You are on page 1of 10

CHỦ ĐỀ ÔN TẬP MÁC-LÊNIN

Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức


Khái niệm
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại trong lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử – xã
hội. Để hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý thức cần phải xem xét trên cả hai mặt tự
nhiên và xã hội.
Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất
thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của
thế giới vật chất.

Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Ý thức
phản ánh thế giới hiện thực khách quan, các quy luật khách quan, hoạt động thực tiễn
chính là cơ sở cho sự hình thành các quan điểm, quan niệm, ý chí, tình cảm xã hội.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy
luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những
yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn
quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
Ý thức có tính năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thực tiễn của con
người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định các điều kiện vật chất,
góp phần cải biến thế giới khách quan.
Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nó sẽ góp phần thúc đẩy hiện thực

khách quan phát triển.

Ngược lại, ý thức khi không phản ánh đúng hiện thực khách quan thì nó sẽ trở

thành lực cản đối với sự phát triển của hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Ý nghĩa phương pháp luận
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động chủ quan
Phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao năng lực
nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng chung trong hoạt động thực tiễn của con
người.
Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động, chờ đợi
vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan…

Câu 2: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến


Khái niệm mối liên hệ phổ biến
Là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn
nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau.
Tính khách quan của các mối liên hệ
Các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Sự quy
định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng là cái vốn có của
nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận
thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình, do đó mối liên
hệ cũng là một tất yếu khách quan.
Tính phổ biến của các mối liên hệ

Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có
sự vật, hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ cũng có ở mọi lĩnh vực : Tự
nhiên, xã hội, tư duy.
Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, tùy theo điều kiện nhất
định. Nhưng dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến
nhất, chung nhất.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất là đa dạng nên mối liên hệ giữa
chúng cũng đa dạng, vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải phân loại mối
liên hệ một cách cụ thể.
Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể
khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó;
Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ
thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ
khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó
là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ
chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, v.v. của mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, vì mỗi loại liên hệ chỉ
có một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại liên hệ
trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát của mối liên hệ
hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật.
Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có các tác động phù hợp
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác.
Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu
quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử -
cụ thể.
Trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm
phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.

Câu 3: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
- Khái niệm mâu thuẫn
Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh, chuyển
hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau.
Mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận
động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. ví dụ, điện tích âm và
điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể sống, sản xuất
và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội…
+ Các tính chất chung của mâu thuẫn
Mâu thuẫn mang tính khách quan và là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng
và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Mâu thuẫn có tính phổ biến: Thế giới sự vật hiện tượng rất đa dạng về nội dung
cũng như hình thức, do đó mâu thuẫn cũng rất đa dạng và phức tạp. Mỗi sự vật, mỗi lĩnh
vực khác nhau thì có những mâu thuẫn khác nhau và ngay bản thân mỗi sự vật, hiện
tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn.
Chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con
người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn
cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những năng lực nhận thức, mâu thuẫn này được giải
quyết trong sự tiếp nối của các thế hệ, sự tiếp nối đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn,
cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận.
Tính đa dạng của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình
đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những
điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại,
vận động và phát triển của sự vật.
Đó là: mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản…
Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác
nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
+ Quá trình vận động của mâu thuẫn
- Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
với nhau. Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc,
không tách rời nhau, qui định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền
đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó.
- Trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự đấu tranh là tuyệt đối
còn thống nhất là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu
tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
- Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình.
Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập.
Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột gay gắt với nhau và khi điều kiện đã chín
muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi,
mâu thuẫn mới được hình thành, và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập
lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn,
phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự
vận động và phát triển.
Trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể
tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp.
Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng những đặc
điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách
đúng đắn nhất.
Câu 4: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
a) Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh
thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, "người lao động" là nhân tố giữ vai trò
quyết định.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức
- quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động
lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
– Lực lượng sản xuất là yếu tố đông nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương tức
sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của
phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết
định hình thức.
– Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành
quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức
sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới xuất hiện…
– Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau
đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa
loài người trải quan nhiều hình thái kinh tế – xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những
kiểu quan hệ sản xuất khác nhau.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
– Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa
bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trờ thành động lực cơ bản thúc
đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
– Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
– Quan hệ sản xuất, sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy kìm hãm) sự phát triển của lực lượng
sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của
quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành
tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động, v.v..
– Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải
quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến liên.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất khác cao hơn.
Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người
phát triển từ thấp đến cao.
VD: Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta:
Nước ta chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước
công nghiệp lạc hậu với lực lượng sản xuất đậm chất nông nghiệp với quan hệ làm
chung, chia đều nên đã gặp phải những khó khăn lớn trong những năm trước năm 1986;
sau năm 1986 lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, quan hệ sản xuất cũng đa dạng
hơn nên sau hơn 15 năm, nước ta đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu chuyển dần lên
thành một nước công hoá.

Câu 5: Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội


Khái niệm
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm:
Hoàn cảnh địa lý; Điều kiện dân số; Phương thức sản xuất ra của cải vật chất.
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất của cải vật chất là nhân tố quyết định đối
với tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội là dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội,
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất
định.
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
* Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội sinh ra ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã
hội; tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy; mối khi tồn tại xã hội biến
đổi, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những
quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học, nghệ thuật v.v.. sớm
muộn thay đổi theo.
Ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, nhưng không phải bất cứ tư tưởng, quan
điểm lý luận xã hội nào, tác phẩm văn học nghệ thuật nào cũng nhất thiết trực tiếp phản
ánh những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ xét đến cùng thì các quan hệ kinh tế mới
được phản ánh bằng cách này hay cách khác vào trong những tư tưởng đó. Bởi vì ý thức
xã hội trong sự phát triển của mình có tính độc lập tương đối.
* Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã
hội:
Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc nào cũng diễn ra trực tiếp
mà cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian mới thấy được, bởi vì ý thức xã hội
có tính độc lập của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện dưới
các hình thức sau:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì:
Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau. Do nó có những
bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH, tôn giáo...).
Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên (nhằm cai trị
ND, nô dịch ND...).
- Ý thức xã hội có tính vượt trước tồn tại xã hội. Đó là những tư tưởng tiến bộ, khoa học.
Bộ phận này trong ý thức xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan,
từ đó đưa ra được những dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại
xã hội nên có thể đi trước một bước so với tồn tại xã hội (VD dự báo của Mác về sự sụp
đổ của CNTB...).
- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một trình độ
phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình độ kinh tế, chính
trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển, chẳng hạn dân tộc Đức ở thể
kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn hóa tinh thần cực kỳ phát triển (âm
nhạc, hội họa....).
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật đặc
thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn toàn lệ thuộc vào tồn
tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường nổi lên một hình thái ý thức xã
hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức còn lại (làm cho toàn bộ XH phụ thuộc hoàn
toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì tôn giáo chi phối xã hội, ngày nay khoa học chi
phối xã hội).
- Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội theo
2 xu hướng:
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã hội thì nó
có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý thức của những
giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của tồn tại xã
hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này thuộc về ý thức của
những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội
phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào trong phong trào của quần chúng nhân dân.
Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để phổ biến tri thức khoa học và lý luận cách mạng
cho quần chúng nhân dân, đồng thời để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư
tưởng cũ, phản động ra khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân).

You might also like