thiểu để người sản xuất đồng ý bán sản phẩm. Giá bán sản phẩm do thị trường xác định còn giá
tối thiểu để người sản xuất đồng ý bán là chi phí cận biên để sản xuất ra sản phẩm đó. Đối với
hãng cạnh tranh hoàn hảo vì đường chi phí cận biên là đường cung của hãng do đó có thể biểu
diễn thặng dư sản xuất là diện tích phần nằm dưới đường giá và trên đường chi phí cận biên
(đường cung). Tổng cộng chi phí cận biên để sản xuất ra mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận (q*)
chính là chi phí biên đổi của hãng cho mức sản lượng đó. Như vậy, chúng ta có thể tính toán
thặng dư sản xuất bằng hiệu số giữa doanh thu của hãng và chi phí biến đổi của nó (biểu diễn
bằng toán học là PS = TR – VC).

92
P
MC=S
PS

P* P=MR

q* q

Hình 6.8 Thặng dư sản xuất


Hình vẽ minh họa thặng dư sản xuất của một hãng cạnh tranh hoàn hảo. Thặng dư sản xuất
của các hãng tùy thuộc vào các chi phí sản xuất của chúng. Những hãng có chi phí cao hơn sẽ có
thặng dư sản xuất thấp hơn và ngược lại. Trong ngắn hạn, thặng dư sản xuất lớn hơn lợi nhuận
kinh tế một phần là chi phí cố định và do đó thặng dư sản xuất càng lớn đồng nghĩa với lợi nhuận
kinh tế càng cao.

6.3 ĐỘC QUYỀN BÁN


6.3.1 Đặc điểm của độc quyền
Độc quyền bán là một thái cực hoàn toàn khác hẳn với cạnh tranh hoàn hảo. Nếu trong
điều kiện cạnh tranh hoàn hảo có vô số các hãng sản xuất thì trong điều kiện độc quyền chỉ có
một hãng duy nhất sản xuất một loại sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể nào đó.
Trong thị trường độc quyền, sản phẩm là độc nhất và không có hàng hóa thay thế gần gũi.
Ví dụ, điện thoại là sản phẩm độc quyền có chức năng truyền đạt thông tin, điện dùng để thắp
sáng và xem vô tuyến… Tham gia vào thị trường độc quyền rất khó khăn vì các cản trở đối với
việc xâm nhập hoặc rút khỏi thị trường là rất lớn.
Cũng giống như cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền là một tình huống ít gặp trong thực tế.
Tuy nhiên việc nghiên cứu nó là rất cần thiết để tiến tới nghiên cứu thực tế của nền kinh tế.
6.3.2 Nguyên nhân dẫn đến độc quyền
Bằng sáng chế (bản quyền): Một hãng có thể đạt được vị trí độc quyền nhờ có được bản
quyền đối với sản phẩm hoặc qui trình công nghệ nhất định. Ví dụ ở Mỹ luật về bảo hộ bản
quyền cho phép nhà phát minh có quyền sử dụng độc quyền sáng chế của mình trong 17 năm.
Như vậy không một ai có quyền được sử dụng sáng chế đó. Luật này đã khuyến khích việc phát
minh sáng chế để đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Kiểm soát các yếu tố đầu vào: Một hãng có thể trở thành độc quyền khi nó kiểm soát được toàn
bộ nguồn cung cấp các nguyên liệu để chế tạo ra một loại sản phẩm nào đó. Ví dụ Công ty Niken của

93
Canađa kiểm soát 9/10 sản lượng Niken trên thế giới và nó có sức mạnh ghê gớm trong việc sản xuất
các sản phẩm từ niken
Quy định của chính phủ: Một hãng có thể trở thành độc quyền nhờ các qui định của chính
phủ. Chính phủ có thể uỷ thác cho một hãng nào đó quyền được bán hoặc cung cấp những loại
sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định.
Độc quyền tự nhiên: Một số ngành sản xuất có tính kinh tế của quy mô. Điều đó có nghĩa là
khi quy mô (sản lượng) tăng lên thì chi phí bình quân sẽ giảm xuống. Tính kinh tế của quy mô
cho phép một hãng lớn có lợi thế hơn các hãng nhỏ. Và do vậy, tính kinh tế của quy mô sẽ là
“một hàng rào tự nhiên” đối với việc xâm nhập thị trường. Thí dụ dịch vụ công cộng thường
mang tính chất độc quyền như dịch vụ điện thoại, điện tín, sản xuất và phân phối điện.
6.3.3 Đường cầu và đường doanh thu cận biện của độc quyền
Sự xuất hiện độc quyền đã xoá sạch sự khác biệt giữa đường cầu thị trường và đường cầu
của nhà độc quyền. Trong độc quyền chỉ có một hãng sản xuất duy nhất do đó đường cầu thị
trường chính là đường cầu của hãng độc quyền. Chúng là những đường nghiêng xuống về phía
bên phải quen thuộc khác hẳn với đường cầu nằm ngang trong cạnh tranh hoàn hảo.
Ta nhận thấy rằng trong điều kiện độc quyền để bán được số lượng hàng nhiều hơn thì giá
bán sẽ giảm xuống theo quy luật cầu. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự thay đổi của doanh
thu cận biên. Doanh thu cận biên thể hiện sự thay đổi của tổng doanh thu do lượng bán tăng thêm
một đơn vị.
Vì lượng hàng được bán thêm chỉ khi giá hạ nên doanh thu cận biên luôn nhỏ hơn giá bán
ở mọi sản lượng như ta thấy rõ trên đồ thị 6.9. Ta thấy rằng đường doanh thu cận biên nằm dưới
đường cầu (giá bán) ở mọi điểm trừ điểm đầu tiên. Ngoài ra, chúng ta cần lưu ý rằng khác với giá
bán, doanh thu cận biên có thể có giá trị lớn hơn không, nhỏ hơn không hoặc bằng không

13
Giá
12
(triệu
đồng) 11

10

D
6

4 MR
Sản lượng

3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

2
94
1
Hình 6.9. Đường cầu và đường doanh thu cận biên của độc quyền bán
Chứng minh:
Đường cầu (D): P = aQ + b (a< 0)
AR = TR/Q = P*Q/Q = P
=> Đường AR chính là đường cầu
TR = P*Q = (aQ + b)*Q = aQ2 + bQ
MR = 2aQ + b
Do a < 0 => MR < P và độ dốc của đường MR là 2a gấp đôi độ dốc của đường cầu là a
6.3.4. Quyết định sản xuất của nhà độc quyền
Quyết định sản xuất
Một doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận phải sản xuất mức sản lượng sao cho doanh thu cận
biên bằng chi phí cận biên. Lời giải này cũng được áp dụng cho bài toán sản lượng của nhà độc
quyền bán. ở hình 8.2, đường cầu thị trường D là đường doanh thu bình quân của doanh nghiệp.
Đường doanh thu cận biên và các đường chi phí bình quân và cận biên cũng đã được biểu thị
trong hình 6.10. Doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên ở sản lượng Q*. Từ đường cầu ta tìm
ra giá tương ứng P* của mức sản lượng Q* này.
P

MC

P1 A
P* 
P2

D
Q
Q1 Q* Q2 MR

Hình 6.10. Tối đa hoá lợi nhuận của nhà độc quyền bán
Làm thế nào để biết được Q* là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận? Giả sử sản lượng nhỏ hơn,
Q1 chẳng hạn, lúc đó giá tương ứng sẽ là P1. Như biểu thị trên hình, doanh thu cận biên (MR) cao
hơn chi phí cận biên (MC). Nếu nhà độc quyền bán sản lượng nhiều hơn Q1 một ít thì sẽ thu
thêm được lợi nhuận bổ sung (MR - MC) và nhờ đó tổng lợi nhuận tăng. Nhà độc quyền bán có

95
thể tăng sản lượng để tăng tổng lợi nhuận cho đến tận sản lượng Q*, ở đó lợi nhuận bổ sung từ
việc sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm bằng không. Như vậy sản lượng nhỏ hơn (Q1) không
phải là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận, ngay cả khi sản lượng đó cho phép nhà độc quyền bán đặt
giá cao hơn. Nếu sản xuất mức sản lượng Q1 tổng lợi nhuận của nhà độc quyền bán sẽ nhỏ hơn
mức cực đại một khoản bằng phần gạch chéo dưới đường MR và trên đường MC, giữa Q1 và Q2.
Tương tự, sản lượng lớn hơn, Q2 chẳng hạn, cũng không phải là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận, ở
sản lượng Q2 này chi phí cận biên MC cao hơn doanh thu cận biên MR, do đó nếu nhà độc quyền
bán sản xuất ít đi một ít thì lợi nhuận thu được sẽ tăng thêm (MC - MR). Nhà độc quyền có thể
làm cho lợi nhuận tăng thêm nữa bằng việc giảm bớt một phần sản lượng phía sau Q*. Phần lợi
nhuận tăng thêm do sản xuất Q* chứ không phải Q2 là phần diện tích gạch chéo nằm dưới đường
MC và trên đường MR, giữa Q* và Q2.
Quyết định sản xuất tối đa hóa lợi nhuận còn được thể hiện ở hình vẽ 6.11

H MC

P* M ATC
PA A
PC C
MCQ* B

D AR
G
O Q* QA Q
MR

Hình 6.11. Quyết định sản xuất của hãng độc quyền bán
Mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận theo nguyên tắc trên là Q* và mức giá mà nhà độc
quyền đặt tương ứng sẽ là P*. Tại đó mức lợi nhuận tối đa đạt được là phần diện tích P*MCPC.
Quy tắc đơn giản về định giá
Với giả định tối đa hoá lợi nhuận trong mô hình tân cổ điển về hành vi hãng thì chúng ta
thấy mọi hãng đều lựa chọn sản lượng của mình theo nguyên tắc doanh thu cận biên cân bằng
với chi phí cận biên:
MR = MC (6.1)
Ta có doanh thu cận biên được xác định:

96
dTR
MR  Trong đó: TR = P.Q
dQ
d ( P.Q) dP
Do đó: MR   .Q  P .1
dQ dQ
dP Q
 MR  P(1  . )
dQ P
1
 MR  P (1  ) (6.2)
E DP
Từ (6.1) và (6.2) chúng ta có công thức xác định giá của hãng độc quyền bán như sau:
1
P (1  )  MC
E DP
MC
P
1
(1  )
E DP (8.3)
 E DP 
 MC . 

 E DP  1 

Sức mạnh độc quyền


Sự khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo và doanh nghiệp độc quyền
bán là doanh nghiệp độc quyền độc quyền bán có sức mạnh thị trường. Doanh nghiệp cạnh tranh
hoàn hảo phải đặt giá bằng chi phí cận biên còn doanh nghiệp độc quyền bán đặt giá cao hơn chi
phí cận biên. Độc quyền bán đặt giá cao hơn chi phí cận biên. Vì thế sức mạnh độc quyền bán
được đo bằng chỉ số Lerner, gọi là mức độ của sức mạnh độc quyền (do Abba Lerner đưa ra năm
1934).
P  MC
L= 0 L1
P
Chênh lệch giữa giá và chi phí cận biên càng lớn (L càng gần đến cận 1) phản ánh sức
mạnh thị trường của hãng càng lớn. Nhưng điều gì quyết định sức mạnh này của hãng? Quy mô
của hãng? Chi phí sản xuất? Hay yếu tố nào khác?
Kết hợp (8.1) và (8.3) ta có:
MC
 MC
1
(1  )
E DP
L
MC
1
(1  )
E DP

97
1
L (8.4)
E DP
Như vậy yếu tố quyết định đến sức mạnh thị trường của hãng độc quyền chính là hệ số co
giãn của cầu theo giá hay chính là phản ứng của người mua đối với sự thay đổi giá. Khi người
mua phản ứng yếu (ví dụ: không có hàng hoá thay thế) thì sức mạnh của hãng là lớn và ngược
lại.
Mất không từ sức mạnh độc quyền
Vì sức mạnh độc quyền tạo ra giá cao hơn và sản lượng thấp hơn so với cạnh tranh hoàn
hảo nên ta dễ thấy người tiêu dùng bị thiệt hại còn người sản xuất thì được lợi. Nhưng nếu coi
phúc lợi của người tiêu dùng và của người sản xuất như nhau thì cả người tiêu dùng và người sản
xuất tính thành một tổng thể sẽ không được lợi bằng trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Có thể
thấy điều này khi so sánh thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất được tạo ra trong ngành cạnh
tranh hoàn hảo và trong ngành độc quyền bán. Hình 6.12cho thấy nếu thị trường là cạnh tranh
hoàn hảo thì giá và sản lượng sẽ là Pc và Qc. Nếu thị trường là độc quyền bán thì giá và sản
lượng là Pm và Qm. Như vậy so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì thị trường độc quyền bán
tạo ra phúc lợi ít hơn do một phần thặng dư tiêu dùng (diện tích AEC) và thặng dư sản xuất (diện
tích BEC) bị mất do chi phí sản xuất ở mức sản lượng Qm. Phần phúc lợi bị mất gọi là mất
không.
P

Pm A MC

PC E C
 B

D
D

Qm QC Q

MR

Hình 6.12. Mất không từ sức mạnh độc quyền bán


Giả sử nhà độc quyền này quyết định như một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo, theo nguyên
tắc giá bằng chi phí cận biên (P = MC). Sản lượng và giá bán tương ứng sẽ là Qc và Pc. Như vậy có
thể dễ dàng nhận thấy rằng trong trường hợp thị trường độc quyền, người mua phải trả mức giá cao
hơn và được hưởng mức sản lượng thấp hơn so với trường hợp thị trường này là cạnh tranh hoàn
hảo. Điều này sẽ làm thay đổi lợi ích của các thành viên tham gia thị trường và phúc lợi xã hội.
Khi thị trường là cạnh tranh hoàn hảo, thặng dư tiêu dùng (CS) đạt được là phần diện tích

98
HCPc, thặng dư của người sản xuất (PS) là DCPc và như vậy phúc lợi xã hội ròng (NSB) là HDC.
Tuy nhiên, trong trường hợp độc quyền (không phân biệt giá) thặng dư tiêu dùng là HAPm, thặng
dư sản xuất là PmABD và phúc lợi xã hội ròng là HDBA. Điều đó có nghĩa là độc quyền tạo ra
phúc lợi xã hội thấp hơn so với trường hợp cạnh tranh hoàn hảo. Phần lợi ích xã hội bị mất đi ở
đây được gọi là tổn thất vô ích hay phần mất không mà nhà độc quyền gây ra cho xã hội (DWL).
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là vì trong độc quyền giá bán luôn cao hơn chi phí cận biên
(P > MC) thay vì P = MC như cạnh tranh hoàn hảo. Do đó tổng quát DWL được xác định như
sau:
QA

DWL   ( P  MC ).dQ (8.4)


Q*

Độc quyền bán không có đường cung.


Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo nhờ nguyên tắc P = MC, có mối quan hệ rõ rệt giữa
giá và sản lượng được cung ứng. Mối quan hệ ấy là đường cung, chính là chi phí cận biên phần
nằm trên điểm đóng cửa (P > AVC min). Đường cung cho biết sản lượng được sản xuất ở mọi
mức giá.
Trong độc quyền bán không có đường cung vì không có mối quan hệ 1:1 giữa giá và sản
lượng. Trong độc quyền bán, những thay đổi, dịch chuyển của cầu có thể dẫn tới những thay đổi
của giá mà sản lượng không thay đổi, hoặc những thay đổi trong sản lượng mà giá không thay
đổi, hoặc thay đổi trong cả giá và trong sản lượng (hình 6.13).

P P
MC
MC
P1 P1=P2 D2
P2

D2 D1
MR2
MR2 D1
MR1 MR1
O O
Q1=Q2 Q Q1 Q2 Q

Hình 6.13. Độc quyền bán không có đường cung

6.4 Cạnh tranh độc quyền


6.4.1 Những đặc điểm cơ bản
Cạnh tranh độc quyền là một thị trường trong đó có nhiều hãng sản xuất một loại hàng hoá
hoặc dịch vụ, nhưng mỗi hãng chỉ có khả năng kiểm soát một cách độc lập đối với giá cả của họ.
 Sản phẩm không đồng nhất mà được dị biệt hóa

99
 Nhiều người bán
 Sản phẩm có thể thay thế
 Việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường là rất dễ (rào cản thấp)
Ví dụ về thị trường cạnh tranh độc quyền là thị trường nước giải khát, thị trường bột giặt, thị
trường mỹ phẩm…Ta thấy, đặc điểm cơ bản của các thị trường này là sự phân biệt sản phẩm
giữa các hãng. Khác với cạnh tranh hoàn hảo khi mà tất cả các hãng đều bán (sản xuất) một sản
phẩm đồng nhất thì trong cạnh tranh độc quyền các hãng sản xuất ra các sản phẩm khác nhau.
Người tiêu dùng phân biệt được các sản phẩm của từng hãng thông qua nhãn hiệu, quảng cáo,
đóng gói và các dịch vụ khác.
Hơn nữa, sản phẩm của các hãng lại có thể thay thế cho nhau khá tốt như coca-cola và pepsi,
công dụng là như nhau. Do đó, đường cầu sản phẩm của hãng cạnh tranh độc quyền tương đối
thoải hay là co giãn. Khi một hãng giảm giá thi có thể thu thêm được rất nhiều khách hàng của
đối thủ cạnh tranh nhưng không phải tất cả do thói quen cũng như sở thích tiêu dùng của người
tiêu dùng hay còn gọi là những khách hàng trung thành. Ví dụ, trong ngắn hạn, khi bạn đã quen
uống Coca-cola thì dù Pepsi có giảm giá thì bạn cũng không chuyển sang uống Pepsi vì bạn
không thích và bạn đã quen với việc dùng Coca-cola rồi.
Một đặc điểm khác nữa của thị trường cạnh tranh độc quyền là số lượng người sản xuất phải
tương đối lớn. Chính vì vậy mà mỗi nhà sản xuất sẽ có được ảnh hưởng tương đối đến các quyết
định về sản xuất, giá cả của riêng mình.
Trong những thị trường này, việc xâm nhập thị trường tương đối dễ dàng để không có các sự
thông đồng như cố định giá hoặc phân chia thị trường cho nhau. Ví dụ, trên thị trường mạng điện
thoại di động, hãng di động S-fone gần như không gặp rào cản gì khi gia nhập và rút lui khỏi thị
trường.
6.4.2. Quyết định sản xuất của hãng cạnh tranh độc quyền
Trong cạnh tranh độc quyền mỗi hãng sản xuất ra các sản phẩm khác nhau do đó đường cầu đối
với từng hãng là đường nghiêng xuống dưới về bên phải. Nghĩa là nếu hãng nâng giá lên đôi chút
hãng sẽ mất đi một ít khách hàng chứ không phải là toàn bộ và ngược lại nếu hãng giảm giá đi một
chút hãng sẽ thu được thêm một ít khách hàng chứ không phải là toàn bộ khách hàng của đối thủ.
Vậy nên hãng cạnh tranh độc quyền có sức mạnh thị trường nhưng không tuyệt đối như độc quyền.
Quyết định sản xuất của hãng cạnh tranh độc quyền cũng theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận
nên hãng sẽ sản xuất tại mức sản lượng tại đó chi phí cận biên bằng với doanh thu cận biên.

MC
P*
ATC

100 ATC*

D
Hình 6.15. Quyết định sản xuất của hãng cạnh tranh độc quyền
Trong ngắn hạn, về cơ bản quyết định sản xuất của hãng cạnh tranh độc quyền giống với
hãng độc quyền. MR cũng là đường thẳng nằm dưới đường cầu.
Quyết định sản xuất: Q*SR: MR = MC
Giá bán: P = P(Q*SR)
Lợi nhuận: π = TR (Q*) – TC (Q*)
π = Q* (P* – ATC*)
So với độc quyền, hai hãng có cùng chi phí thi hãng cạnh tranh độc quyền sản xuất nhiều hơn
và ấn định giá thấp hơn. Do vậy, hãng cạnh tranh độc quyền vẫn có một chút sức mạnh thị
trường và cũng gây ra phần mất không cho xãhội.
Trong dài hạn, vì rào cản gia nhập thấp và có sự tồn tại của lợi nhuận dương trong ngắn hạn
nên nhiều hãng mới xâm nhập vào thị trường làm cho cầu về sản phẩm của một hãng cạnh tranh
độc quyền giảm xuống. Đường cầu D dịch chuyển xuống dần cho đến khi lợi nhuận bằng không
hay DLR tiếp xúc với ATC vì khi lợi nhuận bằng không thì sẽ không còn động lực gia nhập thị
trường của các hãng mới nữa.
Quyết định sản xuất trong dài hạn tại điểm tiếp xúc giữa DLR và ATC:
+ Mức sản lượng Q*LR: MR = MC
+ Mức giá P* = ATC
+ Lợi nhuận dài hạn: π = 0
Vậy trong dài hạn, lợi nhuận của hãng cạnh tranh độc quyền bị cạnh tranh hết. Hãng cạnh
tranh độc quyền sản xuất với công suất dư thừa do hãng quyết định sản xuất tại Q*LR thấp hơn
mức sản lượng Q’ ứng với ATCmin.

MC ATC

G 101
P*
Hình 6.16. Hãng cạnh tranh độc quyền sản xuất với công suất thừa
6.5 Độc quyền tập đoàn
6.5.1 Những đặc điểm cơ bản
- Chỉ có một số ít hãng cạnh tranh trực tiếp sản xuất toàn bộ hay hầu hết mức cung của thị
trường về một loại sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó.
- Nếu độc quyền tập đoàn sản xuất ra sản phẩm giống nhau như xi măng hay sắt thép thì đó là
độc quyền tập đoàn thuần tuý. Nếu sản phẩm khác nhau như ô tô, máy móc… thì đó là độc
quyền tập đoàn phân biệt.
- Sức mạnh thị trường của mỗi hãng tương đối lớn.
- Cản trở đối với xâm nhập và rút khỏi thị trường là tương đối lớn. Đó có thể là các cản trở về
độc quyền công nghệ sản xuất, lợi thế chi phí tuyệt đối tức là ATC của hãng gia nhập lớn hơn ATC
của hãng trong ngành, do đó cần phải có lượng vốn lớn.
- Các hãng độc quyền tập đoàn phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau. Mỗi hãng khi ra quyết định đều
phải cân nhắc đến phản ứng của đối thủ cạnh tranh. Vì rằng thị trường độc quyền tập đoàn bao
gồm một số ít hãng do đó mỗi sự thay đổi về giá, sản lượng của một hãng sẽ tức khắc dẫn đến sự
thay đổi của các hãng đối thủ.
6.5.2 Đường cầu gãy khúc trong độc quyền tập đoàn
Như ta đã biết trong thị trường độc quyền tập đoàn vài hãng chia nhau phần lớn lượng cung
của thị trường. Hay nói cách khác mỗi hãng có được một tỷ trọng nhất định của thị trường. Tuy
nhiên tất cả mọi hãng đều muốn thu được nhiều lợi nhuận hơn, chiếm được tỷ trọng thị trường
lớn hơn.
Để tăng được lượng bán một hãng độc quyền tập đoàn có thể sử dụng các biện pháp sau:
- Thay đổi các cố gắng về marketing
- Giảm giá bán

102
Trong cả hai biện pháp trên khi lượng bán của hãng đó tăng lên lập tức lượng bán của các
hãng đối thủ sẽ giảm xuống và các hãng đối thủ sẽ nhận thức được ngay vấn đề đó. Vậy các hãng
đối thủ sẽ phản ứng ra sao trước các quyết định của một hãng độc quyền tập đoàn?
+ Nếu hãng tăng giá tất nhiên các hãng đối thủ sẽ không phản ứng gì và đương nhiên hãng sẽ bán
được ít hàng hơn theo qui luật cầu và khách hàng của hãng sẽ sang với các hãng đối thủ.
+ Nếu hãng giảm giá xuống P3 với hy vọng lượng cầu tăng lên QD. Tuy nhiên điều này không
bao giờ xảy ra trong thị trường độc quyền tập đoàn. Các hãng đối phương sẽ phản ứng bằng cách
cũng giảm giá xuống làm cho lượng cầu sản phẩm của hãng tăng ít hơn (Qc) so với hy vọng ban
đầu (QD) hay làm cho đường cầu của hãng "gấp khúc" và chạy từ A đến C.

B
P1
A
P2
D
P3
C

QB QA QC QD
Q

Hình 6.17. Mô hình đường cầu gẫy


6.5.3 Giá cả kém linh hoạt và doanh thu cận biên
Đường cầu gãy khúc là sự hợp thành của hai đường cầu riêng biệt. Một đường dựa vào giả
định rằng các hãng độc quyền tập đoàn cạnh tranh nhau không phản ứng sự tăng giá (d1). Đường
kia dựa vào giả định rằng các hãng độc quyền cạnh tranh sẽ phản ứng việc giảm giá (d2). Mỗi
đường cầu đó lại có đường doanh thu cận biên riêng của nó tương tự MR1 và MR2.
Như vậy đường doanh thu cận biên của một hãng độc quyền gồm có hai phần riêng biệt. Có
một khoảng gián đoạn trên đường doanh thu cận biên. Nhà sản xuất đạt được lợi nhuận tối đa ở
mức sản lượng có doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên. Do đó họ luôn thay đổi các quyết
định sản xuất khi mức chi phí thay đổi.

d1 MC2
MC
P*
MC1 103
Hình 6.18. giá cả kém linh hoạt
Ta thấy mức sản lượng Q* là mức sản lượng tối ưu khi chỉ với mức chi phí MC1 mà cả MC2
hoặc MC bất kỳ nằm trong khoảng gián đoạn của MR này và mức giá luôn OP* "rất kém linh
hoạt". Mức giá kém linh hoạt này xuất hiện từ thực tế là cá nhân một hãng không thể hạ thấp giá
của họ mà không bị trả đũa và không thể nâng giá mà không bị tổn thất về lượng bán ra. Do đó,
một hãng cạnh tranh độc quyền sẽ không tự đưa ra quyết định thay đổi giá.
6.5.4 Giá của ngành - mục tiêu của độc quyền tập đoàn
Mục tiêu của toàn ngành là tối đa hóa lợi nhuận nhưng lại gặp khó khăn khi đưa ra mức giá
chung cho toàn ngành do đòi hỏi các hãng phải có quan điểm chung về đường cầu của ngành và
phải thoả mãn với tỷ trọng thị trường nhất định cũng như phải được phối hợp một cách chính
xác.
Việc xác định sản lượng của ngành là tương đối dễ theo quy tắc tối đa hoá lợi nhuận. nhưng
các hãng độc quyền tập đoàn lại gặp khó khăn trong việc phân chia sản lượng giữa các hãng.
Điều này phụ thuộc vào độ lớn tương đối của các công ty và khả năng đàm phán của họ.
Các công ty có thể thông đồng với nhau để hạn chế sự cạnh tranh giữa họ. Tuy nhiên điều
này có hại cho người tiêu dùng giống như độc quyền và chính phủ thường ra các luật cấm
chuyện đó. Chính vì vậy các hãng độc quyền tập đoàn sẽ tìm cách khác như chỉ đạo giá. Chỉ đạo
giá là một cách định giá của thị trường độc quyền tập đoàn cho phép một hãng tạo ra giá thị
trường cho tất cả các hãng khác của ngành. Thông thường các công ty có tỷ trọng thị trường lớn
sẽ người chỉ đạo giá. Mỗi khi giá này được hình thành nó sẽ duy trì trong một thời gian nhất định
vì đường cầu bị gãy khúc.

104
TÓM TẮT
Thị trường gồm hai phần cung và cầu. Sự tương tác giữa cung và cầu hình thành giá và
lượng cân bằng. Các nhà kinh tế phân loại thị trường theo các tiêu thức về số lượng người mua
và bán, sản phẩm, cản trở xâm nhập và rút khỏi thị trường và các hình thức cạnh tranh
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có nhiều người mua và người bán, sản phẩm đồng nhất,
thông tin hoàn hảo và cản trở xâm nhập và rút lui khỏi thị trường bằng không
Hãng cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh thị trương, hãng là người chấp nhận giá đối
diện với đường cầu nằm ngang. Hãng cạnh tranh hoàn hảo sản xuất sản lượng tại đó chi phí cân
biện bằng giá. Hãng sẽ đóng cửa sản xuất khi P ≤ AVCmin
Thị trường độc quyền có một hãng sản xuất duy nhất, sản phẩm độc quyền không có hàng
hóa thay thế gần gũi, cản trở xâm nhập và rút khỏi thị trường rất lớn
Các nguyên nhân dẫn tới độc quyền là quy định của chính phủ, bản quyền hoặc phát minh,
sở hữu đầu vào chiến lược và tính kinh tế của quy mô.
Nhà độc quyền tối đa hóa lợi nhuận tại mức sản lượng có MR = MC
Nhà độc quyền sản xuất ít hơn cạnh tranh hoàn hảo, đặt giá cao hơn và gây ra phần mất
không đói với xã hội
Hãng cạnh tranh độc quyền có đường cầu nghiêng xuống và tối đa hóa lợi nhuận tại mức
sản lượng có MR= MC. Trong dài hạn lợi nhuận sẽ tiến tới không
Thị trường độc quyền tập đoàn có một số ít hãng sản xuất, các hãng này phụ thuộc lẫn nhau
khi đưa ra quyết định, cản trở xâm nhập và rút lui khỏi thị trường tương đối lớn
Các hãng độc quyền tập đoàn có đường cầu gẫy khúc vì sự thay đổi giá của một hãng sẽ
gây ra phản ứng của các đối thủ trong ngành

105
Chương 7. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Trong các chương trước chúng ta nghiên cứu kinh tế thị trường hoạt động trên cơ sở tương
tác của các lực lượng cung và cầu. Nền kinh tế thị trường hoạt động rất hiệu quả và giải quyết
tương đối tốt ba vấn đề kinh tế cơ bản. Tuy nhiên, các chương trước chưa đề cập đến thương mại
quốc tế diễn ra giữa các quốc gia với nhau. Chương này chúng ta sẽ nghiên cứu một số chính
sách liên quan đến thương mại quốc tế.
Nội dung:
- Lợi ích của thương mại quốc tế
+ Lợi thế tuyệt đối
+ Lợi thế so sánh
+ Lợi ích và chi phí hoạt động xuất khẩu
+ Lợi ích và chi phí hoạt động nhập khẩu
- Các tác động của Chính phủ lên thương mại quốc tế
+ Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu
+ Ảnh hưởng của hạn ngạch xuất khẩu
+ Hàng rào bảo hộ thương mại phi thuế quan
Mục đích:
 Giúp học viên nắm được khái niệm về lợi ích của thương mại quốc tế
 Giúp học viên phân biệt các chính sách khác nhau về thương mại quốc tế
Tình huống dẫn nhập
7.1. Phân tích thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng trên thị trường tự do
Phần này chúng ta bắt đầu bằng việc nghiên cứu thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất
có thể được sử dụng như thế nào để nghiên cứu các hiệu quả phúc lợi của một chính sách của
Chính phủ. Nói cách khác, ai được và mất từ những chính sách đó và được và mất bao nhiêu.
Thặng dư tiêu dùng (CS) là phần chênh lệch giữa mức giá mà người tiêu dùng sẵn sàng
trả cho mỗi đơn vị hàng hóa và giá thực tế phải trả cho mỗi đơn vị hàng hóa đó. Như vậy,

106
thặng dư tiêu dùng là phần diện tích nằm dưới đường cầu và trên giá thị trường, thể hiện ở tam
giác AP*E trong hình 7.1.
Thặng dư sản xuất (PS) là phần chênh lệch giữa doanh thu thu được từ mỗi đơn vị hàng
hóa và chi phí để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó. Như vậy, thặng dư sản xuất là phần diện tích
nằm trên đường cung và dưới mức giá thị trường thể hiện là hình tam giác BP*E trong hình 7.1.
Hình 7.1 bên dưới minh họa thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất của thị trường trong
đó đường cung S của thị trường là tổng hợp tất cả đường chi phí cận biên của các hãng.3

P
S
A

CS
P* E

PS

B D
Q
Q*

Hình 7.1. Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất tại mức giá cân bằng
Lợi ích ròng của xã hội là tổng thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất (NSB=CS+PS), và
thị trường là cạnh tranh hoàn hảo luôn luôn tự tạo ra lợi ích ròng lớn nhất cho xã hội, là diện tích
tam giác ABE hình 7.1.

7.1.1. Ứng dụng phân tích thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất trong trường hợp
giá trần

Để thấy thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất có thể được sử dụng như thế nào để đánh
giá các chính sách của Chính phủ, chúng ta hãy quay trở lại với việc kiểm soát giá của Chính phủ
trong phần cung, cầu.
Chính phủ đặt giá trần nhằm bảo hộ lợi ích của người tiêu dùng nên mức giá trần luôn nhỏ
hơn mức giá cân bằng trên thị trường. Tại mức giá thấp nên theo luật cầu thì người mua muốn

3
Có thể dễ nhận thấy rằng PS=TR-VC

107
mua nhiều, nhưng theo luật cung thì người bán muốn bán ít và do đó dẫn đến tình trạng thiếu hụt
thị trường (do giá thấp nên lượng cung nhỏ hơn lượng cầu trên thị trường).

B
P* E
A C
PC

Thiếu hụt D

0 QS QD Q
Q*
Hình 7.2. Tác động của việc đặt giá trần

Việc Chính phủ đặt giá trần nhằm bảo hộ cho người tiêu dùng PC < P* sẽ làm cho thị
trường bị thiếu hụt do lượng cầu lớn hơn lượng cung. Lúc này lượng giao dịch chỉ là QS mặc dù
người tiêu dùng muốn mua QD do đó sự gia tăng trong thặng dư tiêu dùng được biểu thị bằng
hình chữ nhật A. Tuy nhiên, một số người tiêu dùng không thể tiếp tục mua sản phẩm đó nên
lượng mất trong thặng dư tiêu dùng biểu thị là tam giác B. Do đó, thay đổi ròng trong thặng dư
tiêu dùng là (A-B) và trong hình 7.2, hình chữ nhật A lớn hơn hình tam giác B nên thay đổi trong
thặng dư tiêu dùng là số dương. Thặng dư sản xuất bị mất đi là tổng của hình chữ nhật A và tam
giác C. Gộp chung lại, tổn thất về phúc lợi xã hội phải chịu (DWL) là diện tích hình tam giác
(B+C) trên hình 7.2.
Nếu các nhà hoạch định chính sách đánh giá thặng dư tiêu dùng cao hơn thặng dư sản xuất
thì tổn thất về ích lợi xã hội có thể không gây ra nhiều ảnh hưởng. Tuy nhiên, nếu đường cầu là
không co giãn, việc kiểm soát giá trần có thể gây ra sự mất mát ròng trong thặng dư tiêu dùng
như mô tả trong hình 7.3. Trong hình này, tam giác B (đo lường lượng mất trong thặng dư tiêu
dùng) lớn hơn hình chữ nhật A (đo lường lượng tăng thêm của thặng dư tiêu dùng). Trường hợp

108
này do người tiêu dùng đánh giá sản phẩm cao và những người bị hạn chế do không mua được
sản phẩm tại mức giá đó đều phải chịu một mất mát lớn.

P
S

P0
A C
PC

0 QS Q* QD Q
Hình 7.3. Hiệu quả của việc kiểm soát giá khi cầu không co giãn
7.1.2. Ứng dụng phân tích thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất trong trường hợp
giá sàn
Chính phủ can thiệp vào thị trường thông qua giá sản nhằm bảo hộ cho người sản xuất và
giá đó lớn hơn giá cân bằng trên thị trường (luật tiền lương tối thiểu, chính sách giá nông nghiệp
trong những năm được mùa…). Chính phủ trực tiếp quy định giá và coi mọi mức giá thấp hơn
giá sàn là bất hợp pháp.
Theo hình 7.4, mức giá PF biểu thị giá tối thiểu do Chính phủ ấn định. Khi đó, do giá cao
hơn giá cân bằng nên xuất hiện trang thái dư thừa thị trường (Q2-Q3). Bây giờ chúng ta nghiên
cứu sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất.

PF
A B S
P0
C

D
D

109
0 Q
Q3 Q0 Q2
Hình 7.4. Tác động của giá sàn
Người tiêu dùng bây giờ phải trả một mức giá cao hơn giá cân bằng nên sẽ bị mất một
phần trong thặng dư và lượng mất này được biểu thị bằng hình chữ nhật A trong hình 7.4. Một số
người tiêu dùng bị đẩy ra ngoài thị trường vì giá cao hơn với lượng tổn thất về thặng dư là hình
tam giác B. Do đó tổng lượng tổn thất trong thặng dư tiêu dùng là:
ΔCS=-A-B
Như vậy người tiêu dùng bị thiệt dó chính sách giá tối thiểu (giá sàn).
Người sản xuất nhận được mức giá cao hơn cho các đơn vị sản phẩm bán ra do đó có sự
gia tăng thặng dư được biểu thị bằng hình chữ nhật A (là phần chuyển giao từ thặng dư tiêu dùng
sang thặng dư sản xuất). Nhưng do lượng bán giảm từ Q0 đến Q3 đưa đến kết quả là lượng mất
trong thăng dư sản xuất là tam giác C. Cuối cùng, chúng ta hãy xem xét chi phí của người sản
xuất để mở rộng sản xuất từ Q0 đến Q2. Vì họ chỉ bản được Q3 nên không có thu nhập để bù đắp
chi phí sản xuất từ Q3 đến Q2. Số chi phí này là diện tích dưới đường cung từ Q3 đến Q2 và được
biểu thị bằng hình thang vuông D. Như vậy, tổng số thay đổi trong thặng dư sản xuất sẽ là:
ΔPS=A-C-D
Biết rằng hình thang D có thể là rất lớn nên một mức giá tối thiểu thậm chí đưa đến kết quả
là tổn thất ròng trong thặng dư chỉ của người sản xuất.
Một ví dụ về giá tối thiểu là Chính phủ áp đặt luật về tiền lương tối thiểu. Điều này được
minh họa trên hình 7.5, trong đó đường cung ứng với lượng cung lao động và đường cầu là
lượng cầu lao động tại các mức tiền công. Khi tiền lương được đăt ở wmin cao hơn tiền công cân
bằng trên thị trường thì những người lao động có thể tìm được việc sẽ nhận mức tiền công cao
hơn. Tuy nhiên, một số người muốn làm việc lại không có khả năng được như vậy. Chính sách
này đem đến kết quả là nạn thất nghiệp trong hình 7.5 là L2-L1.

w
S

wmin
A B
w0
110 C

D
Hình 7.5. Tiền lương tối thiểu
Tiền lương trên thị trường là w0 nhưng các hãng không được phép trả lương dưới mức
wmin. Điều đó đưa đến lượng thất nghiệp là L2-L1 và tổn thất về phúc lợi xã hội được biểu thị
bằng hai tam giác B và C.
7.2. Thương mại quốc tế và lợi ích
7.2.1. Trợ giá và hạn ngạch sản xuất
Ngoài việc áp đặt giá tối thiểu (giá sàn), Chính phủ có thể nâng cao giá một loại sản phẩm
nào đó bằng nhiều phương pháp khác như trợ giá thương kết hợp với việc khuyến khích giảm
hay hạn chế sản xuất.
7.2.1.1. Trợ giá
Tại nhiều quốc gia trên thế giới trợ giá nhằm mục đích nâng cao giá một số sản phẩm sao
cho các nhà sản xuất những sản phẩm đó nhận được doanh thu cao hơn. Một trong những
phương pháp đó là chính phủ ấn định một mức giá PS và mua bất kỳ một mức sản lượng cần thiết
để giữ giá thị trường ở mức đó. Hình 7.6 minh họa điều đó. Chúng ta sẽ xem xét số được và số
mất của người sản xuất, người tiêu dùng và chính phủ do việc đặt giá gây ra.
Tại mức giá PS, lượng cầu của người tiêu dùng giảm còn Q1 nhưng lượng cung tăng lên
thành Q2. Để giữ mức giá đó và tránh cho những người sản xuất khỏi phải tồn kho quá nhiều thì
Chính phủ phải mua phần dư thừa (Qg=Q2-Q1). Như vậy chính phủ đã bổ sung lượng cầu của
mình vào lượng cầu của người tiêu dùng và do đó người sản xuất có thể bán toàn bộ lượng muốn
bán tại mức giá PS.
Những người tiêu dùng nào mua sản phẩm đó phải trả giá PS cao hơn thay vì giá P0 nên
phải chịu phần mất trong thăng dư tiêu dùng được biểu thị bằng hình chữ nhật A. Nhưng người
tiêu dùng khác không mua hoặc mua ít đi sản phẩm đó nên phần mất của họ là tam giác B. Như
vậy, tổng số mất của người tiêu dùng là ΔCS=-A-B.
Mặt khác, người sản xuất được do bán số lượng lớn hơn là Q2 với mức giá cao hơn là PS
nên tổng thặng dư sản xuất tăng thêm là ΔPS=A+B+D. Nhưng ở đây cũng có cái giá mà chính
phủ phải trả là PS.(Q2-Q1), tức là số tiền phải trả cho mức sản lượng chính phủ phải mua để duy
trì mức giá đó. Trong hình 7.6 đó là hình chữ nhật chấm chấm.

111
Tổng giá trị phúc lợi xã hội phải trả cho chính sách đó được xác định bằng cộng lượng thay
đổi trong thăng dư tiêu dùng với số thay đổi trong thặng dư sản xuất rồi trừ đi cái giá mà chính
phủ phải trả như sau:
ΔCS + ΔPS – phần chính phủ phải trả = D – (Q2 – Q1).PS.
Theo hình 7.6, tổn thất của phúc lợi xã hội nói chung được biểu thị bằng hình chữ nhật lớn
chấm chấm trừ đi tam giác D.

P S

Qg

PS
A D
B
P0

D + Qg
D

Q
Q1 Q0 Q2

Hình 7.6. Trợ giá


7.2.1.2. Hạn ngạch sản xuất
Chính phủ còn có thể làm giá sản phẩm nào đó tăng bằng cách làm giảm cầu. Chính phủ
chỉ cần quy định hạn ngạch cho người sản xuất bao nhiêu và giá cả có thể bị đẩy lên tới bất kỳ
mức mong muốn nào.
Trong hình 7.7 cho thấy giá có thể được nâng cao như thế nào khi giảm bớt lượng cung
bằng quy định hạn ngạch vì đường cung hoàn toàn không co giãn ở lượng cung là Q1 và giá thị
trường sẽ tăng từ P0 lên PS. Thay đổi trong thăng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất được xác định
như sau:
ΔCS = -A-B
ΔPS = A – C + số chi trả vì không sản xuất
Do các nhà sản xuất tiếp nhận mức giá cao hơn để sản xuất Q1, tương ứng với số được
trong thặng dư ở hình chữ nhật A. Nhưng do sản xuất giảm từ Q0 xuống Q1 nên có số mất trong
thặng dư sản xuất là tam giác C. Cuối cùng, người sản xuất nhận được của chính phủ một số tiền
như là một yếu tố khuyến khích giảm sản xuất.
Cái giá mà chính phủ phải trả do quy định hạn ngạch là khoản khuyến khích các nhà sản
xuất giảm đầu ra xuống Q1. Yếu tố khuyến khích này ít nhất cũng phải bằng B+C+D vì đó là lợi
nhuận gia tăng có thể được tạo ra do có mức giá PS lớn hơn (mức giá cao khuyến khích nhà sản

112
xuất sản xuất ra nhiều hơn nhưng chính phủ cố gắng làm cho họ sản xuất ít đi). Do đó, cái giá mà
chính phủ phải trả ít nhất là B+C+D và tổng số thay đổi trong thặng dư sản xuất lúc này là:
ΔPS = A – C + B + C + D = A + B + D
Tuy nhiên, việc quy định hạn ngạch còn tốn kém hơn cho xã hội so với việc cung cấp tiền
cho người sản xuất. Theo quy định hạn ngạch phân tích ở đây, tổng số thay đổi trong phúc lợi xã
hội (tức là cái giá chính phủ phải trả) là:
ΔNSB = - A – B + A + B + D - B – C – D = - B - C

P S
S’

PS
A D
B
P0
C

Q0 Q

Hình 7.7. Hạn ngạch sản xuất


Rõ ràng là xã hội sẽ tốt hơn nếu chính phủ chỉ cho người sản xuất A + B + D còn để mặc
giá cả và đầu vào. Nhà sản xuất sẽ được A + B + D và chính phủ sẽ mất A + B + D, tổng số thay
đổi trong phúc lợi xã hội sẽ bằng không thay vì mất B + C. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế không
phải lúc nào cũng là mục tiêu trong chính sách của chính phủ.

7.2.2. Hạn ngạch và thuế nhập khẩu


Nhiều quốc gia sử dụng hạn ngạch và biểu thuế nhập khẩu để giữ cho giá trong nước của
một sản phẩm cao hơn các mức giá thế giới và do đó làm cho ngành công nghiệp trong nước
được hưởng lợi nhuận cao hơn so với tự do thương mại. Tuy nhiên, cái giá mà xã hội phải trả
cho sự bảo hộ này có thể sẽ cao (do số mất của người tiêu dùng lớn hơn số được của người sản
xuất). Chúng ta sử dụng đường cung, cầu như hình 7.8 để thấy hạn ngạch hay thuế nhập khẩu
gây ra cái gì.
Khi không có hạn ngạch hay thuế, một nước có thể nhập một sản phẩm khi giá thế giới
thấp hơn giá trên thị trường khi không có nhập khẩu. Hình 7.8 miêu tả điều đó. S và D là cung và
cầu trong nước. Nếu không có nhập khẩu thì giá và lượng cân bằng trong nước là P0 và Q0. Khi
giá thế giới PW thấp hơn P0 nên người tiêu dùng trong nước có ý muốn mua ở ngoài nước, điều

113
họ sẽ làm nếu việc nhập khẩu không bị hạn chế. Giá trong nước sẽ giảm xuống bằng giá thế giới
và do đó sản lượng sản xuất trong nước sẽ giảm xuống là QS và lượng tiêu dùng trong nước sẽ
tăng lên là Qd. Như vây, lượng nhập khẩu là chênh lệch giữa lượng tiêu dùng và lượng sản xuất
ra trong nước (QS – Qd).

P S

P0
A B C
Pw

QS Q0 Qd Q
Hình 7.8. Thuế hay hạn ngạch nhập khẩu
Bây giờ giả sử chính phủ phải nhượng bộ trước áp lực từ phía các ngành công nghiệp trong
nước, loại trừ việc nhập khẩu từ thị trường đó bằng cách áp đặt một hạn ngạch là cấm nhập khẩu
sản phẩm đó. Giá trong nước sẽ tặng tới P0. Những người tiêu dùng còn mua sản phẩm đó (trong
lượng Q0) sẽ phải trả giá nhiều hơn và sẽ mất thêm một lượng thặng dư tiêu dùng thể hiện ở tam
giác C. Như vậy, tổng thặng dư tiêu dùng bị mất sẽ là:
ΔCS = - A - B - C
Đối với người sản xuất, lúc này lượng cung cao hơn (Q0 thay vì QS) và được bán với giá
cao hơn (P0 thay cho Pw). Do đó thặng dư sản xuất tăng thêm là hình thang A.
Tổng lượng thay đổi trong thặng dư của cả người sản xuất và người tiêu dùng là ΔCS+
ΔPS= - B - C. Lại một lần nữa chúng ta thấy người tiêu dùng mất nhiều hơn người sản xuất có
được.
Ngoài ra, cũng làm cho việc nhập khẩu giảm bằng không thông qua cách áp đặt thuế cao
thì mức thuế đó sẽ bằng hoặc lớn hơn chênh lệch giữa P0 và Pw. Khi đó sẽ không có nhập khẩu
và tất nhiên chính phủ không có nguồn thu từ thuế nên hệ quả đối với người tiêu dùng và người
sản xuất giống như hạn ngạch.
Thông thường, chính sách của chính phủ nhằm hạn chế (chứ không phải thủ tiêu) nhập
khẩu. Chính sách này có thể gây ra như trường hợp đánh thuế nhập khẩu hoặc quy định hạn
ngạch như thể hiện trong hình 7.9. Nếu không có thuế hay hạn ngạch thì giá trong nước bằng giá
thế giới Pw và nhập khẩu sẽ là QT – Qd. Bây giờ giả định một mức thuế là T/1 đơn vị đánh vào
hàng nhập khẩu. Trường hợp này sẽ làm giá trong nước tăng lên P* (giá thế giới công với thuế
nhập khẩu) nên lượng sản xuất trong nước sẽ tăng và lượng tiêu dùng trong nước sẽ giảm.

114
Trong hình 7.9 ta thấy thuế sẽ dẫn đến một số thay đổi trong thặng dư tiêu dùng được biểu
thị bằng:
ΔCS = - A – B – C – D

S
P

P*
T A D
B C
Pw

QT Q’d Q’T QT Q

Hình 7.9. Tác động của thuế hoặc hạn ngạch nhập khẩu
Lượng thay đổi trong thặng dư sản xuất là:
ΔPS = A
Cuối cùng, chính phủ sẽ thu được một lượng tiền từ thuế bằng thuế/ 1 đơn vị sản phẩm
nhân với tổng lượng nhập khẩu biểu thị là hình chữ nhật D. Tổng lượng thay đổi trong phúc lợi
xã hội cộng với doanh thu từ thuế của chính phủ được thể hiện là:
-A-B-C-D+A+D=-B-C
Các tam giác B và C biểu thị phúc lợi xã hội mất đi do hạn chế nhập khẩu.
Giả sử chính phủ dùng hạn ngạch nhập khẩu thay cho thuế để hạn chế nhập khẩu thì các
nhà sản xuất nước ngoài chỉ được phép đưa vào một lượng hàng nhất định (Q’T-Q’d) như trong
hình 7.9. Khi đó nhà sản xuất nước ngoài có thể định một mức giá P* cao hơn để bán ở trong
nước. Trường hợp này lượng thay đổi trong thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất tương tư
như trường hợp đánh thuế ở trên, nhưng có một sự khác biệt là doanh thu từ thuế biểu thị ở hình
chữ nhật D do chính phủ thu được sẽ chuyển sang các nhà sản xuất nước ngoài (trên tư cách là
người được cấp phép nhập khẩu) và thu lợi nhuận cao hơn. So sánh với thuế nhập khẩu thì hạn
ngạch sẽ tổn thất nhiều hơn do mất diện tích D (vào người được cấp giấy phép nhập khẩu) cùng
với B và C.
TÓM TẮT

Thặng dư sản xuất đối với một hãng là chênh lệch giữa doanh thu của hãng và chi phí biến
đổi cần thiết để sản xuất ra mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Trong cả ngắn hạn và dài hạn,

115
thặng dư sản xuất là diện tích nằm dưới đường giá nằm ngang và trên chi phí sản xuất cận biên
của hãng.
Những mô hình đơn giản về cung và cầu thị trường có thể được dùng để phân tích nhiều
tác động của chính sách của Chính phủ như chính sách kiểm soát giá, trợ giá, hạn ngạch sản xuất
để hạn chế đầu ra, hạn ngạch và thuế nhập khẩu, các chính sách thuế và trợ cấp.
Trong từng trường hợp, thặng dư tiêu dùng, và thặng dư sản xuất được phân tích để tính
toán cái được và cái mất của từng thành viên kinh tế khi tham gia vào thị trường. Tác động của
chính sách đó được ứng dụng vào việc trợ giá lúa gạo (giá sàn), hạn ngạnh nhập khẩu… và cái
được, cái mất có thể rất lớn.
Khi chính phủ áp đặt một chính sách thuế (thuế nhập khẩu) hay trợ cấp thì giá cả thường
không tăng hay giảm bằng lượng thuế hoặc trợ cấp đó. Tác động này thường được phân chia
giữa người sản xuất và người tiêu dùng tùy thuộc vào độ co giãn của cầu và cung.
Nói chung, sự can thiệp của chính phủ thường làm lợi ích ròng của xã hội bị mất đi. Một
trong những trường hợp đó là lượng tổn thất rất nhỏ, nhưng trong một số trường hợp khác tổn
thất rất lớn.

Chương 8. NHỮNG THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG


Trong các chương trước chúng ta nghiên cứu kinh tế thị trường hoạt động trên cơ sở tương
tác của các lực lượng cung và cầu. Nền kinh tế thị trường hoạt động rất hiệu quả và giải quyết
tương đối tốt ba vấn đề kinh tế cơ bản. Tuy nhiên, có một số vấn đề mà bản thân kinh tế thị
trường không giải quyết được mà cần phải có sự can thiệp của chính phủ. Chương này sẽ nghiên
cứu các vấn đề đó.
Nội dung:
- Ưu điểm của kinh tế thị trường
- Các thất bại của thị trường
+ Những ảnh hưởng ngoại ứng;
+ Hàng hoá công cộng;
+ Tính cạnh tranh không hoàn hảo
+ Phân phối thu nhập không công bằng.
Mục đích:
 Giúp học viên nắm được khái niệm hiệu quả Pareto, khái niệm thất bại thị trường
 Giúp học viên phân biệt rõ hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân
 Hiểu bản chất của phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
 Hiểu được ngoại ứng là gì. Các biện pháp khắc phục ngoại ứng
 Mục đích và các phương pháp điều tiết độc quyền tự nhiên
Tình huống dẫn nhập

116
7.1 ƯU ĐIỂM CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
 Nền kinh tế thị trường hoạt động năng động, mềm dẻo vì có khả năng tự điều chỉnh về
trạng thái cân bằng dưới sự dẫn dắt của bàn tay vô hình. Các lực lượng của thị trường là cung và
cầu tự điểu chỉnh để hình thành được mức giá và sản lượng cân bằng đối với các loại hàng
hóa/dịch vụ.
 Người tiêu dùng và người sản xuất đều lựa chọn được quyết định kinh tế tối ưu. Đường
cung biểu diễn chi phí cận biên của người sản xuất và đường cầu minh họa lợi ích cận biên của
người tiêu dùng. Tại điểm cân bằng lợi ích cận biên bằng chi phí cận biên, người tiêu dùng tối đa
hóa lợi ích và người sản xuất tối đa hóa lợi nhuận.
P
S=MC

E
Pe

D=MB
Q
O Qe

 Nền kinh tế hoạt động hiệu quả hoạt động một cách có hiệu quả trên cơ sở tương tác giữa
các lực lượng cung cầu. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là sự phân bổ có hiệu quả các nguồn tài
nguyên khan hiếm của xã hội. Trong kinh tế học, chuẩn mực chung về hiệu quả phân bổ là hiệu
quả Pareto. Hiệu quả Pareto đạt được trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Một sự
phân bổ đạt hiệu quả Pareto khi chi phí cận biên trong sản xuất mọi hàng hoá bằng với lợi ích
cận biên của chúng đối với người tiêu dùng. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo lợi ích ròng xã
hội đạt được là lớn nhất.
Khi thị trường không đạt được trạng thái cân bằng mang tính hiệu quả Pareto chúng ta nói
đó là thất bại của thị trường.
Các nguyên nhân đưa thị trường đến thất bại là
- Những ảnh hưởng ngoại ứng;
- Hàng hoá công cộng;
- Tính cạnh tranh không hoàn hảo
- Phân phối thu nhập không công bằng.
7.2 CÁC THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG

117
Kinh tế thị trường có những ưu điểm của nó nhưng không phải lý tưởng hoàn hảo mà nó
cũng khiếm khuyết/thất bại đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước để hướng dẫn bàn tay vô
hình hoạt động hiệu quả.
7.2.1 Các ảnh hưởng ngoại ứng
Ảnh hưởng ngoại ứng là tác động của quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng tới thành viên thứ
ba không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng đó mà không được phản ánh
qua giá cả thị trường.
Ảnh hưởng ngoại ứng có thể phát sinh trong tiêu dùng hay trong sản xuất và có thể mang
tính tích cực hoặc mang tính tiêu cực. Các ảnh hưởng tiêu cực gây ra chi phí đối với thành viên
thứ ba còn các ảnh hưởng tích cực mang lại lợi ích cho các thành viên thứ ba. Những thành viên
thứ ba này không nhận được sự thanh toán hay phải trả chi phí thích hợp.
 Ảnh hưởng ngoại ứng tích cực
+ Ảnh hưởng ngoại ứng tích cực trong sản xuất: Một công ty mở một nhà máy mới phải cải tạo
con đường đất dẫn vào nhà máy từ quốc lộ để thuận tiện cho việc vận chuyển của nhà máy. Nhờ
đó, thay vì phải đi đường đất cũ người dân xung quanh được đi con đường nhựa rộng rãi mà
không phải trả một chi phí nào.
+ Ảnh hưởng ngoại ứng tích cực trong tiêu dùng: trong khu nhà tập thể, một nhà mắc một bong
điện ra ngoài cửa để cho gia đình mình đi lại thuận tiện khi trời tối. Nhờ bóng điện này mà nhà
bên cạnh cũng được sang và đi lại cũng dễ dàng hơn vào buổi tối. Những gia đình hàng xóm
không hề phải trả tiền cho nhà này. Ngoài ra, việc tiêm phòng, sửa sang nhà cửa, học tập cũng là
hành vi tiêu dùng có ảnh hưởng ngoại ứng tích cực.
 Ảnh hưởng ngoại ứng tiêu cực
+ Ảnh hưởng ngoại ứng tiêu cực trong sản xuất: Vedan sản xuất thải chất thải nhiễm độc ra dòng
sông Thị Vải làm cho dòng sông bị ô nhiễm và cá chết. Điều nảy ảnh hưởng đến đời sống của
người dân xung quanh và những ngư dân đánh cá ở dòng sông này mà họ lại không được nhận
khoản thanh toán nào cho những thiệt hại đó từ phía Vedan khi chưa có chính quyền đứng lên
bảo vệ người dân. Tiếng ồn công nghiệp cũng là một tác động ngoại ứng tiêu cực do sản xuất
gây.
+ Ảnh hưởng ngoại ứng tiêu cưc: một người hút thuốc lá sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sức
khỏe của những người xung quanh mà người này không phải trả một khoản tiền nào cho điều
mình gây ra. Nghe nhạc to ảnh hưởng đến gia đình bên cạnh cũng là tiêu dùng có tác động ngoại
ứng tiêu cực.
 Tính không hiệu quả của thị trường
Các ảnh hưởng ngoại ứng là thất bại thị trường do gây ra phần mất không cho xã hội
(chênh lệch giữa lợi ích hoặc chi phí giữa cá nhân và xã hội). Lấy ví dụ về công ty Vedan gây ra
ảnh hưởng ngoại ứng tiêu cực.

118
MSC
P
MPC
F
E1
P1
P0 E0

Q1 Q0
Q
MPC: là chi phí cận biên của doanh nghiệp
MSC: chi phí cận biên xã hội
DWL = S∆E1FE0
Trên thực tế, việc sản xuất gây ô nhiễm môi trường nước do chất thải đổ ra sông chưa qua
xử lý. Sự ô nhiễm đó có thể gây ra các hậu quả như chết cá, ảnh hưởng đến nguồn sống của
những người đánh cá - là các thành viên thứ ba không tham gia vào quá trình sản xuất này. Như
vậy, việc sản xuất của Vedan đã gây ra các chi phí cho xã hội. Nếu tính đầy đủ các chi phí này
cho doanh nghiệp thì chi phí đó sẽ được biểu diễn bằng đường chi phí cận biên xã hội (MSC).
Nếu đường cầu đối với sản phẩm của Vedan là đường D thì trạng thái cân bằng E0 với mức
sản lượng Q0 tại đó chi phí cận biên cá nhân bằng giá. Tuy nhiên, tại mức sản lượng Q1 chi phí
cận biên của xã hội vượt quá lợi ích cận biên. Xét trên giác độ xã hội, mức sản lượng mà xã hội
mong muốn là mức sản lượng Q1 tại đó, chi phí cận biên xã hội bằng với lợi ích cận biên. Thị
trường tự do không đạt được mức sản lượng mà xã hội mong muốn và chịu tổn thất lợi ích là
diện tích hình tam giác E1FE0. Đó là thất bại của thị trường.
Như vậy, sự chênh lệch giữa chi phí (lợi ích) xã hội và cá nhân dẫn đến khối lượng hàng
hoá thực tế được sản xuất bởi thị trường khác với khối lượng tối ưu về mặt xã hội. Trong trường
hợp các ảnh hưởng ra bên ngoài tích cực thì có quá ít hàng hoá được sản xuất. Còn khi ảnh
hưởng ra bên ngoài mang tính tiêu cực thì lại có quá nhiều hàng hoá được sản xuất. Kết quả là
thị trường đưa ra một giải pháp không có hiệu quả vì các nhà sản xuất và người tiêu dùng đưa ra
các quyết định tiêu dùng và sản xuất dựa trên chi phí và lợi ích cá nhân của bản thân họ, nó
không phản ánh chi phí và lợi ích thực tế của toàn bộ xã hội.
 Giải pháp khắc phục
Nhà nước đánh thuế đối với những tác nhân gây ra ảnh hưởng ngoại ứng tiêu cực và trợ cấp cho
những tác nhân gây ra ảnh hưởng ngoại ứng tiêu cực.
7.2.2 Hàng hoá công cộng
 Khái niệm

119
Hàng hoá công cộng là những hàng hoá và dịch vụ mà khi chúng được sản xuất ra thì mọi
người đều có khả năng tiêu dùng. Hàng hoá công cộng thuần tuý có hai đặc tính chủ yếu là tính
không cạnh tranh trong tiêu dùng và tính không loại trừ trong tiêu dùng.
Ví dụ: - An ninh quốc phòng
- Đèn hải đăng
- Hệ thống biển báo giao thông
- Sóng truyển hình công cộng
 Đặc điểm
+ Tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hoá công cộng tức là mỗi người tiêu dùng
tăng thêm không làm ảnh hưởng đến khối lượng cho người khác tiêu dùng. Việc một nhà bắt
song truyển hình quốc gia không làm giảm phần sóng của các gia đình khác.
+ Tính không loại trừ trong tiêu dùng của hàng hoá công cộng có nghĩa là không có cách gì ngăn
cản được người tiêu dùng nhất định tiêu dùng. Điều này được biết đến như vấn đề “kẻ ăn không"
hay đây là hiện tượng tiêu dùng tự do – tiêu dùng mà không cần phải trả tiền.
Ví dụ: An ninh quốc phòng là hàng hóa công cộng thuần túy. Khi một người được quốc phòng
bảo vệ, nó không có nghĩa là bất kỳ một người nào khác được bảo vệ ít hơn. Không một ai có thể
ngăn chặn các công dân được hưởng lợi ích từ quốc phòng cho dù họ có trả phí hay không. Đó
chính là tính không cạnh tranh và không loại trừ của hàng hóa công cộng thuần túy.
 Tính không hiệu quả của thị trường
Do hàng hóa công cộng có tính không cạnh tranh và không loại trừ nên không thể ngăn cản
người tiêu dùng sử dụng miễn phí các hàng hóa/dịch vụ đó. Do đó, việc tư nhân cung cấp hàng
hóa công công này theo cơ chế thị trường là không hiệu quả do nhà sản xuất không thể đặt giá và
thu phí được cho mỗi đơn vị hàng hóa họ cung cấp. Giả sử có một hãng xây cột hải đăng và bán
dịch vụ đó cho một nhà thuyền lớn, lợi ích của riêng cá nhân nhà thuyền đó là được thắp sáng
khi đi trên biển nhưng họ lại không thể ngăn cản những nhà thuyền khác là những “kẻ ăn không”
sử dụng ánh sáng từ ngọn hải đăng đó khi họ đi trên biển. Do đó, lợi ích cá nhân của sản xuất
hàng hoá công cộng thấp hơn là lợi ích xã hội tương ứng. Nói một cách khác thị trường hoàn
toàn thất bại trong thị trường hàng hóa công cộng.
 Cách khắc phục
Nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng hoặc đảm bảo tài chính cho các hãng tư nhân cung
cấp hàng hóa công cộng hoặc cá nhân hóa hàng hóa công cộng.
7.2.3. Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh không hoàn hảo là tình huống mà một nhà sản xuất (người tiêu dùng) có thể tác
động vào mức giá mà anh ta bán (hoặc mua) sản phẩm của mình.

120
 Tính không hiệu quả của thị trường: Trong chương cơ cấu thị trường, chúng ta đã thấy rằng
ngoài thị trường cạnh tranh hoàn hảo còn có các cơ cấu thị trường khác là độc quyền, độc quyền
tập đoàn và cạnh tranh độc quyền. Các hãng cạnh tranh không hoàn hảo đều có được sức mạnh thị
trường nên thường hạn chế sản lượng bán dưới mức hiệu quả tối ưu và nâng giá bán cao hơn chi
phí cận biên nhằm thu được lợi nhuận. Điều này gây ra phần mất không cho xã hội. Do đó, cạnh
tranh hoàn hảo cũng là một thất bại của thị trường.
 Cách khắc phục:
+ Luật chống độc quyền
+ Kiểm soát giá (đặt giá trần0
+ Đánh thuế
+ Điều tiết bằng sản lượng trực tiếp
7.2.4 Phân phối thu nhập không công bằng
Nền kinh tế thị trường phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và tạo ra một sự phân
phối thu nhập nhất định dựa trên sở hữu của các cá nhân về các yếu tố sản xuất và giá cả hiện
hành của các yếu tố đó trên thị trường. Tuy nhiên, thị trường không tạo ra một sự phân phối thu
nhập công bằng.
Để hiểu rõ hơn về sự phân phối không công bằng này, chúng ta hãy xem xét nguồn gốc của
thu nhập của các cá nhân. Như chúng ta đã biết, các hộ gia đình cung cấp dịch vụ các yếu tố sản
xuất – lao động, đất đai và vốn mà họ sở hữu trên thị trường yếu tố sản xuất để đổi lấy thu nhập.
Có thể minh họa thu nhập của hộ gia đình thông qua biểu thức sau đây:
I =wL + iK + rĐ
L, K, Đ là các yếu tố sản xuất thuộc các hộ gia đình
w, i, r là tiền công, lãi suất và tiền thuê đất (giá tương ứng của các yếu tố sản xuất đó)
Rõ ràng, sự khác nhau về sự sẵn có của các yếu tố sản xuất của các hộ gia đình là nguồn
gốc của sự khác biệt trong thu nhập của các cá nhân. Mỗi một cá nhân có thể sở hữu các yếu tố
sản xuất khác nhau vì họ có hoàn cảnh và điều kiện hoàn toàn khác nhau. Các yếu tố đó có thể
được thừa kế từ thế hệ này qua thế hệ khác. Điều đó làm cho thu nhập từ việc cung cấp các yếu
tố đó là khác nhau. Ví dụ, một người có thể nhận được thu nhập cao hơn đơn giản là vì anh ta
được thừa kế một tài sản lớn.
Hơn nữa, như chúng ta đã biết trong chương thị trường yếu tố sản xuất, giá yếu tố sản xuất
do thị trường yếu tố xác định. Các doanh nghiệp thuê các yếu tố sản xuất để đạt được mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận do đó họ chỉ thuê các yếu tố tạo ra lợi nhuận cho họ. Điều đó có nghĩa là khả
năng cung cấp dịch vụ các yếu tố sản xuất của các cá nhân cũng rất khác nhau – phụ thuộc vào
chất lượng của các yếu tố đó cũng như giá cả của hàng hóa mà họ sản xuất ra. Tất cả các điều đó
làm cho thu nhập của các cá nhân rất khác nhau trong kinh tế thị trường.

121
Như vậy, có thể thấy rằng bên cạnh những ưu điểm về phân bổ hiệu quả các nguồn lực
khan hiếm, kinh tế thị trường cũng có những thất bại mà thị trường tự do không thể giải quyết
được. Để khắc phục các thất bại của thị trường, chính phủ – bàn tay hữu hình - cần can thiệp vào
nền kinh tế để khắc phục các thất bại đó. Chính phủ có đủ sức mạnh và nguồn lực cũng như các
công cụ cần thiết để khắc phục các thất bại của thị trường.

TÓM TẮT
Kinh tế thị trường hoạt động dựa vào sự tương tác giữa cung và cầu. Thị trường cạnh tranh
hoàn hảo tạo ra kết quả tốt nhất đối với việc phân bổ tài nguyên
Tiêu chuẩn xác định hiệu quả là hiệu quả Pareto: chi phí cận biên bằng lợi ích cận biên đối
với mọi hàng hóa
Thị trường cũng có rất nhiều thất bại, Đó là các ngoại ứng, hàng hóa công cộng, sự không
hoàn hảo của thị trường và phân phối thu nhập không công bằng
Hoạt động sản xuất và tiêu dùng có thể ảnh hưởng đến những người khác mà các ảnh
hưởng này không được phản ánh trong giá thị trường của sản phẩm
Các ngoại ứng gây ra tính phi hiệu quả vì tín hiệu giá bị bóp mép. Có ngoại ứng tích cực và
ngoại ứng tiêu cực
Hàng hóa công cộng mang tính không loại trừ và tính không cạnh tranh, thị trườn tư nhân
thường không cung cấp một cách hiệu quả
Cạnh tranh không hoàn hảo là một thất bại của thị trường. Thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo tạo ra phần mất không đối với xã hội
Thu nhập của cá nhân phụ thuộc vào việc cung cấp dịch vụ của các yếu tố sản xuất. Phân
phối thu nhập trong thị trường không mang tính công bằng
Chính phủ sử dụng các công cụ như thuế, trợ cấp và các quy định để khắc phục các thất bại
của thị trường

122

You might also like