Professional Documents
Culture Documents
- Phạm trù
Để suy nghĩ và trao đổi tư tưởng cho nhau, con người thường phải sử dụng những
khái niệm nhất định như “ cái cây”, “cái nhà”…. Những khái niệm đó là hình thưc
của tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản của một lớp những sự vật
hiện tượng nhất định của hiện thực khách quan.
Tùy theo mức độ bao quát của KN mà chúng ta có các khái niệm rộng hay hẹp
khác nhau. Khái niệm rộng nhất thì được gọi là phạm trù.
VD: trong toán có phạm trù “ số”, “mặt phẳng”,”hàm số”….
Như vậy, Phạm trù là hình thức hoạt động trí óc phổ biến của con người, là những
mô hình tư tưởng phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ vốn có ở tất cả các đối
tượng hiện thực.
Ví dụ, phạm trù “vật chất”, “ý thức”, “vận động”, “đứng im”, v.v phản ánh những
mối liên hệ không chỉ của tự nhiên mà cả xã hội, tư duy của con người
2. Nội dung của cặp phạm trù cái chung và cái riêng
- Trước tiên ta cần đi làm rõ 2 khái niệm: Cái riêng và cái chung.
· Cái riêng: là phạm trù triết học dung để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định.
VD: 1 quả bưởi trên bàn là cái riêng A và 1 quả bưởi trong tủ lạnh là cái riêng B
· Cái chung: là phạm trù triết học dung để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những có ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà còn lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng (nhiều cái riêng) khác nữa.
VD: vẫn với 2 quả bưởi bên trên. Điểm chung của chúng là đều có múi, có cùi, có
nhiều tép. Những thuộc tính này đều có ở mọi quả bưởi.
· Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dung để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có
ở một sự vật, một hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện
tượng khác.
VD: Đỉnh núi Everest cao nhất thế giới với độ cao 8.848 mét. Độ cao 8.848 mét
của Everest là cái đơn nhất vì không có một đỉnh núi nào khác có độ cao này.
VD: Dấu vân tay. Dấu vân tay ở mỗi người là khác nhau, nó là cái đơn nhất vì
không ai có dấu vân tay giống ai.
Phần giao thoa giữa 03 “cái riêng” A, B, C là “cái chung”. Phần không giao thoa
với bất cứ cái gì là “cái đơn nhất”.
Lịch sử:
Trong lịch sử triết học đã có 2 xu hướng – duy thực và duy danh- đối lập nhau giải
quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
+ Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái
riêng. Ở đây lại tồn tại 2 luận giải:
1) Cái chung mang tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới dạng các khái niệm chung.
2) Cái chung mang tính vật chất, tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm
tất cả, tự trùng với mình hoặc dưới dạng nhóm các đối tượng…
Còn cái riêng hoặc hoàn toàn không có (do xuất phát từ Platon vốn coi các sự vật
cảm tính là không thực, chỉ là bóng của những ý niệm) hoặc nó tồn tại phụ thuộc
vào cái chung, là cái thứ yếu, tạm thời, do cái chung sinh ra.
+ Các nhà duy danh lại cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện tượng
khách quan. Chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực. Cái chung chỉ tồn tại
trong tư duy con người.Cái chung chỉ là tên gọi của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng
coi cái riêng là cái duy nhất có thực.
Sau đó chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai
xu hướng đó trong việc lý giải mỗi quan hệ cái chung- cái riêng.
2) Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng
tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung, mà tất yếu nó phải tồn tại
trong mối liên hệ với cái chung.
– Điều này có nghĩa “cái riêng” tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có
nghĩa là cô lập với những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn
sự chuyển hóa, “cái riêng” của loại này có liên hệ với những “cái riêng” của loại
khác.
– Bất cứ “cái riêng” nào cũng tồn tại trong một môi trường, hoàn cảnh nhất định,
tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối liên hệ
qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quan mình.
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên
hệ qua lại khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có
những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số “cái chung” nào đó.
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài
mối liên hệ xã hội với tự nhiên.
Ví dụ 2: Một hạt tinh thể là một cái riêng, nhưng hạt này bắt buộc phải có điểm
chung với một hạt nào đó. Đôi khi có thể là về kích thước, hình dạng.
3) Cái riêng là toàn bộ phong phú hơn cái chung, Cái chung là bộ phận
nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
“Cái riêng là toàn bộ phong phú hơn cái chung”
Vì ngoài những cái chung thì cái riêng còn có cái đơn nhất.
Ví dụ: Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân các nước
khác trên thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nông thôn,..., còn có
những đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của làng xã, các tập quán lâu đời,..
mỗi vùng, mỗi miền lại khác nhau rất phong phú.
“Cái chung là bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng”
- Do cái chung được rút ra từ cái riêng, nên nó là một bộ phận của cái
riêng.
- Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính
mối liên hệ ổn định tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
- Do cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng
tồn tại và phát triển của cái riêng.
Ví dụ:
Cái chung sâu sắc hơn vì người nông dân dù ở đâu cũng cần cù lao động, có
khả năng chịu đựng khó khăn trong cuộc sống.
Nguồn: Wikipedia
4) Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau trong những điểu
kiện xác định của quá trình vận động, phát triển của sự vật.
- Có nghĩa là cái đơn nhất là thuộc tính đặc biệt của cái riêng mà chỉ mình nó có,
sau đó thuộc tính này nếu phù hợp thì nó sẽ phát triển để trở thành cái chung. Sở dĩ
như vậy là do trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một
lúc, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo quy
luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng hoàn thiện, tiến tới hoàn
toàn thay thế cái cũ và trở thành “cái chung”.
Ví dụ: một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng
sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua
các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ
biến - khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung...
- Và tương tự cho cái chung nếu nó không phù hợp thì nó sẽ bị tiêu diệt và dần
dần trở thành cái đơn nhất.
Ví dụ: Ba sinh viên A, B,C đều học tại trường đh D. Nhưng vì một lí do nào đó cái
chung không còn tồn tại mà lại trở thành cái đơn nhất như A,B đã tốt nghiệp, còn E
lại tiếp tục là sinh viên
Giáo dục VN
Cần cụ thể hóa cái chung trong mỗi điều kiê ̣n, hoàn cảnh cụ thể, khắc
phục bê ̣nh giáo điều, siêu hình, máy móc hoă ̣c cục bộ, địa phương
– Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua
lại với những bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”,
nên bất cứ “cái chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến.
Tức là, luôn có sự khác biệt một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái riêng” này
và “cái chung” nằm trong “cái riêng” kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ,
không làm thay đổi bản chất của “cái chung”.
– Do đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần
được cải biến, cụ thể hóa. Nếu không chú ý đến sự cụ thể hóa, đem áp dụng
nguyên xi “cái chung”, tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những
người giáo điều, tả khuynh.
Ngược lại, nếu xem thường “cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất”, thì lại rơi
vào sai lầm của việc chỉ bảo tồn cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài.
Đó là sai lầm của những người xét lại, bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh.
ví dụ: Mỗi cá nhân con người đều là mô ̣t cái riêng và ta đều có cái chung là có ý
thức, nhưng cái chung đó lại không giống nhau hoàn toàn do ý thức còn mang tính
chủ quan của mỗi người
ví dụ: mô ̣t cốc nước ấm và mô ̣t cốc nước lạnh có cái chung là có thể uống được,
nhưng trong từng trường hợp riêng lẻ thì ta nên xem xét lại như là trời lạnh nên
uống nước ấm còn trời nóng thì uống nước lạnh
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, phải biết tận dụng các điều
kiện cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo những
mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể
chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện cụ thể. Có nghĩa là:
Trong hoạt động thực tiễn, nếu phát hiện “cái đơn nhất” tiêu biểu, tiến bộ (điển
hình, tiên tiến, mô hình hay, cách làm tốt) cần tạo mọi điều kiện thuận lợi thúc đẩy
nó nhanh chóng chuyển hóa, phát triển thành “cái chung” (nhân diện rộng) hợp
với quy luật phát triển.
Ví dụ, một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng
sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua
các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ
biến - khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung...