You are on page 1of 3

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA KIẾN TRÚC – BỘ MÔN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN


MÔN HỌC: NGUYÊN LÍ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ – NIN
ĐỀ: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
MÀ BẠN ĐANG HOẠT DỘNG

GIẢNG VIÊN: NGÔ QUANG HUY


SINH VIÊN: TRẦN NGUYỄN QUỲNH NHƯ
LỚP: KT22/A4
MSSV: 22510101024
Quan điểm toàn toàn diện là gì?
Quan điểm toàn diện là một quan điểm mang tính phương pháp luận khoa học trong
nhận thức thế giới. Khi nghiên cứu và xem xét sự vật phải quan tâm đến tất cả các yếu tố,
các mặt, bao gồm cả măt gián tiếp, trung gian có liên quan đến sự vật. Quan điểm này xuất
phát từ mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng và các hình thái tri thức

Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Các sự
vật, hiện tượng có mối liên hệ rất đa dạng và phong phú: có mối liên hệ bên trong, mối liên
hệ bên ngoài; có những mối liên hệ chung của toàn bộ thế giới hoặc trong những lĩnh vực
rộng lớn của thế giới lại có những mối liên hệ riêng từng lĩnh vực, từng sự vật, từng hiện
tượng riêng biệt; có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật, hiện tượng với nhau,
và có những mối liên hệ gián tiếp, trong đó các sự vật, hiện tượng liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau thông qua một hay nhiều khâu trung gian mới phát huy được tác dụng; có mối liên
hệ tất nhiên, ngẫu nhiên; mối liên hệ cơ bản, thuộc về bản chất của sự vật, đóng vai trò
quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, cũng có những mối liên hệ không cơ bản, chỉ
đóng vai trò hỗ trợ, bổ sung cho sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Các mối liên
hệ này tồn tại phổ biến trong tự nhiên, trong xã hội loài người cũng như trong ý thức của
con người.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Bởi lẽ, bản
chất của thế giới là vật chất. Vật chất có thuộc tính chung nhất là tồn tại khách quan. Các
sự vật trong thế giới đa dạng đến đâu thì cũng chỉ là những hình thức tồn tại cụ thể của vật
chất, chúng đều chịu sự chi phối của quy luật vật chất, nên chúng có liên hệ chặt chẽ với
nhau.
Quan điểm này được thể hiện từ cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Với các tính chất thể hiện trong tính khách quan, tính phổ biến và tính
phong phú, đa dạng của các mối liên hệ và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tác động lẫn nhau này giúp cách sự vật được phản ánh
với tính chất đa dạng trong thực tế. Một sự vật được nhìn nhận theo các yếu tố tác động và
những tác động nên yếu tố khác.

Để nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải xem xét sự vật, hiện
tượng trong mối liên hệ, vì bản chất của sự vật, hiện tượng được bộc lộ thông qua mối liên
hệ giữa chúng với các sự vật, hiện tượng khác.
Sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trò của các mối liên hệ
không “ngang bằng” nhau. Vì vậy, cần xác định được những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu,
trọng tâm thì mới nhận thức được sâu sắc bản chất của sự vật, mới thấy được khuynh hướng
vận động, phát triển của nó.
1
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này mà không thấy mặt khác,
mối liên hệ khác; nhận thức sự vật trong trạng thái cô lập, giải quyết công việc không đảm
bảo tính đồng bộ.
Quan điểm toàn diện cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa chiết trung và ngụy biện:
-Chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những cái không thể kết hợp được
với nhau hoặc coi những mối liên hệ là “ngang bằng” nhau, không có sự phân biệt về vai
trò của chúng.
-Ngụy biện là lối tư duy đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trò của các mối liên hệ,
lấy mối liên hệ không cơ bản thay cho mối liên hệ cơ bản, mối liên hệ không bản chất thay
cho mối liên hệ bản chất.
Cũng như thực hiện với quan sát các mối quan hệ hay tác động bên ngoài của nó qua
lại với những nhân tố khác. Việc thực hiện nhìn nhận và đưa ra quan điểm hiệu quả giúp
cho các yêu cầu trong mục tiêu phân tích được phản ánh.
Theo quan điểm toàn diện, con người cần nhận thức sự vật qua mối quan hệ qua lại.
Chỉ có như vậy mới mang đến những phản ánh cho hiểu biết về sự vật. Tính nhiều chiều và
phân tích càng cụ thể, có thể mang đến những nhìn nhận đầy đủ và hiệu quả nhất. Việc am
hiểu về đối tượng mới mang đến các tính toán và tác động hiệu quả lên đối tượng đó.

Bản thân em hiện là sinh viên trường Đại học Kiến trúc, với mục tiêu trở thành một
kiến trúc sư giỏi, em cũng cần có kế hoạch học tập phù hợp cho bản thân mình. Kiến trúc
là một ngành có cơ hội việc làm tốt, với những yêu cầu về kĩ năng vẽ tay kết hợp đồng thời
với việc sử dụng các phần mềm chuyên dụng của ngành. Biết được điều đó, bản thân em
phải tự trau dồi thêm kiến thức về sử dụng các phần mềm cần thiết. Với những mối liên hệ
mà em đang có như gia đình, bạn bè, thầy cô thì em có thể học hỏi thêm những kiến thức
căn bản cũng như mới lạ từ bạn bè, thầy cô. Cũng từ đó đánh giá được tri thức của bản thân
ở nhiều mặt. Bản thân em có thể xem xét những thuận lợi, khó khăn về thời gian và địa
điểm học tập. Là một sinh viên thì việc vận dụng quan điểm toàn diện có ý nghĩa rất quan
trọng đối với quá trình học tập và phát triển của mỗi chúng ta. Nó gớp phần định hướng,
chỉ đạo các hoạt động nhận thức, thực tiễn và cải tạo bản thân chúng ta. Nhưng ta phải biết
cách vận dụng nó như thế nào là tốt nhất đối với mìn trong từng giai đoạn, từng thời gian
không gian cụ thể. Việc áp dụng quan điểm toàn diện trong học tập là việc rất cần thiết để
ta có thể nắm bắt toàn diện những điều cần học và góp phần đưa ra phương pháp học tập
thích hợp cho bản thân. Cụ thể là ta sẽ đặt việc học vào các mối liên hệ khác nhau: cần học
cái gì, khi nào học, học như thế nào,… từ đó ta có thể rút ra mối quan hệ giữa những điều
ta học được để tạo nên một hệ thống kiến thức cần thiết cho quá trình học tập.

You might also like