You are on page 1of 21

Câu hỏi 1: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật:

Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò
xương sống trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi xem xét, kiến giải sự
vật, hiện tượng.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm
trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách quan. Vì thế Ph.Ăngghen đã định
nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên
lý khái quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản gồm:

- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý
này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.

- Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự
vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản.

I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng

1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến:

Là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau
giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

2. Nội dung và tính chất của mối liên hệ:

– Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận
động lại là phương thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là
một tất yếu khách quan.

• Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tư duy.
• Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính
thống nhất vật chất của thế giới.

– Do mối liên hệ là phổ biến, nên nó có tính đa dạng: Các sự vật; hiện tượng trong thế giới vật chất
là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng
cần phải phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.

• Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại mối liên hệ sau: chung và
riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và
thời gian, v.v.. Sự phân loại này là tương đối, vì mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mặt
trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.

– Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ biến nhất của thế giới
khách quan. Còn những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiến cứu của các ngành
khoa học cụ thể.
3. Ý nghĩa phương pháp luận

– Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem
xét phiến diện.

• Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại
giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ
trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
• Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải
biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ
tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của
sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt
động của bản thân.
• Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không
những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối
liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ
các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt,
chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt
qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa
kinh tế đưa lại.

– Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời
gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể.

• Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật
phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra,
tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học
trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
• Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng
thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước
ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và
trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù
hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.

II. Nguyên lý về sự phát triển

1. Khái niệm phát triển


– Phát triển là sự vận động tiến lên (từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn).

– Từ khái niệm trên cho thấy:

• Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ biện
chứng với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì sự vật mới có sự vận động và phát triển.
• Cần phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển. Vận động là mọi biến đổi nói
chung, con người phát triển là sự vận động có khuynh hướng và gắn liền với sự ra đời
của cái mới hợp quy luật.
2. Nội dung và tính chất của sự phát triển

– Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế giới.
– Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa liên tục.
– Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian, thậm chí
có lúc, có sự thụt lùi tạm thời.
– Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh của
các mặt đối lập trong bản thân sự vật.

3. Phân biệt quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển

– Quan điểm biện chứng xem sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thông qua những
bước nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập ở trong
sự vật.
– Quan điểm siêu hình nói chung là phủ định sự phát triển, vì họ thường tuyệt đối hoá mặt ổn
định của sự vật, hiện tượng. Sau này, khi khoa học đã chứng minh cho quan điểm về sự phát
triển của sự vật, buộc họ phải nói đến sự phát triển, song với họ phát triển chỉ là sự tăng hay
giảm đơn thuần về lượng không có sự thay đổi về chất và nguồn gốc của nó ở bên ngoài sự vật,
hiện tượng.

4. Ý nghĩa phương pháp luận

– Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người
phải tôn trọng quan điểm phát triển.

– Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt
chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.

– Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi
lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến
đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

– Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật
ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù
hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát
triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.

– Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.

– Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử –
cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song để thực hiện được chúng, mỗi người
cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng – nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.

III. Ý nghĩa phương pháp luật của việc nắm vững hai nguyên lý này

Nguyên lý về liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần phải có quan điểm toàn diện. Với
quan điểm này, khi nghiên cứu sự vật, phải xem xét tất cả các mối liên hệ của bản thận sự vật và
với các sự vật và hiện tượng khác.
Phải phân loại các mối liên hệ để hiểu rõ vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận động
và phát triển của sự vật.
Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là vận động đi lên thì
trong nhận thực và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi: phải
phân tích sự vật trong sự phát triển, cần phát hiện được cái mới, ủng hộ cái mới, cần phải tìm
nguồn gốc của sự phát triển trong bản thân sự vật.

Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận của quan điểm toàn
diện, lịch sự cụ thể và phát triển. Với cách xem xét, nghiên cứu theo quan điểm toàn diện và phát
triển sẽ giúp ta hiểu được bản chất sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn về sự vật và hoạt
động thực tiễn có hiệu quả cao.

Câu hỏi 2: Thực tiễn và các dạng cơ bản của hoạt động thực tiễn:

I. Phạm trù thực tiễn


1. Thực tiễn là gì?
1.1. Định nghĩa:

Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích
mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”.

Ví dụ:

+ Trồng lúa, nuôi gà, buôn bán thực phẩm…

+ Xây nhà, sửa ô tô, sửa xe máy, quét rác…

+ Làm cách mạng, bầu cử, xây dựng luật pháp…

– Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận
thức mác-xít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung.

1.2. Đặc điểm cơ bản của hoạt động thực tiễn:

– Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người:

+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nói vậy tức là chỉ có con người mới
có hoạt động thực tiễn.

Con vật không có hoạt động thực tiễn. Chúng chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một
cách thụ động với thế giới bên ngoài.

Ngược lại, con người hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu
của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới.

+ Con người không thể thỏa mãn với những gì có sẵn trong tự nhiên. Con người phải tiến hành
lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động hiệu quả, con người phải
chế tạo và sử dụng công cụ lao động.
Như thế, bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo ra những vật
phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài
người không thể tồn tại và phát triển được.

Do đó, có thể phát biểu rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là
phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.

– Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử – xã hội:

Thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người mặc dù trình độ và
các hình thức hoạt động thực tiễn có những thay đổi qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động đó chỉ
có thể được tiến hành trong các quan hệ xã hội.

Thực tiễn có quá trình vận động và phát triển của nó. Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên
trình độ chinh phục tự nhiên và làm chủ xã hội của con người.

Như vậy, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử – xã hội.

2. Phân loại hoạt động thực tiễn:

Hoạt động thực tiễn gồm những dạng cơ bản sau:

2.1. Hoạt động sản xuất vật chất:

Đây là hoạt động có sớm nhất, cơ bản và quan trọng nhất. Ngay từ khi xuất hiện, con người đã
phải tiến hành sản xuất vật chất, dù là đơn giản, để đáp ứng nhu cầu tồn tại. Sản xuất vật chất
biểu thị mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và là phương thức tồn tại cơ bản của
con người và xã hội loài người. Sản xuất vật chất cũng là cơ sở cho sự tồn tại các hình thức thực
tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.
Ví dụ về hoạt động sản xuất vật chất ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, như trồng
lúa, trồng khoai, dệt vải, sản xuất giày dép, ô tô, xe máy… Đây là dạng hoạt động thực tiễn
nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì:

– Hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

– Đồng thời, dạng hoạt động này giữ vai trò quan trọng nhất, nó có quyết định các dạng khác
của hoạt động thực tiễn, là cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con
người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.

2.2. Hoạt động chính trị – xã hội:

Là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến
những quan hệ chính trị-xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển, biến đổi, cải tạo, phát triển các thiết
chế xã hội, quan hệ xã hội... thông qua các hoạt động như: đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng
dân tộc, đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội.

Ví dụ về hoạt động chính trị – xã hội là:

+ Đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội.

+ Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.

+ Thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu vùng xa.
2.3. Hoạt động thực nghiệm khoa học:

Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt; bởi lẽ con người đã chủ động tạo ra những điều kiện
không sẵn có trong tự nhiên để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục đích đã đề ra; và trên cơ
sở đó áp dụng vào sản xuất vật chất, cải tạo chính trị - xã hội, các mối quan hệ chính trị - xã hội.

Là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo
ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy
luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò trong sự phát
triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Dạng hoạt động này ra đời cùng với sự xuất hiện của các ngành khoa học. Trong thời kỳ cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay (cách mạng 4.0), hoạt động thực nghiệm khoa học ngày
càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.

Ngoài ra, các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, pháp luật, đạo đức v.v được mở
rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã hội.

=> Hoạt động thực tiễn nào quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định:

Trong 3 hình thức (hoạt động) trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quan trọng nhất, là
cơ sở cho các hoạt động khác của con người và cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người,
là loại hoạt động có vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò QUYẾT ĐỊNH đối với các hoạt động
thực tiễn KHÁC.
Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác. Các hình
thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ
thực tiễn sản xuất vật chất.
Đây là hoạt động có sớm nhất, cơ bản và quan trọng nhất. Ngay từ khi xuất hiện, con người đã
phải tiến hành sản xuất vật chất, dù là đơn giản, để đáp ứng nhu cầu tồn tại. Sản xuất vật chất
biểu thị mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và là phương thức tồn tại cơ bản của
con người và xã hội loài người. Sản xuất vật chất cũng là cơ sở cho sự tồn tại các hình thức thực
tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.
Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì:

– Hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

– Đồng thời, dạng hoạt động này giữ vai trò quan trọng nhất, nó có quyết định các dạng khác
của hoạt động thực tiễn, là cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con
người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.

II. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

Như chúng ta thường nói, nhận thức là một quá trình. Và trong quá trình này, thực tiễn có vai trò
rất quan trọng, thể hiện ở những điểm sau:

1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.

– Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:

Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực
tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ khác, ở trình độ kinh
nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Sở dĩ như vậy bởi con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được
hình thành và phát triển.

Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những
thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.

Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành so sánh, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận.

– Thực tiễn là mục đích của nhận thức:

Nói thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh, lĩnh vực gì chăng
nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục vụ thực tiễn thì không
phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.

Do đó, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.

– Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức:

Nói như vậy có nghĩa là thực tiễn cung cấp năng lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con
người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.

Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản
thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào
nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của
mình về thế giới.

Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức.

Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần
thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.

2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

– Như các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: Vấn đề tìm hiểu xem tư duy
con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một vấn đề lý
luận, mà là một vấn đề thực tiễn.

Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.

Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic. Nhưng tiêu chuẩn
logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu
chuẩn thực tiễn.

– Ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng.
Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.

+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà luôn
biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không
tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.

Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý
tuyệt đích cuối cùng.

Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện
nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ
sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.

Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏi những cực đoan
sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.

III. Bài học rút ra từ việc xác định thực tiễn là gì và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
Qua việc làm rõ thực tiễn là gì và phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, ta rút
ra quan điểm thực tiễn

– Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi
sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn.

Ví dụ:

+ Nghiên cứu cây lúa phải bám sát quá trình gieo mạ và tiến trình sinh trưởng, phát triển của cây
lúa trực tiếp trên cánh đồng, đồng thời kết hợp với những tri thức đã có về cây lúa trong những
tài liệu chuyên ngành. Ta không thể nghiên cứu về cây lúa chỉ bằng việc đọc sách, báo, tài liệu.

+ Nghiên cứu về cách mạng xã hội thì cũng không thể chỉ dựa vào sách, báo, tài liệu, mà cần
phải có cả quá trình tiếp xúc, tìm hiểu đời sống của các giai cấp, tầng lớp…

– Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ
dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.

Câu hỏi 3: Ý nghĩa và phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn:
I. Khái niệm chung:
1. Thực tiễn là gì:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính
lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể.

Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, song có thể chia thành ba loại:

– Hoạt động sản xuất vật chất;

– Hoạt động chính trị – xã hội;


– Hoạt động thực nghiệm khoa học.

Trong ba loại trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quyết định đối với các loại hoạt động
thực tiễn. Còn hoạt động chính trị – xã hội là hình thức cao nhất của thực tiễn. Hoạt động khoa
học là loại hình đặc biệt nhằm thu nhận kiến thức từ tự nhiên và xã hội.

2. Lý luận là gì:

Theo nghĩa chung nhất, lý luận là sự khái quát hóa những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp
những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy trong suốt quá trình tồn tại của nhân loại.

Như vậy, lý luận là sản phẩm cao cấp của nhận thức, là tri thức về bản chất, quy luật của hiện
thực khách quan.

Nhưng do là sản phẩm của nhận thức, nên lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn:

Thực tiễn và Lý luận luôn thống nhất biện chứng với nhau, đòi hỏi có nhau, nương tựa vào nhau,
tác động qua lại với nhau. Nếu không có thực tiễn thì không thể có lý luận và ngược lại, không có
lý luận khoa học thì cũng không thể có thực tiễn chân chính. “Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”

1. Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lý luận.

Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là hoạt động vật chất, sản xuất ra mọi thứ, còn lý luận là sản phẩm tinh
thần, phản ánh thực tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực
hóa, mới có sức mạnh cải tạo thế giới khách quan.

Là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thực tiễn là cơ sở bởi nó đã cung cấp chất liệu, cung
cấp vật liệu cho nhận thức, lý luận. Thực tiễn là động lực bởi thực tiễn luôn vận động và đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi các nhà lý luận phải giải quyết, thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển.
Tức là, thực tiễn là bệ phóng, cung cấp các nguồn lực cho lý luận. Thực tiễn còn vạch ra tiêu
chuẩn cho lý luận.

Là mục đích của nhận thức, lý luận. Hoạt động nhận thức, lý luận không có mục đích tự thân mà
phải nhằm trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng được vận dụng
vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, làm biến đổi thực tiễn. Do vậy, thước đo đánh giá giá trị của lý
luận chính là thực tiễn.

Là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của nhận thức, lý luận. Lý luận có thể phản ánh đúng hoặc
không đúng hiện thực khách quan. Để đánh giá lý luận đó đúng hay sai phải được kiểm nghiệm
thông qua thực tiễn. Thông qua thực tiễn, con người mới vật chất hoá được tri thức, hiện thực
hoá được tư tưởng, mới biết được nhận thức, lý luận của mình là đúng hay sai.

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Bản thân thực tiễn không đứng im mà luôn luôn thay đổi, do
đó, khi thực tiễn thay đổi thì tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý cũng phải thay đổi theo cho phù hợp.

2. Tuy nhiên, lý luận có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại thực tiễn.
Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực
tiễn thông qua hoạt động của con người.

Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin khẳng
định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.

Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương hướng
mới cho sự phát triển của thực tiễn.

Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng
mò mẫm, tự phát. Vì vậy, Bác Hồ đã ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.

Tuy nhiên, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao của sự phản ánh hiện thực nên lý luận có thể xa
rời thực tiễn và trở nên ảo tưởng.

Khả năng tiêu cực đó càng tăng lên nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi những tư tưởng không khoa
học hoặc phản động. Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng không được cường điệu vai trò của lý
luận, coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn.

Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng.
Như Bác Hồ đã khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.

III. Ý nghĩa phương pháp luận

– Không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, hạ thấp vai trò của lý luận trong lao động, công
tác, sản xuất.

Nếu không coi trọng vai trò của lý luận, ta sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa kinh
nghiệm. Nếu không có lý luận, ta sẽ ở vào tình trạng mò mẫm, không phương hướng, không xác
định được các chương trình, kế hoạch khả thi.

– Ngược lại, ta không được đề cao vai trò của lý luận đến mức xem nhẹ thực tiễn, rời vào bệnh
giáo điều, chủ quan duy ý chí. Việc xa rời thực tiễn sẽ đưa đến những chương trình, kế hoạch
viển vông, lãng phí nhiều sức người, sức của.

– Trong sự nghiệp Đổi Mới hiện nay, ta phải không ngừng đổi mới tư duy gắn liền với nắm sâu,
bám sát thực tiễn. Chỉ có đổi mới tư duy lý luận, gắn liền với việc đi sâu, đi sát vào thực tiễn thì
mới đề ra đường đường lối, chủ trương đúng đắn trong việc xây dựng một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh.

Câu hỏi 4: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất:

1. Khái niệm lực lượng sản xuất

+ Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ
thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của
con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ
chinh phục giới tự nhiên của con người.

+ Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó, công
cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người) và
người lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng).

Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì, tư liệu
sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và được sử dụng bởi con người).

2. Khái niệm quan hệ sản xuất

+ Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa người với
người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội).

+ Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản
lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.

Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mổì quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau
trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở hữu vể tư liệu sản xuất.

3. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng
(phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó
lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức
kinh tế của quá trình đó. Trong đòi sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá
trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn
ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không có một quá trình sản xuất
nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật
chất của nó.

Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất
với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã
hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải
có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ
chức - quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác
- sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được
duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng nhưng trong
đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở
lại lực lượng sản xuất.

Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách
quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi
giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất
còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó luôn luôn
có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có
thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không
phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển
lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có
tác dụng tiêu cực.

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm khả năng
chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp
tục phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản xuất của xã
hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển trong quá trình sản xuất và
tái sản xuất của xã hội.

Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản
xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn
tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trò là
hình thức kinh tế cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những hình thức
phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức
kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ thông nhất giữa chúng theo
nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.

Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
C. Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay
các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất,
những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc cách mạng xã hội”. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất
cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của
lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.

4. Ý nghĩa phương pháp luận

+ Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào thực trạng (tình
hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ không phải
căn cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp
cho việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.

+ Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải cách, đổi mới,...) mà cao
hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.

Ví dụ, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vào trước những năm 80 của thế kỷ XX,
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí, chưa tuân theo thật đúng yêu cầu
của quy luật này. Do đó đã dẫn đến tình trạng lực lượng sản xuất hiện có không được bảo tồn, tái
tạo và phát triển tốt. Thực tế đó là nguyên nhân căn bản và sâu xa dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế
lớn, buộc các nước này phải tiến hành những cuộc cải ách, đổi mới theo hướng tạo lập sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với thực tế trình độ phát triển lực lượng sản suất, nhờ đó lực lượng sản xuất
của xã hội từng bước được phục hồi và phát triển.
5. Nhân tố nào là cơ bản nhất trong lực lượng sản xuất, tại sao:

Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có nhân tố thuộc về người lao động (như
năng lực, kỹ năng, tri thức… của người lao động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng
lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo
thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật
chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển
của con người. Như vậy, lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó có
tính lịch sử. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự
nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự
nhiên thấp hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.

Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “người lao động” là nhân tố giữ vai trò quyết định.
Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị
và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của
người lao động. Mặt khác, trong tư liệu sản xuất nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ
nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục
giới tự nhiên.

Câu hỏi 5: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng:

I. Khái niệm
Trong lịch sử, mỗi xã hội có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất. Đó là những quan hệ
sản xuất ứng với những lực lượng sản xuất nhất định.

Phù hợp với kiểu quan hệ sản xuất đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền,
đạo đức, nghệ thuật… Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những
thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội
khác…

Các khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phản ánh sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa
những quan hệ kinh tế và những quan hệ chính trị, tinh thần được hình thành trên các quan hệ
kinh tế đó.

1. Cơ sở hạ tầng là gì?

– Cơ sở hạ tầng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, là tổng hợp những quan hệ sản xuất tạo thành cơ
cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Thông thường, cơ sở hạ tầng của một xã hội ở một giai
đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba loại quan hệ sản xuất: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản
xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống (tương lai) - trong đó, quan hệ sản xuất thống trị quy
định, chi phối các quan hệ sản xuất còn lại.

Cần phân biệt thuật ngữ cơ sở hạ tầng này với tư cách là phạm trù triết học với thuật ngữ cơ sở
hạ tầng thường sử dụng, đó là cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng trong đời sống như điện, đường,
trường, trạm... chúng chủ yếu sử dụng là nền tảng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh
hoạt và nó thuần túy là vật chất hữu hình.

– Từ thời cổ đại đến nay, trong bất cứ hình thái kinh tế – xã hội nào, bên cạnh những quan hệ sản
xuất thống trị vẫn còn tàn dư của những quan hệ sản xuất của xã hội cũ và cả mầm mống của
những quan hệ kinh tế – xã hội của tương lai.

– Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:


Quan hệ sản xuất thống trị;
Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó;
Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và quyết định tính
chất, đặc trưng của một cơ sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản xuất còn lại
cũng có vai trò nhất định.

Ví dụ:

Trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (thống
trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của xã hội trước) và quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa (mầm mống của tương lai).
– Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất.

Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của
xã hội đó. Đó là cơ sở hiện thực để trên đó con người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.

– Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì tính chất của đối kháng giai cấp và sự xung đột xã hội
bắt nguồn từ cơ sở hạ tầng.

2. Kiến trúc thượng tầng là gì?


– Kiến trúc thượng tầng hay Thượng tầng kiến trúc là một khái niệm trong chủ nghĩa duy vật lịch
sử của Marx và Ph.Ăng-ghen đưa ra dùng để mô tả toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức
xã hội cùng với các thiết chế chính trị-xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định. Theo đó, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v.

Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng,
nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng.
Mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính
trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn những yếu tố như triết học, tôn giáo,
nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì trong xã hội có giai cấp,
kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó
tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới
thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.

Ở đây, ta cần phân biệt “kiến trúc thượng tầng” trong triết học với ngành kiến trúc – xây dựng.

– Về mặt kết cấu, kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:
Những quan điểm, tư tưởng xã hội: Đó là những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…
Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước (gồm quốc hội, chính phủ, quân đội, công an,
tòa án…), đảng phái, giáo hội, hội nghề nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.
Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng. Nhưng
chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng, trong đó
nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất.

Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành tư tưởng thống trị toàn
xã hội.

– Trong xã hội có đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng gồm có:

Hệ tư tưởng và các thiết chế của giai cấp thống trị (như chủ nô, địa chủ, tư sản…);
Các quan điểm và tổ chức của giai cấp bị trị (như nô lệ, tá điền, công nhân…) đối lập với giai
cấp thống trị;
Tàn dư của các quan điểm xã hội đã lỗi thời;
Quan điểm của các tầng lớp trung gian (như trí thức, nông dân…);
v.v…
– Hệ tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của toàn bộ kiến trúc
thượng tầng.
Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư tưởng và cuộc
đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng.

II. Mối quan hệ biện chứng


Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là những yếu tố quan hệ biện chứng với nhau trong
phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đây là hai yếu tố quan trọng trong học thuyết
về hình thái kinh tế-xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan
hệ biện chứng, thể hiện ở những điểm sau:

1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.


Đó là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

– Cơ sở hạ tầng là cơ sở sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng.

Kiến trúc thượng tầng không thể khởi phát từ đâu ngoài cơ sở hạ tầng của nó. Cơ sở hạ tầng như
thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế ấy.

Quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất quyết định quan hệ về chính trị, pháp luật và tư tưởng. Do đó,
giai cấp nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì nó cũng thống trị về mặt kiến trúc thượng tầng
xã hội.

– Nếu cơ sở hạ tầng có sự thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.

Quá trình thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội
này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân mỗi hình thái kinh tế – xã
hội.

Như C. Mác đã viết:

“Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh
chóng”.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua quá trình đấu tranh giai cấp
gay go, phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng
sản xuất.

Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng,
đến lượt nó mới làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản.

2. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lên cơ sở hạ
tầng.

Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng luôn
nhấn mạnh tính độc lập tương đối và khả năng tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở
hạ tầng:

– Sự tác động của kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị – xã hội của nó.
Kiến trúc thượng tầng có chức năng bảo vệ, là công cụ đắc lực để củng cố, duy trì sự phát triển
của cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đồng thời đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và kiến trúc thượng
tầng cũ.

– Đồng thời, mỗi bộ phận, yếu tố khác nhau thuộc kiến trúc thượng tầng cũng đều có khả năng
tác động ít nhiều lên cơ sở hạ tầng. Trong đó, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, có khả
năng tác động lớn nhất và trực tiếp nhất lên cơ sở hạ tầng.

Những bộ phận đó tác động lên cơ sở hạ tầng theo những cơ chế khác nhau, bằng nhiều hình
thức khác nhau.

Tất nhiên, sự vận động của các bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng
theo một hướng duy nhất. Đôi khi, giữa các bộ phận này cũng nảy sinh tình trạng không đồng
đều, thậm chí mâu thuẫn, chống đối nhau.

– Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, kiến trúc thượng tầng, đặc biệt là nhà nước giữ vai trò đặc biệt
quan trọng.
Nếu không có chính quyền của giải cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể xây dựng
được cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ, tạo lập cơ sở
hạ tầng mới.

– Sự tác động của kiến trúc thượng tầng nếu phù hợp, cùng chiều phát triển vớ cơ sở hạ tầng thì
sự tác động đó mang lại hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

Đó là khi sự tác động của kiến trúc thượng tầng tuần theo những quy luật kinh tế, quy luật xã hội
khách quan.

Còn trong trường hợp ngược chiều (làm trái quy luật), sự tác động của kiến trúc thượng tầng lên
cơ sở hạ tầng sẽ là tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội.

– Sự tác động mạnh mẽ cua kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng là không thể nghi ngờ.
Song, nếu quá nhấn mạnh vai trò của sự tác động đó đến mức phủ nhận tính tất yếu của những
quy luật kinh tế khách quan, của sự vận động xã hội thì sẽ rơi vào sai lầm duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống xã hội là
nhân tố quyết định, nếu xét đến cùng, đối với lịch sử, nghĩa là đối với cả các lĩnh vực của văn
hóa, tinh thần nói chung.

Tuy nhiên, chúng ta không được phép hiểu sản xuất là nhân tố quyết định duy nhất. Nếu coi đó
là duy nhất thì vô hình trung đã xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa Mác.

III. Liên hệ với thực tế tình hình quá độ ở Việt Nam hiện nay

1. Cơ sở hạ tầng
– Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất
gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau.

Các hình thức sở hữu đó tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau,
nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở hữu toàn dân,
trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các thành phần kinh
gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư của
nước ngoài.

Ví dụ:
Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline, Vinamilk…
Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các địa
phương.
Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền
kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển hết mọi tiềm năng.

2. Kiến trúc thượng tầng


– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:

Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của giai cấp công
nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân dân là người làm chủ xã hội.

Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ, quân
đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để phục vụ nhân
dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân.

– Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu
thuẫn giữa chúng.

Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng
tầng là một quá trình lâu dài, gian khổ, diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

IV. Tại sao nói trong kiến trúc thượng tầng thì nhà nước giữ vai trò quyết định:
Trong mỗi chế độ xã hội, sự vận động của các bộ phận kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ
cũng đi theo cùng một xu hướng. Đôi khi, trong kiến trúc thượng tầng cũng nảy sinh tình trạng
không đồng bộ giữa các bộ phận của nó, khả năng mâu thuẩn với nhau, chống đối lẫn nhau.
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ
sở hạ tầng hiện tại, chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại sự tồn tại của chế độ
kinh tế xã hội đang thống trị. Trong việc thực hiện chức năng đó, nhà nước có vai trò đặc biệt
quan trọng, nó chi phối và trong nhiều trường hợp, quyết định khả năng tác động của các bộ
phận khác của kiến trúc thượng tầng đến toàn bộ đời sống xã hội nói chung và đến cơ sở hạ tầng
nói riêng.

Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều
kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu quyền
lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển mọi hoạt động của xã hội, thực hiện chức năng chính
trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất kỳ
nhà nước nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị,
tức là giai cấp nắm giữ được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Do vậy, trong kiến trúc thượng tầng, thì nhà nước giữ vai trò quyết định và quan trọng nhất.

Câu hỏi 6: Nội dung, quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con
người và vấn đề giải phóng con người:
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người:

a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng
định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên.
Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong
con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân
thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của quá trình
phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết
cho sự tồn tại trong đời sống tự nhhiên như thức ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là quá trình
con người đấu tranh với tự nhiên, với thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người
đã thay đổi từ vượn thành người, điều đó đã chứng minh trong các công trình nghiên cứu của
Đácuyn. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến
mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người trước hết là một
tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người
và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình
tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định
bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt
xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như
con người là động vật sử dụng công cụ lao động. Là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con
người động vật có tư duy.
Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong
bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách
toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản
xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người: “Có thể phân
biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được.
Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự
nhiên : “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự
nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt
động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của
mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu
tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân
trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người
luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các
quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất,
về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy
luật tâm lý - ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành
tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống
con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để
hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu
cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản suất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ
các giá trị tinh thần .
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học
và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất.
Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để
phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh
của con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh
học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con
người tự nhiên - xã hội .

b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội.

Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới
loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ
với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong
đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ
khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng
trong Luận cương về Phoiơbắc :“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống trong một điều kiện lịch sử
cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực
tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc,
thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ
toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt
tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người
và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của
các nhà triết học trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản
chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là duy cái duy nhất. Do đó
cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong
cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội .

c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy,
con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan
trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái
học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo
dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân
nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự
nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng
cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong
chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề
biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách
có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế
giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt
động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là
sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt
động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm
biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người
thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với
mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra . Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn
tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người .
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội
luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không
phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con
người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình
lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi
cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (
mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã
hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục
đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một
cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực
tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan
hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

2. Vấn đề giải phóng con người:


Con người là điểm xuất phát và giải phóng con người là mục đích cao nhất của chủ nghĩa Marx.
Theo Marx, triết học phải góp phần thực hiện sự nghiệp giải phóng con người. Marx đã nghiên
cứu con người hiện thực, con người thực tiễn, con người lịch sử - cụ thể; và từ đó chỉ ra lực
lượng xã hội và phương thức để giải phóng con người.

Nhưng những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người; đề cao lý tính, khẳng định các
giá trị của con người, hướng con người tới tự do là những tiền đề quan trọng cho sự hình thành
tư tưởng về con người, bản chất con người của triết học Marx.

Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò của chủ thể tích cực,
sáng tạo của con người; bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các
đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội
nhất định.

Phát huy nhân tố con người là tạo cơ hội, điều kiện để sử dụng, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần cần thiết để con người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động và hoạt
động sáng tạo nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.

You might also like