You are on page 1of 25

CÂU HỎI ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN - 2021

Chương 2: Chủ nghĩa duy vật biện chứng


I. Vật chất và ý thức:
1. Phát biểu định nghĩa “vật chất”, “ý thức”. Theo định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất thì
giữa vật chất và ý thức có sự phân biệt căn bản nào? Cho thí dụ.
* Vật chất:
Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Định nghĩa vật chất của Lênin
được diễn đạt như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián
tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người. Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với với
tư cách là một phạm trù triết học, nó chỉ ra tất cả những gì tác động đến ý thức của chúng ta, giúp
hiểu biết các hiện tượng. Vì vậy ta không thể đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể của nó.
Thuộc tính cơ bản của vật chất là tồn tại khách quan tất cả những gì tồn tại ngoài ý thức có thể
tác động vào giác quan
(Bản chất của vật chất) (nếu cần):
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những
thuộc tính, không có sự tồn tại cảm tính; những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng
nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật,
những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát
triển, chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể
của vật chất như là nước, lửa, không khí, ... “Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm
trù triết học, tức là phạm trù rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác
rộng hơn.
Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý
thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được
hay không nhận thức được nó. 
Lenin cũng từng nói: “Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác; được cảm giác chép
lại, chụp lại, phản ánh”. Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của
con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh. Ở đây, Lenin
đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học, cụ thể là vật chất là cái có trước, ý thức là cái c
ó sau thể hiện ở câu “được đem lại cho con người trong cảm giác”. Do tính trước – sau như vậy,
vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất.
Con người có khả năng nhận thức được thế giới thông qua câu “được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh”. Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được bi
ểu hiện qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…) mà các gi
ác quan của con người (tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được. Giác quan của con người có thể c
hép lại, chụp lại, phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, ch
ụp lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người
về vật chất càng sâu sắc, toàn diện. Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con ngư
ời chẳng qua chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong mỗi bộ óc con người.
* Ý thức:

Ý thức là một trong những phạm trù cơ bản của triết học, tâm lý học và xã hội học. Ý thức là sự
phản ánh năng động, sáng tạo, sự phản ánh có chọn lọc, phản ánh cái cơ bản nhất mà con người
quan tâm, là sự phản ánh không nguyên vẹn mà còn được cải biến trong bộ óc con người. Ý thứ
c theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất. The
o đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến v
à sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất”.

Ý thức theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy xuất phát từ thế giới khách quan, như
ng do tâm sinh lý, mục đích, yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh chủ quan của con người phản ánh n
ên cùng một đối tượng nhưng kết quả phản ánh có thể khác nhau. Từ các định nghĩa trên ta có th
ể đưa ra một khái niệm tổng hợp: “Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của 1 dạng vật chất
sống có tổ chức cao, đó là bộ não người. Theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách q
uan vào bộ óc con người, có sự cải biên và sáng tạo”.

* Theo định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất thì giữa vật chất và ý thức có sự phân biệt căn b
ản nào? Cho thí dụ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm rằng giữa vật chất và ý thức vừa đối lập với nhau vừa t
hống nhất với nhau.

+ Vật chất có trước, tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, độc lập với ý thức và quyết định ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.

Ví dụ 1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
não người. Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì hoạt động ý thức cũng bị rối loạn.

Ví dụ 2: Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba về công nghệ thông tin cò
n rất yếu. Nguyên nhân là do thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng viên. Nhưng nếu đáp
ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba của sẽ tốt hơn
rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất như vậy thì ý thức cũng như vậy.

+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác qua
n của con người. Như vậy thì vật chất có thể được cảm nhận bằng tất cả các giác quan, còn ý thứ
c thì không.

+ Ý thức có sau, phụ thuộc vào vật chất, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con ngườ
i.

Ví dụ: Từ nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI, đảng ta chuyển nề
n kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm bộ mặt nước ta đã t
hay đổi hẳn.

+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất:
VD: Bản chất của ánh sáng là vật chất tồn tại khách quan, nhưng khi nghiên cúu về ánh sáng các
nhà khoa học lại quan niệm rằng bản chất của ánh sáng sự thống nhất giữa sóng và các hạt.

2. Vận động là gì? Thế giới vật chất có những hình thức vận động cơ bản nào?
- Theo quan diểm duy vật biện chứng, vận động là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng
để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất không gian và thời gian; là những hình thức tồn
tại của vật chất, đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong
không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì vận
động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và
bộc lộ bản chất của mình.
- Ph. Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản được xếp từ đơn giản đến
phức tạp: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động
xã hội. Cụ thể:
+ Vận động cơ học là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điệntử, các quá trình
nhiệt điện...
+ Vận động hóa học là vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phângiải các chất...
+ Vận động sinh học như: trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường.
+ Vận động xã hội như: sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã
hội.

3. Nêu các đặc trưng cơ bản của ý thức. Đặc trưng nào là cơ bản nhất? Tại sao?

Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người; là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.

+Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm
– sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thôn
g tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới
và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản án
h ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.
v... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng cá
c mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.

+Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế giới kh
ách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện
nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính ch
ủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu, v.v...) của con người. The
o C. Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và đượ
c cải biến đi trong đó”.
+Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liề
n với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là của
các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống
xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn
xã hội.

- Đặc trưng cơ bản nhất của ý thức là tính sáng tạo. Bởi Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng
bước xâm nhập các tầng bản chất, quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trên
cơ sở đó, bằng những thao tác của tư duy trừu tượng đem lại những tri thức mới để chỉ đao hoạt
động thực tiễn chủ động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra “thiên nhiên thứ hai” in đậm
dấu ấn của con người. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự ph
ản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con
ngưòi.

4. Phát biểu sau đây có phù hợp với quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng không?
Giải thích ngắn gọn và cho 1 thí dụ.
“Trong việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn cần phải phát huy các nhân tố chủ quan”.
Quan điểm trên là quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng nhưng chưa đầy đủ.
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với
vật chất; bản chất năng động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản,
chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nói đến vai trò của nhân
tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong hoạt động (nhận thức và thực tiễn) để cải biến
và thống trị thế giới của họ. Con người, do bản chất xã hội của họ quy định, nên luôn có nhu cầu
và khả năng tổ chức các hoạt động khám phá thế giới khách quan. Trên cơ sở đó, con người nâng
cao tri thức, phát triển ý chí, tình cảm của mình theo hướng ngày càng phù hợp hơn với điều
kiện, khả năng và quy luật khách quan của hiện thực. Nói cách khác, đó cũng chính là quá trình
nhân tố chủ quan của chủ thể ngày càng được khách quan hóa. Mặc dù mọi hoạt động của con
người đều phải dựa vào những điều kiện khách quan nhất định, nhưng con người không thụ động
chờ đợi sự chín muồi của điều kiện khách quan, mà trái lại, có thể dựa vào năng lực chủ quan
của mình để phát hiện các điều kiện khách quan. Khi đã có các điều kiện khách quan cần thiết thì
nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định trong các cải biến xã hội. Cuối cùng, vai trò to lớn của
nhân tố chủ quan còn thể hiện ở chỗ, mặc dù không xóa bỏ hoặc sáng tạo ra bất cứ quy luật
khách quan nào, nhưng bằng năng lực chủ quan của mình, con người có thể điều chỉnh hình thức
tác động của quy luật khách quan và kết hợp một cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều
quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích của mình. Sở dĩ như vậy là vì tính tất yếu về
sự tác động của quy luật khách quan không mâu thuẫn với tính phong phú về hình thức và trật tự
tác động của nó trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mà việc làm biến đổi những điều kiện
này lại nằm trong khả năng thực tế của con người.
VD: Trong việc học tập trên môi trường đại học sinh viên cần biết năng lực sẵn có của bản thân
phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động tiếp thu kiến thức mới và hỏi đáp giảng viên khi
chưa hiểu bài từ đó thì mới đạt kết quả tốt.
- Tuy nhiên trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu chỉ xuất phát từ chủ quan thì vẫn
chưa đủ để đảm bảo cho một công việc hiệu quả và thành công bởi thực tế chủ quan mới chỉ là
một mặt của vấn đề
VD: Khi bước lên môi trường mới là đại học, mỗi bản thân sinh viên đã phát huy mặt chủ quan
trong mình như năng động, sáng tạo, chủ động tìm hiểu tuy vậy thực tế khách quan còn nhiều
khó khăn như tình hình dịch bệnh, sinh viên phải học tập online không được trải nghiệm tại
trường, việc trao đổi qua nền tảng mạng cũng khó khăn hơn, kết nối giữa bạn bè và thầy cô cũng
hạn chế; các môn học mới lạ, yêu cầu cao,… làm ảnh hưởng chất lượng việc học tập của sinh
viên không nhỏ.

5. Phát biểu sau đây có đúng với quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng không? Tại
sao? Cho thí dụ.
“Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan”.
* Quan điểm trên đúng với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng nhưng chưa đầy đủ
Đây là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng: “Mọi hoạt động
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan; phát
huy tính năng động chủ quan phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan.”
* Tại sao và cho ví dụ
Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ
có thể đúng đắn, thành công và có hiệu quả tối ưu khi và chỉ khi thực hiện đồng thời việc xuất
phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan.
- Trong mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan, nhân tố chủ quan luôn đóng vai
trò mang tính chủ động, sáng tạo. Do đó, trong nhận thức và thực tiễn, chủ thể phải biết dựa trên
cơ sở tôn trọng khách quan để phát huy cao độ tính năng động chủ quan. Thực hiện nguyên tắc
tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi
phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; là những hành động lấy ý chí áp đặt
cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách… Mặt khác,
cũng cần chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo
thủ, trì trệ, thụ động, v.v. trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức
và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo
ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để
làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng đề nó trở thành tri thức, niềm tin của
quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động.
Ví dụ: Ở bộ môn cầu lông, Nguyễn Tiến Minh được coi là vận động viên hàng đầu của Việt
Nam. Anh đã từng đứng trong top 5 Thế giới (năm 2010). Để có được thành công này, trước hết
các huấn luyện viên cũng như vận động viên này đã biết xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan khi có các bài tập khoa học, có chế độ ăn uống nghỉ ngơi hợp lý, đặc biệt là
biết nhìn nhận, tôn trọng các đối thủ khác. Bên cạnh đó, vận động viên này cũng biết phát huy
tính năng động chủ quan khi đã phát huy vai trò con người, cố gắng luyện tập hết sức mình cộng
với ý chí niềm tự tôn dân tộc. Sự kết hợp giữa tính thực tế khách quan và tính năng động chủ
quan này đã mang tới thành công cho Nguyễn Tiến Minh.

* Phát biểu trên hoàn toàn đúng với quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bởi xuất
phát từ thực tế khách quan tức là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, chúng ta phải xuất
phát từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện gán cho sự vật cái mà nó không có hoặc là nó chưa có.
Trong hoạt động thì chúng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực tế khách
quan. Mỗi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như chính sự tồn tại của nó, không bị những
nhân tố chủ quan chi phối để nhận thức sai lệch, cần luôn luôn tôn trọng điều kiện khách quan.
Thực tế khách quan bao giờ cùng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định các nhân tố chủ quan.
Bởi vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập không
lệ thuộc vào chủ thể, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện
vọng của chủ thể. Do bản chất năng động vốn có của mình nên con người luôn vươn tới tự do
trong mọi hoạt động của thực tiễn. Nhưng con người chỉ được tự do hành động trong chừng mực
của các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan. Trong mọi hoạt động, khi đề ra phương
hướng hoạt đôngj hay cách thức hoạt động phải căn cứ vào thực tế, các quy luật khách quan để
lựa chọn phương pháp phù hợp đảm bảo hiệu quả.
VD: Ở VN để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá cần tôn trọng các điều kiện tất yếu của đất
nước. Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, các sản phẩm, hàng hóa phải được
sản xuất dựa trên nền tảng vững chắc của cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại với cơ cấu phù hợp
với chi phí có thể bỏ ra của nền kinh tế, tăng khả năng tích lũy cho nền kinh tế, từ đó góp phần
phát triển nền kinh tế.)

6. Theo quan niệm duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ với nhau như thế
nào? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì? Cho thí dụ minh họa.
* Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý
thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích
cực trở lại vật chất.

a. Vai trò của VC đối với ý thức:

- VC là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con người nên khi có c
on ngưới mới có ý thức, mà con người là sản phẩm của thế giới VC.

- VC là nguồn gốc của ý thức, vì các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH của ý thức là bản
thân thế giới VC, hoặc là những dạng tồn tại của VC.

- Nội dung của ý thức được quyết định bởi VC, vì ý thức là cái phản ánh thế giới VC, là hình ản
h về thế giới VC.

- VC quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì những yếu tố V
C (qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường sống) quyết định sự vận động, phát
triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.

Ví dụ: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường dựa trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của b
ộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn.

b. Vai trò của ý thức đối với VC:

- Ý thức có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người: ý thức trang bị
cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, nhằm t
hực hiện mục tiêu của mình.

- Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:

+ Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật khách quan, cải tạo đ
ược thế giới. Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.

+ Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, hành động đi ngượ
c lại qui luật khách quan. Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất k
hi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất.

- Ý thức có thể quyết định hành động của con người.

Ví dụ: Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây chu
yền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân tộ
c ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê -
Nin đã nói “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Ví dụ: Từ nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI, đảng ta chuyển nề
n kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm bộ mặt nước ta đã t
hay đổi hẳn.
Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con ngườ
i hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất đị
nh. Do đó, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế gi
ới có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân t
ố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
* Ý nghĩa pp luận:
– Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Tức là, trước hết ta phải nghiên cứu, tìm tòi từ các đối tượng vật chất bên ngoài bộ óc để phục vụ
nhu cầu tìm kiếm tri thức và cải tạo các đối tượng vật chất đó. Phải lấy thực tế khách quan làm
cơ sở, phương tiện để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện
pháp; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức chúng thành lực lượng VC để hành động.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư
tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, tri trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò
của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
– Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ động và chủ
nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.
Do ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới khách quan, ta cần phát huy hết sức
tính tự giác, chủ động của con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cần kiên quyết
chống lại tư duy giáo điều, cứng nhắc, lý thuyết suông… về sự vật, hiện tượng, chống bệnh chủ
quan duy ý chí. Tức là chống lại thói quen dùng quan điểm, suy nghĩ thiếu cơ sở của mình để
gán cho các đối tượng vật chất. Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải
biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng,
thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
VD: Một doanh nghiệp có giới hạn nguồn lực (khách quan) có thể sử dụng nguồn lực đó theo các
trường hợp có thể xảy ra như sau:
+ TH1: Không vận dụng hết khả năng nguồn lực
+ TH2: Vận dụng nguồn lực vượt quá giới hạn
+TH3: Vận dụng hiệu quả trong giới hạn nguồn lực
7. Phát biểu sau đây có đúng với quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng không? Tại
sao? Cho thí dụ.
“Trong cuộc sống, chỉ cần con người có ý chí và nghị lực vượt khó thì nhất định mọi việc sẽ
thành công”.
Đây là quan điểm đúng với Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhưng chưa đủ.
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với
vật chất; bản chất năng động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản,
chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Phát biểu trên mới chỉ
đề cập đến mặt nhận thức và các yếu tố chủ quan của chủ thể- đó mới chỉ là một mặt của vấn đề.
Theo đó, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan
của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy luật,
nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với
đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con
người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra
những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động, phải
coi những nhân tố vật chất, thực tế khách quan là xuất phát điểm cho mọi hành động nhận thức
và thưc tiễn. Trong cuộc sống, mỗi thử thách, khó khăn đều kèm theo đó là những cơ hội, thời cơ
vàng… nếu chỉ có ý chí nghị lực nhưng lại thiếu sự theo dõi thực tiễn khách quan, thiếu sự
nhanh nhạy, không nắm bắt được thời cơ, cơ hội thì cũng khó mà thành công như mong muốn.
Vì vậy nếu không xuất phát từ thực tế khách quan mà chỉ giữ mãi sự chủ quan của mình, con
người dễ mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí: lấy ý chí áp đặt cho thức tế, lấy ảo tưởng thay cho
hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách
VD: Trong việc kinh doanh, nhà sản xuất cần dựa trên thực tế khách quan là nhu cầu, thị hiếu
của khách hàng, vốn mà mình có, địa điểm kinh doanh hiện tại, các đối thủ cạnh tranh khác …
để tìm ra đúng mục tiêu, phương thức sản xuất, số lượng hay những yêu cầu về chất khác cho sản
phẩm của mình sao cho có thể sản xuất được những sản phẩm phù hợp nhất với thị hiếu người
tiêu dùng. Nếu nhà sản xuất không xuất phát từ thực tế khách quan, đi ngược lại với thực tế
khách quan, có những tư tưởng chủ quan duy ý chí thì sẽ gặp thất bại trong việc kinh doanh của
mình
VD: Trong khi nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới nếu chỉ chuyên tâm vào việc phải tạo ra sản
phẩm không quan tâm đến tình hình thị trường, nhu cầu người tiêu dùng, các điều kiện kinh tế tài
chính của doanh nghiệp, tính thực tiễn của sản phẩm, dễ tạo ra các sản phẩm không phù hợp,
thiếu tính thực tiễn, không có sức cạnh tranh trên thị trường và dẫn đến thất bại.

8. Ý thức là gì? Yếu tố nào là cơ bản nhất của ý thức? Tại sao?
a. Ý thức là gì?

Ý thức là một trong những phạm trù cơ bản của triết học, tâm lý học và xã hội học. Ý thức là sự
phản ánh năng động, sáng tạo, sự phản ánh có chọn lọc, phản ánh cái cơ bản nhất mà con người
quan tâm, là sự phản ánh không nguyên vẹn mà còn được cải biến trong bộ óc con người. Ý thứ
c theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất. The
o đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến v
à sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất”.

Ý thức theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy xuất phát từ thế giới khách quan, như
ng do tâm sinh lý, mục đích, yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh chủ quan của con người phản ánh n
ên cùng một đối tượng nhưng kết quả phản ánh có thể khác nhau. Từ các định nghĩa trên ta có th
ể đưa ra một khái niệm tổng hợp: “Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của 1 dạng vật chất
sống có tổ chức cao, đó là bộ não người. Theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách q
uan vào bộ óc con người, có sự cải biên và sáng tạo”.

* Nguồn gốc của ý thức: Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
Bộ óc con người là kết quả của quá trình phát triển hết sức lâudài của thế giới vật chất. Đó là quá
trình đi từ vô cơ đến hữu cơ đến chất sống và trực tiếp là quá trình phát triển từ động vật bậc thấp
đếnđộng vật bậc cao và cuối cùng là hình thành con người với bộ óc. Bộ óc là một sản phẩm đặc
biệt của thế giới tự nhiên.
Bộ óc là một thực thể vật chất có tổ chức cao nhất và có cấu trúc tinh vi nhất.
Tất cả các dạng vật chất đều có thuộc tính phản ánh. Các thuộc tính phản ánh này phát triển từ
thấp đến cao tùy thuộc vào sự phát triển của thế giới vật chất. Nếu không có thuộc tính phản ánh
này thì không thể có ý thức. Đối với chất vô, phản ánh là sự ghi lại dấu vết của vật tác động trên
vật bị tác động. Đối với thực vật, phản ánh là sự phản ứng lại những tác động của môi trường
như hiện tượng lá cây hướng về nơi có ánh nắng. Đối với động vật, phản ánh tồn tại dưới dạng
phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.
Thế giới khách quan là cơ sở để tạo nên sự phản ánh, hình thành nội dung phản ánh.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Nguồn gốc xã hội là nguồn gốc trực tiếp để sản sinh ra ý thức. Theo quan niệm của Mác, phải có
xã hội mới sản sinh ra ý thức. Con người, nhờ có lao động mới làm nảy sinh ra những quan hệ xã
hội, mà trước hết là quan hệ trong sản xuất. Từ những quan hệ này làm nảy sinh ra ngôn ngữ.
Ngôn ngữ được xem là vỏ vật chất của tư duy, hay là công cụ để tư duy, nó được xem là tín hiệu
thứ hai mà nhờ cónó ý thức con người được hình thành và phát triển.
Tóm lại, yếu tố tự nhiên là cơ sở để hình thành ý thức, còn yếu tố xã hội là nhân tố tác động trực
tiếp đến việc làm nảy sinh và pháttriển ý thức. Hai yếu tố này có quan hệ biện chứng với nhau.
Đó là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta đấu tranh vạch rõ quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình về ý thức.
* Bản chất và kết cấu của ý thức:

- Bản chất của ý thức. Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là sự khẳng định ý thức là sự p
hản ánh, là hình ảnh tinh thần về sự vật, hiện tượng khách quan. Bản chất của ý thức thể hiện ở s
ự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về t
hế giới khách quan.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách quan
quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như nó vố
n có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người.
Theo C. Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi ở trong đó”. Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hi
ện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chấ
t- là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể
hình thành và tồn tại được.

+ Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm
– sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thôn
g tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới
và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản án
h ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoạ
i... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các
mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.

+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn li
ền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là củ
a các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội
quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

(+ Có thể nói quá trình ý thức gồm các giai đoạn:)

- Kết cấu của ý thức vô cùng phức tạp:

Theo chiều ngang, ý thức gồm các yếu tố cấu thành như tình cảm, ý chí, tri thức, trong đó tri thứ
c là yếu tố quan trọng nhất.

+ Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người đối với nhau, với thực tại xung q
uanh và đối với chính bản thân mình. Là hình thức đặc biệt của sự phản ánh thực tại (giữa con ng
ười với nhau và giữa con người với thế giới khách quan); tình cảm tham gia vào mọi hoạt động c
ủa con người; là yếu tố quan trọng để điều chỉnh các hoạt động đó. Tình cảm có tính chủ động và
tính thụ động. Khi kết hợp với tri thức, tình cảm tạo nên niềm tin

+ Ý chí là khả năng huy động tối cao sức mạnh tinh thần của con người. Nhờ có ý chí, con người
tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để khắc phục những cản trở trong quá trình hiện thực hóa m
ục đích. Có thể coi ý chí sự điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người để tự giác hướng tới m
ục đích; tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo niềm tin. “Ý thức, ý chí, nhiệt t
ình và trí tưởng tượng của hàng chục triệu người được cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất khí
ch lệ”

+ Tri thức (sự hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội) là kết quả quá trình nhận thức của co
n người về thế giới hiện thực, tái hiện trong tư duy những thuộc tính, những quy luật của thế giới
ấy và diễn đạt chúng bằng ngôn ngữ. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện đ
ể ý thức phát triển. “Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối v
ới ý thức là tri thức. Tri thức là hành vi duy nhất của ý thức. Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đố
i với ý thức chừng nào ý thức biết cái đó”. Tri thức có nhiều loại (về tự nhiên, xã hội, con người),
nhiều cấp độ [tri thức thường (cảm tính, kinh nghiệm, tiền khoa học), tri thức khoa học (lý tính, l
ý luận và khoa học)] v.v.

Theo chiều dọc, ý thức bao gồm tự ý thức, vô thức và tiềm thức.

+ Tự ý thức là nhận thức về bản thân thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài nhờ đó, con người
nhận thức về mình là một thực thể đang tồn tại, hoạt động có cảm giác, có tư duy, có các hành vi
đạo đức phù hợp với quy tắc, chuẩn mực mà xã hội đặt ra. Trình độ tự ý thức nói lên trình độ phá
t triển của nhân cách, làm chủ bản thân của con người

+ Vô thức (xuất hiện do bản năng và do rèn luyện) là những trạng thái tâm lý nằm ngoài phạm vi
của lý trí, không do ý thức kiểm soát được trong một lúc nào đấy. Trong đời sống hàng ngày, có
những hành vi, thái độ ứng xử của con người chưa có sự điều khiển của ý thức và thường được b
iểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau. Các hiện tượng này đều nằm trong chức năng chung l
à giải toả những ức chế của hoạt động thần kinh, góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động ti
nh thần của con người.

+ Tiềm thức là những tri thức mà con người đã có được từ trước và trở thành bản năng, kỹ năng
nhưng nằm trong tầng sâu của ý thức, là ý thức dưới dạng tiềm ẩn, do đó tiềm thức có thể gây ra
các hoạt động tâm lý, nhận thức mà con người không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Ti
ềm thức có vai trò quan trọng trong hoạt động tâm lý hàng ngày và trong tư duy khoa học.

* Các yếu tố cơ bản trên của ý thức có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, nhưng tri thức
là yếu tố cơ bản và cốt lõi nhất của ý thức; tri thức không chỉ là phương thức tồn tại của ý thức,
mà còn định hướng sự phát triển và quy định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác cấu thành ý t
hức.

+ Tri thức…

+ Tình cảm…

+ Ý chí…

Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu tố qu
an trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát
triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác. Ý thức mà không bao hàm tri thức, kh
ông dựa vào trí thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, không giúp ích gì cho con ng
ười trong hoạt động thực tiễn.

Để phát triển bản thân, mỗi người đều cần có một tình cảm cao đẹp, sâu sắc, đúng đắn, lành mạn
h, có lý trí, không để tình cảm lấn át; có tri thức đúng đắn; có niềm tin, ý chí mãnh liệt sâu sắc và
o tương lai tốt đẹp của xã hội, có lý tưởng cao đẹp, trong sáng. Để có được những điều ấy thì cần
xuất phát phát từ việc trau dồi tri thức. Tri thức đúng đắn là cơ sở, chỗ dựa, niềm tin đúng đắn. T
ừ đó, niềm tin đúng đắn, sâu sắc lại là cơ sở, chỗ dựa cho những lý tưởng tốt đẹp.
* Ví dụ:

- Bác Hồ: Bác có tình cảm với nhân dân; có ý chí cứu nước; tìm ra con đường giải phóng dân tộc.

- Elon Musk: phóng tên lửa, xây dựng tesla, năm 2008 nợ 40tr đô để bây giờ tài sản ròng là 8000
tỷ đô- tỷ phú công nghệ giàu nhất thế giới.

* Bài học:

Rèn luyện cả ba yếu tố. Quan trọng nhất là tri thức. Không đề cao quá yếu tố nào mà hạ thấp nhữ
ng yếu tố kia.

II. Phép biện chứng duy vật


1. Mối liên hệ là gì? Thế nào là mối liên hệ phổ biến? Cho thí dụ.
+ “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy
định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cảc yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối
tượng với nhau.
VD: MLH giữa cung và cầu (hàng hoá, dịch vụ). Trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình
cung và cầu: cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung
và cầu.

+ Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật,
hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại (được tồn tại) ở nhiều
sự vật, hiện tượng của thế giới (tức là dùng để phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù
chỉ biểu hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất định). Có nhiều cấp độ,
phạm vi của mối liên hệ phổ biến, trong đó phép biện chứng duy vật với tư cách là khoa học triết
học có nhiệm vụ nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến nhất, làm tiền đề phương pháp luận chung
cho việc nghiên cứu các mối liên hệ cụ thể trong từng lĩnh vực nghiên cứu của các khoa học
chuyên ngành; đó là các mối liên hệ như: cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, nguyên
nhân và kết quả…
VD: mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là mối liên hệ chung, nhưng
mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù tuỳ theo từng loại thị trường
hàng hoá, tuỳ theo thời điểm thực hiện… Khi nghiên cứu cụ thể từng loại thị trường hàng hoá,
không thể không nghiên cứu những tính chất riêng có (đặc thù) đó. Nhưng dù khác nhau bao
nhiêu thì chúng vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của mối quan hệ cung cầu.

2. Nêu nội dung quan điểm toàn diện. Cho thí dụ.
Nội dung quan điểm toàn diện gồm những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận thức và thực
tiễn như sau.
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất
cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó; “cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự
vật đó”, tức trong chỉnh thể thống nhất của “mối tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy
với các sự vật khác” (V.I.Lênin).
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức
chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh
được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động
qua lại của đối tượng.
Thứ ba, cần xem xét đổi tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung
quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất
định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán
đoán cả tương lai của nó. Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một
chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét
dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguy biện (đánh tráo các
mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô
nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến.)

VD: Khi nhận xét về vai trò của ngành công nghiệp đối với nền kinh tế, trước tiên ta cần đặt nó
trong mối liên hệ với các ngành kinh tế khác như: nông nghiệp, dịch vụ…

3. Phát triển là gì? Tăng trưởng là gì? Giữa chúng có mối quan hệ thế nào? Cho 1 thí dụ.
+ Trong phép biện chứng duy vật, Phát triển là khuynh hướng vận động của vận động theo chiều
hướng biến đổi về chất ở trình độ ngày càng cao hơn.
+ Tăng trưởng chỉ đơn thuần là sự biến đổi (tăng lên) về lượng mà không có sự biến đổi về chất,
nó không phản ánh quá trình biến đổi theo chiều hướng nâng cao về chất của sự vật. Đây là
điểm khác nhau căn bản giữa khái niệm phát triển và khái niệm tăng trưởng.
+ Mối quan hệ giữa phát triển và tăng trưởng: Tăng trưởng là điều kiện để phát triển và từ phát
triển lại tạo ra tăng trưởng.
Mặc dù có sự khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển nhưng giữa chúng lại có mối liên hệ tất
yếu với nhau: tăng trưởng là điều kiện của phát triển và ngược lại, phát triển lại là điều kiện tạo
ra những sự tăng trửởng mới, thường là với tốc độ và quy mô lớn hơn. Đó là mối quan hệ có tính
quy luật của sự phát triển.
Ví dụ, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế: tăng trưởng kinh tế là điểu kiện
quan trọng để phát triển kinh tế và ngược lại, sự phát triển kinh tế lại tạo ra điều kiện cho sự tăng
trưởng kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững và với một quy mô, tốc độ mới lớn hơn.

4. Từ một hiện tượng bất kỳ quan sát được trong thực tế có thể kết luận chính xác ở mức
độ đầy đủ, tuyệt đối bản chất của sự vật không? Tại sao? Cho thí dụ.
+ Bản chất: Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn
định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện
tượng tương ứng của đối tượng.
VD: Bản chất của ánh sáng là sự thống nhất giữa đặc tính sóng và hạt.
+ Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn
định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng. VD:
Hiện tượng của ánh sáng là giao thoa.
+ Từ một hiện tượng bất kỳ quan sát được trong thực tế không thể kết luận chính xác ở mức độ
đầy đủ, tuyệt đối bản chát của sự vật. Bởi theo phương pháp luận, bản chất chỉ thể hiện mình
thông qua hiện tượng và hiện tượng lại thường biểu hiện bản chất dưới hình thức đã bị cải biến
nên trong mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng), mà cần đi
sâu vào bên trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thường giấu mình sau hiện tượng; khi kết
luận về bản chất cần tránh nhận định phiến diện, chủ quan và phải dựa vào các quy luật khách
quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Bản chât của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược, bóc lột nhân dân các nước, gây mất trật tự an
ninh về mặt chính trị. Bản chất đó được biểu hiện bằng nhiều hình thức phức tạp: viện trợ kinh
tế, viện trợ mang tính nhân đạo, hợp tác…Nhưng những hình thức đó không thể hiện đầy đủ bản
chất chủ nghĩa đế quốc tàn bạo mà mang tính chất xuyên tạc, tô hồng bản chất. Cho nên ta không
thể đánh giá đầy đủ, chính xác tuyệt đối về bản chất cảu chủ nghĩa đế quốc chỉ thông qua những
hiện tượng trên.

5. Từ lý luận về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng để trả lời: Tại sao con người có thể
và cần phải tổng kết kinh nghiệm.
a. Khái quát lý luận về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong Phép biện chứng duy
vật của Triết học Mác – Lênin:
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định. VD: mỗi
doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế, …
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở
một sự vật, một hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái
riêng) khác nữa. VD: cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị, công sức lao động của
người làm thuê, cái chung của các cuộc chiến tranh là sự đổ máu hi sinh của người dân, …
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật,
hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác. VD: cùng là
những chủ trương chính sách do nhà nước ban hành nhưng mỗi chính sách lại có đối tượng
hướng đến, đối tượng thực hiện và nội dung khác nhau, …
- Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong Phép biện chứng duy vật của Triết học Mác –
Lênin:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai phái duy thực và
duy danh trong việc lý giải mối quan hệ cái chung - cái riêng:
Thứ nhất, cái chung và cái riêng tồn tại khách quan. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông
qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung. VD: mỗi doanh nghiệp khi
kinh doanh đều có mục tiêu là lợi nhuận cao, phổ biến với khách hàng…Những mục tiêu này lặp
lại ở nhiều doanh nghiệp riêng lẻ, đó là cái chung của những doanh nghiệp cụ thể; Mỗi con
người là một cái riêng nhưng không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hộ và tự nhiên….
Thứ hai, cái chung là bộ phận của cái riêng, nhưng sâu sắc hơn cái riêng; cái riêng phong phú
hơn cái chung. Bởi cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất; còn cái chung biểu hiện
tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.
VD: mỗi quốc gia đều đã từng có những cuộc đấu tranh nhân dân (cái riêng), nhưng các cuộc đấu
tranh này dù diễn ra ở đâu đều mang tính dân tộc, đấu tranh để giành lại tự do, giành lại quyền
lợi (cái chung).
b. Vận dụng trả lời câu hỏi: Tại sao con người có thể và cần phải tổng kết kinh nghiệm.
- Kinh nghiệm chính là tri thức, là sự am hiểu của con người tổng hợp được từ những vấn đề mà
chính họ đã trải qua, đã đối mặt nghiệm trực tiếp với nó. Kinh nghiệm trong triết học là cái
chung được đúc rút từ nhiều cái riêng là những sự trải nghiệm của con người trên các lĩnh vực
khác nhau. Vd: Kinh nghiệm kinh doanh phải tập trung vào thị hiếu, nhu cầu khách hàng được
tổng kết từ nhiều chiến dịch kinh doanh đã phát động trước đó và những cuộc khảo sát nghiên
cứu tâm lý khách hàng…
- Con người có thể tổng kết kinh nghiệm bởi: cái chung tồn tại trong cái riêng và thông qua cái
riêng, kinh nghiệm là cái chung được rút ra và tổng hợp từ nhiều cái riêng nên việc thông qua
những cái riêng để trải nghiệm sẽ giúp ta tìm ra được cái chung là kinh nghiệm.
- Con người cần phải tổng kết kinh nghiệm bởi: cái chung sau khi được đúc kết từ nhiều cái riêng
sẽ là tiền đề để giải quyết nhiều cái riêng mới mang tính chất tương tự trong tương lai. Do đó khi
có trong tay những kinh nghiệm (cái chung) là ta đã sở hữu chiếc chìa khoá để giải quyết mỗi
vấn đề tương tự (cái riêng). Và cái chung tuy là bộ phận cuả cái riêng nhưng lại sâu sắc hơn cái
riêng nên những kinh nghiệm được tổng hợp lại đều là những tinh hoa, những sự đúng đắn,
những sự thật được thừa nhận…đó là những tri thức có giá trị tư tưởng lớn, ý nghĩa sâu sắc tác
động đối với nhân loại.

\\\\\\\\\\\\\6. Khi xây dựng các dự báo cho hoạt động thực tiễn, cần phải căn cứ vào cái tất
nhiên hay ngẫu nhiên? Tại sao? Cho thí dụ.
+ Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật, hiện
tượng quy định và trong điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác.
+ Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ không bản chất, do nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài
quy định nên có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất
hiện thế khác.
+ Khi xây dựng dự báo cho các hoạt động thực tiễn, cần phải căn cứ vào cái tất nhiên hay ngẫu
nhiên? Tại sao? Ví dụ?
Khi xây dựng dự báo cho các hoạt động thực tiễn, cần phải căn cứ vào cả cái tất nhiên và cái
ngẫu nhiên. Bởi theo lý luận, trong quá trình vận động của bất kỳ sự vật nào đều chịu sự chi phối
của quy luật khách quan (cái tất nhiên) và tương tác điều kiện môi trường (ngẫu nhiên). Tất
nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò nhất định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng;
nhưng tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên có thể làm cho sự phát triển
ấy diễn ra nhanh hay chậm. Ngoài ra căn cứ vào phương pháp luận quan điểm toàn diện rằng cần
xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều phương diện, nhiều mối liên hệ khác nhau. Tuy nhiên, mọi dự
báo đều yêu cầu tính chính xác trong phương hướng, kế hoạch dài hạn rồi mới đến các dự báo
trung hạn, ngắn hạn và cụ thể hoá các phương án. Do vậy, trước tiên và cơ bản nhất, cần phải
dựa vào cái tất nhiên để đảm bảo tínhh chính xác tuyệt đối, sau đó mới dựa vào cái ngẫu nhiên để
cụ thế hoá các khả năng có thể xảy ra.
7. Từ nội dung quy luật về phương thức cơ bản của sự phát triển để trả lời: Có phải mọi sự
thay đổi về lượng đều dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật hay không? Tại sao? Cho 1 thí
dụ.
+ Khái niệm:
- “Lượng”: tính quy định của một sự vật về mặt số lượng yếu tố cấu thành, quy mô tồn tại, tốc độ
vận động, phát triển. VD: Lượng vốn của các doanh nghiệp, …
- “Chất”: tính quy định của sự vật về phương diện thược tính khách quan, vốn có của nó, tồn tại
trong mối quan hệ thống nhất với nhau tạo nên sự vật là nó.
- Quy luật “lượng và chất”: Lượng và chất là 2 mặt của mỗi một sự vật nhất định, chúng tồn tại
trong sự quy định lẫn nhau, tác động và làm biến đổi lẫn nhau mà quá trình ấy thường bắt đầu từ
những thay đổi về lượng, đến một giới hạn nhất định tất yếu làm cho sự vật thay đổi về chất; nhờ
chất mới mà sự vật lại có những biến đổi về lượng trên các mặt khác nhau, một khi lượng mới
tiếp tục đc thay đổi thì nó lại tạo ra những khả năng biên sđổi mới về chất... Quá trình đó tạo nên
phương thức cơ bản của các quá trình vận động nói chung và phát triển nói riêng.

8. Theo phép biện chứng duy vật, “mâu thuẫn” là gì? Để tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế thì cần phải xóa bỏ các mâu thuẫn trong nền kinh tế hay sử dụng mâu thuẫn để tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế?
- Khái niệm mâu thuẫn với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá của các mặt
đối lập trong mỗi sự vật hoặc giữa các sự vật trong quá trình vận động, phát triển của chúng (vắn
tắt: là mối liên hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập). Với nghĩa như vậy, mâu thuẫn
là cái tồn tại khách quan, vốn có của bất cứ một sự vật, hiện tượng, quá trình nào trong tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Ví dụ, mối quan hệ giữa điện tích âm và điện tích dương của một dòng điện; giữa đồng hoá và dị
hoá của cơ thể sống; giữa chân lý và sai lầm trong quá trình nhận thức; giữa cung và cầu trên thị
trường hàng hoá, ...
- ???

III. Lý luận nhận thức:


1. Phát biểu định nghĩa về “thực tiễn”, “nhận thức”. Thực tiễn có những vai trò gì với nhận
thức? Nêu 1 thí dụ.
* Khái niệm thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
+ Khái niệm thực tiễn dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
+ Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
• Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là
hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để
tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
• Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
• Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là hoạt
động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại
những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những những quy luật biến đổi, phát triển
của đối tượng nghiên cứu.
• Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau,
không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò quan trọng nhất,
đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác
* Nhận thức và các trình độ nhận thức
+ Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ
óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
+ Các trình độ nhận thức:
• Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Trong đó, nhận thức kinh nghiệm là trình
độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội
hoặc qua các thí nghiệm khoa học; nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng,
có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học. Trong đó, nhận thức thông thường là loại nhận thức được
hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người; nhận thức
khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc
điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.
• Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng như nhận thức thông thường và nhận
thức khoa học là những trình độ nhận thức khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ biện chứng
với nhau trong quá trình phát triển nhận thức của con người.
* Vai trò của thực tiễn với quá trình nhận thức là gì?
- Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu c
huẩn của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá trình nhận thức chân lý:
Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức: Thông quả hoạt động thực tiễn, co
n người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tr
i thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận t
hức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp và
o đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng b
ộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con
người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của
thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạ
o ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng
năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đe
m lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo. Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến th
ế giới đặt ra yêu cầu buộc con người phải nhận thức về thế giới. Thực tiễn làm cho các giác quan,
tư duy của con người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc
hơn về thế giới.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn tiêu chuẩn của chân lý: Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng
hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Theo triết học Mác
– Lênin, thực tiễn là thước đo chính xác nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri t
hức đó có phải là chân lý hay không. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hoá được tri thứ
c, hiện thực hoá được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm
nào đó. Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân
lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chí
nh trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính chất tương đ
ối. Tính tuyệt đối với tư cách tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách qua
n duy nhất để kiểm tra, khảng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, thực
tiễn có quá trình vận động, biến đổi, phát triển, do đó “không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác
bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng
nữa”.
Triết học Mác – Lênin yêu cầu quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và
cơ bản của lý luận về nhận thức và khẳng định “con người chứng minh bằng thực tiễn của mình
sự đóng dấu khách quan của những ý niệm, khái niệm tri thức của mình, của khoa học, của
mình”.
- Ví dụ thực tiễn là động lực cho nhận thức
+ Qua quá trình hoạt động thực tiễn, con người càng ngày càng có nhu cầu cao về liên lạc.
Không chỉ là thư tay mà còn nhu cầu về âm thanh, hình ảnh,... vì thế con người ngày càng cải
biến, nâng cấp hệ thống thông tin liên lạc có thể gọi điện trực tiếp, vừa có thể nghe vừa nhìn
được trực tiếp trong cùng một thời gian, sản xuất ra các hãng điện thoại thông minh
+ Qua quá trình sản xuất trồng trọt, con người ngày càng muốn nâng cao sản lượng lẫn chất
lượng của cây trồng. Từ thực tiễn đó đã là động lực cho con người càng ngày càng phát triển
công cụ lao động, phương pháp canh tác, các kĩ thuật nuôi trồng, các loại phân bón,...

2. Một tư tưởng (quan niệm, quan điểm, chính sách…) nào đó khi chưa được thực tiễn
chứng minh là đúng thì có thể kết luận nó là sai lầm được hay không? Tại sao?
Khi một tư tưởng nào đó chưa được thực tiễn chứng minh là đúng thì CHƯA \THỂ kết luận nó là
sai lầm được. Vì thực tiễn là chân lý kiểm tra tư tưởng tuy vậy thực tiễn vừa có tính chất tuyệt
đối, vừa có tính chất tương đối. Tính tương đối đó thể hiện ở chỗ thực tiễn luôn có sự thay đối,
biến thiên liên tục theo không gian, thời gian. Có thể ở khoảng thời gian thực tiễn này tư tưởng
đó còn chưa phù hợp nhưng với sự biến đổi thì có thể ở khoảng thời gian thực tiễn sau tư tưởng
này sẽ là đúng đắn.

Chương 3

1. Nêu định nghĩa “Sản xuất vật chất” và phân tích vai trò của nó.
* Sản xuất:
Dưới dạng chung và phổ biến nhất thì sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ
lao động tác động vào giới tự nhiên cải biến các dạng vật chất cần thiết cho đời sống của con
người và xã hội. Đó là quá trình lao động sản xuất vật chất của con người tác động vào đối tượng
lao động tạo ra sản phẩm vật chất
* Sản xuất vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng.
Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội
là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người, nó
chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Thông qua lao động sản xuất, con người được cải tạo, hoàn thiện và phát triển về thể chất và tinh
thần.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội,
đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển
của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định
phát triển xã hội từ thấp đến cao.

2. Phương thức sản xuất là gì? Nó có vai trò gì đối với sự phát triển của xã hội? Cho 1 thí
dụ.
* Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người
* Vai trò của phương thức sản xuất với sự phát triển của xã hội:
- Phương thức sản xuất là động lực cơ bản để con người phân hóa tách biệt khỏi thế giới động
vật, và cũng là dấu hiệu cơ bản để phân biệt con người với động vật.
+ Phương thức sản xuất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Con người muốn tồn
tại được, đầu tiên phải giải quyết vấn đề về tư liệu vật chất cho cuộc sống, mà điều này chỉ có thể
có được nhờ hoạt động Sản xuất vật chất.
+ Phương thức sản xuất là cơ sở cho mọi mối quan hệ trong xã hội loài người.
+ Phương thức sản xuất quyết định tính chất và sự thay thế của các chế độ xã hội. Nền sản xuất
xã hội không ngừng phát triển, sự thay đổi của sản xuất tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của
phương thức sản xuất, do đó hình thái xã hội cũng sẽ thay đổi, xã hội chuyển sang một trình độ
cao hơn.
Ví Dụ: trong ngành nhà hàng, họ sẽ chuẩn bị trước một số nguyên liệu thô và sau đó chờ đợi đơn
đặt hàng của khách hàng để bắt đầu thực hiện món ăn. Phương thức này có một nhược điểm của
phương thức sản xuất lắp ráp theo đơn hàng là một công ty có thể nhận được quá nhiều đơn đặt
hàng để xử lí, trong khi chỉ có số lượng giới hạn lao động và các thành phần trong tay.
VÍ DỤ: Nhờ có phương thức sản xuất, ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại
kinh tế khác nhau
3. Lực lượng sản xuất là gì? Yếu tố nào là cơ bản nhất trong lực lượng sản xuất? Tại sao?
+ trong quá trình sản xuất trong đời sống xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng
hợp tất cả các sức mạnh hiện thực của mình. Sức mạnh đó được triết học duy vật lịch sử khái
quát trong khái niệm “lực lượng sản xuất
+ Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có nhân tố thuộc về người lao động
(như năng lực, kỹ năng, tri thức… của người lao động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như
đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất…). Toàn bộ các
nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là tổng
hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu
cầu sinh tồn, phát triển của con người. Như vậy, lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính
sáng tạo và tính sáng tạo đó có tính lịch sử. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản
xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở
trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “người lao động” là nhân tố giữ vai trò quyết
định. Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng
thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và
sáng tạo của người lao động. Mặt khác, trong tư liệu sản xuất nhân tố công cụ lao động là nhân
tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con
người chinh phục giới tự nhiên

4. Nêu khái niệm quan hệ sản xuất. Ở Việt Nam hiện nay có những loại hình quan hệ sở
hữu nào về tư liệu sản xuất?
+ Đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao
động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những
người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư
sản”.
=> Thực chất của đấu tranh này là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần
chúng bị áp bức, vô sản, đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc
lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột.
- Đấu tranh kinh tế - 1 trong những hình thức đấu tranh cơ bản của giai cấp vô sản.
- Đấu tranh chính trị - Là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản, quyết định nhất và có
tính chất gay go, quyết liệt.
- Đấu tranh tư tưởng - là đấu tranh giữa tư tưởng, lý luận vô sản và tư tưởng, lý luận phi vô sản

5. Quan hệ sản xuất có vai trò tích cực hay tiêu cực đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất? Cho thí dụ.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, quy định cách thức tổ chức, quản lý, phân
công sản xuất, quy định sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và cơ chế thực hiện lợi
ích của con người vì vậy, tác động đến thái độ của con người trong sản xuất ... từ đó hình thành
những yếu tố, khuynh hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Có thể thấy rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương thức sản xuất, không loại trừ một quốc
gia dân tộc nào. Điều đó, đòi hỏi chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước thì phải nhận thức
đúng để hành động phù hợp với quy luật khách quan
6. Nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là nhiệm vụ
nào? Tại sao?
Là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ
khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ
nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng
bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

7. Ở Việt Nam hiện nay có những loại hình quan hệ sản xuất nào?
Quan hệ sản xuất: Là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất.
- Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
+ Quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất (quan hệ sở hữu)
+ Quan hệ về tổ chức, quản lí quá trình sản xuất (quan hệ quản lí)
+ Quan hệ phân phối sau qua trình sản xuất (quan hệ phân phối)

8. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay có những thành phần kinh tế cơ bản nào?
Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta gồm năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

9. Giai cấp là gì? Đấu giai cấp có vai trò gì đối với sự tiến bộ và phát triển của xã hội?
+ Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ
này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải
xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì
có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
+ Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những phương thức. động lực của sự tiến bộ, phát
triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp
đến nay, về thực chất chỉ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều
hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu
tranh của những người nó lệ chống lại ách áp bức của giai cấp chủ nô; cuộc đấu tranh của những
người nông nô, những người nông dân làm thuê chống lại sự áp bức và bóc lột của bọn chúa đất,
địa chủ: cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê chống lại ách áp bức và bóc lột của
giai cấp tư sản, kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương
thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực
hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng
trong đời sống kinh tế và chính trị – xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ
là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự tiến bộ, phát
triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong bản thân nền sản
xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó
lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị – xã
hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết
được thông qua việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị – xã hội.
Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị – xã hội để giải
quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

10. Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì? Cho thí dụ.
+ Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất
của mỗi cộng đồng người trong những điều kiện lịch sử xác định.
Ví dụ, phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt
vật chất truyền thống của người Việt Nam.
+Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn
tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ví dụ, Về ý thức xã hội điển hình có sự nổi bật trong truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân
nghĩa của dân tộc và nhân dân Việt Nam thì rất cần cù chăm chỉ với truyền thống hiếu học được
truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc
Việt trong nhiều thế kỉ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo

11. Nêu quan niệm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất của con người.
- Đầu tiên, theo quan điểm triết học, con người là thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa c
ái tự nhiên và cái xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm
của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu t
ố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người và giới tự nhiê
n là “thân thể vô cơ của con người”. Do vậy, con người là một bộ phận của tự nhiên. Là động vật
cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu
dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sốn
g tự nhiên như thức ăn, nước uống, hang động để ở. Như vậy con người trước hết là một tồn tại s
inh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối q
uan hệ của nó với tự nhiên. 

- Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện t
hực, không phải tự nhiên mà là lịch sử.

+ Bản chất con người còn là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Con người vượt lên thế giới loài v
ật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chí
nh bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan
hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi
hoạt động.
VD: Chẳng hạn như người buôn bán phải có người sản xuất ra hàng hóa và người mua hàng. Mỗi
người đều cần có người khác để thực hiện mục đích của mình.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thâ
n mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu
tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng
của triết học mác - xit.
Dù khẳng định bản chất xã hội thì cũng không có nghĩa là phủ định mặt tự nhiên trong đời sống c
on người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trư
ớc hết là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục thiếu sót của các nhà triết học trước Mác
không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biế
n, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các biểu hiện r
iêng phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích của mỗi cá nhâ
n trong cộng đồng xã hội.

You might also like