You are on page 1of 19

Vấn đề 1: Anh (chị) hãy làm rõ cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện/ quan điểm lịch sử

cụ thể/ quan điểm phát triển? Vận dụng trong công việc của mỗi người
Trả lời:
* Lý thuyết
Về quan điểm toàn diện (cơ sở lý luận của nó là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến)
- Khái niệm:
 Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt
của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
 Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện
tượng của thế giới. Trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ ở mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới, đó là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định
và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng…
- Tính chất:
 Tính khách quan: sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật hiện
tượng ( hoặc trong bản thân chúng ) là cái vốn có của nó , tồn tại độc lập , không phụ thuộc
vào ý chí của con người hay của thần linh, thượng đế. Con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Các mối liên hệ này bắt nguồn từ
tính thống nhất của thế giới vật chất, từ sự tồn tại và phát triển của chính sự vật - hiện tượng.
 Tính phổ biến:
 Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều tồn tại trong những mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau, sự vật này thay đổi kéo theo sự vật kia thay đổi và không có 1 sự vật - hiện tượng
nào tồn tại 1 cách độc lập, tách rời.
 Mối liên hệ tồn tại ở trong tất cả các mặt:
Trong lĩnh vực tự nhiên: sự tác động lẫn nhau giữa các động vật và thực vật, giữa cơ thể sống
và môi trường.
Trong lĩnh vực xã hội: đó là mối liên hệ giữa các giai cấp, liên hệ giữa các nghành nghề, liên
hệ giữa kinh tế - chính trị - văn hóa . Trong đó mối liên hệ giữa con người và con người là
phức tạp và đa dạng nhất .
Trong lĩnh vực tư duy: việc nắm vững những kiến thức thời phổ thông sẽ là tiền đề và cơ sở để
chúng ta thi đỗ và học tốt ở thời đại học.
 Tính đa dạng, phong phú:
 Các sự vật, hiện tượng trên thế giới vật chất đa dạng, phong phú nên mối liên hệ giữa
chúng cũng rất đa dạng, phong phú. Các sự vật khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể
khác nhau. Cùng một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác nhau chi phối. Đồng thời,
có một mối liên hệ nào đó có thể chi phối được nhiều sự vật, hiện tượng.
 Căn cứ vào tính chất, đặc trưng của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên
hệ sau: mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ chủ
yếu và thứ yếu, mối liên hệ cơ bản và không cơ bản,… Sự phân chia những mối quan hệ chỉ là
tương đối vì nó còn phụ thuộc vào không gian và thời gian.
Ví dụ: trên giảng đường và trong tiết học thì mối quan hệ giữa người học với người dạy là
quan hệ thầy trò, nhưng khi ra khỏi trường, cả người học và người dạy đều tham gia vào một
hoạt động, tổ chức khác thì lúc đó quan hệ của họ sẽ không còn là quan hệ thầy trò nữa).
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
 Quan điểm toàn diện đòi hỏi:
+ Khi nhận thức sự vật phải nhận thức nó trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác;
trong mối liên hệ giữa các bộ phận, các yếu tố cuả bản thân sự vật đó.
+ Để cải tạo sự vật trên thực tế phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp.
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân loại đúng các mối liên hệ, trên cơ sở
đó nhận thức đúng và giải quyết đúng để thúc đẩy sự vật tiến lên.
- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là xem xét sự vật luôn trong điều kiện, hoàn
cảnh, không gian, thời gian cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể chống lại quan điểm giáo điều.

Kết luận:
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt
động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình
huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của
mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng
đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực
tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải
tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.

Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút
ra quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Quan điểm toàn diện
Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau:
– Trong nhận thức, trong học tập:
+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
Tức là xem xét những mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các tuộc tính khác
nhau của chính sự vật, hiện tượng đó.
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tức là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các
sự vật, hiện tượng khác, kể cả trực tiếp và gián tiếp.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao
giờ cũng chỉ phản ánh được một số hữu hạn những mối liên hệ. Do đó, trí thức đạt được về sự
vật, hiện tượng chỉ là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ.
Ý thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem đó là
những chân lý luôn luôn đúng. Để nhận thức được sự vật, chúng ta phải nghiên cứu tất cả
những mối liên hệ.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
Phiến diện tức là chỉ chú ý đến một hoặc một số ít những mối quan hệ. Cũng có nghĩa là xem
xét nhiều mối liên hệ nhưng đều là những mối liên hệ không bản chất, thứ yếu… Đó cũng là
cách cào bằng những thuộc tính, những tính quy định trong bản thân mỗi sự vật.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ khái
quát để rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng. Điều này không đồng
nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê.
– Trong hoạt động thực tiễn
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải dùng hoạt động thực tiễn
để biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó
với những sự vật khác.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau để
tác động nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách dàn đều”
và “chính sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi
Mới, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội…, vừa nhấn mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm.
2. Quan điểm lịch sử – cụ thể
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của
không – thời gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét,
giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử –
cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan, của sự
ra đời và phát triển của vấn đề.
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ trở nên sai
lầm. Vì chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.
Liên hệ vận dụng trong công việc của mỗi người.

Về quan điểm lịch sử cụ thể/ quan điểm phát triển (cơ sở lý luận của nó là nội dung nguyên lý
về sự phát triển)
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng phổ quát nhất
của thế giới, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có sự vận động và phát
triển.
Phát triển là những cái mới ra đời thay thế cái cũ, những vẫn trên cơ sở kế thừa những hạt
nhân hợp lý của cái cũ, cải tạo và phát triển chúng hợp lý để nó trở thành điều kiện, tiền đề
vững chắc cho cái mới phát triển nhanh, mạnh, vững hơn. Phát triển là đặc trưng phổ biến,
phát triển là một tất yếu khách quan.
* Khái niệm phát triển
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên, giảm thuần túy về lượng, không có
sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi
ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những
chất mới. Những người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến
lên liên tục, không có bước quanh có, phức tạp.
Quan niệm biện chứng duy vật xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao.
Quá trình đó diễn ra dần dần, nhảy vọt đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, không
phải lúc nào sự phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí
có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kì sự vật
lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm biện chứng cũng khẳng
định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực, quan điểm
duy vật biện chứng khẳng định phát triển là một phạm trù triết học dùng đề chỉ quá trình vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó chỉ
khái quát xu hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên của sự vật.
* Tính chất của phương pháp luận
Các quá trình phát triển đền có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Trước hết, tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động
và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện tượng là quá trình giải
quyết mâu thuẫn của sự vật, hiên tượng đó. Tính chất này là thuộc tính tất yếu không phụ
thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong một lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong quá trình, mọi giai
đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn
đến sự ra đời phù hợp với quy luật khách quan.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng
phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển không
giống nhau, tồn tại ở những thời gian, không gian khác nhau, chịu những ảnh hưởng khác
nhau và sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng quá trình phát triển của sự vật, đôi khi
có thể làm sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời…
* Ý nghĩa của phương pháp luận “nguyên lý về sự phát triển”
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một
mặt cần phải đặt sự vật theo khuynh hướng đi lên của nó vì vậy đòi hỏi phải nhận thức được
tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Mặt khác, con
đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu
thuẫn, tức là cần phải có quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề
của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
KẾT LUẬN
Việc tìm hiểu về sự phát triển của các kiểu và hình thức nhà nước qua nguyên lý về sự phát
triển, chúng ta có thể thấy rằng mỗi kiểu nhà nước mang đặc trưng riêng, cái mới sẽ là sự loại
bỏ cái xấu trong kiểu nhà nước cũ, bổ sung thêm những cái tốt đẹp để dẫn đến một kiểu nhà
nước hoàn thiện nhất công bằng, dân chủ; các hình thức nhà nước thể hiện các kiểu nhà nước.
Đó là sự đi lên từ kiểu nhà nước có trình độ kinh tế – xã hội thấp đến kiểu nhà nước có trình
độ cao hơn, hoàn thiện hơn; từ hình thức nhà nước này đến hình thức nhà nước khác hoàn
thiện hơn, công bằng hơn. Trong quá trình phát triển ấy nó sẽ đấu tranh để loại bỏ những nhân
tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao những nhân tố tích cực có sẵn trong kiểu nhà nước trước nó.
Khi đã có nhận thức đúng đắn về nguyên lý của sự phát triển, con người sẽ cái nhìn thấu đáo
hơn về quá trình phát triển của các kiểu và hình thức nhà nước, có thể lí giải được vì sao kiểu
nhà nước này bị tiêu vong, kiểu nhà nước mới được hình thành; hình thức nhà nước này phổ
biến trong kiểu nhà nước này, không phổ biến trong nhà nước kia. Thông qua đây, em có thêm
hiểu biết là phương pháp luận nguyên lý về sự phát triển. Sự hiểu biết của em còn hạn chế,
thiếu sót rất mong được thầy cô chỉ bảo để bài làm được hoàn chỉnh.
Liên hệ vận dụng trong công việc của mỗi người.

2, Anh (chị) hãy trình bày nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại? Vận dụng quy luật này trong giáo dục đào tạo ở Việt
Nam hiện nay?
Gợi ý cách trả lời:
Trình bày vị trí của quy luật, nội dung quy luật (khái niệm lượng, khái niệm chất; thay đổi về
lượng dẫn đến thay đổi về chất, chất mới ra đời tác động đến lượng), ý nghĩa phương pháp
luận rút ra từ quy luật. Vận dụng quy luật này trong giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay
(thay đổi về lượng để thay đổi về chất thế nào).
Trả lời:
* Lý thuyết
 Vị trí quy luật: Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nói lên cách
thức của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
a. Khái niệm chất và khái niệm lượng.
- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
+ Chất được biểu hiện thông qua thuộc tính của sự vật. Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính, trong
đó có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo
thành chất của sự vật.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác bởi vậy,
sự phân chia thuộc tính cơ bản hay không cơ bản chỉ mang tính tương đối.
+ Chất của sự vật không những được quy định bởi các yếu tố tạo thành mà còn được quy định
bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành.
- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
+ Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô to hay nhỏ,
trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm. Trong thực tế số lượng của sự vật thường
được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể. Nhưng có lượng có thể chỉ biểu thị dưới
dạng trừu tượng và khái quát. Có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật.
Có lượng vạch ra yếu tố bên ngoài của sự vật như (Chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự
vật).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang ý nghĩa tương đối.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
* Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
+ Mỗi sự vật là thể thống nhất của 2 mặt đối lập lượng và chất. Hai mặt đối lập đó không tách
rời nhau mà tác động lẫn nhau. Trong sự vật tính quy định về chất không tồn tại nếu không có
tính quy định về lượng và ngược lại.
+ Khi sự vật đang tồn tại chất và lượng luôn thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
Độ: Là khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của
sự vật, sự vật vẫn còn là nó chứ chưa chuyển thành cái khác.
- Trong phạm vi độ nhất định 2 mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó lượng thường xuyên biến đổi còn chất tương đối ổn định. Lượng biến đổi từ từ theo
2 chiều tăng dần (hoặc giảm dần) đến điểm giới hạn nhất định (điểm nút) thì sự vật sẽ thực
hiện bước nhảy dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật.
 Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của giai
đoạn phát triển mới.
* Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng.
- Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới có thể làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
 Nội dung quy luật: Mọi sự vật là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về
lượng tới điểm nút sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra
đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn… Quá trình tác động
đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi.
c) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển hoá về chất. Do đó trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng
để làm biến đổi về chất theo quy luật (theo chiều hướng tốt).
Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí nôn nóng, “đốt
cháy giai đoạn” muốn thực hiện bước nhảy liên tục.
- Khi đã tích luỹ đủ về lượng phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy, phải kịp thời chuyển
những sự thay đổi về lượng thành thay đổi về chất.
- Chống lại tư tưởng bảo thủ trì trệ coi sự phát triển là sự biến đổi thuần về lượng không giám
thực hiện bước nhảy.
Trong hoạt động con người phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy, tuỳ theo
từng trường hợp cụ thể.
( Mở rộng
1. Cặp phạm trù chất và lượng
– Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.

Từ quan niệm trên chúng ta không nên đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc tính.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính. Nhưng những thuộc tính này không tham gia
vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ bản mới quy định chất của sự
vật. Vì thế, chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay đổi. Khi các
thuộc tính không cơ bản có thể thay đổi, nhưng không làm cho chất của sự vật thay đổi.
+ Mặt khác, các thuộc tính cũng như chất của sự vật chỉ bộc lộ qua những mối liên hệ cụ thể.
Do đó, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ là tương
đối. Và như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất tuỳ theo
những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác.
+ Chất biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật, là cái vốn có và không tác rời sự vật. Do
đó, không thể có chất tồn tại “thuần tuý” hoặc là phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của con
người như các nhà triết học duy tâm chủ quan quan niệm.
>>> Con đường biện chứng của quá trình nhận thức?
– Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính, các yếu
tố… cấu thành sự vật.
+ Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích thước dài hay
ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm
v.v.. Nhưng đối với các sự vật phức tạp, không thể chỉ diễn tả bằng những con số chính xác,
mà còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hoá.
+ Cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là, có cái ở trong quan này là chất,
nhưng trong quan hệ khác là lượng và ngược lại. Do đó, cần chống quan điểm siêu hình tuyệt
đối hoá ranh giới giữa chất và lượng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
– Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến đổi.
Song, hai mặt đó không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống
nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.

Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn,
mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Điểm giới hạn
mà khi lượng đạt tới sẽ làm thay đổi về chất của sự vật thì gọi là điểm nút.

Điểm nút: Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Đó là bước ngoặt căn bản
kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên
tục của các sự vật. Do vậy có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên tục, là trạng thái
liên hợp của các điểm nút.

– Khi sự vật mới ra đời với chất mới lại có một lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất mới
giữa chất và lượng. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới được biểu hiện ở quy mô,
nhịp điệu phát triển mới của lượng.

Tóm lại: Quy luật lượng – chất đã chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật và hiện tượng. Trước
hết, lượng biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm nút (Giới hạn của sự thống nhất
giữa chất và lượng) sẽ dẫn đến bước nhảy về chất; chất mới ra đời lại tạo nên sự thống nhất
mới giữa chất và lượng.
Tất nhiên, thế giới sự vật, hiện tượng là đa dạng, phong phú, do đó hình thức của các bước
nhảy cũng rất đa dạng và phong phú.

II. Ý nghĩa phương pháp luận


Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:

– Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để
làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư
tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”,… Những
việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường
của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý
chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
– Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự
nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến
hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách
mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường
được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.

– Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy.
Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những
nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể.
Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất đa dạng, phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành,
do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ
làm thay đổi về chất của từng yếu tố.

Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức liên
kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó.
Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào phương thức
liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản
lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì
rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh)

Vận dụng quy luật này trong giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay?

3, Anh (chị) hãy trình bày quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, liên hệ mối quan hệ đó ở Việt Nam hiện nay.
Gợi ý cách trả lời:
Trình bày khái niệm lực lượng sản xuất, khái niệm quan hệ sản xuất, mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (LLSX quyết định, QHSX tác động), ý nghĩa
phương pháp luận. Liên hệ mối quan hệ đó ở Việt Nam hiện nay (về lực lượng sản xuất có
những thay đổi gì, về quan hệ sản xuất như thế nào...)
Trả lời:
a. Khái niệm
* Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng
nhu cầu đời sống của mình.
( Có thể sử dụng khái niệm LLSX ở trong sách Hỏi - Đáp Triết học)

LLSX

TLSX NLĐ
TLLĐ ĐTLĐ Sức khoẻ, trí tuệ, kỹ năng

ĐTSC
CCLĐ TL ≠ ĐTNT

 Chính nhờ sự kết hợp chặt chẽ các nhân tố cấu thành LLSX  tạo nên sức mạnh
LLSX.
* Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hội
QHSX gồm 3 mặt:
+ Quan hệ sở hữu đối với TLSX
+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất
+ Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất
Trong 3 mặt trên quan hệ sở hữu đối với TLSX có vai trò quyết định, chi phối các quan
hệ khác.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
LLSX ở trình độ nào thì QHSX phải được hình thành tương ứng với trình độ ấy, khi lực
lượng sản xuất biến đổi thì quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp với nó, sự phù
hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển khi lực lượng sản xuất phát triển đến một
trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự
phát triển là phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp túc phát triển.
Khi QHSX cũ được thay bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản
xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế…
Ăng ghen “Người nguyên thuỷ đầu tiên đã nấu chảy ra sắt thép cũng là đã nấu chảy ra
chế độ chiếm hữu nô lệ”.
Mác: “Cái cối xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh chúa phong kiến, cái cối xay
chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội TB công nghiệp”.
- QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX.
QHSX có thể tác động trở lại LLSX theo 2 chiều hướng:
+ QHSX phù hợp với trình độ của LLSX trở thành động lực cơ bản mở đường cho LLSX
phát triển.
+ QHSX không phù hợp , lỗi thời, lạc hậu trở thành xiềng xích, trói buộc, kìm hãm sự
phát triển của LLSX.
Tóm lại: Quy luật QHSX phù hợp LLSX là quy luật phổ biến quyết định toàn bộ tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại.
( Mở rộng:
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
a. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để làm ra của cải vật chất cho mình
trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với
tự nhiên và có những quan hệ nhất định với nhau trong sản xuất vật chất.
Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một phương thức sản xuất đặc trưng nhất định và theo đó có
một phương thức sinh hoạt xã hội nhất định.

Các phương thức sản xuất trong lịch sử được thay thế lẫn nhau một cách tất yếu khách quan
bằng các cuộc cách mạng xã hội. Khi phương thức sản xuất mới ra đời, thì toàn bộ kết cấu
kinh tế, kết cấu giai cấp, xã hội, các quan điểm tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức cùng các
thiết chế tương ứng của nó như nhà nước, đảng phái, v.v cũng thay đổi.

Phương thức sản xuất là sự thống nhất hữu cơ của hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.

b. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khoẻ thể chất, kinh nghiệm, kỹ
năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra
một sức sản xuất vật chất nhất định.

Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan. Nó biểu hiện mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa lao động
sống và lao động quá khứ.

Lực lượng sản xuất là tiêu chí quan trọng nhất để chỉ ra những nấc thang của sự tiến bộ xã hội
vì các chế độ kinh tế khác nhau ở chỗ, nó sản xuất bằng cách nào, với công cụ lao động nào.

Trong lực lượng sản xuất gồm ba yếu tố cơ bản: con người – người lao động với thể lực, học
vấn, kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ lao động; tư liệu lao động (gồm công cụ lao động và đối
tượng lao động). Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau, chúng có quan
hệ hữu cơ với nhau trong đó yếu tố con người – người lao động giữ vị trí hàng đầu, tư liệu sản
xuất đóng vai trò rất quan trọng.

Ngày nay khoa học – kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội.
Điều này thể hiện ở chỗ, khoa học đã thẩm thấu vào tất cả quy trình lao động, đóng vai trò
quan trọng trong tổ chức, quản lý sản xuất, trong chế tạo, cải tiến công cụ lao động, v.v.

c. Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
ở quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ về mặt phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Như vậy, quan hệ sản xuất gồm ba quan hệ:

– Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất;


– Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất;

– Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất.

Ba quan hệ trên trong quan hệ sản xuất thống nhất với nhau. Tuy nhiên, trong ba quan hệ này
thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm tư liệu sản
xuất trong tay, người ấy sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản
phẩm. Chính quan hệ sở hữu cũng quy định tính đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất của từng
xã hội. Do vậy, quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh tế – xã hội
này với hình thái kinh tế – xã hội khác. Mặc dù vậy, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan
hệ phân phối sản phẩm có ảnh hưởng quan trọng tới quan hệ sở hữu. Chúng có thể góp phần
củng cố hoặc phá hoại quan hệ sở hữu.

Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản
quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.

2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất
a. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản
xuất

Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, ở trình độ kỹ năng,
kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, v.v ứng
với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Ví dụ, khi trình độ sản xuất thủ công
thì tính chất của nó là cá nhân. Khi trình độ của lực lượng sản xuất là cơ khí, hiện đại thì tính
chất của nó là xã hội hoá. Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Điều
này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi
đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là
công cụ lao động. Từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất này mà quan hệ sản xuất phải biến
đổi theo cho phù hợp.

Thứ hai, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, nó luôn luôn vận động và
biến đổi trong quá trình lịch sử. Lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức
xã hội của quá trình sản xuất. Sự biến đổi trong lực lượng sản xuất (nội dung) sớm muộn cũng
kéo theo sự biến đổi trong quan hệ sản xuất (hình thức).

Thứ ba, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ nào đó nhất định làm cho quan hệ
sản xuất trở nên không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nữa. Khi ấy, xuất hiện
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến đấu
tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội nhằm phá bỏ “xiềng xích trói buộc” lực
lượng sản xuất để xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.
b. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập tương
đối so với lực lượng sản xuất. Vì vậy, quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản
xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai xu
hướng:

Thứ nhất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng thì sẽ thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.

Thứ hai, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất (hoặc là lạc
hậu, hoặc là vượt trước quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất) thì sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.

Sự phù hợp (được quan niệm là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn), tức là sự phù
hợp trong mâu thuẫn, bao hàm mâu thuẫn.

Tiêu chí của sự phù hợp được biểu hiện thông qua sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất và được thể hiện cụ thể là năng suất lao động tăng; người lao động
hăng hái sản xuất; đời sống của người lao động được nâng cao; môi trường làm việc được cải
thiện; lực lượng sản xuất phát triển, v.v.

Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở chỗ, quan hệ sản
xuất quy định mục đích của nền sản xuất. Trên cơ sở đó tác động đến thái độ của người lao
động, tới tính tích cực ứng dụng khoa học, kỹ thuật hay cải tiến công cụ lao động, v.v của
người lao động. Từ đó tác động tới lực lượng sản xuất. Ví dụ, nếu mục đích của nền sản xuất
xã hội là vì lợi nhuận thì sớm hay muộn người lao động cũng không tích cực lao động. Nếu
mục đích của nền sản xuất là vì con người – nhân dân lao động thì chắc chắn, người lao động
sẽ tích cực, nhiệt huyết lao động.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật
chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Quy luật này làm cho lịch sử là một
dòng chảy liên tục song mang tính gián đoạn. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, quy luật
này có những biểu hiện đặc thù của nó.

liên hệ mối quan hệ giữa LLSX và QHSX đó ở Việt Nam hiện nay.

4, Từ lĩnh vực khoa học chuyên ngành của mình, anh (chị) hãy chỉ ra mối quan hệ giữa
khoa học đó với Triết học?
Gợi ý cách trả lời:
Nêu khái quát mối quan hệ giữa khoa học với triết học; nêu đặc trưng của ngành khoa học
mình đang theo đuổi (Toán or Lý or Hóa or Địa or Sinh...), chỉ ra vai trò của khoa học đó với
triết học (cung cấp cơ sở dữ liệu,... cho triết học), vai trò của triết học với các khoa học đó (vai
trò thế giới quan: cơ sở để giải thích và định hướng nhận thức, hoạt động của các khoa học;
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các khoa học..., và vai trò phương pháp luận: dẫn
đường... ) cuối cùng đi đến kết luận về mối quan hệ.
Gợi ý:
1. Triết học không tồn tại tách rời đời sống khoa học và đời sống thực tiễn.
– Khoa học với sự ra đời và phát triển của các quan điểm triết học, các trào lưu triết học.
+ Khoa học và triết học thời cổ đại
+ Khoa học trong nền triết học tự nhiên
+ Cơ học cổ điển và tư duy siêu hình
+ Khoa học hiện đại và tư duy biện chứng
– Triết học không thể khái quát các quan niệm và kết luận triết học từ đâu khác ngoài các dữ liệu của
khoa học và của đời sống thực tiễn.
2. Ý nghĩa của phát minh khoa học đối với Triết học.
– Những thành tựu của khoa học có nhu cầu tự thân đòi hỏi phải được giải thích lý luận, tất yếu dẫn
tới các kết luận chung về lý thuyết, những khái quát triết học định hướng.
+ N. Côpécních.
+ Ch. Đácuyn.
+ A. Anhstan.
+ Cuộc khủng hoảng Vật lý học cận đại…
– Thiếu kiến thức khoa học và dữ liệu đời sống cập nhật, nhà triết học không thể có tư duy triết học
hợp lý, đúng đắn; triết học trở nên xa rời thực tiễn.
Làm rõ thêm:
  Khoa học tự nhiên có vai trò vô cùng to lớn đối với triết học trước hết chính là vì các thành tựu
của nó là cơ sở khoa học của các quan điểm triết học về thế giới.
*Vào thời Phục hưng (XV- XVI), Khi Nicolai Copecnic tạo nên cuộc cách mạng trong thiên
văn học bằng quan niệm mặt trời là trung tâm thì Thuyết địa tâm, dù đang thống trị xã hội và có
quyền lực đến mức có thể thiêu sống các nhà khoa học cũng đã bị lung lay và sụp đổ. Các lý luận triết
học trái với chân lý khoa học đó cũng đã bị bác bỏ. Thuyết Nhật tâm cùng với những phát kiến khoa
học khác đã trở thành cơ sở khoa học cho hàng loạt lý thuyết triết học mới ra đời sau đó. Các thành
tựu KHTN thực sự là một trong những nền tảng vững chắc tạo nên thế giới quan và phương pháp
luận của triết học. Lịch sử phát triển của khoa học và triết học đã cho thấy rằng tương ứng với các
trình độ phát triển khác nhau của khoa học tự nhiên thì triết học cũng có những hình thức tương xứng.
*Vào thế kỷ XVII - XVIII, khi mà KHTN chú trọng cô lập sự vật hiện tượng để đi sâu phân
tích, xem xét từng bộ phận, tách rời các bộ phận khỏi chỉnh thể để khám phá các đặc tính, kết cấu của
đối tượng nghiên cứu thì triết học duy vật thời kỳ này cũng mang tính chất máy móc, siêu hình cả về
phương diện thế giới quan lẫn phương diện phương pháp luận.
Ph.Ăng ghen từng viết về điều này như sau: “chủ nghĩa duy vật của thế kỷ trước (CNDV TK
XVII – XVIII) chủ yếu là có tính chất máy móc” do trình độ của khoa học tự nhiên còn hạn chế: hóa
học còn ấu trĩ, sinh học còn ở giai đoạn phôi thai…(M- E toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, H.2004, tr.
409). Thứ hai là chủ nghĩa duy vật đó có đặc trưng siêu hình: “tính hạn chế đặc thù thứ hai của
CNDV ấy là ở chỗ nó không thê hiểu được thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất ở trong
quá trình phát triển lịch sử liên tục”. Đặc thù này cũng do KHTN chi phối. Nó đưa đến quân điểm phi
lịch sử về giới tự nhiên. Nguyên nhân trực tiếp là bởi vì hồi đó, trong tất cả các KHTN chỉ có cơ học
là đạt tới mức độ phát triển hoàn bị, còn các khoa học khác đều đang hình thành. Sự chưa hoàn thiện
của các KHTN đã ảnh hưởng đến cách nhìn thế giới của các nhà triết học.
*Trong thế kỷ XIX- đầu TKXX, các phát minh của vật lý học như phát minh ra điện tử, sự phân
rã hạt nhân và thuyết tương đối của Anbe Anhxtanh… đã tạo nên những cuộc cách mạng trong triết
học. KHTN hiện đại đã ghi dấu ba phát minh vĩ đại:
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của R. Mayơ, Giulơ và Côn đinh.
- Thuyết tế bào của Svan-xơ và Slai-đen.
- Thuyết tiến hóa của Sáclơ Đácuyn.
Nhờ ba phát hiện vĩ đại ấy, người ta đã giải thích được những quá trình chủ yếu của giới tự
nhiên, tìm ra được những nguyên nhân tự nhiên của những quá trình ấy. Đồng thời, ba phát minh vĩ
đại ấy của KHTN trở thành tiền đề quan trọng cho sự ra đời triết học Mác-Lênin. Với ba phát minh
quan trọng đó, KHTN đóng vai trò là cơ sở khoa học của quan điểm triết học duy vật biện chứng về
thế giới. ở thời kỳ hiện đại, khoa học phát triển đến trình độ cao hơn, đồng thời, nhu cầu tổng hợp
kiến thức các khoa học, xem xét thế giới trong tính chỉnh thể, trong liên hệ, vận động và phát triển
cũng đòi hỏi triết học phải phát triển lên trình độ khoa học duy vật biện chứng để có thể giải thích các
quá trình trong thế giới cũng như thực hiện chức năng phương pháp luận trong việc định hướng cho
hoạt động của con người. Vì vậy, chủ nghĩa duy vật đã chuyển lên một hình thức cao hơn, hoàn thiện
hơn: đó chính là chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình thái thứ ba của CNDV trong lịch sử tưởng triết
học.
Triết học muốn phát triển thành một triết học khoa học, tất yếu phải dựa vào các thành tựu
khoa học tự nhiên. Nói cách khác, để phát triển, triết học phải biết “đứng trên vai” các ngành khoa
học khác. Các tri thức khoa học cụ thể là chất liệu không thể thiếu để xây dựng các lâu đài triết học.
Khái quát, tổng kết lý luận các thành tựu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của triết học. Đến lượt mình, các thành tựu này tạo thành cơ sở quan trọng để tạo dựng và phát triển
các hệ thống triết học. Vì vậy, tính chất, nội dung, mức độ đúng đắn của các hệ thống triết học tùy
thuộc rất nhiều vào các thành tựu của KHTN.

5, Từ lĩnh vực khoa học chuyên ngành của mình hãy chứng minh luận điểm của triết học
Mác – Lênin: thế giới thống nhất ở tính vật chất
Gợi ý cách trả lời:
Nêu đặc trưng của ngành khoa học mình đang theo đuổi (Toán or Lý or Hóa or Địa...) tìm ra
những nội dung liên quan để chứng minh cho tính thống nhất vật chất của thế giới. (Thế giới
thống nhất ở tính vật chất của nó: Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không tự nhiên sinh ra,
không mất đi, Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, có trước, quyết định ý thức
con người, Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều là những dạng cụ thể của vật chất, nên chúng
có mối liên hệ qua lại, tác động qua lại lẫn nhau).

Phân tích luận điểm của Ph. Ăngghen: Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật
chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo
léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và
khoa học”?

Lời giải

Thế giới tồn tại muôn vẻ, phong phú nhưng đều thông nhất ở tính vật chất. Chỉ có một thế giới
duy nhất, thống nhất là thế giới vật chất. Không có một thế giới nào khác, thế giới vật chất tồn
tại khách quan. Căn cứ vào thực tiễn đời sống xã hội và sự phát triển của khoa học, chủ nghĩa
Mác – Lênin đã khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thông nhất ở tính vật
chất của nó.

Mọi sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới đều tồn tại khách quan, có trước và độc lập với
ý thức của con người. Do vậy, mọi bộ phận khác nhau của thế giới đều là vật chất, toàn bộ
không gian vô cùng tận xung quanh ta là không gian vật chất, thế giới có sự thống nhất chính
là ở tính vật chất của nó.

Mọi bộ phận của thế giới đều có liên hệ với nhau, tác động với nhau theo quy luật chung vốn
có. Các sự vật, hiện tượng đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, chúng có mối liên hệ
với nhau trong thế giới vật chất. Toàn bộ thế giới với nhiều bộ phận khác nhau, với nhiều sự
vật, hiện tượng muôn hình muôn vẻ khác nhau hợp thành một chỉnh thể, một hệ thống thống
nhất, tồn tại khách quan. Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đây là những quy luật khách quan chi phối mọi
hình thức, mọi bộ phận của thế giới vật chất.

Thế giới vật chất, các sự vật, hiện tượng luôn vận động, chuyển hóa lẫn nhau. Các sự vật, hiện
tượng tồn tại trong sự thống nhất nhưng luôn có xu hướng chuyển hóa lẫn nhau. Đây là
nguyên nhân sâu xa của Sự phát triển.

Lịch sử phát triển của khoa học tự nhiên đã chứng minh cho nguyên lý về tính thống nhất vật
chất của thế giới. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã vạch ra mối liên hệ giữa
các hình thức vận động và chuyển hóa giữa các sự vật, hiện tượng. Từ đó khẳng định tính vĩnh
viễn không thể bị tiêu diệt của vật chất và sự thống nhất vật chất của các sự vật, hiện tượng.
Học thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đác uyn đã vạch ra bản chất, mối quan hệ giữa các
cơ thể sống, từ đó khẳng định tính thống nhất của thế giới. Sự phát triển của khoa học hiện đại
trên tất cả các lĩnh vực tiếp tục chứng minh ngoài các dạng vật thể, trường, sóng, hạt, plasma,
vật chất còn tồn tại dưới nhiều dạng khác, ngoài thiên hà bao la của chúng ta còn vô số các
thiên hà và đại thiên hà khác… Song tất cả chúng đều có chung và thống nhất ở một thuộc
tính là tồn tại khách quan ngoài ý thức con người.
Tư tưởng về sự thống nhất của thế giới ở tính vật chất là cơ sở khoa học để khắc phục quan
điểm duy vật siêu hình, qua sự thống nhất của thế giới về một dạng vật thể, để phủ nhận sự tồn
tại của địa ngục và thiên đường của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo; từ đó giúp các nhà khoa học
tiếp tục nghiên cứu phát hiện những dạng vật chất mới, những thiên hà mới phục vụ cuộc sống
con người.

Câu hỏi thêm


6/ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

* Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội.

3 yếu tố chính:

- Phương thức sản xuất vật chất


- Điều kiện tự nhiên - HCĐL
- Dân số và mật độ dân số

 Phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất

* Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm
tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng của cộng đồng xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển nhất định.

- Kết cấu của ý thức xã hội:

Trên cơ sở khác nhau người ta phân chia ý thức xã hội thành những dạng khác nhau.

+ Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội gồm các hình thái
khác nhau như: Ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức ĐĐ, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm
mỹ…

+ Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức xã hội lý
luận, TLXH và hệ tư tưởng…

b. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.

+ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội,
phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
+ Mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi (PTSX) thì những tư tưởng lý luận xã hội, những quan
điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật… sớm muộn sẽ biến đổi
theo. Vì vậy, trong những thời kỳ lịch sử khác nhau có những quan điểm, tư tưởng khác nhau,
đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.

2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phải phản ánh giản đơn, máy
móc, thụ động mà có tính độc lập tương đối tác động đến tồn tại xã hội. Tính độc lập tác động
biểu hiện ở những điểm sau:

- Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội

Nghĩa là khi một tồn tại xã hội nào đó đã bị xoá bỏ nhưng ý thức xã hội phản ánh nó
chưa mất theo ngay mà còn tồn tại một thời gian, thậm chí có những bộ phận ý thức tồn tại
khá lâu dài.

+ Nguyên nhân:

Một là: Sự biến đổi của tồn tại xã hội diễn ra nhanh chóng vì vậy ý thức xã hội có thể
không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.

Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung biến đổi sau khi có sự
biến đổi. Cho nên, cần phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng và kiên
trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy truyền thống tư tưởng tốt đẹp.

Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội

Trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng tiên
tiến khoa học có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có
tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát
triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.

Mặc dù vượt trước tồn tại xã hội song xét đến cùng nó vẫn chịu quy định của tồn tại xã
hội, vẫn bắt nguồn từ tồn tại xã hội. Tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội
mà phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội.

- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.


+ Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý
luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế
thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.

+ Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp
của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của thời đại
trước.

- Sự tác động qua lại giữa các hệ thống ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.

+ Các hệ thống ý thức xã hội không tồn tại riêng biệt mà luôn có sự tác động qua lại lẫn
nhau làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt những tính chất không thể giải thích được
một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất (mà phải bằng sự tác
động qua lại giữa các hệ thống ý thức xã hội).

+ Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hệ thống ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động
mạnh đến các hệ thống ý thức khác.

- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội theo 2 khuynh
hướng:

+ Nếu ý thức xã hội có tính chất bảo thủ, lạc hậu nó thường tác động trở lại tồn tại xã hội
theo hướng cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển của xã hội.

+ Nếu ý thức xã hội có tính tiến bộ, khoa học nó thường tác động trở lại tồn tại xã hội
theo hướng thúc đẩy xã hội phát triển. Vì bộ phận ý thức này thường nhanh chóng thâm nhập
vào quần chúng nhân dân và giáo dục, tổ chức hướng dẫn quần chúng nhân dân trong hoạt
động thực tiễn.

+ Mức độ ảnh của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện
lịch sử cách mạng cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy
sinh, vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng, vào mức độ phản ánh đúng đắn của
tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội vào mức độ mở rộng tư tưởng trong quần
chúng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống
xã hội, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác
động trở lại tồn tại xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được
tiến hành đồng thời trên cả 2 mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nên phải tìm nguồn gốc của ý thức xã hội trong
tồn tại xã hội, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội.

Mặt khác phải thấy rằng: ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động đến tồn tại xã
hội. Có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ sâu sắc trong tồn tại xã hội.

- Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Đảng ta xác định.

Về tồn tại xã hội: cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt tiểu nông truyền thống và xác
lập, phát triển một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Về ý thức xã hội: phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tích
cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.

Hiện nay: dân tộc ta đã và đang kế thừa và tiếp thu những ý thức xã hội tiên tiến, khoa
học của dân tộc và thế giới  thúc đẩy tồn tại xã hội Việt Nam phát triển.

Đấu tranh chống ý thức xã hội phản động, bảo thủ, tác động xấu đến tồn tại xã hội.

You might also like