You are on page 1of 7

I.

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN


1. Khái niệm liên hệ
+ Liên hệ là quan hệ giữa 2 đối tượng mà sự thay đổi của một trong số
chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi.
+ Mối liên hệ dùng để chỉ mối dàng buộc tương hỗ, quy định và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đối tượng lẫn nhau.
Ví dụ, giữa cung và cầu (hàng hoá, dịch vụ) trên thị trường luôn luôn
diễn ra quá trình: cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận
động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu. Đó chính là những nội
dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.
+ Mối liên hệ phổ biến: khi phạm vi bao quát của mối liên hệ không chỉ
giới hạn ở các đối tượng vật chất mà được mở rộng sang cả liên hệ giữa
các đối tượng tinh thần và giữa chúng đối với đối tượng vật chất sinh ra
chúng.
Ví dụ, mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là
mối liên hệ chung, nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác
nhau, có tính chất đặc thù tuỳ theo từng loại thị trường hàng hoá, tuỳ
theo thời điểm thực hiện... Khi nghiên cứu cụ thể từng loại thị trường
hàng hoá, không thể không nghiên cứu những tính chất riêng có (đặc
thù) đó. Nhưng dù khác nhau bao nhiêu thì chúng vẫn tuân theo những
nguyên tắc chung của mối quan hệ cung cầu.
2. Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Thế giới được tạo thành từ vô số những sự vật, những hiện tượng,
những quá trình khác nhau Trong lịch sử triết học những người theo
quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại cô lập, tách
rời nhau. Với quan điểm siêu hình giữa các sự vật, hiện tượng không có
mối liên hệ, ràng buộc quy định nhau. Khái quát những thành tựu của
khoa học tự nhiên hiện đại, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên
hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Theo phép biện
chứng duy vật, nguyên lý mối liên hệ phổ biến là sự khái quát các mối
liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau
của các sự vật, hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp
cận đó, phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng: mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến cùng ràng buộc, chi
phối lẫn nhau, vận động và biến đổi không ngừng. Trong thế giới không
có sự vật, hiện tượng tồn tại cô lập, biệt lập nhau. Phép biện chứng duy
vật khẳng định cơ sở của mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện
tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng
trong thế giới dù có đa dạng và rất khác nhau, thì cũng chỉ là những dạng
tồn tại cụ thể của một thế giới duy nhất là vật chất. Ý thức của con người
không phải là vật chất nhưng không thể tồn tại biệt lập với vật chất bởi
vì ý thức cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc người; hơn nữa nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả
phản ánh của các quá trình vật chất. Quan điểm duy vật biện chứng
không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của mối liên hệ
giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà còn khẳng định tính đa
dạng của sự liên hệ; bởi thế giới là một chỉnh thể với vô vàn các sự vật,
hiện tượng khác nhau, chúng không ngừng vận động và phát triển một
cách đa dạng. Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong, có mối
liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ chung bao quát
một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của hiện thực. Có mối liên
hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ bản chất và có mối
liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu
nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự vật, có mối liên hệ giữa các mặt của
mỗi sự vật. Phân loại các mối liên hệ là cần thiết bởi vì mỗi loại liên hệ có
vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của các sự vật. Sự
phân loại còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật và của các ngành khoa học cụ thể. Tuy nhiên, việc phân
loại liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình
thức, một bộ phận, mỗi mắt khâu của mối liên hệ chung của toàn bộ thế
giới. Đây là cơ sở khoa học không chỉ để phân ngành các khoa học mà
còn là cơ sở để hình thành các khoa học liên ngành.
3. Tính chất
 Tính khách quan
Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên
hệ, tác động trong thế giới. Có mối liên hệ tác động giữa các sự vật, hiện
tượng vật chất với nhau. Có các mối liên hệ giữa những hiện tượng tinh
thần với nhau. Các mối liên hệ, tác động đó suy đến cùng đều là sự quy
định, tác động qua lại chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng.
 Tính phổ biến
Trong phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, bất kì nơi đâu, trong
tự nhiên trong xã hội và trong tư duy đều có vô vàn các mỗi liên hệ đa
dạng, chúng giữ vai trò vị trí khác nhau trong sự vận động chuyển hóa
của sự vật hiện tượng.
 Tính đa dạng phong phú
Mỗi sự vật hiện tượng trong sự tồn tại và phát triển có rất nhiều mối liên
hệ. Hơn nữa ở cùng một mối liên hệ trong những thời điểm khác nhau
có thể có những vị trí vai trò khác nhau.
4. Ý nghĩa của phương pháp luận
- khi xem xét đánh giá sự vật hiện tượng, chúng ta cần phải có quan
điểm toàn diện tức là phải đặt sự vật hiện tượng trong vô vàn các mối
liên hệ để tìm ra được thuộc tính bản chất để có những phương án thích
hợp.
- Trái với quan điểm toàn diện là quan điểm phiếm diện.
- Chúng ta cũng cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể, tức là khi đánh giá
vai trò của từng mối liên hệ phải đặt nó trong một điều kiện, thời điểm
cụ thể.

II. Quy luật thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại
1. Vị trí của quy luật: chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật
hiện tượng
2. Các khái niệm
a. Khái niệm về chất: Là cái phân biệt sự vật này với sự vật khác.
Chất là thuộc tính triết học dùng để chỉ những thuộc tính khách
quan vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của
các thuộc tính làm cho sự vật hiện tượng là nó chứ k phair cái
khác.
b. Khái niệm về lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính
quy định khách quan vốn có của sự vật về mặt số lượng quy mô,
trình độ...của quá trình vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng ( lượng thường được biểu thị bằng những con số). sự vật
và hiện tượng luôn thống nhất giữa chất và lượng.
c. Khái niệm về độ: độ là một khoảng giới hạn mà sự thay đổi về
lượng chưa đủ để làm thay đổi về chất( chất và lượng còn đang
thống nhất với nhau)
d. Điểm nút: là phạm trù để chỉ giới hạn mà ở đó sự tăng lên về
lượng làm thay đổi hoàn toàn về chất.
e. Bước nhảy: chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, là
sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật( chất
mới ra đời sẽ quay định ngược trở lại lượng của nó)
3. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng ( sgk t106)
4. Các hình thức của bước nhảy
a) Theo nhịp điệu của bước nhảy
- bước nhảy đột biến( nước chuyển sang thể khí)
- bước nhảy dần dần( vượn chuyển thành người)
b) Theo quy mô của bước nhảy
- Bước nhảy toàn bộ( chuyển từ sinh viên sang cử nhân)
- Bước nhảy cục bộ ( qua môn triết học, qua từng môn học ta có thể hiểu
biết nhiều hơn)
5. Ý nghĩa của phương pháp luận.
 Trong nhận thức và trong thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để
có sự thay đổi về chất, không được nôn nóng cũng không được
nóng vội bảo thủ
VD: học tập phải có quá trình tích lũy đủ về kiến thức sau đó mới có
thể tham gia kì thi, nếu không có quá trình tích lũy khi đi thi chúng ta
có thể bị trượt
 Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu
cầu khách quan vì vậy tránh chủ quan nóng vội, đốt cháy giai
đoạn hoặc bảo thủ thụ động.
 Phải có thái độ khách quan khoa học và quyết tâm thực hiện
bước nhảy, trong lĩnh vực xã hội phải chú ý đến điều kiên chủ
quan.
 Phải nhận thức được phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương pháp phù hợp.

III. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
1. Vị trí của quy luật: chỉ ra nguồn gốc và động lực của sự vận động
và phát triển.
2. Khái niệm mặt đối lập và mâu thuẫn biện chứng
 Mặt đối lập là những mặt, những yếu tố... có khuynh hướng tính
chất trái ngược nhau( ví dụ như chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm)
 Mâu thuẫn biện chứng chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh
chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập( ví dụ như giải cấp
thống trị và giai cấp bị trị)
3. Nội dung của quy luật
 Thống nhất giữa các mặt đối lập
- Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ
giữa chúng và được thể hiện ở:
 Thứ 1, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau làm tiền
đề để cho nhau tồn tại, không có mặt này thì sẽ không có mặt kia.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển
theo những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo
ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả
những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
 Thứ 2, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện
sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành và cái cũ đang mất hẳn.
Ví dụ: Trong xã hội có đối kháng giai cấp luôn có giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị. Hai giai cấp này là hai mặt đối lập và luôn đấu tranh với nhau
để dành quyền lời về mình.
 Thứ 3, giứa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do các mặt
còn tồn tại những yếu tố giống nhau.
Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất và tiêu dùng phát triển theo
những chiều hướng trái ngược nhau nhưng nếu không có sản xuất thì
không có sản phẩm để tiêu dùng, ngược lại nếu không có tiêu dùng thì
sản xuất mất lí do để tồn tại.
CÒN THỜI GIAN THÌ CHÉP NỐT TRANG 108

 Đấu tranh giữa các mặt đối lập


- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động
qua lại theo chiều hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác
động đó cũng không tách rời khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa
chúng trong một mâu thuẫn.
 Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập được thể hiện qua mối quan hệ giữa
giai cấp thống trị và bị trị trong xã hội xưa.
Họ đối lập với nhau về quyền lợi, ý chí. 2 giai cấp này luôn đấu tranh với
nhau để bảo vệ quyền lợi của mình, luôn luôn tác động đến nhau.
 Đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ sự tác động qua lại theo hướng
bài trừ phủ định lẫn nhau giữa chúng.
 Mẫu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật hiện tượng là nguyên
nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển.
 Sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng là tự thân.
 Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật phát
triển các mặt cũ mất đi và các cái mới ra đời
4. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
 Thứ 1, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện
tượng để từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều
kiện khách quan.
 Thứ 2, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình
phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn , xem xét vai trò vị trí
và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa
chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra
được phương thức giải quyết đó
 Thứ 3, giải quyết mâu thuânx thông qua đấu tranh giữa các mặt đối
lập, không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội bảo thủ, bởi giải
quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ chín muồi hay
chưa.

IV. BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1. Vị trí vai trò của quy luật: Là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và
phát triển xã hội
2. Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Như vậy phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện tác
động giữa con người và tự nhiên in và tác động giữa người với người để
sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người 
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi đối tượng vật chất
của GTN Theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất.
3. Vai trò quyết định của LLSX đối với quan hệ sx

Vai trò quyết định của LLSX đối với quan hệ sản xuất

Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trạng thái
mà trong đó, quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng
sản xuất.
– Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định
lại làm cho quan hệ từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành trở
thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất
tất yếu sẽ dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản
xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức
sản xuất mới ra đời thay thế.
 LLSX quyết định QHSX, vì:
– LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá
trình sản xuất, còn QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã
hội của sản xuất nên có tính chất tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu
hơn so với sự phát triển của LLSX.
– LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù
hợp với nó. Sự phù hợp của LLSX với QHSX là động lực làm cho LLSX phát
triển.
– Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay
thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối kháng
giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp,
mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.

Sự tác động trở lại của QHSX vs LLSX

Quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy sự
phát triển của nền sản xuất đúng hướng quy mô sản xuất được mở rộng
những thành tựu khoa học sẽ được áp dụng.
Quan hệ sản xuất không phù hợp đi sau hay ptr trước sẽ kìm hãm sự
phát triển thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất

4. Ý nghĩa trong đời sống xã hội 


Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
Sản xuất có ý nghĩa phương pháp rất quan trọng. tr thực tiễn muốn phát
triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất trước hết là
phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động Muốn xóa bỏ mối
quan hệ sản xuất của Út thiết lập mối quan hệ sản xuất mới phải căn cứ
từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không phải là kết quả của
mệnh lệnh hành chính của mỗi xác định từ trên xuống mà từ tính tất yếu
kinh tế yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế trường thủy điện chủ
quan duy tâm duy ý chí.( t135)

You might also like