You are on page 1of 40

MỤC LỤC

CHƯƠNG 2. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG....................................................................................2


A. TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN..........................................................................................................................2
(BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN - PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT)..........................................................2
I. NHỮNG NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ THẾ GIỚI2
1. Nguyên lý và sự phân loại của nguyên lý...............................................................................................2
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến..........................................................................................................2
II. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.......................6
1. Khái niệm và phạm trù............................................................................................................................6
2. Vật chất – Ý thức.....................................................................................................................................8
3. Nguyên nhân – Kết quả.........................................................................................................................27
4. Bản chất và hiện tượng..........................................................................................................................31
III. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT........................34
1. Quy luật, tính quy luật và đặc điểm của quy luật...............................................................................34
2. Sự phân loại của quy luật......................................................................................................................35
3. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập......................................................................35
4. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng đến những thay đổi về chất và ngược lại..........38
5. Quy luật phủ định của phủ định (thảo luận).......................................................................................40
CHƯƠNG 2. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
(TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN VÀ TRIẾT HỌC VỀ NHẬN THỨC)

A. TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN


(BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN - PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT)

TỔNG QUAN SƠ ĐỒ “TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN”

I. NHỮNG NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ THẾ GIỚI
1. Nguyên lý và sự phân loại của nguyên lý
1.1. Khái niệm “Nguyên lý”
Nguyên lý là hệ thống lý luận căn bản của một học thuyết khoa học làm nền tảng cho học thuyết
khoa học đó. Đó là hệ thống lý luận phản ánh nhận thức tổng quát của một khoa học về phạm vi, lĩnh
vực mà nó nghiên cứu, được quan niệm như những chân lý chắc chắn, thực hiện chức năng nhận thức,
giải thích thể giới và định hướng hoạt động của con người.
1.2. Sự phân loại của nguyên lý
Nguyên lý đặc thù (Nguyên lý của các khoa học): Là nguyên lý khái quát những thuộc tính, đặc
điểm cơ bản, trật tự và cơ chế điều hành, chi phối sự tồn tại và biến đổi của một phạm vi, lĩnh vực nhất
định của thế giới. Tri thức chứa đựng trong các nguyên lý này là tri thức chuyên biệt, chuyên nghành,
có giới hạn, chỉ giải thích được cho các đối tượng trong một phạm vi, lĩnh vực xác định.
Nguyên lý phổ biến (Nguyên lý triết học): Là nguyên lý khái quát những thuộc tính, đặc điểm cơ
bản, tổng quát của toàn bộ thế giới. Tri thức chứa đựng trong các nguyên lý này là tri thức tổng quát,
phổ quát, giải thích được toàn bộ thế giới một cách cơ bản nhất, bản chất nhất.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
2.1. Quan điểm phi Mác-xít về mối liên hệ:
Các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái
gì quy định mối liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó ta thấy có nhiều quan điểm khác nhau :
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: các sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập, tách rời nhau, cái này tồn tại
bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Hoặc
nếu thừa nhận có liên hệ thì đó chỉ là liên hệ bề ngoài, thụ động, một chiều, giữa các hình thức liên hệ
không có sự chuyển hóa lẫn nhau.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: ý thức, cảm giác của con người
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan: một lực lượng siêu nhiên, thần linh, thượng đế, ...
2.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối liên hệ
2.2.1. Khái niệm “Mối liên hệ”, “Mối liên hệ phổ biến”
Mối liên hệ là một khái niệm triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau; sự
làm tiền đề, điều kiện tồn tại cho nhau; sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm triết học dùng để chỉ tính tồn tại phổ quát của sự ràng buộc, quy
định, phụ thuộc lẫn nhau, của sự làm tiền đề, điều kiện tồn tại cho nhau, của sự tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau trong toàn bộ thế giới.
2.2.2. Các tính chất của mối liên hệ
+ Tính khách quan: Là thuộc tính vốn có của thế giới, của sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào
nhận thức, hiểu biết của con người.
Theo Ăngghen: Mối liên hệ tồn tại khách quan, không phải con người tưởng tượng ra những mối
liên hệ từ trong đầu óc mà là phát hiện ra những mối liên hệ đó từ trong bản thân những sự thực”
+ Tính phổ biến: Mối liên hệ tồn tại phổ quát trong mọi phạm vi, lĩnh vực khác nhau của thế giới.
+ Tính phong phú, đa dạng: Mối liên hệ vô cùng phong phú, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ về dạng
thức (hình thức), phương thức, vị trí và vai trò, tác dụng. Tính phong phú, đa dạng của mối liên hệ phụ
thuộc vào tính phong phú, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của các sự vật, hiện tượng làm thành thế giới.
+ Tính tác dụng: Mối liên hệ quy định sự tồn tại, vận động và biến đổi của vật chất, của sự vật hiện
tượng.
2.2.3. Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
+ Mọi sự vật, hiện tượng, mọi yếu tố bộ phận, mọi giai đoạn quá trình đều có mối liên hệ với
nhau, đều ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau, đều làm tiền đề, điều kiện cho nhau, đều tác động
qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
+ Mối liên hệ là phương thức, là điều kiện quy định sự tồn tại hay không tồn tại của mọi sự vật,
hiện tượng, mọi yếu tố bộ phận, mọi giai đoạn, quá trình. Thông qua mối liên hệ, bằng mối liên hệ, do
mối liên hệ, sự tồn tại hay không tồn tại của sự vật hiện tượng mới bộc lộ ra; sự vật hiện tượng mới
biểu hiện ra nó là gì, như thế nào và phân biệt với các sự vật hiện tượng khác.
+ Tổng thể của các mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, giữa các yếu tố bộ phận, giữa các giai
đoạn quá trình đan xen chằng chịt, quy định lẫn nhau và tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Nó tạo
nên một bức tranh tổng quát về mối liên hệ phổ biến của toàn bộ thế giới.
Kết cấu cơ bản của bức tranh tổng quát về mối liên hệ phổ biến gồm:
- Về dạng thức (hình thức) liên hệ: vật chất - ý thức, cái chung – cái riêng, nguyên nhân – kết
quả, tất nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất – hiện tượng, khả năng – hiện thực.
- Về phương thức (cách thức): Các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau qua cách thức: trực tiếp –
gián tiếp, bên trong – bên ngoài, bên trên – bên dưới, chiều dọc – chiều ngang, ...
- Về vị trí, vai trò của mối liên hệ: các mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vật, hiện
tượng; đó là: cơ bản – không cơ bản, chủ yếu – thứ yếu, bản chất – không bản chất, tất nhiên – ngẫu
nhiên, ...
Theo Ăngghen: “trước nhất chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối
liên hệ và những sự tác động qua lại trong đó không có cái gì là đứng nguyên, không thay đổi mà tất cả
đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi”
+ Cơ sở của các mối liên hệ hiện thực giữa các sự vật hiện tượng, giữa các yếu tố, bộ phận, các
giai đoạn, quá trình là tính thống nhất vật chất của thế giới. Thế giới thống nhất ở tính vật chất, tính
thống nhất vật chất quy định các dạng thức, phương thức, vị trí, vai trò của mối liên hệ. Không có tính
thống nhất vật chất của thế giới, thì không có bất kì mối liên hệ nào giữa các sự vật, hiện tượng.
2.2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
+ Nguyên tắc liên hệ: Mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ với nhau nên trong nhận thức và
trong hoạt động thực tiễn cần phải đặt sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ của chúng.
+ Nguyên tắc toàn diện: Phải nghiên cứu xem xét đầy đủ tất cả các mối liên hệ của sự vật hiện
tượng; Phải nắm bắt tính hệ thống, tính tổng hòa, tính bao quát của các mối liên hệ muôn vẻ của sự vật
hiện tượng; Phải xem xét mọi tri thức đạt được về mối liên hệ chỉ là các tầng bậc, cấp độ, trình độ khác
nhau.
Theo Lênin: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, các mối liên hệ, quan hệ gián tiếp của nó”.
+ Nguyên tắc lịch sử - cụ thể: Phải đặt sự vật hiện tượng vào trong thời gian, không gian cụ thể;
xem xét toàn diện nhưng không được “cào bằng” mà phải biết phân biệt từng mối liên hệ; phải nắm bắt
và nhận diện được khuynh hướng “chiết trung” và thuật “ngụy biện” là hai phương pháp nhận thức sai
lầm về mối liên hệ của sự vật hiện tượng.
3. Nguyên lý về sự phát triển
3.1. Quan điểm phi Mác-xít về sự phát triển
+ Hình thức phát triển:
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: xem phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng,
không có sự thay đổi về chất; phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước
quanh co.
+ Nguồn gốc của sự phát triển:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: ý thức, cảm giác của con người
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan: một lực lượng siêu nhiên, thần linh, thượng đế, ...

3.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về sự phát triển
3.2.1.Khái niệm “phát triển”:
Vận động là khái niệm triết học dùng để chỉ mọi sự biến đổi, mọi sự thay đổi, mọi sự khác đi, trở
nên khác đi không như trước đó trên mọi phương diện: vị trí, hình thái, kết cấu, chiều hướng, quỹ đạo,
số lượng, chất lượng, trình độ ... của mọi sự vật, hiện tượng.
Phát triển là khái niệm triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của mọi sự vật, hiện tượng.
3.2.2. Các tính chất của phát triển
+ Tính khách quan: Phát triển là thuộc tính khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, không tách
rời sự vật, hiện tượng.
+ Tính phổ biến: Phát triển là khuynh hướng tồn tại, có mặt trong toàn bộ tổng thể thế giới, trong
mọi phạm vi lĩnh vực khác nhau trong tự nhiên, trong xã hội, trong nhận thức tư duy, trong tâm lý tình
cảm của con người.
+ Tính phong phú, đa dạng: Phát triển vô cùng phong phú, đa dạng, muôn màu muôn vẻ về hình
thức, nội dung và về tính chất, trình độ.
+ Tính kế thừa: Sự phát triển luôn kế thừa những giá trị tốt đẹp của cái cũ, chỉ loại bỏ cái lỗi thời,
lạc hậu.
3.2.3. Nội dung của nguyên lý về sự phát triển
+ Mọi sự vật hiện tượng đều vận động, biến đổi, chuyển hóa từ hình thức tồn tại này sang hình
thức tồn tại khác. Không có sự vật hiện tượng nào giữ nguyên tình trạng như nó là, không có sự vật
nào bất biến. Tất cả đều không ngừng biến đổi và biến đổi là tuyệt đối, tồn tại là nhất thời, tương đối.
+ Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật hiện tượng. Phát triển là quá trình biến đổi,
mở rộng mọi mặt, mọi phương diện… theo hướng đa dạng hơn, phức tạp hơn có tổ chức hơn nhưng
tiến bộ hơn, tiên tiến hơn và chất lượng hơn. Đó là quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
+ Phát triển là một quá trình biện chứng có quy luật, tuân theo quy luật nhưng không giản đơn
mà quanh co, phức tạp. Đó là quy trình sự vật hiện tượng tự vạch đường đi cho mình thông qua tác
động của các yếu tố, bộ phận cấu thành của chính sự vật, hiện tượng. Phát triển diễn ra theo đường
xoáy trôn ốc, trong đó sự vật hiện tượng dường như lặp lại cái ban đầu, cái xuất phát nhưng trên một
trình độ cao hơn.
3.2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển
+ Nguyên tắc vận động: Muốn nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng phải nhận thức chúng
trong trạng thái vận động biến đổi của chúng chứ không phải trong trạng thái bất biến, tĩnh tại, ngưng
trệ.
+ Nguyên tắc mâu thuẫn: Phát triển là kết quả của cuộc đấu tranh giữa các yếu tố, bộ phận đối
lập bên trong sự vật, hiện tượng vì vậy muốn nhận thức được, tiên đoán được sự vật hiện tượng phải
nhận thức được các yếu tố, bộ phận, các mặt, các thuộc tính đối lập bên trong của các sự vật, hiện
tượng.
Theo Lênin: “Sự phân đôi cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó, đó là thực
chất của phép biện chứng”, “sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”
+ Nguyên tắc biện chứng: Phát triển không diễn ra theo con đường thẳng tắp, không theo
đường tròn khép kín mà theo đường xoáy ốc, quanh co, phức tạp… nên phải nắm được biện chứng
phức tạp của quá trình vận động, phát triển của sự vật hiện tượng và phải có niềm tin vào sự phát triển
tất yếu của sự vật, hiện tượng.

II. NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Khái niệm và phạm trù
1.1. Khái niệm và các bộ phận cấu thành của khái niệm
Khái niệm: là những kí hiệu ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp theo một cách thức nhất định, được
con người sử dụng như những công cụ, phương tiện để biểu đạt nhận thức trừu tượng hay nhận thức lý tính
về thế giới, về các sự vật, hiện tượng.
Các bộ phận cấu thành của khái niệm:
Nội hàm: là tri thức hàm chứa bên trong khái niệm, tri thức làm thành nội dung của khái niệm.
Đó là tri thức biểu đạt, khái quát những thuộc tính, đặc điểm cơ bản của sự vật, hiện tượng.
(Nội hàm trả lời câu hỏi: Khái niệm đang phản ánh đối tượng nào?)
Ngoại diên: Là phạm vi biểu đạt, khái quát của khái niệm, là miền xác định hay biên giới của
khái niệm trong đó tập hợp, chứa đựng các sự vật hiện tượng có cùng thuộc tính, đặc điểm được nội
hàm biểu đạt khái quát.
(Ngoại diên trả lời câu hỏi: Khái niệm phản ánh bao nhiêu đối tượng?)

1.2. Phạm trù và sự phân loại của phạm trù


Phạm trù: là những khái niệm biểu đạt nhận thức trừu tượng hay nhận thức lý tính của con
người về một phạm vi, lĩnh vực nào đó của thế giới
Xét về mặt nguồn gốc: Phạm trù cũng như khái niệm là kết quả của quá trình nhận thức thế
giới, nhận thức các sự vật hiện tượng của con người, là sự trừu xuất từ thế giới bên ngoài, từ vật chất
tồn tại bên trong con người.
Xét về mặt trình độ khái quát, phản ánh: Phạm trù và khái niệm khác nhau ở trình độ, cấp độ
khái quát phản ánh. Phạm trù khái quát, phản ánh những thuộc tính, những đặc điểm, những mối liên
hệ cơ bản nhất của một lớp sự vật hiện tượng trong khi khái niệm chỉ khái quát phản ánh những thuộc
tính, đặc điểm cơ bản của một sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể.
Xét về vai trò: Cả phạm trù và khái niệm đều là phương thức biểu đạt, nhận thức, hiểu biết của
con người về thế giới, về các sự vật hiện tượng, chúng đều là những nấc thang biểu đạt chất lượng
nhận thức, trình độ nhận thức của con người về thế giới.
Sự phân loại của phạm trù:
Phạm trù của các khoa học: Phạm trù khoa học hay phạm trù của các khoa học là những khái
niệm biểu đạt nhận thức, hiểu biết của con người về những thuộc tính, đặc điểm cơ bản nhất của một
lớp sự vật hiện tượng thuộc một phạm vi, lĩnh vực cụ thể của thế giới vật chất nói chung. Đó là các
phạm trù của các khoa học như vật lý học, hóa học, sinh vật học, kinh tế học,…
Trong vật lý có các phạm trù như: khối lượng, năng lượng, gia tốc, vận tốc,… Trong hóa học có
các phạm trù như: đơn chất, hợp chất, liên kết hóa học, phản ứng hóa học,…Trong sinh vật học có các
phạm trù như: thực vật, động vật, di truyền, biến dị, giống, loài, họ,…Trong kinh tế học có các phạm
trù như: hàng hóa, giá trị, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, tái sản xuất, tuần hoàn tư bản, …
Phạm trù triết học: Là những khái niệm biểu đạt nhận thức, hiểu biết của con người về những
thuộc tính, đặc điểm cơ bản nhất, những mối liên hệ cơ bản nhất của toàn bộ, tổng thể thế giới.
Trong triết học có các phạm trù như: vật chất, ý thức, vận động, không gian, thời gian, lý luận,
thực tiễn, chân lý, nguyên nhân, kết quả, cái riêng, cái chung, mâu thuẫn, chất lượng, độ, phủ định, tồn
tại xã hội, ý thức xã hội, cá nhân, con người,…
Các phạm trù của triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải của một phạm vi, một lĩnh vực, một miền nhất
định nào đó của hiện thực như những phạm trù của các khoa học chuyên nghành mà của toàn bộ thế
giới hiện thực nói chung (bao gồm cả tự nhiên, xã hội, tư duy). Thật vậy bất kỳ sự vật nào dù sự vật đó
thuộc tự nhiên hay xã hội, thuộc vật lý học hay hóa học hay sinh học và dù do các khoa học nào đó
nghiên cứu cũng đều ở trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa, đều có nguyên nhân xuất hiện
của mình, đều có sự thống nhất của cái riêng và cái chung, số lượng và chất lượng, nội dung và hình
thức, bản chất và hiện tượng, đều chứa các khả năng phát triển thành cái khác. Nghĩa là đều chứa
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ…. được phản ánh trong các phạm trù của phép biện
chứng duy vật. Vì vậy không một ai, một khoa học nào có thể tránh được việc vận dụng các phạm trù
triết học vào trong nhận thức và hoạt động của họ. Việc nắm vững, thấm nhuần các khái niệm, phạm
trù triết học có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động trong bất cứ lĩnh
vực công tác nào.

2. Vật chất – Ý thức


2.1. Phạm trù “vật chất”
2.1.1. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
* Hoàn cảnh ra đời định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã xuất hiện cùng với sự ra đời của triết học và nó
cũng có quá trình phát sinh, phát triển gắn liền với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người. Ngay từ khi mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đó diễn ra cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Các nhà duy tâm, dù duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan đều cho vật chất là sản phẩm
của ý thức, tinh thần hay của những lực lượng siêu nhiên.
+ Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học duy vật đó cố gắng giải thích vật chất trên tinh thần duy
vật. Các nhà triết học duy vật thời cổ đại, nhìn chung đã đồng nhất vật chất nói chung với những
dạng tồn tại cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
- Ở Ấn Độ cổ đại:
Trường phái triết học Sàmkhya sơ kỳ quan niệm rằng thế giới là vật chất, thế giới có nguyên
nhân vật chất, vật chất đầu tiên là Pràkriti.
2 phái Nyàya – Vai’sesika cho rằng bản nguyên duy nhất, đầu tiên của thế giới là những hạt nhỏ
vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng,
tồn tại trong một môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian, được gọi là Anu (nguyên tử).
Theo quan niệm của những nhà triết học Lokàyata, thế giới được tạo ra từ 4 yếu tố vật chất: đất,
nước, lửa, không khí.
Trong quan niệm về thế giới, khi đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô thường”, Phật giáo cũng nêu ra
quan niệm về vật chất. Theo lý thuyết của đạo Phật, “thế giới, nhất là thế giới hữu tình (con người)
được tạo thành do sự hợp lại của các yếu tố vật chất (Sắc) và các yếu tố tinh thần (Danh) bao gồm: thụ
(cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (tư duy nói chung), thức (ý thức).
- Trong triết học Trung Quốc thời cổ đại:
Thuyết Âm Dương cho rằng khởi thuỷ của mọi vật là Thái cực, từ đó sinh ra mọi vật (tự nhiên
và xã hội), phân tán thì muôn phần khác nhau, thống nhất thì muôn phần là một.
Thuyết Ngũ hành coi năm yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là những yếu tố khởi nguyên tạo
nên mọi vật.
- Trong triết học Hy Lạp cổ đại:
Thales (Talét) cho rằng vật chất là nước,
Anaximenes (Anaximen) cho rằng vật chất là không khí,
Heraclitus (Hêraclít) cho vật chất là lửa;
Empedocles (Ămpêđoclơ) đã coi thực thể của thế giới là bốn yếu tố: đất, nước, lửa và
không khí;
Anaximander (Anaximăngđrơ) cho rằng cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một
dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn, đó là Apeiron (Apâyrôn).
Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất của
Leucippus (Lơxíp) and Democritus (Đêmôcrít). Hai ông định nghĩa vật chất là nguyên tử, căn nguyên
của mọi vật là nguyên tử. Nguyên tử là những hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác
nhau về chất, mà chỉ khác nhau về hình dạng, tư thế và trật tự sắp xếp. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn,
không do ai sáng tạo ra và cũng không thể bị huỷ diệt. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới là do sự kết
hợp và phân giải của các nguyên tử mà thành.
Tuy còn hạn chế như quy vật chất về một dạng cụ thể của vật chất, nhưng học thuyết nguyên tử là
một bước phát triển mới trên con đường hình thành phạm trù vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết
học mới cho nhận thức khoa học về vật chất sau này.

+ Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là trong thế kỷ XVII – XVIII: Niềm tin vào các chân lý cơ
học trong cơ học Newton (Niutơn) đã khiến các nhà khoa học lúc đó đồng nhất vật chất với khối
lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc của vận động được
coi là nằm ở bên ngoài vật chất, từ đó dẫn tới thừa nhận “cái hích của Thượng đế”. Đồng thời, kế thừa
quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn tiếp tục coi nguyên tử là những
phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận
động, không gian và thời gian.
Như vậy, họ vẫn đồng nhất vật chất với các vật thể cụ thể, cảm tính; họ không coi vật chất có
sinh ra, mất đi. Hạn chế này chứa đựng cuộc khủng hoảng tiềm tàng với những mâu thuẫn to lớn trong
quan niệm về vật chất trong tương lai khi những phát minh mới trong khoa học tự nhiên xuất hiện vào
khoảng những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

+ Khủng hoảng trong quan niệm về vật chất vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học đã có một loạt
phát minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới về cấu trúc và tính chất của vật
chất trong lĩnh vực vi mô, đã làm thay đổi căn bản quan niệm cổ truyền về vật chất:
- Năm 1895, Wilhelm Röntgen (Rơnghen) đã phát hiện ra tia X.
- Năm 1896, Henri Becquerel (Beccơren) phát hiện được hiện tượng phóng xạ của nguyên tố
Uranium; rằng, do quá trình phóng xạ, sau khi bức xạ ra hạt anpha (), nguyên tố phóng xạ biến thành
nguyên tố khác.
- Năm 1897, Joseph John Thomson (Tômxơn) phát hiện ra điện tử (electron) và chứng minh
rằng, điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.
- Năm 1901, Walter Kaufmann đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất
biến mà nó biến đổi theo vận tốc của điện tử rằng, trong quá trình vận động: khối lượng của điện tử
tăng khi vận tốc của nó tăng.
Tất cả những phát minh ấy đưa lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc về nguyên tử
rằng, nguyên tử có cấu trúc phức tạp, nó không phải là đơn vị nhỏ nhất, mà nó có thể bị phân ra và
chuyển hoá. Điều đó đã gây ra một cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong các nhà triết học và khoa
học tự nhiên, khiến cho những nhà khoa học "giỏi khoa học nhưng kém cái về triết học" đã trượt từ chủ
nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng rơi vào quan điểm
của chủ nghĩa duy tâm rằng, "vật chất tiêu tan". Lợi dụng cơ hội này, các nhà triết học duy tâm, một
mặt đã biện hộ cho những quan điểm sai lầm của mình; mặt khác, họ đẩy mạnh cuộc tấn công trực diện
vào khái niệm vật chất. Họ la lối lên rằng, nếu nguyên tử bị phá vì tức là "vật chất tiêu tan" và chủ
nghĩa duy vật dựa trên nền tảng khái niệm vật chất đó cũng phải bị biến mất theo.
Bác bỏ sự giải thích duy tâm chủ nghĩa đối với phạm trù vật chất, V.I. Lênin chỉ ra rằng, không
phải là vật chất tiêu tan mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái
mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức về vật chất. Trên cơ sở phân tích một
cách sâu sắc và khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; kế thừa những tư tưởng
của Mác và Ăngghen về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất vật chất của
thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể, ... vào
năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin đã đưa ra
một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất, một định nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại
vẫn thừa nhận.

* Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:


Vào năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin
đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác"

* Nội dung khoa học của định nghĩa vật chất của Lênin
+ “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan”:
Phạm trù vật chất là một trong nhiều phạm trù của triết học. Phạm trù “vật chất” được dùng như
một công cụ, phương tiện ngôn ngữ để biểu đạt thực tại khách quan. Vì vậy phạm trù “vật chất” là cái
biểu đạt và thực tại khách quan là cái được biểu đạt, hay đối tượng được biểu đạt.
- Cái biểu đạt (Phạm trù “vật chất”) là cái thuộc về chủ thể nhận thức, là tư duy con người,
thuộc về cái tinh thần bên trong con người.
- Cái được biểu đạt (Thực tại khách quan) là cái thuộc về khách thể nhận thức, là cái tồn tại bên
ngoài chủ thể nhận thức, bên ngoài con người.
Phạm trù “vật chất” biểu hiện trình độ nhận thức, trình độ khái quát sáng tạo của tư duy con
người về thực tại khách quan tồn tại bên ngoài con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Vật chất với tư cách như vậy (với tư cách là khái niệm, là phạm trù) là sự
sáng tạo thuần túy của tư duy con người, là một điều thuần túy của tư duy trừu tượng. Chúng ta bỏ qua
những sự khác nhau về chất của những sự vật khi chúng ta tập trung với tư cách là những vật tồn tại
hữu hình vào khái niệm vật chất”.
+ “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác…”:
Thực tại khách quan (cái tồn tại bên ngoài con người) là nguồn gốc đưa đến những cảm giác ở
con người, thực tại khách quan đó khi đi vào các giác quan của con người làm hình thành nên những
cảm giác ở con người vì vậy thực tại khách quan là nguyên nhân của những cảm giác có ở con người.
Thực tại khách quan là cái vật chất bên ngoài con người vì vậy là cái có trước, cái sinh ra và
quyết định cái cảm giác của con người. Cái cảm giác của con người là cái có sau, cái do thực tại khách
quan sinh ra và quyết định. Vì vậy, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Theo V.I.Lênin: “Thực tại khách quan là nguồn gốc của các cảm giác của con người”.
+ “Thực tại khách quan ... được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”:
Thực tại khách quan là cái được phản ánh hay cái được cảm giác của con người phản ánh, vì
vậy thực tại khách quan là cái được phản ánh hay đối tượng được phản ánh và cái cảm giác của con
người là cái phản ánh.
Thực tại khách quan (cái được phản ánh) là cái nguyên bản, là bản gốc của cái cảm giác, cái
cảm giác (cái phản ánh) là phiên bản, là bản sao của cái thực tại khách quan (cái được phản ánh)
Theo V.I.Lênin: “Không có cái bị phản ánh thì không thể có cái phản ánh nhưng cái bị phản
ánh tồn tại một cách độc lập đối với cái phản ánh”. “Thế giới bên ngoài được phản ánh vào trong ý
thức của chúng ta”.
+ “Thực tại khách quan ... tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”:
Thực tại khách quan là cái tồn tại bên ngoài con người, bên ngoài cảm giác của con người,
không phụ thuộc vào cảm giác của con người. Thực tại khách quan tồn tại tự nó, do nó, bởi nó và vì
nó; thực tại khách quan tồn tại không do, không vì, không bởi các cảm giác của con người, không bị
điều kiện hóa, bị ràng buộc bởi các cảm giác của con người. Thực tại khách quan tồn tại kể cả khi
không có con người, không có cảm giác của con người.
Theo V.I.Lênin: “Sự tồn tại của vật chất không phụ thuộc vào cảm giác”; “thế giới bên ngoài
được phản ánh vào ý thức của chúng ta, vẫn tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta”.

* Giá trị khoa học của định nghĩa vật chất của Lênin:
Giá trị đối với triết học:
Định nghĩa vật chất của V.I Lênin đã giải quyết một cách triệt để hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Về mặt bản thể luận: Vật chất là tồn tại đầu tiên, thứ nhất, tồn tại có trước; ý thức là tồn tại thứ
hai, tồn tại có sau. Tồn tại vật chất sinh ra và quyết định tồn tại ý thức, tồn tại tư duy; tồn tại ý thức, tư
duy phụ thuộc vào tồn tại vật chất.
Về mặt nhận thức luận: Tồn tại vật chất là nguồn gốc, đưa đến quá trình nhận thức, tìm hiểu,
nắm bắt của con người. Con người hoàn toàn có thể hiểu biết, nhận thức được thế giới; thế giới là nhận
thức được, là hiểu biết được.
Giá trị đối với lịch sử triết học: Định nghĩa vật chất đã khắc phục được những hạn chế cơ bản
của các quan điểm, quan niệm duy vật trước đây về vật chất, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật siêu hình,
máy móc
Định nghĩa vật chất của Lênin đã khẳng định vật chất không phải là một vật thể cụ thể, cảm tính
nào đó, cũng không phải là một thuộc tính cụ thể của một vật thể cụ thể nào đó. Vật chất là tất cả
những gì tồn tại khách quan bên ngoài con người, độc lập với ý thức của con người; không phụ thuộc
vào cảm giác, ý thức của con người.
Giá trị đối với các khoa học: Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã chỉ ra sự khác nhau giữa
phạm trù “vật chất” trong triết học với phạm trù “vật chất” trong các khoa học cụ thể.
Phạm trù “vật chất” trong triết học khái quát đặc tính chung nhất của mọi vật thể, vật chất. Đặc
tính chung nhất này là đặc tính tồn tại độc lập khách quan với cảm giác, ý thức của con người; không
phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người.
Phạm trù “vật chất” trong các khoa học cụ thể dùng để chỉ các vật thể, vật chất cụ thể, các kết
cấu vật chất cụ thể, các thuộc tính đặc điểm riêng lẻ cụ thể.
Với sự phân biệt như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin giúp các nhà khoa học an tâm,
vững bước đi sâu nghiên cứu vật chất trong các phạm vi lĩnh vực riêng lẻ cụ thể. Những khám phá,
phát hiện mới của các khoa học về một thuộc tính, đặc điểm nào đó của các vật thể, vật chất không làm
thay đổi một sự thật được triết học chỉ ra là: tất cả các vật thể, vật chất cùng với các thuộc tính, đặc
điểm riêng lẻ cụ thể của chúng đều tồn tại độc lập khách quan với cảm giác, ý thức của con người.
2.1.2. Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất - Vận động, không gian,
thời gian
a. Vận động
+ Khái niệm:
Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường hiểu vận động là sự di chuyển vị trí của sự vật
trong không gian. Tuy nhiên, sự phát triển của thực tiễn và của nhận thức khoa học cho thấy rằng, nếu
hiểu vận động chỉ theo nghĩa như vậy là hạn hẹp và không đầy đủ (siêu hình).
Theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
Ph. Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất – tức được hiểu là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
+ Đặc tính của vận động:
Vật chất chỉ có thể tồn tại và biểu hiện sự tồn tại thông qua vận động. Trong vận động và thông
qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của nó, chỉ ra nó là cái gì. Không thể có
vật chất không vận động và ngược lại không thể có sự vận động nào lại không phải là vận động của vật
chất, không thuộc về vật chất.
=> Do đó, vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất.
Với tính cách “là thuộc tính cố hữu của vật chất” theo quan điểm của triết học Mác – Lênin,
vận động là sự tự thân vận động của vật chất. Nguồn gốc của vận động nằm ngay trong bản thân
sự vật, do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập bên trong sự vật quy định.
Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là một thuộc tính không thể
tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra, mà chỉ chuyển
hoá từ hình thức vận động này sang hình thức vận động khác.
Kết luận này của triết học Mác – Lênin đã được khẳng định bởi Định luật bảo toàn chuyển hoá
năng lượng. Theo định luật này, vận động của vật chất được bảo toàn cả về lượng lẫn chất. Nếu một
hình thức vận động nào đó của vật chất mất đi, tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế.
Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với
sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
+ Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản sau:
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
- Vận động vật lý (vận động của các điện tử, phân tử, hạt cơ bản, các quá trình nhiệt điện, ...)
- Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất)
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường)
- Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội, các hình thái kinh tế – xã hội)
Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như trên, cần chú ý
nguyên tắc quan hệ giữa chúng là:
- Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là
sự khác nhau về trình độ của sự vận động. Những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật
chất.
- Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong
nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức vận động thấp không có khả
năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn.
- Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau.
Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ
bản.
+ Vận động và đứng im:
Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà còn bao
hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối. Đứng im là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn
định tương đối.
Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật cụ thể nào tồn tại và phát triển
được. Đứng im tương đối là điều kiện chủ yếu để một vật này tách biệt được với một vật khác.
Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối (hay là trạng thái cân bằng tạm thời của sự
vật trong quá trình vận động của nó) là:
Thứ nhất, hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không
phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải
với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng,
trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật, một cây, một con, ... trong khi nó còn là nó
chưa bị phân hoá thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển
hoá tiếp theo. Không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả. Do đó đứng im còn được biểu
hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi.
=> Tóm lại, vận động là tuyệt đối và vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời. Đây cũng là một
trong những quan điểm xuất phát cơ bản của phép biện chứng duy vật.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
- Nghiên cứu sự vật hiện tượng cần đặt chúng trong cả trạng thái vận động và trạng thái đứng im
- Đi tìm nguồn gốc, động lực của sự vận động của sự vật, hiện tượng cần xuất phát từ chính bản
thân sự vật, hiện tượng
- Nắm vững sự thống nhất, mối liên hệ biện chứng giữa các hình thức vận động, đồng thời cũng
phải hiểu rõ sự khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản.
- Không được quy vận động nói chung về một hình thức vận động nhất định
- Phải thấy được rằng vận động là tuyệt đối và vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời
b. Không gian và thời gian
Trong triết học Mác – Lênin, cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian là những
phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại, hình thức tồn tại của vật chất.
Lênin đã nhận xét rằng: “trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất
đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại khách
quan đều có vị trí, hình thức kết cấu, độ dài ngắn, cao thấp của nó - tất cả các thuộc tính đó gọi là
không gian và không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và cách biệt giữa các sự vật, hiện tượng với nhau,
biểu hiện quảng tính, trật tự phân bố của chúng. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái không
ngừng biến đổi, nhanh, chậm, kế tiếp nhau và chuyển hóa lẫn nhau- tất cả những thuộc tính đó gọi là
thời gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất thể hiện ở độ lâu của sự biến đổi; trình tự xuất
hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất; thời gian cũng đặc trưng
cho trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá
trình đó.

c. Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất và quan hệ biện
chứng giữa chúng
* Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất
Hình thức tồn tại (hình thái Phương thức tồn tại Diễn biến tồn tại (vận động, biến
biểu hiện sự tồn tại) của vật (Cách thức duy trì sự đổi, chuyển hóa) của vật chất
chất tồn tại) của vật chất
Phương diện cơ học: Biến đổi cơ học:
+ Các vật vĩ mô: Chất rắn, + Liên hệ tương tác cơ + Biến dạng cơ học (hình dáng, kích
chất lỏng, chất khí. học giữa các vật vĩ mô, thước, diện tích bề mặt) của các vật
+ Các vật đại vĩ mô: quả đất, đại vĩ mô và hệ thống thể.
địa quyển các hành tinh, các các vật đại vĩ mô bằng + Biến đổi chuyển hóa từ chất rắn
vệ tinh, các ngôi sao. lực hấp dẫn vũ trụ và sang thể lỏng, từ chất lỏng và chất
+ Hệ thống các vật đại vĩ mô: trường hấp dẫn khí và ngược lại.
Ngân hà, thiên hà, siêu thiên (Định luật vạn vật hấp + Biến đổi vị trí:
hà, siêu siêu thiên hà. dẫn của Newton) Sự chuyển động và thay đổi vị trí
trong không gian của các vật thể, các
hành tinh, các ngân hà, thiên hà
Phương diện vật lý: Biến đổi vật lý:
+ Nhiệt (sự nóng lạnh của vật + Liên hệ tương tác vật Biến đổi cơ năng thành nhiệt năng,
thể, ...) lý hoặc trực tiếp hoặc điện năng, hóa năng, bức xạ năng.
+ Điện (electron) gián tiếp bằng các lực
+ Từ (vật liệu có khả năng hút vật lý (lực nhiệt, lực
sắt vào lòng quay kim đồng điện, lực từ, lực ánh
hồ: FeO, Fe2O3 sang, lực nén, lực đẩy,
+ Ánh sáng (1 dạng bức xạ lực ma sát, …) giữa
của điện từ) các tia sang: hồng nhiệt, điện từ, ánh sáng,
ngoại, tử ngoại. … qua các trường vật lý
+ Trường (thực thể truyền của chúng (trường hấp
tương tác): trường điện từ, dẫn, trường điện từ,
trường song, trường giao thoa, trường sóng, ...)
trường hạt nhân, …
+ Plasma (trạng thái Ion hóa
cao độ của các vật thể có mật
độ điện tích âm và điện tích
dương bằng nhau).
Phương diện hóa học: Biến đổi hóa học:
+ Các hạt vi mô hay các hạt + Liên hệ, tương tác hóa + Biến đổi thành phần cấu tạo của
nhân và các phản hạt: Proton, học giữa các hạt vi mô, các chất, biến đổi phân tử, nguyên
Nơtron, Nơtrino, Muyon. các phân tử, nguyên tử, tử.
+ Spin (đặc trưng lượng từ các đơn chất, hợp chất, + Biến đổi bức xạ năng thành các
của các hạt cơ bản và hạt … bằng các lực: lực dạng năng lượng khác.
nhân) tương tác giữa nguyên tử + Biến đổi các đơn chất, hợp chất do
+ Phân tử (hạt bền vững và bé và phân tử trung hòa sự hoá hợp và phân giải của các chất
nhỏ của một chất) điện (Lực Vanderwalls, (từ đơn chất thành hợp chất và hợp
+ Nguyên tử (hạt nhỏ nhất của các liên kết hóa học, liên chất thành các đơn chất, ...
một nguyên tố hóa học) (hạt kết ion, liên kết cộng
nhân và điện tử) hóa trị), lực tương tác
giữa các phân tử (có liên
kết hóa học bão hòa
Phương diện sinh học: Biến đổi sinh học:
+ Các thể protid: protid đơn + Liên hệ tương tác giữa + Biến đổi tế bào, biến đổi kiểu gen,
giản (Anleumin, Prolaumin, các protid, các tổ chức biến đổi kiểu hình (cơ thể, màu sắc,
histron), protid phức tạp sinh vật với môi trường hình dáng cơ thể).
(Cromoproteil, Nucleotid, bên ngoài (đất, nước, + Biến đổi các giống loài thực vật để
glucoproteil), Các acid ánh sáng, nhiệt độ, thích nghi với sự biến đổi của môi
nucleic: ADN, ARN, các vi không khí, độ ẩm) trường, hoàn cảnh.
sinh vật, vi khuẩn, vi trùng, + Liên hệ tương tác giữa + Sự phát triển tiến hóa của các loài
siêu vi trùng các yếu tố bộ phận bên thực vật, động vật (từ thấp đến cao,
+ Các thể đơn bào, đa bào, trong cơ thể sinh vật, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém
thực vật, động vật. thực vật động, quần xã hoàn thiện đến hoàn thiện hơn).
sinh học.
Phương diện xã hội: Biến đổi xã hội:
+ Các hệ thống xã hội và các + Liên hệ tương tác giữa + Biến đổi thành phần cấu tạo của xã
thành phần tạo nên chúng: cá nhân, nhóm người, hội: cá nhân, nhóm người, cộng đồng
con người, nhóm người, cộng cộng đồng người qua các người.
đồng người, xã hội loài người, hoạt động trên mọi lĩnh + Biến đổi, thay thế lẫn nhau của các
xã quyển. vực. hình thái kinh tế - xã hội.
+ Các phương tiện vật chất + Liên hệ tương tác giữa + Sự phát triển của văn minh vật
máy móc thiết bị kỹ thuật của lực lượng sản xuất, quan chất, sự tiến bộ của xã hội.
xã hội. hệ sản xuất, trong các xã
hội cụ thể, hình thái kinh
tế xã hội cụ thể.

* Quan hệ biện chứng giữa hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật
chất
+ Vật chất là một thể thống nhất biện chứng của ba mặt:
- Về hình thức tồn tại: Vật chất tồn tại khách quan nhưng không tồn tại thần bí mà tồn tại dưới
dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể có các đặc trưng tự nhiên của chúng được các khoa học cụ thể khám
phá, phát hiện, khái quát.
- Về phương thức tồn tại: Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp qua môi
trường tương tác của nó.
- Về diễn biến tồn tại: Vật chất vận động, biến đổi, chuyển hóa, phát triển.
+ Mỗi hình thức tồn tại của vật chất có phương thức tồn tại riêng, có diễn biến tồn tại riêng của
nó. Chúng luôn luôn liên hệ, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
+ Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ, tương tác, vận động biến đổi và thông qua chúng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy, vật chất gắn liền với liên hệ, tương tác, vận động; liên hệ, tương tác,
vận động gắn liền với vật chất.
+ Vật chất tồn tại khách quan, không tự sinh ra không tự mất đi. Vật chất chỉ biến đổi, chuyển
hóa từ hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại này sang hình thức tồn tại, phương thức
tồn tại, diễn biến tồn tại khác. Vật chất được bảo toàn, các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn
biến tồn tại được bảo toàn. Vật chất tồn tại vĩnh viễn, vận động tồn tại vĩnh viễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vật chất là thể thống nhất biện chứng, không tách rời nhau của ba mặt: Hình thức tồn tại,
phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại. Vì vậy, muốn nhận thức khách quan, khoa học, đúng đắn về
vật chất chúng ta phải nhận thức đầy đủ cả ba mặt đó của vật chất. Tách rời và tuyệt đối hóa một mặt
nào là sai lầm về mặt phương pháp nhận thức và là con đường dẫn đến chủ nghĩa duy vật siêu hình
hoặc chủ nghĩa duy tâm thần bí.
- Vật chất tồn tại dưới các hình thức cụ thể. Mỗi hình thức tồn tại có phương thức và diễn biến
tồn tại riêng và chúng có quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy:
+ Cần nhận thức sự khác nhau giữa các hình thức tồn tại của vật chất, phân biệt sự khác nhau về
chất giữa chúng. Không được đồng nhất các hình thức tồn tại, các phương thức tồn tại và các diễn biến
tồn tại với nhau. Không được quy hình thức vận động này vào hình thức vận động kia. Không được
quy mọi hình thức vận động về một hình thức vận động.
+ Cần nắm bắt được sự thống nhất biện chứng, mối liên hệ, sự tác động qua lại, sự biến đổi,
chuyển hóa lẫn nhau của các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất.
2.2. Ý thức
2.1.1. Khái niệm và kết cấu của ý thức
- Khái niệm: Ý thức là phạm trù triết học dùng để biểu đạt thực tại chủ quan tồn tại trong bộ óc
người, biểu đạt các quá trình tâm lý – tư tưởng làm thành đời sống tinh thần của con người.
- Kết cấu của ý thức: Với tư cách là thực tại chủ quan, ý thức có cấu trúc rất phức tạp. Theo
triết học Mác – Lênin ý thức chia theo 2 chiều:
+ Theo chiều ngang: Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực
đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí, ...; trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất.
+ Theo chiều dọc: Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận
thức được các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức, ... Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố
khác hợp thành ý thức, quy định tính phong phú, nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người.
2.1.2. Nguồn gốc của ý thức
a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu khoa học, nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng, ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, mà ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng
không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
người
+ Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động
ý thức chỉ diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh trong bộ óc người. Không có quá trình này thì
không thể có ý thức, và nói chung không có bất kỳ một hoạt động tâm lý, ý thức, tư tưởng nào. Chỉ có
con người với bộ óc của mình mới sản sinh ra ý thức.
(Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội, sau
quá trình vượn biến thành người, óc vượn biến thành óc người. Bộ óc người là một tổ chức vật chất
sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi, phức tạp, bao gồm khoảng 14 – 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào
thần kinh này có liên quan mật thiết với nhau và với các giác quan con người, tạo thành vô số những
mối liên hệ qua lại với thế giới bên ngoài thông qua các quá trình phản xạ không điều kiện và có điều
kiện).
Nhưng, nếu chỉ có riêng bộ óc, không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh
lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Đặc điểm của ý thức là tồn tại như một đặc tính không thể
tách rời khỏi óc người.
+ Ý thức là quá trình phản ánh khái quát và có chọn lọc về thế giới khách quan, nhằm hình
thành trong óc người những quan niệm, tư tưởng.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc tính này được biểu
hiện ra trong sự tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động, đồng thời bao hàm quá
trình thông tin.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ vô sinh đến hữu sinh và đến xã hội, cuối cùng nảy sinh ra ý thức. Mỗi quá trình phát triển
của vật chất có một hình thức phản ánh tương ứng:
Thứ nhất, hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là những phản
ánh vật lý, hóa học. Những phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn.
Thứ hai, trong giới tự nhiên hữu sinh, sự phản ánh đó phát triển lên một trình độ cao hơn là phản
ánh sinh học.
Phản ánh sinh học hình thành trên cơ sở phản ánh vật lý, hoá học. Đây là hình thức phản ánh
mới về chất chỉ có ở cơ thể sống – thế giới thực vật và thế giới động vật, gắn liền với quá trình chuyển
hóa biện chứng từ thế giới vô sinh sang thế giới hữu sinh. Phản ánh sinh học được biểu hiện ở những
trình độ khác nhau như:
- Phản ánh kích thích: xuất hiện ở những thực vật và động vật bậc thấp.
Phản ánh kích thích là khả năng trả lời của cơ thể trước những tác động của môi trường trên cơ
sở của sự chọn lọc. Nhờ tính kích thích mà cơ thể thực vật hay động vật bậc thấp có thể thích nghi với
môi trường.
- Phản ánh cảm ứng: xuất hiện ở những loài động vật có năng lực cảm giác. Khi các sự vật từ
môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể có thể phản ứng lại trước những tác động
đó.
Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối liên hệ giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được thực
hiện thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
- Phản ánh tâm lý: đó xuất hiện ở những loài động vật bậc cao có hệ thần kinh trung ương phát
triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện.
Ở phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác và biểu tượng. Phản ánh tâm lý đem lại
cho con vật những thông tin về sự vật và ý nghĩa của những thông tin ấy có liên quan tới đời sống con vật.
Tâm lý động vật là trình độ cao nhất của sự phản ánh ở động vật. Tuy nhiên, tâm lý động vật
chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể
và do quy luật sinh học chi phối.
Thứ ba, Phản ánh ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ
nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý thức là
ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.
Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội dung của nó
là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh.
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan phản
ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài
lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
=> Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội
Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng chính lao động và ngôn ngữ là hai nguồn gốc xã hội
quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
+ Loài vật tồn tại nhờ những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên – “giới tự nhiên thứ nhất”. Khác
với loài vật, con người tồn tại không chỉ nhờ những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên mà chính con
người phải tạo ra những cái mà tự nhiên chưa có, trên cơ sở hoạt động lao động cải tạo lại giới tự
nhiên “giới tự nhiên thứ nhất”.
Nhờ hoạt động lao động mà con người tạo ra “giới tự nhiên thứ hai”, phản ánh thế giới khách
quan, đồng thời hoàn thiện dần bản thân con người. Hoạt động lao động của con người, đồng thời còn
là phương thức hình thành và phát triển ý thức.
Sự hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người
tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu,
những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định, và các hiện tượng ấy tác động
vào bộ óc người, hình thành dần những tri thức về thế giới. Quá trình này ngày càng làm phong phú và
sâu sắc ý thức của con người về thế giới.
=> Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con
người, làm biến đổi thế giới đó.
=> Có thể nói khái quát rằng, lao động tạo ra ý thức, tư tưởng hoặc nguồn gốc cơ bản của ý
thức, tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động của
con người.
+ Trong quá trình hoạt động của con người, ngay từ ban đầu đó có sự liên kết những thành viên
xã hội bởi mục đích chung, xuất hiện nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm với nhau. Chính nhu cầu
khách quan đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là
hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có ngôn ngữ sẽ không có ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện
giao tiếp vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ mà phản ánh ý thức mới có thể thực hiện được sự
phản ánh khái quát, trừu tượng hoá; kinh nghiệm hiểu biết của người này được truyền cho người kia,
thế hệ này cho thế hệ khác.
Ăngghen coi “lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu
đó ảnh hưởng đến bộ óc của vượn người, làm cho bộ óc đó dần dần chuyển biến thành bộ óc của con
người”, tâm lý động vật chuyển thành ý thức.
Tóm lại, nguồn gốc trực tiếp và có ý nghĩa quyết định sự ra đời của ý thức là lao động và cùng
với lao động là ngôn ngữ. Đó là nguồn gốc xã hội của ý thức.

* Sơ đồ tham khảo về nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức:
2.1.3. Bản chất của ý thức
Dựa trên lý luận phản ánh của mình, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết một cách khoa
học vấn đề bản chất của ý thức.
Trước Mác, các nhà duy vật đều thừa nhận sự vật, vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự
phản ánh sự vật đó. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình nên nhiều nhà duy vật
trước Mác đó coi ý thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc sự vật mà không thấy được tính
năng động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh. Trái lại các nhà duy tâm lại
cường điệu tính năng động sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất, chứ không phải là
sự phản ánh của vật chất.
Khác với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh coi
ý thức, về bản chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng
tạo hiện thực khách quan của óc người
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện nhưng nó không
còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người.
Theo C. Mác: “ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người và
được cải biến đi trong đó”.
+ Ý thức là thực tại phi vật chất, là thực tại không có cấu tạo vật chất. Ý thức là cái tinh thần
không khối lượng, không trọng lượng, không màu sắc, không mùi vị. Ý thức không phải là thực tại đơn
nhất, bất biến, vĩnh cửu mà là thực tại đa dạng, sống động, biến đổi liên tục (miên viễn).
Theo V.I. Lênin: “Cho rằng tư tưởng và vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thì điều
đó là đúng nhưng gọi tư tưởng là có tính vật chất là đi một bước sai lầm đến chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm”
+ Ý thức là sự phản ánh tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn
giản, máy móc. Ý thức là sự thống nhất biện chứng của ba mặt: trao đổi thông tin giữa chủ thể và
khách thể phản ánh, mô hình hóa thành hình ảnh tinh thần, hiện thực hóa hình ảnh tinh thần.
Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản chất, quy
luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả năng biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của
sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
Theo V.I. Lênin: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra
thế giới khách quan”.
+ Ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý, không phải là hiện tượng siêu nhiên thần
bí, ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với
hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy
luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với
tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Theo C. Mác: “Ngay từ đầu, ý thức là sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người
còn tồn tại”, “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là tồn tại được ý thức và tồn tại của con
người chính là quá trình sinh sống của con người”.
Sơ đồ “Bản chất của Ý thức”

2.2.3. Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức


Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó
vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động trở lại vật chất.
Sơ đồ về quan hệ biện chứng giữa vật chất và và ý thức
Quyết định

Vận động Khuynh


khách quan hướng Vận
Vật Ý thức
chất động (Thực
(Thực Liên hệ Nội dung tại chủ
tại khách quan phản ánh quan)
khách
quan)
Tồn tại Hình thành,
khách quan xuất hiện

Tác động, chi


phối, ảnh hưởng

a. Vai trò của vật chất đối với ý thức


Thứ nhất, vật chất quyết định sự hình thành, xuất hiện của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây
từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp
của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất
nhiên, ý thức - một thuộc tính bộ phận của con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các
thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người;
vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một
dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc
vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của
thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức
mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc
con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách
quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của
loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh. "Ý thức không bao giờ có thể là cái gì
khác hơn là sự tồn tại được ý thức". Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của
hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và
độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới
văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định khuynh hướng vận động của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất
thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính xã hội
ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người
cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và
khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của họ cũng đơn
sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con
người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú. Con người
không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả
trong tương lai, trên cơ sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn
là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Khi sản xuất xã hội xuất
hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời
nguyên thuỷ. Trong nền sản xuất tưbản, tính chất xã hội hoá của sản xuất phát triển là cơ sở để ý thức
xã hội chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển không ngừng lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trò
của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý
thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa;
đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận thức luận, cần
quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý
nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề
nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không
còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối". Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất
và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và thuộc tính của
chính nó.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống”
riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức
một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi
nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự
biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm
chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì
không thể biến đổi được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết
những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực
hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần
chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên
không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần
chúng".
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có
thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh
đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành
nên những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần
động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội.
Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày
nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai
trò của tri thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ
quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ
quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương
pháp luận là nguyên tắc khách quan và nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan.
+ Nguyên tắc khách quan:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta
đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan, nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu
quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi
đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện
tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ
bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy
vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng.
+ Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan:
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư
tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý
thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng
cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong
điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện
phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức
khoa học.
3. Nguyên nhân – Kết quả
3.1. Khái niệm Nguyên nhân và Kết quả
Khái niệm Nguyên nhân và Kết quả phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật,
hiện tượng trong hiện thực khách quan.
- Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một
sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, gây ra những biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động qua lại
giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra.
* Lưu ý:
+ Thông thường nguyên nhân được hiểu là hiện tượng A mà tác động của nó gây nên, làm biến
đổi hay kéo theo sau nó hiện tượng khác – hiện tượng B. Trong trường hợp này A được gọi là nguyên
nhân, còn B được gọi là kết quả.
Có thể coi đây là mức độ hiểu biết ban đầu về mối liên hệ nhân quả. Nếu tìm hiểu sâu sắc hơn
về nguyên nhân thực sự của B ta thấy không phải bản thân hiện tượng A, mà chính là sự tác động của
nó, hay chính xác hơn, sự tác động qua lại của nó với các hiện tượng C, D, E ... nào đó mới chính là cái
dẫn đến sự xuất hiện hiện tượng B.
+ Không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật hoàn toàn khác nhau. Hiểu như vậy
sẽ dẫn đến chỗ cho rằng nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng nào đấy luôn nằm ngoài sự vật, hiện
tượng đó và cuối cùng nhất định sẽ phải thừa nhận rằng nguyên nhân của thế giới vật chất nằm ngoài
thế giới vật chất, tức nằm ở thế giới tinh thần.
* Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện:
- Nguyên cớ là những sự vật hiện tượng xuất hiện đồng thời với nguyên nhân, nhưng nó chỉ là
quan hệ bề ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết quả.
- Điều kiện là môi trường để nguyên nhân xảy ra, những sự vật hiện tượng gắn liền với nguyên
nhân tác động vào nguyên nhân, làm cho nguyên nhân phát huy tác động, nhưng điều kiện không trực
tiếp sinh ra kết quả.
* Tính chất của mối liên hệ nhân quả:
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan vốn có của bản thân thế
giới, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức là mối
liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong đầu
óc mình.
- Tính phổ biến: Mối liên hệ nhân quả tồn tại rộng khắp trong mọi phạm vi, lĩnh vực khác nhau
của thế giới, không loại trừ phạm vi, lĩnh vực nào. Tất cả đều có mỗi liên hệ nhân quả, thế giới xét đến
cùng là quan hệ nhân quả
- Tính tất yếu:
+ Có nguyên nhân thì có kết quả, có kết quả thì có nguyên nhân, không thế có nguyên nhân mà
không có kết quả hoặc ngược lại có kết quả mà không có nguyên nhân
+ Nguyên nhân và kết quả chỉ xảy ra khi có, khi gắn với điều kiện hoàn cảnh nhất định, tập hợp
của những điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến sự hình thành, xuất hiện của nhân quả
+ Tập hợp các điều kiện hoàn cảnh tác động càng giống nhau bao nhiêu, càng ít khác nhau bao
nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên càng ít khác nhau bấy nhiêu
3.2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Thứ nhất, quan hệ nhân quả là quan hệ chế ước, chế định lẫn nhau giữa 2 mặt nhân và
quả, trong đó:
+ Cái nguyên nhân và cái kết quả gắn liền với nhau, ràng buộc nhau, quy định và phụ thuộc lẫn
nhau. Cái trở thành nguyên nhân được xác định là nguyên nhân chỉ trong mối liên hệ với cái kết quả.
Cái trở thành kết quả, được xác định là kết quả chỉ trong mối liên hệ với cái nguyên nhân.

+ Cái nguyên nhân là cái tạo tác, cái sinh thành, cái quyết định. Cái kết quả là cái được tạo tác,
được sinh thành, được quyết định.
Quan hệ nhân quả là sản sinh, trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả, nguyên nhân có trước kết
quả, kết quả được nguyên nhân sinh ra, là cái có sau, cái phụ thuộc vào nguyên nhân.

+ Cái nguyên nhân tạo tác, sinh thành, quyết định cái kết quả nhưng cái kết quả tác động trở lại,
ảnh hưởng trở lại, chi phối trở lại cái nguyên nhân.
Quan nệ này vì vậy là quan hệ tương hỗ.

Thứ hai, quan hệ nhân quả là quan hệ biến thiên (biến đổi), liên lập (xác lập mối liên hệ),
miên viễn (liên tiếp, nối tiếp) giữa hai mặt nhân và quả, trong đó:
+ Cái nguyên nhân và cái kết quả không cố định, bất biến mà luôn luôn thay đổi, chuyển hóa và
tương liên với nhau. Nhân biến thì quả biến, quả biến thì nhân biến. Nhân quả đồng biến cùng nhau, đi
theo nhau, gắn liền với nhau.

+ Nhân quả có thể thay đổi vị trí cho nhau: trở thành nguyên nhân trong mối liên hệ này nhưng
trở thành kết quả trong mối liên hệ kia và ngược lại. Vị trí là nguyên nhân hay là kết quả được xác định
theo tiến trình tác động cụ thể và xét trong các mối quan hệ cụ thể của sự vật.
+ Nhân quả tương tác liên tục thành chuỗi tác động không đầu, không đuôi. Các sự vật, hiện
tượng vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau, làm trung gian cho nhau.

Theo Ăngghen: “Nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau. Cái ở đây hay bây
giờ là kết qủa, thì ở chỗ khác lại là nguyên nhân và ngược lại”.

Thứ ba, quan hệ nhân quả là quan hệ phi tuyến (không phải tuyến tính), phi đối (không
phải đối xứng) giữa 2 mặt Nhân và Quả, trong đó:
+ Cấu trúc “Nguyên nhân” và cấu trúc “Kết quả” không phải là một cấu trúc đồng bộ. Trong
mọi mối liên hệ nhân quả, trong mọi trường hợp, trong các phạm vi, lĩnh vực khác nhau thì cấu trúc
“nhân quả” khác nhau.
+ Các nguyên nhân có vị trí, vai trò khác nnhau trong tiến trình hình thành kết quả: có nguyên
nhân tác động bên trong, có nguyên nhân tác động bên ngoài; có nguyên nhân tác động trực tiếp, có
nguyên nhân tác động gián tiếp; có nguyên nhân tác động trường kỳ, có nguyên nhân tác động gián
đoạn; có nguyên nhân cơ bản chủ yếu, có nguyên nhân không cơ bản thứ yếu; có nguyên nhân khách
quan, có nguyên nhân chủ quan.
Kết quả một mặt phụ thuộc vào các nguyên nhân, mặt khác phụ thuộc vào các điều kiện môi
trường hoàn cảnh trong đó xảy ra sự tác động.
+ Không phải ứng với một nguyên nhân là một kết quả, ứng với một kết quả là một nguyên
nhân. Một nguyên nhân có thể tạo tác sinh thành nhiều kết quả, một kết quả có thể được tạo tác , gây ra
bởi nhiều nguyên nhân.
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan gắn liền với toàn bộ tổng thể các sự vật, hiện tượng
của thế giới. Vì vậy, muốn tìm kiếm nguyên nhân thì phải tìm ngay trong thế giới, ngay trong sự vật
hiện tượng.
Mối liên hệ nhân quả có tính phổ biến tồn tại trong toàn bộ tổng thế các sự vật, hiện tượng của
thế giới. Thế giới xét đến cùng là nhân quả. Vì vậy, trong nhận thức thông thường cũng như trong nhận
thức khoa học, không cần phải đặt vấn đề có hay không có, tồn tại hay không tồn tại nguyên nhân mà
chỉ có vấn đề làm thế nào, bằng cách nào để nhận diện, xác định được và đúng nguyên nhân của mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới.
Mối liên hệ nhân quả có tính tất yếu, có nguyên nhân thì có kết quả, có kết quả thì có nguyên
nhân. Vì vậy phải dựa vào tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả để hành động. Muốn loại bỏ một hiện
tượng (kết quả) nào đó phải loại bỏ nguyên nhân đã sinh ra nó, muốn làm cho một hiện tượng (kết quả)
nào đó xuất hiện thì phải tạo những điều kiện cần thiết cho nguyên nhân phát huy tác dụng.

4. Bản chất và hiện tượng


4.1. Khái niệm “Bản chất” và “Hiện tượng"
- Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
- Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ những biểu hiện của những mặt, những mối
liên hệ ấy ở bên ngoài
* Lưu ý: Phân biệt phạm trù bản chất với phạm trù cái chung và phạm trù quy luật:
- Phạm trù bản chất gắn liền với cái chung, nhưng không đồng nhất với cái chung. Có cái chung
là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất. “Cái tạo nên bản chất của một lớp sự vật nhất
định cũng đồng thời là cái chung của các sự vật đó. Tuy nhiên không phải mọi cái chung đều là bản
chất. Chỉ có những cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và vận động của sự vật mới là bản
chất”.
- Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng bậc. Tuy nhiên bản chất và quy
luật không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của
bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn phạm trù quy
luật.
4.2. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
* Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm
Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã không giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng
giữa bản chất và hiện tượng, vì họ không thừa nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại khách quan của
bản chất và hiện tượng.
- Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, bản chất không tồn tại thật sự, bản
chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa dặt ra, còn hiện tượng dù tồn tại nhưng đó chỉ là tổng
hợp những cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ quan của con người.
- Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại thực sự của bản chất
nhưng đó không phải là của bản thân sự vật mà theo họ đó chỉ là những thực thể tinh thần.
-> Chúng không được khoa học và thực tiễn thừa nhận.
* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Trái với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả bản chất và hiện tượng
đều tồn tại khách quan và là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra. Bởi vì bất kỳ sự vật nào
cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên
hệ khách quan, chằng chịt, đan xen. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định.
Những mối liên hệ đó tạo nên bản chất nội tại của sự vật.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện
tượng, mà còn cho rằng, giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng vừa thống nhất gắn bó
chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của bản chất và hiện tượng. Bản chất hiện tượng gắn bó chặt
chẽ với nhau, không tách rời nhau.
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của
bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng; đồng thời
cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất.
+ Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau.
✓ Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng.
✓ Bản chất nào thì hiện tượng ấy.
✓ Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau.

✓ Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi.

✓ Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
✓ Một bản chất mới xuất hiện sẽ xuất hiện những hiện tượng mới với tư cách là sự bộc
lộ ra bên ngoài của bản chất mới đó.
=> Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có
thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài.
- Sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập –
thống nhất biện chứng. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn
bao hàm cả sự mâu thuẫn, sự khác biệt.
Vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua tương tác của sự vật ấy với các
sự vật xung quanh; các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đó ảnh hưởng đến hiện tượng,
đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định. Kết quả là hiện tượng tuy biểu hiện bản
chất nhưng không còn là sự biểu hiện y nguyên bản chất nữa.
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tuỳ theo sự thay đổi của
điều kiện và hoàn cảnh. Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất, mà
còn vào hoàn cảnh cụ thể trong đó bản chất được biểu hiện.
✓ Hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
✓ Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn dấu sâu xa của hiện thực khách quan. Hiện tượng là mặt
bên ngoài của hiện thực khách quan.
Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng
khách nhau. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản
chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đó biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn định, nó luôn luôn
trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Vì nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ
bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động của nó với
các sự vật xung quanh. Mà các điều kiện này cũng như sự tác động qua lại của sự vật này với các sự
vật khác xung quanh lại thường xuyên biến đổi => Dẫn đến hiện tượng cũng thường xuyên biến đổi,
trong khi đó bản chất vẫn giữ nguyên.
=> Nhấn mạnh sự thống nhất biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, Lênin viết: “Bản chất
hiện ra, hiện tượng là có tính bản chất”.
4.3. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Đối với nhận thức:
- Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan nên con người chỉ có thể tìm ra bản chất của sự
vật ở chính sự vật, không thể tìm bản chất sự vật ở ngoài sự vật đó. Khi kết luận về bản chất của sự vật
cần tránh những nhận định chủ quan, tuỳ tiện.
- Bản chất không tồn tại dưới dạng thuần tuý, nó bao giờ cũng bộc lộ ra ngoài thông qua các
hiện tượng tương ứng của mình, nên chúng ta chỉ có thể tìm ra bản chất của sự vật trên cơ sở nghiên
cứu các hiện tượng của nó.
- Quá trình nhận thức là quá trình con người đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc
đến bản chất sâu sắc hơn. Điều đó đòi hỏi chúng ta không được tự thoả mãn dừng lại ở bất kỳ một
trình độ nhận thức nào về bản chất của sự vật.
+ Đối với hoạt động thực tiễn: Hiện tượng là biểu hiện của bản chất, do bản chất quy định. Do
vậy, muốn thay đổi hiện tượng, về cơ bản, phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người để thay
đổi bản chất của sự vật.

5. CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG


6. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
7. TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN
8. KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC

III. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Quy luật, tính quy luật và đặc điểm của quy luật
1.1. Khái niệm “Quy luật”
Quy luật là khái niệm triết học dùng để chỉ những mối liên hệ bản chất tất yếu, phổ biến, ổn định, lặp đi
lặp lại giữa các sự vật hiện tượng hoặc giữa các mặt, các thuộc tính, các yếu tố, các bộ phận, các giai đoạn
quá trình của sự vật hiện tượng.
1.2. Tính quy luật
Quy luật được làm thành, được xác định bởi các mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến, ổn định,
lặp đi lặp lại. Tính quy luật biểu thị mức độ nào đó có tính xác suất của các đặc tính bản chất, tất yếu,
phổ biến, ổn định và lặp đi lặp lại.
Số đặc tính
Tính quy luật =
∑ các đặc tính
1.3. Đặc điểm của quy luật
Tính khách quan
Tính phổ biến
Tính phong phú, đa dạng
2. Sự phân loại của quy luật
* Căn cứ vào tính phổ biến hay mức độ phổ biến của sự tác động, quy luật được chia thành:
Quy luật riêng: Là những quy luật mà giới hạn tác động, cơ chế tác động, hiệu quả tác động,
chỉ xảy ra trong một giới hạn nhất định đối với những sự vật, hiện tượng cùng loại. Đó là những quy
luật cụ thể được các khoa học cụ thể (vật lý, hóa học, sinh học, …) khám phá, phát hiện và khái quát
dưới các tên gọi các định luật khoa học.
Quy luật chung: Là những quy luật mà phạm vi tác động, giới hạn tác động, cơ chế tác động và
hiệu quả tác động rộng hơn, bao quát hơn so với phạm vi tác động, giới hạn tác động, cơ chế tác động ,
hiêu quả tác động của quy luật riêng.
Quy luật phổ biến: Là những quy luật mà phạm vi tác động, giới hạn tác động, cơ chế tác động
và hiệu quả tác động diễn ra trong toàn bộ thế giới, trong mọi phạm vi, mọi lĩnh vực khác nhau của thế
giới (tự nhiên, xã hội, tư duy, tâm lý tình cảm của con người, mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình).
* Căn cứ vào lĩnh vực tác động. Quy luật được chia thành:
Quy luật tự nhiên: Là những quy luật tồn tại, tác động và biểu hiện gắn liền với các đối tượng tự
nhiên, không tách rời với các đối tượng tự nhiên, giới tự nhiên.
Quy luật xã hội: Là những quy luật hoạt động của chính con người, tồn tại, tác động và biểu hiện
thông qua hoạt động của con người. Phạm vi tác động, giới hạn tác động, cơ chế tác động và hiệu quả tác
động của quy luật xã hội chủ yếu diễn ra trong xã hội.
Quy luật tư duy: Là những quy luật của nhận thức con người, đó là những mối liên hệ, sự ràng
buộc, quy định phụ thuộc và sự tác động qua lại lẫn nhau của các giai đoạn nhận thức, các thao tác
nhận thức được hình thành trong quá trình nhận thức thế giới.

3. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
3.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật
Vị trí: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập gọi tắt là quy luật mâu thuẫn là quy
luật cơ bản nhất và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
Vai trò: Quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của mọi sự vận động, biến đổi, phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở lý luận triết học khoa học giúp con người nhận thức đúng
bản chất thế giới của các sự vật, hiện tượng từ đó vận dụng sự hiểu biết triết học khoa học, vào trong
đời sống của mình để giải quyết những vấn đề do đời sống con người đặt ra.
3.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Những mặt trái
ngược đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
- Mặt đối lập là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật. Các mặt đối lập
nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Và hai mặt đối lập tạo
thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất và đấu tranh với nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau
giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố
giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Do có sự đồng
nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có
thể chuyển hoá lẫn nhau.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn đấu tranh với nhau.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định
lẫn nhau giữa các mặt đó.
Đấu tranh là động lực của sự phát triển.
Lênin khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
=> Như vậy, mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu
tranh với nhau.

3.3. Nội dung của quy luật


Sự thống nhất của các mặt đối lập
Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất của các mặt đối lập. Trong sự thống nhất này, các
mặt đối lập ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau, làm tiền đề và điều kiện tồn tại cho nhau, phù hợp
với nhau, tác dụng ngang nhau và cân bằng tương đối với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện tồn tại của sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện
tượng chỉ tồn tại với tư cách là nó, khẳng định nó và phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác khi có
sự thống nhất của các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập tạo nên sự ổn định tương đối, sự đứng im tương đối. Đó là
trạng thái mà các sự vật hiện tượng vẫn còn là nó và chưa biến đổi, chuyển hóa thành các sự vật, hiện
tượng khác.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập do có khuynh hướng vận động trái ngược nhau mà tác động qua lại với nhau,
xâm nhập vào nhau, lấn át nhau, cản ngáng nhau, bài trừ và phủ định lẫn nhau.
Các giai đoạn cơ bản của sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Giai đoạn 1 - Giai đoạn hình thành mâu thuẫn: các mặt đối lập từ sự khác nhau, phân biệt nhau
thực hiện hành động theo bản tính vốn có của chúng làm tăng dần sự khác nhau và dẫn đến sự khác
nhau căn bản.
Giai đoạn 2 - Giai đoạn phát triển mâu thuẫn: các mặt đối lập tiếp tục vận động theo khuynh hướng
vốn có của chúng dẫn đến sự xâm nhập vào nhau, cản ngáng nhau, xung đột với nhau, bài trừ và phủ định lẫn
nhau dẫn đến sự đối lập tuyệt đối giữa chúng.
Giai đoạn 3 - Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn: các mặt đối lập tiếp tục tương tác lẫn nhau, xâm
nhập vào nhau làm sâu sắc hơn sự đối lập của chúng. Sự đối lập đạt tới đỉnh cao, chín muồi buộc các
mặt đối lập tự vạch đường đi cho mình bằng cách biến đổi, chuyển hóa bản thân để giải quyết sự đối
lập tuyệt đối giữa chúng.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
Cách thức chuyển hóa các mặt đối lập:
Thứ nhất: Các mặt đối lập thay đổi vị trí, địa vị của mình. Mặt đối lập này biến thành mặt đối
lập kia, mặt đối lập kia biến thành mặt đối lập này.
Thứ hai: Tất cả các mặt đối lập cùng biến đổi bản dạng, bản thể và chuyển hóa thành một cấu
trúc, một dạng tồn tại khác ở một tổ chức khác, ở một trình độ khác biệt hơn so với dạng thức tồn tại,
kết cấu tồn tại trước đó.
Các mặt đối lập tương tác đến đỉnh điểm và sự biến đổi để giải quyết mâu thuẫn.
Sự thay đổi của sự vật hiện tượng: Sự chuyển hóa của các mặt đối lập làm biến đổi hình thức,
dạng thức tồn tại của sự vật hiện tượng. Hình thức, dạng thức tồn tại được thay thế là một tổ hợp thống
nhất các tính chất, trạng thái, màu sắc, hình dạng, tướng trạng, kết cấu nội dung khác với tổ hợp thống
nhất của hình thức, dạng thức tồn tại trước đó.
Mối liên hệ giữa thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa:
Thống nhất là tiền đề, là điều kiện của đấu tranh. Đấu tranh không tách rời thống nhất. Chuyển
hóa là kết quả của đấu tranh.
Sự thống nhất chỉ là tạm thời, thoáng qua, tương đối. Đấu tranh là tuyệt đối.

3.4. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật
Thế giới tồn tại xung quanh con người là một khối thống nhất của các sự vật hiện tượng, các
quá trình. Bên trong thế giới, bên trong các sự vật hiện tượng, các quá trình luôn luôn tồn tại các mặt,
các thuộc tính, các yếu tố, các bộ phận có khuynh hướng vận động trái ngược nhau. Vì vậy trong nhận
thức phải luôn luôn nhớ: Không có vấn đề tồn tại hay không tồn tại, có hay không có các mặt đối lập,
các mặt mâu thuẫn; chỉ có vấn đề các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn đã được nhận thức hay chưa
được nhận thức mà thôi.
Mỗi sự vật hiện tượng không chỉ tồn tại một mặt đối lập, một mâu thuẫn mà tồn tại nhiều mặt
đối lập nhiều mặt mâu thuẫn. Các mâu thuẫn có vị trí, vai trò khác nhau vì vậy phải chỉ ra được, đánh
giá được vị trí, vai trò của các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn.
Mỗi sự vật hiện tượng đều tồn tại, vận động qua các giai đọaan, quá trình cụ thể của nó. Ở mỗi
giai đoạn thường có đặc điểm riêng của nó. Vì vậy phải nhận thức được các mâu thuẫn để tìm ra các
biện pháp hành động thích hợp, giải quyết mâu thuẫn.

4. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng đến những thay đổi về chất và ngược lại
4.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật
Vị trí: Là một trong ba quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy vật.
Vai trò: Chỉ ra con đường, cách thức của sự vận động biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng. Bất
kỳ sự vật, hiện tượng nào phát triển được cũng diễn ra theo cách tích lũy dần về lượng đến một giới
hạn nhất định thì nhảy vọt về chất và ngược lại.
4.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật
* Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Tính chất của tính quy định về chất:
+ Chất có tính khách quan, gằn liền với sự vật, không có chất thuần tuý tồn tại ngoài sự vật
+ Chất của sự vật tồn tại thông qua thuộc tính của sự vật.
+ Sự vật không phải chỉ có một tính quy định về chất, mà có nhiều tính quy định về chất.
+ Chất có tính ổn định, nói lên mặt đứng im tương đối của sự vật, làm cho sự vật đang tồn tại
mà chưa biến thành cái khác ...
* Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, cũng như các thuộc tính của sự vật.
Tính chất của tính quy định về lượng:
+ Lượng của sự vật chưa nói lên sự vật là gì, chưa thể phân biệt sự vật này với sự vật khác.
+ Lượng là cái vốn có của sự vật, tồn tại khách quan trong sự vật không phụ thuộc vào ý thức
của con người.
+ Có lượng được biểu thị bằng con số và đại lượng chính xác, có lượng không biểu thị được
bằng con số và đại lượng. Có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật, có lượng
biểu thị yếu tố bên ngoài sự vật như kích thước dài, rộng, cao cân nặng màu sắc v.v. của sự vật.
+ Sự vật có nhiều tính quy định về lượng tương ứng với tính quy định về chất.
+ Lượng nói lên mặt thường xuyên biến đổi của sự vật
* Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối vì tuỳ từng mối quan hệ cụ thể mà
có thể xác định được là chất hay là lượng.
* Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của
sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
* Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm
thay đổi về chất của sự vật.
* Bước nhảy là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do sự
thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.

4.3. Nội dung của quy luật


Sự thống nhất của 2 mặt chất và lượng:
Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Trong thể thống nhất
này, hai mặt chất và lượng tồn tại trong mối liên hệ ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau.
Sự đấu tranh của 2 mặt chất và lượng:
Trong phạm vi Độ, hai mặt chất và lượng vừa thống nhất vừa tác động qua lại với nhau. Chất là
mặt tĩnh, có khuynh hướng ổn định. Lượng là mặt động, có khuynh hướng không ổn định. Sự tác động
qua lại của chất và lượng làm cho sự thống nhất của chúng trở nên không ổn định. Về phía lượng, do
tác động qua lại với chất, lượng biến đổi dần dần, từ từ. Về phía chất, do tác động qua lại của lượng, sự
ổn định và tính quy định của chất dần dần không bền vững, không chắc chắn.
Sự chuyển hóa của sự vật hiện tượng:
Sự tác động qua lại của Chất và Lượng làm cho lượng biến đổi đến điểm Nút và tạo ra bước
nhảy, phá vỡ sự thống nhất là Độ trong đó sự vật, hiện tượng còn khẳng định nó, tạo lập hình thức,
dạng thức tồn tại khác với hình thức, dạng thức tồn tại trước đó.
Các loại bước nhảy của sự vật hiện tượng:
Bước nhảy về tốc độ: Bước nhảy dần dần và Bước nhảy đột biến
Bước nhảy về quy mô: Bước nhảy cục bộ và Bước nhảy toàn bộ
Bước nhảy về lĩnh vực: Bước nhảy trong tự nhiên và Bước nhảy trong xã hội

Sự tác động qua lại của chất mới và lượng mới


Bước nhảy tạo lập hình thức tồn tại khác của sự vật hiện tượng, tạo lập trật tự, cấu trúc thành
phần khác và làm hình thành chất mới, lượng mới. Hình thức tồn tại mới tạo ra sự thống nhất mới của
chất mới và lượng mới. Trên nền tảng trật tự mới này, chất mới và lượng mới tác động qua lại và tiếp
tục biến đổi. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới được biểu thị ở nhịp điệu, tốc độ, quy mô
thay đổi của lượng mới.
4.4. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật
Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt chất và lượng tồn
tại trong mối liên hệ ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau. Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng
phải nhận thức cả hai mặt chất và lượng.
Mỗi sự vật hiện tượng đều vận động biến đổi do tương tác của hai mặt chất và lượng theo tiến
trình tích lũy dấn về lượng đến một mức độ nhất định dẫn đến sự thay đổi về chất. Vì vậy cần chống cả
hai khuynh hướng: khuynh hướng tả khuynh và khuynh hướng hữu khuynh.
Cần chống lại hai khuynh hướng có thể xuất hiện và tồn tại trong cả nhận thức và hành động để
tránh sai lầm và dẫn đến thất bại:
- Khuynh hướng tả khuynh là khuynh hướng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bất chấp quy luật có
tích lũy về lượng đến mức độ nhất định mới có biến đổi về chất; muốn đốt cháy giai đoạn, thực hiện
ngay bước nhảy khi chưa có quá trình tích lũy về lượng, chưa tích lũy đủ về lượng khi điều kiện hoàn
cảnh chưa chín muồn, chưa tới lúc, chưa phải lúc, chưa cho phép.
- Khuynh hướng hữu khuynh: Là khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, thiếu kiên quyết, do dự không
dám thực hiện hành động, thực hiện bước nhảy khi đã có quá trình tích lũy về lượng, đã tích lũy đủ về
lượng, khi điều kiện, hoàn cảnh đã thuận lợi, đã chín muồi, đã cho phép, đã tới lúc.

5. Quy luật phủ định của phủ định (thảo luận)


5.1. Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật
Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, chi ra khuynh hướng của sự phát triển,
theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo hình “xoáy trôn ốc”. Sự vật hiện tượng mới ra
đời sau ít nhất hai lần phủ định biện chứng, dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn cả
về lượng lẫn về chất
5.2. Các khái niệm cơ bản của quy luật
Khái niệm phủ định siêu hình: sự vật mới ra đời hoàn toàn phủ định sự vật cũ, xoá bỏ sự vật cũ,
chấm dứt sự tồn tại của sự vật cũ.
Khái niệm phủ định biện chứng: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tự phủ định, tạo tiền
đề cho sự phát triển tiếp theo của sự vật và cái mới ra đời thay thế cái cũ.
khái niệm phủ định của phủ định
Khái niệm phủ định của phủ định:
5.3. Nội dung của quy luật
5.4. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật

You might also like