You are on page 1of 16

TRƯỜNG:ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ, ĐẠI HỌC HUẾ

KHOA:NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NHẬT BẢN


--- ---

BÀI KIỂM TRA ĐIỀU KIỆN SỐ 2


MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN

Giảng viên : Nguyễn Văn Thắng


Sinh viên thực hiện : Trà Thị Diễm My
Mã sinh viên : 21F7550215

HUẾ: 2022
Câu 1: Khi nói về xuất khẩu tư bản, V.I.Lênin cho rằng: “Xuất khẩu tư bản
là sự ăn bám bóc lột bình phương của chủ nghĩa tư bản độc quyền”. Hãy
phân tích quan điểm đó và rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu đối với Việt
Nam.
I. Phân tích quan điểm của V.I.Lênin cho rằng: “Xuất khẩu tư bản là sự
ăn bám bóc lột bình phương của chủ nghĩa tư bản độc quyền”.
Theo V.I.Lênin: “ Xuất khẩu tư bản là sự ăn bám bóc lột bình phương của
chủ nghĩa tư bản độc quyền”. V.I.Lênin đã vạch rõ, xuất khẩu hàng hóa là
đặc điểm cơ bản của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh còn xuất
khẩu tư bản là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Khái niệm:
Xuất khẩu hàng hóa: là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và
giá trị thặng dư.
Xuất khẩu tư bản: là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài ( đầu tư tư bản ra nước
ngoài), có thể gọi là đưa tư bản “ thừa” ra ngoài biên giới quốc gia để thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị
thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
V.I.Lênin cũng đã khẳng định rằng xuất khẩu tư bản là sự ăn bám bóc lột.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:
Thứ nhất, do một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư
bản lớn và có một số “ tư bản thừa” tương đối cần nơi tiêu thụ, nghĩa là
lượng tư bản này nếu đầu tư ở trong nước thì tỷ suất lợi nhuận ( P’) thấp,
bởi vì nguyên liệu sản xuất giá thành cao, lực lượng lao động cũng không hề
rẻ. Vì vậy nên họ cần tìm nơi đầu tư ra nước ngoài có nhiều lợi nhuận cao
hơn.
Thứ hai, nhiều nước kém phát triển, lạc hậu về kinh tế, trình độ khoa học
kỹ thuật, bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu vốn
để phát triển kinh tế. Ngoài ra, tại các nước kém phát triển này lại có một
nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, giá cả ruộng đất cho thuê tương đối hạ,
nguyên liệu sản xuất lại rẻ nên khi đầu tư vào thì sẽ thu được tỷ suất lợi
nhuận cao, đó là những điều kiện hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài.
Phân loại:
Xét về hình thức, xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ
yếu: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí
nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu
tư để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh
của “công ty mẹ” ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại
dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí
nghiệp toàn bộ vốn là của công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp là trực tiếp
đem máy móc, kĩ thuật công nghệ ra nước ngoài để tổ chức sản xuất. Đầu
tư trực tiếp có ưu thế sau: tư bản bị chôn chặt vào máy móc thiết bị và nhà
xưởng nên không thể vận động nhanh được. Do đó nó phải chuyển giao
công nghệ, đào tạo công nhân và mở rộng thị trường hàng hóa. Cho nên
nhiều quốc gia rất thích xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất
của đầu tư trực tiếp là chuyển đổi quan hệ tư bản chủ nghĩa sang và thường
áp dụng chính sách diễn biến hòa bình làm lung lay chế độ chính trị của
nước nhập khẩu.
+ Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi
tức, mua cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá trị khác, quỹ
đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà
nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián
tiếp có ưu thế: tập trung nguồn vốn nhanh để giải quyết các công trình kinh
tế trọng điểm của nước nhập khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Nhưng khi tư bản vận động đưa ra nước ngoài nhanh chóng, dễ gây ra đổ
vỡ cho nền kinh tế. Các công trình đầu tư nguồn vốn từ xuất khẩu gián tiếp
dễ bị quan chức tham nhũng, dẫn đến không có hiệu quả.
Xét về chủ thể xuất khẩu, thì xuất khẩu tư bản được chia thành: xuất khẩu
tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.
+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực
hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là thường được đầu tư vào những
ngành kinh tế có vòng quay vốn ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao,
dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc
gia.Hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông
qua các hoạt động đầu tư kinh doanh. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình
thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hương tăng nhanh, chiếm tỉ lệ cao
trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu
tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ này nó đã
đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.
+ Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn
vốn từ ngân quỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào
nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để
thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự nhất định của
chúng.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc
kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân.
Nhà nước tư bản độc quyền còn thực hiện hình thức “viện trợ” không hoàn
lại cho nhà nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại
và đầu tư có lợi.
Về chính trị, “viện trợ” của nước tư bản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế
độ chính trị “thân cận” đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng
cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước tư bản phát triển, thực
hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân đẩy mạnh xuất
khẩu tư bản.
Về quân sự, “viện trợ” của nhà nước tư bản nhằm lôi kéo các nước phụ
thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các
nước xuất khẩu tư bản lập các căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình…
Xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước
ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính
trên phạm vị toàn thế giới.
Nếu xét về cách thức hoạt động , có các chi nhánh của các công ty xuyên
quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm
tín dụng và chuyển giao công nghệ, trong đó, hoạt động dưới hình thức
chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản
thường sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản.
Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là sự bành trường thế lực của tư bản
tài chính nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập
khẩu tư bản bị bóc lột gía trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào
nền kinh tế nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm cho mâu thuẫn kinh tế - xã
hội gia tăng.
Tác động của xuất khẩu tư bản đối với các nước nhận xuất khẩu tư bản.
Tiêu cực: Mở rộng phạm vi bóc lột sức lao động ra nước ngoài, là công cụ
để bành trướng sự thống trị, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi thế
giới.
Tích cực: Các nước nhận được sự đầu tư sẽ ngày càng hòa nhập vào thế
giới và thực hiện cơ cấu kinh tế mở. Giúp các nước kém phát triển tranh thủ
được vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh từ các
nước tiên tiến từ đó rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các nước.
Bản chất của xuất khẩu tư bản: Vốn các nhà tư bản xuất khẩu ra nước ngoài
là một bộ phận sức lao động do người công nhân chính quốc tạo ra bị nhà
tư bản chiếm đoạt rồi xuất khẩu tư bản ra nước ngoài tạo thành vốn đầu tư
để tiếp tục bóc lột các nước nhận xuất khẩu tư bản. Do đó, xuất khẩu tư
bản là hình thức bóc lột nhiều tầng của chủ nghĩa tư bản, “ Ăn bám bóc lột
bình phương”.
Hậu quả của việc xuất khẩu tư bản:
Đối với các nước nhập khẩu tư bản: Sức lao động bị bóc lột nặng nề. Nền
kinh tế bị lệ thuộc. Tốc độ tăng trưởng lạc hậu nhiều so với khả năng khoa
học, công nghê hiện đại cho phép ( hiệu suất sử dụng máy móc chỉ được 60-
70%) thất nghiệp tăng, điều đó phản ánh chủ nghĩa tư bản vẫn còn sức
sống, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và ngày càng sâu
sắc hơn biểu hiện thành mâu thuẫn giữa tư bản với người lao động ngày
càng gay gắt. Hình thành sự phân hóa giàu nghèo, bất công tăng lên, bản
chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn còn tồn tại.
Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển
hiện nay của chủ nghĩa tư bản
Ngày nay , trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi
lớn.
Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia,
luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các
nước kém phát triển ( chiếm tỷ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần
đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát
triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ
nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản
vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất
khẩu tư bản vào các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn
16,8% (1996) và hiện nay khoảng 30%. Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận
tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện mà
các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản
đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi
trong mối quan hệ quốc tế.Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư
bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi
nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của
thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các
ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu
mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương... Những
ngành này có thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít
nguyên, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển
đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng
khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu
cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất
cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì
các nước đang phát triển có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu , không phù hợp,
tình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu
tư không còn cao như trước (còn với nước đang phát triển nhưng đã trở
thành Nics thì tỷ trọng của luồng tư bản xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng
tư bản xuất khẩu của các nước đang phát triển). Mặt khác thời gian này, xu
hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển
rất mạnh. Hệ qủa của hoạt động này bao giờ cũng hình thành các khối kinh
tế với những đaọ luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm
lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi
nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm
tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích
cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển
không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi , mà chỉ làm cho hình
thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn.
Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học - công nghệ cao ở các
nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của tư bản
tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó
là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết
bị quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ
lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô
hình). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất
này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc
quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các
nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi
chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát
triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một
giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản
đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài
hơn của quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu
mà tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ
nần của các nước đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực tế chứng
minh cho kết luận trên.
Thứ hai là chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các
công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là
trong FDI ( Foreign Direct Investment) . Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ
thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển mà nổi bật là các Nics
châu Á.
Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất
khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực
tiếp xuất hiện những hình thức mới như: xây dựng – kinh doanh – chuyển
giao ( Build – Operate – Transfer – BOT); xây dựng – chuyển giao ( Built and
Transfer – BT)... Sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn
bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám,… không ngừng tăng lên.
Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ
bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm
cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa
bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động
và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong những nhân
tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công
nghiệp hoá và tái công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu tư
bản phát triển nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại
cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là với các nước đang phát triển
những hậu quả nặng nề như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc,
nợ nần chồng chất do bị bóc lột quá nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một
phần rất lớn vào vai trò quản lý của nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản.
Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản , nhiều nước đã mở rộng việc
tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá ở nứơc mình. Vấn
đề đặt ra là phải biết vận dụng mềm dẻo,linh hoạt , nguyên tắc cùng có lợi,
lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu xuất khẩu tư bản đối với thị trường Việt
Nam
Trở thành thành viên của WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới), hàng hoá
của Việt Nam đã có cơ hội có mặt trên thị trường thế giới và hấp dẫn các
công ty nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam. Xu hướng toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện tiếp thu những thành
tựu khoa học công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến từ các nước phát
triển. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước học hỏi cách thức quản
lý mới, sử dụng công nghệ mới trong sản xuất và hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu. Cải tiến và hoàn thiện các dây chuyền sản xuất theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí, tạo ra
những sản phẩm mới có chất lượng, đa dạng về mẫu mã, bao bì...tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài. Gia nhập WTO, thực thi theo đúng các nguyên tắc của
tổ chức này thì hàng hoá của Việt Nam được đối xử bình đẳng như hàng
hoá của các nước thành viên khác, các doanh nghiệp của Việt Nam có vị thế
ngang bằng với doanh nghiệp của các nước thành viên khác, các doanh
nghiệp VN cũng được đối xử công bằng như các doanh nghiệp nước ngoài.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn để họ có
khả năng “đổi mới công nghệ”. Cụ thể là ta nên xây dựng các quỹ đầu tư
mạo hiểm để giúp các doanh nghiệp trong lúc họ cần vốn, làm cho các
doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Bên cạnh
đó, doanh nghiệp còn có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Cần
xây dựng hệ thống thông tin khoa học công nghệ để cung cấp thông tin cập
nhật, chính xác và chi tiết về các công nghệ hiện đại, qua đó doanh nghiệp
có thể an tâm lựa chọn công nghệ thích hợp nhất cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh của mình. Đồng thời, giúp doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và
triệt để công nghệ đó tránh gây lãng phí. Thực hiện cổ phần hoá các trung
tâm nghiên cứu công nghệ để có thể hoạt động tốt hơn, đồng thời triển
khai hướng các trung tâm này vào việc phục vụ cho các doanh nghiệp có
hiệu quả hơn. Chú trọng đầu tư vào con người giúp người lao động lẫn
người quản lý có đầy đủ kiến thức, hiểu biết để khai thác triệt để các công
nghệ mới và hiện đại Đế đẩy mạnh xuất khẩu trước hết các doanh nghiệp
cần phải xác định được chiến lược mặt hàng xuất khẩu và chiến lược thị
trường đúng đắn. Trên cơ sở lựa chọn thị trường và xác định được mặt
hàng xuất khẩu chủ lực thì các doanh nghiệp cần lựa chọn phương thức đổi
mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý sao cho phù hợp. Mặt hàng xuất
khẩu phải đảm bảo các tiêu chuẩn theo đúng yêu cầu của nước nhập khẩu.
Phát triển thị trường, tạo bản sắc riêng cho doanh nghiệp để xây dựng
thương hiệu vững chắc nhằm khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên
trường quốc tế. Phải tăng cường liên kết hợp tác theo chiều dọc và theo
chiều đảm bảo ngang nguồn cung nguyên liệu và phải luôn nhận thức được
tầm quan trọng giữa cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
vốn ít cần phải tăng cường hợp tác, liên kết để giúp đỡ lẫn nhau. Phải hoàn
thiện cơ chế quản lý; đào tạo và phát huy năng lực lãnh đạo của nhà quản
trị doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần nhận thức được vai trò
các tổ chức này thật sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp
và các cơ quan nhà nước. Tích cực tiến hành các hoạt động xúc tiến thương
mại. Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá.
Từ vài thập niên trở lại đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần không
nhỏ trong quá trình tăng trưởng của nhiều nước trong đó có cả sự thần kỳ
châu Á. Sự bùng nổ đầu tư và thương mại ở tất cả các vùng trên thế giới
trong mấy năm gần đây là các nhân tố chính góp phần thúc đẩy quá trình
toàn cầu hóa kinh tế ngày một lan rộng . Khu vực châu Á - Thái Bình Dương
đã trở thành một điểm sáng trên bản đồ phân bổ đầu tư của thế giới với
nhiều lợi thế về lao động , nguồn lực mà các nhà đầu tư coi là rất có triển
vọng và đặt nhiều niềm tin. Về lâu dài, chúng ta cần phải gắn việc cải cách
môi trường đầu tư với cải cách toàn bộ nền kinh tế. Việc làm này có tác
dụng mạnh mẽ hơn so với việc ưu đãi và khuyến khích riêng lẻ cho các nhà
đầu tư (chủ yếu chỉ để giữ chân các nhà đầu tư trước chuyển dịch lợi thế
cạnh tranh giữa các nước). Cải cách môi trường đầu tư sẽ chỉ là một phần
trong việc cải cách cơ cấu kinh tế và có thu hút được nhiều FDI hay không
phụ thuộc vào kết quả của những nỗ lực cải cách ấy. Cần phải thấy rằng nếu
chỉ cải thiện theo hướng tốt hơn so với trước là chưa đủ. Các nhà đầu tư sẽ
chỉ đầu tư khi cho rằng các điều kiện của môi trường đã đủ tốt đối với họ và
có thể đem lại lợi nhuận.
Sự ổn định chính trị – xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của
Việt Nam trong việc hội nhập với khu vực và thế giới và những lợi thế vốn
có về tài nguyên , con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi
trường đầu tư của Việt Nam. Như vậy chúng ta cần biết tận dụng và
phát huy những lợi thế Việt Nam vẫn sẽ là một thị trường hấp dẫn và có
nhiều cơ hội đầu tư.
Câu 2: Thế nào là định hướng xã hội chủ nghĩa ? Tại sao nói phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu
khách quan ?
I. Định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa là thuật ngữ dùng để chỉ mục tiêu xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta cần đạt đến cùng những phương hướng cơ bản để từng
bước tiến tới mục tiêu đó. Định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ dùng trong điều
kiện giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã giành được
chính quyền và đang tổ chức xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Định
hướng là nhấn mạnh vai trò của nhân tố chủ quan tác động đến quá trình
phát triển khách quan.
II. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là một tất yếu khách quan.
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế
vận hành theo các quy luật của thị trường, từng bước xác lập xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh có sự điều tiết của Nhà
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam thực
chất là hướng tới các giá trị cốt lõi của xã hội mới(dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh).
Để đạt được hệ giá trị cốt lõi, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cần có vai
trò điều tiết của nhà nước. Ở Việt Nam, nhà nước được đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền do lịch sử khách quan quy định.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phải bao hàm đầy
đủ các đặc trưng chung vốn có của kinh tế thị trường nói chung, vừa có
những đặc trưng riêng của Việt Nam. Đây là kiểu mô hình kinh tế thị trường
phù hợp với đặc trưng lịch sử, trình độ phát triển, hoàn cảnh chính trị - xã
hội của Việt Nam. Muốn thành công phải do nhân dân nỗ lực xây dựng mới
có thể đạt được.
2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối
chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự tất yếu khách quan đó xuất phát từ
những lý do cơ bản sau đây:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù
hợp với tính quy luật phát triển khách quan.
Sự phát triển kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ
kinh tế thị trường, đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự
hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa luôn tồn tại. Do đó, sự hình thành
kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Kinh tế thị trường đã phát triển cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát
triển, nhưng mâu thuẫn vốn có của nó không thể nào khắc phục được. Nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự tiến
hóa tạo tiền đề cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và ra đời kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì không chỉ dừng lại ở kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù hợp với xu thế của
thời đại (yêu cầu hội nhập quốc tế) và đặc điểm phát triển của dân tộc, sự
lựa chọn đó không hề mâu thuẫn với tiến trình phát triển của đất nước.
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển.
Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương
thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mô
hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển nhanh chóng theo huiwngs năng động, kích thích
tiến bộ khoa học kĩ thuật – công nghệ.
Kinh tế thị trường không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội; là cách làm,
bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan, phương tiện cần thiết để đi đến
chủ nghĩa xã hội nhanh và có hiệu quả.
Phát triển kinh tế thị trường là tất yếu nhưng cần có sự can thiệp, điều tiết
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để khắc phục những khuyết tật
của kinh tế thị trường.
Ba là, mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là
khát vọng của nhân dân Việt Nam. Kinh tế thị trường là công cụ, phương
tiện để thực hiện mục tiêu đó, do đó, là tất yếu khách quan.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những điều kiện ra
đời và tồn tại của kinh tế thị trường vẫn còn và có lợi ích. Ngay cả thành
phần kinh tế nhà nước vẫn còn cần đến những quan hệ hàng hóa – tiền tệ
để giải quyết các vấn đề kinh tế. Mặc khác, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là quá trình phát triển “rút
ngắn” của lịch sử, chứ không phải là sự “đốt cháy” giai đoạn. Với ý nghĩa đó
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta phải làm một
cuộc cách mạng về cách thức tổ chức nền kinh tế - xã hội, chuyển từ một
nền kinh tế lạc hậu mang nặng tính tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị
trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính
chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế, đẩy mạnh phân công lao động, phát
triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới
bảo đảm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại
hàng hóa, dịch vụ góp phần từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của
nhân dân; đẩy mạnh xã hội hóa sản xuất, chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, bước quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh nghiệm ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa về sử dụng mô hình
kinh tế tập trung, mặc dù có nhiều thành tựu nhưng trong điều kiện mới
không còn phù hợp cần chuyern sang mô hình kinh tế thị trường.Thực tiễn
35 năm đổi mới cho thấy: chuyển sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đúng.
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS.Tô Đức Hạnh .(2019).Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh
tế thị trường.PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa, Giáo trình kinh tế chính trị Mác
– Lê nin (tr.80 -95). Hà Nội: nxb Bộ giáo dục và đào tạo.
2. PGS.TS. Nguyễn Minh Khải, PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa, PGS.TS. Phạm
Văn Dũng. (2019).Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam. PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa, Giáo
trình kinh tế chính trị Mác – Lê nin (tr.107 - 134). Hà Nội: nxb Bộ giáo
dục và đào tạo.
3. Chu Thanh Hải. (2019). Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (số 11).

You might also like