You are on page 1of 12

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ

I. Kinh tế học

Định nghĩa: Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách xã hội quản lý các nguồn lực khan hiếm.

Kinh tế học giúp chúng ta điều gì?

Kinh tế học quan sát hành vi lựa chọn của các thành phần kinh tế và chỉ ra chỗ lựa chọn tốt nhất.

Kinh tế học trả lời cho 3 câu hỏi:

+ Sản xuất cái gì?: Sự lựa chọn trong việc sản xuất hàng hóa hay dịch vụ để phục vụ nhu cầu của thị
trường.

+ Sản xuất như thế nào?: Là vấn đề về việc đạt được lợi nhuận thông qua quá trình sản xuất và bán hàng
hóa. Nhà sản xuất phải lựa chọn được phương án sản xuất tối ưu nhất.

+ Sản xuất cho ai?: Nghĩa là phải lựa chọn đối tượng, khách hàng cho sản phẩm.

1. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô

Kinh tế học được chia thành kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô

1.1. Kinh tế học vi mô

- Kinh tế học vi mô nghiên cứu quyết định của các doanh nghiệp, các hộ gia đình( người tiêu dùng) và
tương tác của các quyết định này trên thị trường.
- Mục tiêu:

+ Nghiên cứu giá( P) và lượng (Q) của một hàng hóa cụ thể.

+ Nghiên cứu tác động của Chính phủ đến giá và lượng của một hàng hóa cụ thể.

1.2 Kinh tế học vĩ mô

Định nghĩa: Kinh tế học vĩ mô là môn học nghiên cứu nền kinh tế một cách tổng thể trong mối quan hệ với
nền kinh tế thế giới.

Mục tiêu:

+ Giải thích những thay đổi kinh tế có ảnh hưởng đồng thời đến hộ gia đình, nhiều doanh nghiệp và các thị
trường.
+ Trả lời cho các câu hỏi: Tại sao lại có sự khác nhau (cao và thấp) trong thu nhập bình quân giữa các quốc
gia? Tại sao sản xuất và việc làm lại mở rộng trong một số năm và thu hẹp vào những năm khác? Tại sao lại có
sự thay đổi về giá cả trong các thời điểm khác nhau?...

+ Kinh tế học vĩ mô còn nghiên cứu những tác động của Chính phủ đến nền kinh tế: Làm thế nào Chính
phủ giảm hiện tượng lạm phát? Làm thế nào để tăng GDP hay phát triển nền kinh tế?...

Tóm lại Kinh tế học vĩ mô cung cấp cho ta những kiến thức tổng quát về nền kinh tế, liên quan đến tổng
việc làm, tổng thu nhập, tổng sản phẩm xã hội nhằm phát triển nền kinh tế.

Mối quan hệ giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô: Bởi nền kinh tế tổng thể là một tập hợp từ
nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp tương tác với nhau trên nhiều thị trường cho nền kinh tế học vi mô và kinh
tế học vĩ mô có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên việc nghiên cứu nền kinh tế trên bình diện tổng
thể đặt ra một số thách thức mới và hấp dẫn.

2. Các vấn đề kinh tế vĩ mô then chốt

II. Các nguyên lý của Kinh tế học

● Con người ra quyết định như thế nào?

Nguyên lý 1: Con người đối mặt với sự đánh đổi

Cả ba thành phần kinh tế đều phải đối mặt với sự đánh đổi: Chính phủ, Doanh nghiệp và Người tiêu
dùng.
Chính phủ đối mặt với đánh đổi giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội
+ Hiệu quả kinh tế đạt được khi: kết quả > chi phí
+ Công bằng xã hội tức là phân chia các nguồn lực hữu hạn đồng đều cho mọi người.

Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là cái mà bạn từ bỏ để có được nó


Chi phí cơ hội là giá trị của cơ hội tốt nhất bị bỏ qua khi đưa ra một sự lựa chọn.
Chi phí cơ hội gắn liền với mỗi quyết định cụ thể, vì vậy con người luôn luôn so sánh chi phí cơ hội
giữa các quyết định để có những quyết định hợp lý.

Nguyên lý 3: Con người duy lý suy nghĩ tại điểm cận biên

Nghĩa là: con người suy nghĩ để hành động tại điểm cận biên. Con người duy lí cố làm tốt nhất để đạt
được mục tiêu của họ một cách có hệ thống và có mục đích với các cơ hội sẵn có. Một người quyết định
hợp lý thực hiện một hành động khi và chỉ khi lợi ích cận biên của hành động vượt quá chi phí cận biên.

Nguyên lý 4: Con người phản ứng với các động cơ khuyến khích

Con người luôn luôn so sánh giữa lợi ích và chi phí vì vậy luôn phản ứng với những khuyến khích dẫn
đến việc thay đổi hành vi của họ trong tiêu dùng. Một sự thay đổi nhỏ về động cơ khuyến khích trong thị
trường cũng khiến người tiêu dùng phản ứng mạnh mẽ vì vậy các nhà chính sách luôn cân nhắc kỹ khi đưa
ra những quyết định về động cơ khuyến khích.

Nguyên lý 5: Thương mại có thể làm cho mọi người đều được lợi
Thương mại có thể làm lợi cho tất cả mọi người vì người ta chỉ cần tiến hành sản xuất hàng hóa và dịch
vụ có chi phí cơ hội thấp còn những hàng hóa và dịch vụ có chi phí cơ hội cao sẽ có được thông qua thương
mại thì tổng giá trị sẽ được tăng lên.
Nếu mỗi quốc gia chỉ sản xuất những hàng hóa và dịch vụ có chi phí cơ hội thấp còn lại thông qua trao
đổi thương mại thì tổng giá trị quốc dân sẽ tăng lên rất nhiều.
Nguyên lý 6: Thị trường thường là một phương thức tốt nhất để tổ chức hoạt động kinh tế

Các mô hình kinh tế trong các nền kinh tế bao gồm: mô hình kinh tế thị trường, mô hình kinh tế chỉ
huy và mô hình kinh tế hỗn hợp.
Trong đó nền kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế thành công. Thị trường tự do bao gồm nhiều
người mua bán, người bán vô số hàng hóa và dịch vụ khác nhau và tất cả mọi người quan tâm đến phúc lợi
riêng của họ. Nền kinh tế thị trường đã chứng tỏ thành công lạ thường trong việc tổ chức hoạt động kinh tế
theo hướng thúc đẩy phúc lợi kinh tế chung.

Nguyên lý 7: Đôi khi Chính phủ có thể cải thiện được kết cục thị trường

Thị trường thường tạo ra những thất bại thị trường (tình huống mà thị trường tự nó thất bại trong việc
phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả) mà bàn tay vô hình của thị trường không thể giải quyết được,
Chính phủ vẫn có khi tham gia vào việc giải quyết để cải thiện những kết cục của thị trường. Tuy nhiên
không phải lúc nào Chính phủ cũng có những chính sách phù hợp để cải thiện những kết cục của thị trường.

● Nền kinh tế vận hành như thế nào?

Nguyên lý 8: Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nước
đó.

Nguyên nhân của sự khác biệt về mức sống của những quốc gia khác nhau là do năng suất lao động
của mỗi quốc gia khác nhau – tức là số lượng hàng hóa được làm ra trong một giờ lao động của một công
nhân. Ở những quốc gia mà người lao động sản xuất được lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn trên một đơn
vị thời gian, hầu hết người dân được hưởng mức sống cao; còn ở các quốc gia có năng suất kém hơn, hầu
hết người dân phải chịu cuộc sống nghèo nàn. Tương tự, tốc độ tăng năng suất của một quốc gia quyết định
tốc độ tăng thu nhập bình quân của quốc gia đó.

Nguyên lý 9: Giá cả tăng lên khi chính phủ in quá nhiều tiền

Nguyên nhân gây ra lạm phát: Đó là sự gia tăng của lượng tiền. Khi Chính phủ tạo ra 1 lượng tiền lớn
giá trị của lượng tiền giảm, dẫn đến sự lạm phát cao.

Nguyên lý 10: Xã hội đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp
+ Tăng số lượng tiền trong nền kinh tế sẽ kích thích mức tổng chi tiêu và do đó kích thích cầu hàng
hóa và dịch vụ.
+ Cầu cao hơn theo thời gian buộc các công ty tăng giá của họ, nhưng cùng lúc đó, cầu cao cũng
khuyến khích họ thuê thêm lao động nhiều hơn và sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn.
+ Thuê lao động nhiều hơn nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn.
→ Trong ngắn hạn nền kinh tế đối mặt giữa lạm phát và thất nghiệp.

III.   Tư duy của nhà kinh tế:


Nhà
kinh
tế là
nhà
khoa
học:

Mô hình kinh tế học:

  Mô hình là một cách đơn giản để làm cơ sở cho phân tích ví dụ như các giáo viên ở các trường phổ thông
thường dùng các mô hình để cho học sinh biết được các cấu tạo cơ thể con người.

Mô hình đầu tiên: Sơ đồ chu chuyển

Nền kinh tế có hàng triệu con người tham gia vào nhiều hoạt động mua, bán, làm việc, thuê mướn, chế biến,
v.v… Để hiểu một nền kinh tế vận hành như thế nào , chúng ta phải tìm cách nào đó đơn giản hóa những suy nghĩ về
các hoạt động này. Nói cách khác, chúng ta cần một mô hình có thể giải thích xem nền kinh tế được tổ chức như thế
nào và những người tham gia trong nền kinh tế tương tác với nhau ra sao.
Sơ đồ chu chuyển: trong mô hình này hai nhóm ra quyết định là doanh nghiệp và hộ gia đình. Doanh nghiệp
sản xuất, bán hàng hóa và dịch vụ sử dụng các đầu vào như lao động, đất đai và vốn (nhà xưởng và máy móc) những
đầu vào này được gọi là các yếu tố sản xuất. Hộ gia đình sở hữu các yếu tố sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ
do doanh nghiệp sản xuất ra.

. Ở thị trường hàng hóa và dịch vụ, hộ gia đình là người mua và doanh nghiệp là người bán. Cụ thể ở thị trường
hàng hóa và dịch vụ: doanh nghiệp bán hộ gia đình mua. Ở thị trường các yếu tố sản xuất: hộ gia đình bán (cung cấp
đầu vào cho các doanh nghiệp), doanh nghiệp mua. Sơ đồ chu chuyển đưa ra cái nhìn đơn giản cách thức sắp xếp
các giao dịch xảy ra giữa các hộ gia đình và các doanh nghiệp trong nền kinh tế

Hai vòng lặp của sơ đồ chu chuyển tuy khác nhau nhưng lại có liên quan với nhau. Hộ gia đình bán sức lao
động, đất đai và vốn cho doanh nghiệp trong thị trường các yếu tố sản xuất. Vòng bên trong biểu thị cho dòng chu
chuyển của đầu vào và đầu ra. Vòng bên ngoài đại diện cho dòng tiền luân chuyển tương ứng. Hộ gia đình chi tiền
để mua hàng hóa dịch vụ từ các doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng khoản doanh thu có được để chi trả cho các
yếu tố sản xuất, như tiền lương của người lao động. Những gì còn lại là lợi nhuận của người chủ doanh nghiệp và họ
cũng là thành viên của hộ gia đình, một lần nữa nó lại vào túi của ai đó và tại đây câu chuyện của dòng chu chuyển
của nền kinh tế lại bắt đầu một lần nữa.

 Mô hình thứ hai: Đường giới hạn khả năng sản xuất

Khác với sơ đồ chu chuyển phần lớn các mô hình kinh tế được xây dựng dựa trên các công cụ toán học. Ở đây
chúng ta sử dụng mô hình đơn giản nhất để mô tả một vài ý tưởng kinh tế cơ bản: mô hình đường giới hạn khả năng
sản xuất. Mặc dù nền kinh tế sản xuất hàng ngàn loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau, chúng ta giả định một nền kinh
chỉ sản xuất hai loại hàng hóa. Đường giới hạn khả năng sản xuất là một đồ thị biểu thị những phối hợp khác nhau
của sản lượng đầu ra mà nền kinh tế có thể sản xuất.
Y

Đường giới hạn khả năng sản xuất: cho thấy những phối hợp của sản lượng đầu ra mà nền kinh tế có thể sản
xuất. Nền kinh tế có thể sản xuất ở bất kì tổ hợp nào nằm ngay trên hay trong đường giới hạn. Những điểm nằm
ngoài đường giới hạn là không khả thi đối với nguồn lực của nền kinh tế đã cho trước.

Một trong 10 nguyên lí kinh tế học là con người đối mặt với sự đánh đổi. Đường giới hạn khả năng sản xuất thể
hiện một sự đánh đổi mà nền kinh tế phải đối diện. Một khi chúng ta đã đạt đến những điểm hiệu quả trên đường
giới hạn, cách duy nhất để sản xuất thêm 1 hàng hóa này là sản xuất bớt 1 hàng hóa khác.Vd như khi nền kinh tế di
chuyển từ điểm C sang điểm A, xã hội sản xuất thêm được 100 xe nhưng phải giảm bớt đi 200 chiếc máy tính.

Đường giới hạn khả năng sản xuất cũng cho chúng ta biết chi phí cơ hội của một hàng hóa được đo lường bằng
số lượng hàng hóa khác. (chi phí cơ hội của một thứ là những tất cả những gì chúng ta phải hi sinh để có được nó)
Đường giới hạn khả năng sản xuất thể hiện sự đánh đổi giữa sản lượng đầu ra của các sản phẩm khác nhau tại
một thời điểm. Theo thời gian điều đó có thể thay đổi. Như tiến bộ của công nghệ trong ngành công nghiệp máy tính
gia tăng số lượng máy tính làm ra.

Sự dịch chuyển của đường giới hạn khả năng sản xuất: một sự tiến bộ về công nghệ trong ngành công nghiệp
máy tính cho phép nền kinh tế sản xuất ra nhiều máy tính hơn tại các mức sản lượng xe hơi cho trước. Kết quả là,
đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển ra ngoài.

● Sơ đồ chu chuyển: trong mô hình này, nền kinh tế được đơn giản hóa khi chỉ đưa vào hai nhóm ra quyết
định là doanh nghiệp và hộ gia đình. Doanh nghiệp sản xuất, bán hàng hóa và dịch vụ sử dụng các đầu vào
như lao động, đất đai và vốn (nhà xưởng và máy móc) những đầu vào này được gọi là các yếu tố sản xuất.
Hộ gia đình sở hữu các yếu tố sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra.

● Hộ gia đình và doanh nghiệp tương tác lẫn nhau trên hai thị trường. Ở thị trường hàng hóa và dịch vụ,
hộ gia đình là người mua và doanh nghiệp là người bán. Cụ thể ở thị trường hàng hóa và dịch vụ: doanh
nghiệp bán hộ gia đình mua. Ở thị trường các yếu tố sản xuất: hộ gia đình bán (cung cấp đầu vào cho các
doanh nghiệp), doanh nghiệp mua. Sơ đồ chu chuyển đưa ra cái nhìn đơn giản cách thức sắp xếp các giao
dịch xảy ra giữa các hộ gia đình và các doanh nghiệp trong nền kinh tế

Đường giới hạn khả năng sản xuất đơn giản hóa 1 nền kinh tế phức tạp để đưa ra ý tưởng tuy cơ bản nhưng rất quan
trọng : sự khan hiếm, tính hiệu quả, sự đánh đổi, chi phí cơ hội và sự tăng trưởng kinh tế. Đường giới hạn khả năng
sản xuất cho chúng ta 1 cách nhìn tổng quát đơn giản về chứng khi những ý tưởng này lặp lại ở nhiều dạng khác
nhau.

1.   
Nhà kinh tế là người tư vấn chính sách:

Thông thường, các nhà kinh tế hóc được yêu cầu giải thích những nguyên nhân của các sự kiện kinh tế. Ví dụ,
tại sao tỷ lệ thất nghiệp của lao động ở độ tuổi thanh niên cao hơn so với ở độ tuổi lớn hơn? Khi các nhà kinh tế cố
gắng giải thích điều đó, họ là những nhà khoa học. khi họ cố gắng cải thiện điều đó, họ là những người tư vấn chính
sách.

Phân tích thực chứng và phân tích chuẩn tắc:

Các nhà kinh tế đưa ra nhận định xem thế giới vận hành như thế nào?

Một cách tổng quan, các phát biểu về thế giới có 2 dạng:

Một là dạng thực chứng , như là của Polly (Polly: quy định mức lương tối thiểu gây ra thất nghiệp). Phát biểu thực
chứng mang tính mô tả, họ giải thích thế giới.
  ai là dạng chuẩn tắc, như của Norm (Norm: chính phủ nên tăng mức lương tối thiểu). Phát biểu chuẩn tắc thì mang
H
tính mệnh lệnh, họ chưa ra phát biểu về những gì thế giới nên làm.

Hai dạng này khác nhau ở chỗ chúng ta đánh giá độ tin cậy của chúng như thế nào. Phát biểu thực chứng có thể
được thừa nhận hay bác bỏ vì ta đánh giá nó qua số liệu, nhưng phát biểu chính tắc thì không thể vì nó không thể chỉ
đánh giá qua số liệu, một chính sách tốt hay tối không chỉ là vấn đề khoa học mà nó còn liên quan đến quan điểm về
dân tộc, tôn giáo hay triết lí chính trị.

Khi nghiên cứu về kinh tế học, bạn nên tách biệt giữa các phát biểu chứng và chuẩn tắc để tập trung vào nhiệm vụ
mà mình đang làm. Hầu hết kinh tế học là thực chứng vì chúng cố gắng giải thích nền kinh tế vận hành như thế nào.
Nhưng cũng có những người thường sử dụng kinh tế học cho mục đích chuẩn tắc: Họ muốn tìm hiểu xem làm thế
nào để cải thiện nền kinh tế. Khi bạn nghe nhà kinh tế đưa ra phát biểu chuẩn tắc, bạn biết họ đang phát biểu không
phải với tư cách nhà khoa học mà là người tư vấn chính sách.

Tại sao không phải lúc nào những ý kiến tư vấn của nhà kinh tế cũng được lắng nghe

Quá trình mà các chính sách kinh tế thực sự được thông qua khác rất nhiều so với quá trình các chính sách đưa ra
trong điều kiện lí tưởng được giả định trong các giáo trình kinh tế.

Khi thảo luận về chính sách kinh tế, chúng ta thường tập trung vào câu hỏi: Đâu là chính sách tốt nhất mà chính phủ
nên theo đuổi?

Trong thực tế, đưa ra một chính sách đúng đắn chỉ là một phần công việc của lãnh đạo, thỉnh thoảng đó là phần dễ
dàng nhất sau khi người lãnh đạo lắng nghe và cân nhắc tất cả các lời khuyên.

Cá nhà kinh tế đưa ra những đầu vào quan trọng vào trong quá trình ra chính sách, nhưng lời tư vấn của họ chỉ là
một phần trong quá trình phức tạp.

2.   sao các nhà kinh tế bất đồng ý kiến


Tại

Các nhà kinh tế khi được gom lại với nhau thành một nhóm thường bị chỉ trích là hay đưa ra những ý kiến tư vấn
mâu thuẫn lẫn nhau cho các nhà hoạch định chính sách.

Có hai lí do cơ bản:

●  
Các nhà kinh tế có thể bất đồng về độ tin cậy của các lí thuyết thực chứng khác nhau liên quan đến câu
hỏi nền kinh tế vận hành như thế nào.
● Các nhà kinh tế có thể có những quan điểm về giá trị khác nhau và do đó có những quan điểm chuẩn
tắc về việc thực thi chính sách cũng khác nhau.

Sự khác nhau về đánh giá khoa học

Khoa học là quá trình tìm hiểu khám phá về thế giới quanh ta. Sự tìm kiếm cứ tiếp diễn, chẳng có gì ngạc nhiên khi
các nhà khoa học có thể bất đồng trong việc xác định đâu là hướng đi đúng.

Kinh tế là một môn khoa học còn non trẻ và còn nhiều thứ để học hỏi và khám phá. Các nhà kinh tế đôi khi bất đồng
ý kiến với nhau bởi vì họ có những cảm nhận khác nhau về độ tin cậy của các lý thuyết thay thế, hoặc về độ lớn của
các tham số quan trọng được dùng để phản ánh sự tương quan giữa các biến số kinh tế.

 Khác nhau về giá trị

Các nhà kinh tế thỉnh thoảng bất đồng quan điểm trong các chính sách công. Như những gì chúng ta đã biết khi trao
đổi về phân tích chuẩn tắc và thực chứng, chính sách không chỉ được đánh giá trên nền tảng khoa học không thôi.
Thỉnh thoảng các nhà kinh tế có những gợi ý tương phản nhau bởi vì họ có những giá trị khác nhau. Ngay cả khi
khoa học kinh tế trở nên hoàn hảo, nó cũng không thể cho chúng ta biết rằng liệu chúng ta có phải đang trả quá
nhiều cho một cái gì đó hay không.

Nhận thức và thực tiễn

Do có sự khác nhau trong đánh giá khoa học cũng như khác nhau về giá trị, một vài bất đồng giữa các nhà kinh tế là
không thể tránh khỏi. Nhưng chúng ta không nên cường điệu hóa số lượng các bất đồng. Các nhà kinh tế thống nhất
ý kiến với nhau nhiều hơn chúng ta tưởng.

IV. Cung cầu và thị trường:


Kem: là sản phẩm cụ thể mà chúng ta xét trong phần này.

1. Cầu:

Đường cầu: mối quan hệ giữa lượng cầu và giá bán.

Lượng cầu của 1 loại hàng hóa là lượng hàng mà người mua có thể và sẵn lòng mua. Có nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến lượng cầu, những nhân tố chính là giá bán của hàng hóa. Nếu giá kem tăng bạn sẽ ăn ít kém hơn và
ngược lại.

Quy luật cho rằng với các yếu tố khác không đổi lượng cầu của lượng hàng hóa giảm khi giá của nó tăng lên.
Trong điều kiện mọi yếu tố khác không đổi, khi giá của hàng hóa tăng, lượng cầu của nó sẽ giảm và khi giá một
hàng hóa giảm lượng cầu của nó sẽ tăng. Đường cầu là 1 đường dốc xuống biểu thị mối quan hệ giữa giá và lượng
cầu của 1 hàng hóa.

Cầu thị trường là tổng của tất cả các cầu về một loại hàng hóa hay dịch vụ cụ thể. Nói cách khác cầu thị trường
là tổng của các cầu cá nhân theo chiều ngang. Đường cầu thị trường cho thấy tổng lượng cầu của 1 loại hàng hóa
thay đổi như thế nào khi giá của nó thay đổi trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.

Cầu cá nhân là cầu của 1 cá nhân đối với 1 sản phẩm.

Sự dịch chuyển của đường cầu:


Cầu tăng: lượng cầu tăng ở tất cả các mức giá, đường cầu dịch chuyển sang phải.

Cầu giảm: lượng cầu ở tất cả các mức giá, đường cầu dịch chuyển sang trái.

Các yếu tố là đường cầu dịch chuyển:

● Thu nhập: hàng hóa thông thường: các yếu tố không đổi, thu nhập tăng làm cầu hàng hóa đó tăng.
Hàng hóa thứ cấp: các yếu tố khác không đổi, thu nhập tăng làm giảm cầu hàng hóa đó.
● Giá hàng hóa liên quan: Thay thế: giá hàng hóa này tăng dần đến hàng hóa
kia tăng
Bổ sung: giá hàng hóa này tăng dần đến cầu hàng hóa
kia giảm

Thị hiếu: thị hiếu thay đổi cầu thay đổi

Kỳ vọng của người mua: mong đợi về giá: tương lai tăng,cầu hiện tại giảm
mong đợi về thu nhập tương lai tăng, cầu hiện tại tăng.

Số lượng người mua: tăng, cầu tăng.

2. Cung

Biểu cung của hàng hóa là mối quan hệ giữa giá thị trường của hàng hóa đó và lượng hàng hóa mà người sản
xuất làm ra và muốn bán, trong điều kiện không có sự thay đổi các yếu tố khác

Đường cung: mối quan hệ giữa mức giá và lượng cung

Lượng cung là lượng hàng hóa mà người bán có thể và sẵn lòng bán. 1 lần nữa giá cả đóng vai trò đặc biệt
trong các yếu tố quyết định đến lượng cung. Khi giá kem cao lượng cung sẽ lớn và ngược lại.

Quy luật cung cho rằng: với các yếu tố khác không đổi lượng cung của 1 hàng hóa tăng khi giá của nó tăng.
Đường cung là một đường dốc lên là đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa mức giá và lượng cung của một hàng hóa.

Cung thị trường và cung cá nhân

Cung thị trường là tổng các đường cung các nhân về một loại hàng hóa. Nói cách khác đường cung thị trường
là tổng cung cá nhân theo chiều ngang. Chúng cho thấy lượng cung thay đổi bao nhiêu khi thay đổi giá, với các yếu
tố khác không đổi.

Sự chuyển dịch của đường cung


Cung tăng: lượng cung tăng ở tất cả các mức giá, đường cung dịch chuyển sang phải

Cung giảm: lượng cung giảm ở tất cả các mức giá, đường cung dịch chuyển sang trái
Các yếu tố làm đường cung dịch chuyển:
* Giá đầu vào: giá đầu vào tăng làm cung tăng
* Công nghệ: tiến bộ công nghệ làm cung tăng
* Giá cả hàng hóa liên quan: làm cho cung thị trường tăng hoặc giảm
* Số lượng người bán: số lượng người bán tăng cung thị trường tăng
* Kì vọng của người bán: tác động vào cung hiện tại, giá được thì kì vọng tăng sẻ làm cung hiện
tại giảm.
* Thuế: nhà nước tăng thuế cung giảm

3. Cân bằng cung cầu

Cân bằng cung cầu hay cân bằng thị trường: trong tình huống mà giá trị thị trường đạt đến mức lượng cung
bằng lượng cầu khi đó đường cung và đường cầu cắt nhau.
Giá trị cân bằng (hay còn gọi là giá thị trường vì ở mức giá này tất cả mọi người trên thị trường đều hài lòng): là
mức giá có lượng cung bằng lượng cầu.
Sản lượng cân bằng là mức sản lượng ở giá cân bằng.
Kết hợp cung cầu cũng gây ra thị trường không cân bằng.

Giả sử giá trị thị trường cao hơn giá trị cân bằng sẽ gây ra dư thừa lượng cung lúc
đó lớn hơn lượng cầu. Những người bán ( ở đây là bán kem) sẽ cắt giảm giá bán theo đó sẽ làm tăng lượng cầu và
giảm lượng cung. Những thay đổi này tạo ra sự di chuyển dọc theo đường cung và đường cầu. Giá sẽ giảm cho đến
khi bằng với giá cân bằng. Và ngược lại khi giá thị trường thấp hơn giá cân bằng sẽ gây ra thiếu hụt

lượng cầu lớn hơn lượng cung. Những người bán sẽ tăng giá bán mà không bị mất doanh thu theo đó sẽ làm giảm
lượng cầu và tăng lượng cung. Những thay đổi tạo ra sự dịch chuyển dọc theo đường cung và cầu, chúng đưa thị
trường đến trạng thái cân bằng.

Vì vậy dù giá có quá thấp hay quá cao hành động của người mua và người bán sẽ đẩy giá về giá cân bằng. Hiện
tượng này được gọi là Quy luật cung và cầu.

Ba bước phân tích sự thay đổi của trạng thái cân bằng:

1. Xác định sự kiện làm dịch chuyển đường cung/cầu hay cả 2.


2. Xác định các đường dịch chuyển sang trái hay phải.
3. Dùng đồ thị cung cầu để xem sự thay đổi mức giá và sản lượng cân bằng.

You might also like