Professional Documents
Culture Documents
4.1. Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề thành nhiệm vụ tư duy
- Tình huống là một điều kiện quan trọng của tư duy, song bản thân nó không làm
nảy sinh tư duy. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người nhận thức được tình huống, lúc đó,
tình huống trở thành “có vấn đề”, tức là con người xác định được nhiệm vụ tư duy và
biểu đạt được nó.
- Tình huống có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau, mâu thuẫn giữa cái
đã biết với cái chưa biết, giữa cái đã có với cái chưa có,...Đó là mặt khách quan của tình
huống có vấn đề. Cùng một hoàn cảnh hay tình huống như nhau, trước người này có thể
nảy sinh vấn đề khi họ nhìn thấy mâu thuẫn nào đó, còn ở người khác vấn đề lại không
được nảy sinh, điều này phụ thuộc vào kiến thức, nhu cầu của mỗi cá nhân.
- Con người càng có nhiều kinh nghiệm trong một lĩnh vực nào đó, càng dễ dàng
nhìn ra một cách đầy đủ mâu thuẫn, tức là càng dễ xác định được những vấn đề đòi hỏi
họ giải quyết. Có thể nói, tình huống có vấn đề là sự sát nhập giữa các yếu tố khách
quan và chủ quan. Chính vấn đề cần giải quyết khi được xác định đã quyết định toàn bộ
các khâu sau đó của quá trình tư duy, quyết định chiến lược tư duy.Đây là giai đoạn đầu
tiên, rấy quan trọng của quá trình tư duy.
4.2. Huy động tri thức và kinh nghiệm có liên quan đến vấn đề đã xác định được
Khi đã xác định được nhiệm vụ cần giải quyết, chủ thể tư duy huy động các tri
thức, kinh nghiệm liên quan đến vấn đề cần giải quyết, nghĩa là làm xuất hiện các liên
tưởng. Việc làm xuất hiện những tri thức, kinh nghiệm có liên quan phụ thuộc vào nhiệm
vụ đã xác định, xác định đúng hướng hay lạc hướng là do nhiệm vụ xác định chính xác
hay không.
4.3. Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết
Các tri thức, kinh nghiệm và liên tưởng xuất hiện thoạt đầu mang tính chất rộng
rãi, bao trùm, chưa phân biệt nên cần được sàng lọc cho phù hợp với nhiệm vụ đặt ra. Ví
dụ, sau khi đọc đề bài thi, xác định được nhiệm vụ cần giải quyết, thoạt đầu học sinh liên
tưởng đến những phần, những chương hoặc những bài có liên quan đến đề bài. Sau đó,
các em gạn lọc dần, phân biệt những tri thức trong từng bài, từng chương đã học có liên
quan trực tiếp đến vấn đề cần giải quyết.
Trên cơ sở sàng lọc đó mà hình thành giả thuyết, tức là hình thành một phương án,
dự kiến cách giải quyết có thể có đối với nhiệm vụ tư duy. Chính sự đa dạng và độ biến
dạng rộng của các giả thuyết cho phép xem xét cùng một sự vật, hiện tượng từ nhiều
hướng khác nhau, trong các hệ thống liên hệ quan hệ khác nhau, tìm ra được con đường
giải quyết nhiệm vụ đúng đắn và tiết kiệm nhất.
4.4. Kiểm tra giả thuyết
Sự đa dạng của các giả thuyết không phải là mục đích tự thên nên phải kiểm tra
xem giả thuyết nào tương ứng với điều kiện và vấn đề đặt ra. Kết quả của sự kiểm tra sẽ
dẫn đến sự khẳng định hay phủ định hoặc chính xác hóa giả thuyết đã nêu. Trong trường
hợp giả thuyết bị phủ định thì một quá trình tư duy mới lại được bắt đầu lại từ đầu.
Trong quá trình kiểm tra giả thuyết có thể ta lại nhìn nhận lại những nhiệm vụ đó
nhưng trong một hệ thống quan hệ, liên hệ khác và do đó có thể phát hiện ra nhiệm vụ
mới còn chưa được giải quyết.
4.5. Giải quyết vấn đề (giải quyết nhiệm vụ của tư duy)
Đây là khâu cuối cùng của một quá trình tư duy. Khi giả thuyết đã được kiểm tra
và khẳng định thì nó sẽ được thực hiện, nghĩa là đi đến câu trả lời cho vấn đề được đặt ra.
Cũng có khi, sau khi giải quyết vấn đề này, lại đặt ra một vấn đề khác mà chủ thể có nhu
cầu giải quyết. Lúc đó, một quá trình tư duy mới lại bắt đầu.
Trong quá trình giải quyết nhiệm vụ, con người thường gặp nhiều khó khăn do
nhiều nguyên nhân mang lại. Có 3 nguyên nhân thường gặp là :
- Chủ thể không nhận thấy một số dữ kiện của vấn đề;
- Chủ thể đưa them vào vấn đề một điều kiện thừa;
- Tính chất khuôn sáo, cứng nhắc của tư duy ảnh hưởng đến chủ thể.
Nhà tâm lý học K.K.Platônôp đã tóm tắt các giai đoạn của một quá trình tư duy
bằng sơ đồ dưới đây :
Đây chính là logic của tư duy. Số lượng các giai đoạn có thể không cần đầy đủ
trong những một số trường hợp nhất định, nhưng thứ tự các giai đoạn phải tuân thủ theo
sơ đồ trên.
5. Các thao tác tư duy
Tính giai đoạn của quá trình tư duy chỉ phản ánh được mặt bên ngoài, cấu trúc bên
ngoài của tư duy, còn nội dung bên trong mỗi giai đoạn của quá trình tư duy lại là một
quá trình phức tạp, diễn ra trên cơ sở của những thao tác tư duy đặt biệt (thao tác trí tuệ
hay thao tác trí óc).
Xét về bản chất, tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ để
giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ đặt ra. Cá nhân có tư duy hay không chính là ở chỗ họ có
tiến hành các thao tác tư duy trong đầu óc mình hay không. Do vậy, các nhà tâm lý học
còn gọi các thao tác tư duy là những quy luật bên trong, quy luật nội tại của tư duy.
5.1. Phân tích và tổng hợp
- Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân tích đối tượng nhận thức thành những
bộ phận, những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ giữa chúng để nhận thức đối
tượng sâu sắc hơn.
- Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp nhất những bộ phận, những thuộc tính,
những thành phần đã được phân tách nhờ phân tích thành một chỉnh thể.
- Phân tích và tổng hợp có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, bổ sung cho
nhau tạo thành sự thống nhất không tách rời được : phân tích là cơ sở của tổng hợp (được
tiến hành theo hướng tổng hợp), tổng hợp diễn ra trên cơ sở phân tích.
5.2. So sánh
- So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống như hay khác nhau, sự đồng
nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các sự vật, hiện
tượng (đối tượng nhận thức).
- Thao tác so sánh liên quan chặt chẽ với thao tác phân tích – tổng hợp. Ở lứa tuổi
mẫu giáo, nhi đồng, so sánh là một con đường cơ bản để trẻ nhận thức thế giới, gọi tên
được sự vật, hiện tượng (bởi những dấu hiệu đặc trưng, khác với các sự vật, hiện tượng
khác).
5.3. Trừu tượng khóa và khái quát hóa
- Trừu tượng hóa là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ, quan thế thứ yếu không cần thiết về phương diện nào đó mà chỉ giữ
lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
- Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để bao quát nhiều đối tượng khác nhau
thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ chung nhất
định. Những thuộc tính chung mình bao gồm hai loại : những thuộc tính giống nhau và
những thuộc tính chung bản chất.
- Trừu tượng hóa và khái quát hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau, chi phối và
bổ sung cho nhau, giống như mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp nhưng ở mức độ
cao hơn.
* Trên đây là những thao tác cơ bản của tư duy. Khi xem xét chúng trong một
hành động tư duy cụ thể cần chú ý những điểm sau :
- Các thao tác tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau theo
một hướng nhất định, do nhiệm vụ tư duy quy định.
- Trong thực tế, các thao tác tư duy đan chéo nhau chứ không theo trình tự máy
móc nêu trên.
- Tùy theo nhiệm vụ và điều kiện tư duy, không nhất thiết trong hành động tư duy
nào cũng phải thực hiện tất cả những thao tác trên.
6. Các loại tư duy và vai trò của chúng
Có thể phân loại tư duy theo nhiều phương diện khác nhau như : Lịch sử hình
thành và phát triển của tư duy (chủng loại và cá thể); Phương thức giải quyết vấn đề;...
6.1. Phân loại tư duy theo lịch sử hình thành và phát triển của tư duy (chủng loại và
cá thể)
Theo phương diện này, tư duy được chia thành 3 loại :
- Tư duy trực quan – hành động.
Đây là tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ thực tế
các tình huống và nhờ các hành động được diễn ra bởi các thao tác tay chân cụ thể, nhằm
giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trực quan. Loại tư duy này có ở cả người và một số
động vật cấp cao. Ví dụ, trẻ em làm toán bằng dùng tay di chuyển các vật thật như những
que tính, những cái bút tương ứng với các dữ kiện bài toán.
- Tư duy trực quan – hình ảnh
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình
huống chỉ trên bình diện hình ảnh. Loại tư duy này chỉ có ở con người, đặc biệt là ở trẻ
nhỏ. Ví dụ, trẻ em là toán bằng cách dùng mắt quan sát các sự vật hay vật thay thế tương
ứng với các dữ kiện của bài toán.
- Tư duy trừu tượng (tư duy ngôn ngữ - logic)
Là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được dựa trên việc sử dụng khái niệm,
các kết cấu logic, tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ. Ví dụ, học sinh làm toán bằng cách
sử dụng các công thức toán học, thiết lập quan hệ logic những kiến thức đã biết để giải
quyết nhiệm vụ bài toán, tất thảy đều sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện đắc lực.
Các loại tư duy nói trên có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và chi phối lẫn
nhau. Trong đó, tư duy trực quan hành động và tư duy trực quan hình ảnh là hai loại tư
duy có trước làm cơ sở cho tư duy trừu tượng (tư duy ngôn ngữ - logic).
6.2. Phân loại tư duy theo hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết vấn đề
Dưới góc độ này, tư duy của con người trưởng thành được chia thành 3 loại :
- Tư duy thực hành
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ
thể, phương thức giải quyết là những hành động thực hành. Ví dụ, tư duy của người sửa
chữa xe máy khi gặp sự cố, người thợ sửa xe có thể kiểm tra buzi hay chế hòa khí,...để
giải quyết sự cố.
- Tư duy hình ảnh cụ thể
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đặt ra dưới hình thức hình ảnh cụ thể và việc
giải quyết nhiệm vụ cũng dựa trên những hình ảnh trực quan đã có. Ví dụ, khi ta nghĩ
xem từ trường học về nhà đi đường nào ngắn nhất chẳng hạn.
- Tư duy lý luận
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đặt ra và việc giải quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi
phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri thức lý luận. Ví dụ, sự tư duy của
học sinh khi nghe giảng trên lớp, tư duy của thầy giáo khi soạn bài.
Trong thực tế, để giải quyết một nhiệm vụ, người trưởng thành thường sử dụng
phối hợp nhiều loại tư duy, trong đó có một loại tư duy nào đó giữ vai trò chủ yếu. Ví dụ,
người công nhân sử dụng tư duy thực hành là chính, đành rằng trong qá trình làm việc họ
vẫn phải sử dụng tư duy hình ảnh và tư duy lý luận; người nghệ sĩ thiên về tư duy hình
ảnh, nhưng để xây dựng hình ảnh mới, họ sử dụng cả tư duy lý luận; nhà bác học thường
sử dụng tư duy lý luận, song nhiều khi vẫn sử dụng tư duy hình ảnh;...Như vậy, tính chất
nghề nghiệp đã làm cho con người thiên về loại tư duy nào đó hơn so với các loại tư duy
khác.
6.3. Phân loại tư duy theo mức độ sáng tạo của tư duy
Dưới góc độ này, tư duy của con người được chia thành hai loại : Tư duy angôrit
và tư duy ơritxtic.
- Tư duy angôrit là loại tư duy diễn ra theo một chương trình, một cấu trúc logic
có sẵn theo một khuôn mẫu nhất định.
Loại tư duy này có cả ở người và máy móc (tư duy máy). Tuy nhiên, tư duy của
con người khác xa về chất so với tư duy của máy móc, rôbốt. Bởi vì, dù có thông minh
đến mấy, tư duy của máy cũng do con người sáng tạo ra.
- Tư duy ơritxtic là loại tư duy sáng tạo, có tính chất cơ động linh hoạt, không theo
một khuôn mẫu cứng nhắc nào cả và có liên quan đến khả năng trực giác và khả năng
sáng tạo của con người.
Các loại tư duy nêu trên có thể bổ sung cho nhau, giúp con người nhận thức sâu
sắc và đúng đắn thế giới.