You are on page 1of 8

XUẤT KHẨU TƯ BẢN

Xuất khẩu tư bản: Xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích thu được giá
trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

Ngoài ra, xuất khẩu tư bản chính là quá trình ăn bám bình phương, vì tư bản được xem như là công cụ bóc lột
công nhân bản địa (chính quốc) nay được xuất khẩu ra nước ngoài theo hình thức cho vay hoặc đầu tư nên bóc
lột luôn cả công nhân nước ngoài (thuộc địa).

Cần phân biệt XKTB với Xuất khẩu hàng hóa:

Định nghĩa, Lênin khẳng định rằng: Xuất khẩu tư bản khác về nguyên tắc với xuất khẩu hàng hóa.
khái niệm:
Xuất khẩu hàng hóa : xuất khẩu giá trị chứa giá trị thặng dư dưới hình thái hàng hóa sang các nước nhập khẩu
để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.

Xuất khẩu tư bản : xuất khẩu giá trị chưa chứa giá trị thặng dư nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở
các nước nhập khẩu tư bản đó.

Nét đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa cơ bản thời kỳ tự do cạnh tranh là xuất khẩu hàng hóa, bên cạnh xuất khẩu
tư bản nhỏ, lẻ và ít. Còn đặc trưng của giai đoạn độc quyền là xuất khẩu tư bản bên cạnh xuất khẩu hàng hóa.
XKTN trở thành nét đặc trưng và mang tính phổ biến ở giai đoạn độc quyền.

Nguyên
nhân: 1. Sở dĩ ở cuối thế kỉ 19 khi xuất hiện độc quyền thì ở các nước tư bản phát triển XKTB do sự phát triển
của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ KH-KT, NSLĐ => thặng dư nhiều, trong khi đó hầu
hết các ngành nghề trong nước đều bị độc quyền hóa => vì vậy dẫn đến xuất hiện một số lượng “TB
thừa”. Thừa ở đây không phải thừa so với nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất của đất nước, mà thừa về
nhu cầu đầu tư để có được lợi nhuận độc quyền ngang.

2. Trong khi đó ở các nước lạc hậu thì có nhiều công nhân rẻ, giàu tài nguyên,.. nhưng lại thiếu tư bản, kỹ
thuật => Ở các nước này, giá đất tương đối thấp, giá lao động thấp, nguyên liệu đầu vào rẻ nên tỷ suất
lợi nhuận cao. Việc đầu tư vẫn có thể có lợi nhuận độc quyền cao => các nước tư bản phát triển đã phát
triển “tư bản thừa” sang các nước chậm phát triển ở cuối thế kỉ 19.

3. Do tập trung trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư bản ra nước ngoài trở
thành một nhu cầu tất yếu của các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn
kinh tế – xã hội càng gay gắt. Xuất khẩu tư bản trở thành biện pháp làm giảm mức gay gắt đó.

Xuất khẩu tư bản là hình thức bóc lột nhiều tầng của chủ nghĩa tư bản.

- Tư bản mà các nhà tư bản xuất khẩu ra nước ngoài vốn là một bộ phận giá trị thặng dư, lao động quá khứ của
người công dân chính quốc bị nhà tư bản bóc lột được biến thành phương tiện để tiếp tục bóc lột giai cấp công
nhân ở các nước nhập khẩu tư bản.
Bản chất: - Khi tiếp nhận đầu tư, các quốc gia nhập khẩu tư bản phải tạo môi trường đầu tư thuậnlợi với nhiều ưu đãi về
thuế, sử dụng đất, mua công nghệ, chuyển lợi nhuận và hồi hướng vốn.

- Tuy nhiên, dòng xuất khẩu tư bản chứa đựng nhiều yếu tố tạo tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế quốc dân như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý sản xuất,... Hầu hết các quốc gia đang phát
triển chấp nhận bóc lột của xuất khẩu tư bản.
Hình thái:
Xét về các thức đầu tư:

- Xuất khẩu tư bản hoạt động (Đầu tư trực tiếp): là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp
mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công
ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có
những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài.

Đặc điểm là không tách rời quyền sở hữu tư bản và sử dụng tư bản.

Ví dụ:
+ Vốn đầu tư FDI là một trong những hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp.
+ Các dự án có Đầu tư trực tiếp như dự án Hồ Tràm của Canada 4,2 tỉ USD năm 2008, dự án công ty Samsung
Bắc Ninh 1 tỷ USD năm 2015.

Xuất khẩu tư bản cho vay (Đầu tư gián tiếp): Cho các nước nhập khẩu tư bản vay. Thông qua các ngân hàng
tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và quốc gia, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay
vốn theo nhiều hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. => Tách rời quyền sở hữu và sử
dụng tư bản.

Ví dụ:
+ Quỹ đầu tư IMS, WB,…
+ Ngày nay, hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua trái khoán hay cổ phiếu của các công ty ở nước
nhập khẩu tư bản.

Xét về mặt sở hữu:

- Xuất khẩu tư bản nhà nước do nhà nước đảm nhận, là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy tư
bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để
thực hiện mục đích cơ bản là hình thành các liên minh về kinh tế, chính trị, quân sự,… dọn đường cho tư bản
xuất khẩu tư nhân.

Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường
thuận cho đầu tư tư bản tư nhân.
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra
mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.

Về quân sự, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc
các nước nhận viện trợ phải đa quân tham chiến chống nước khác, chonước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên
lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần để bán vũ khí

- Xuất khẩu tư bản tư nhân: do tư nhân thực hiện. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân thực hiện thường được
đầu tư các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt
động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia. Mục đích là thu được lợi nhuận độc quyền.

Xuất khẩu tư bản tư nhân có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những
năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ này nó đã đạt
tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.

Ví dụ:
+ Những dự án của Việt Nam ở nước ngoài: Dự án trồng cây cao su ở Campuchia năm 2018 đóng góp cho Hội
chữ Thập Đỏ Campuchia.

1. Đối với nước nhập khẩu tư bản:

Xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả 2 mặt:


- Một mặt (tích cực), xuất khẩu tư bản làm cho quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và lan rộng khắp thế
giới, góp phần đẩy mạnh quá trình phân công lao động, hội nhập về kinhtế của nhiều quốc gia, là nhân tố quan
trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước nhập khẩu tư bản.

Thủ công -> công nghiệp


- Mặt khác (Tiêu cực), xuất khẩu tư bản cũng để lại cá quốc gia nhập khẩu tư bản những hậu quả khá nặng nề
như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột nặng nề.
Ý nghĩa: => Vì vậy, các nước nhập khẩu tư bản cần phải biết vận dụng linh hoạt, mềm dẻo nguyên tắc cùng có lợi, tận
dụng được hết mặt tích cực của xuất khẩu tư bản, lựa chọn nhà đầu tư uy tín để có thể khai thác nguồn lực
quốc tế có hiệu quả

2. Đối với các nước xuất khẩu tư bản:

Đối với tư bản tài chính, các nguồn nguyên liệu khai thác được ở các nước nhập khẩu tư bản rất quan trọng, do
đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở rộng lãnh thổ kinh tế và thậm chí cả lãnh thổ nói chung. Chủ nghĩa tư
bản phát triển càng cao, nhu cầu nguyên liệu càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc đấu tranh để giành
giật thuộcđịa giữa chúng càng quyết liệt.

Trước kia, lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm chiếm các nước khác và
lập nên hệ thống thuộc địa vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng
nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ.

Do sự tan rã của hệ thống thuộc địa cũ sau chiến tranh.Vì vậy, trong điều kiện lịch sử mới xuất khẩu tư bản đã
có những thay đổi rõ rêt.

1. Hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản:

Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm
tỷ trọng trên 70%). Nhưng do sự bất bình đẳng về tài nguyên của các nước trên thế giới nên hầu hết các nước
vừa xuất vừa thực hiện nhập khẩu tư bản.

Có “dòng chảy dọc” của vốn từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển.
“dòng chảy ngang” giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.
“dòng chảy ngược” từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển.

Những thập kỷ gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau (ví dụ
dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm
cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn 16,8% (1996) và hiện
nay khoảng 30%.)
Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện
mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Mà xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở
thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước
tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.

Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành
các ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử,
ngành vũ trụ và đại dương... Những ngành này có thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên,
nhiên vật liệu.

Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn
có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì
trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao.

Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ tầng
kinh tế xã hội lạc hậu, không phù hợp, tình chính trị kém ổn định, thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận
lợi: thiếu đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học – kĩ thuật, công nhân lành nghề; trình độ dân trí thấp, sức mua
kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước.

Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát
triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ lạc hậu
ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp (do bị hao mòn hữu hình và vô hình). Đối với nền kinh tế thế giới đang
Những biểu
phát triển, những tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc
hiện mới:
quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức
chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản
phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định,
có thểdiễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phântích một thời kỳ
dài hơn của quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử dụng để
bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực
tế chứng minh cho kết luận trên.
Vì vậy, sự biến động về địa bàn và tỉ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm cho bản chất của
xuất khẩu tư bản thay đổi mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và
phức tạp hơn.

2. Chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn:

Chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư
bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI . Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các
nước đang phát triển mà nổi bật là các Nics châu Á.

Ví dụ: Ở ở VN có các cty xuyên quốc gia như UNIVELER, HONDA, SAMSUNG
3. Hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng
hoá tăng lên:

Trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới, sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng mua
bán hàng hóa, dịch vụ không ngừng tăng lên.

Ví dụ: Đầu tư BOT. Chính phủ có thể kêu gọi các công ty tư nhân bỏ vốn xây dựng trước thông qua đấu thầu,
sau đó khai thác vận hành một thời gian và sau cùng là chuyển giao lại cho nhà nước sở tại.

sự áp đặt mang tính thực dân trong


xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần
4. Sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có
lợi được đề cao:

Như đã nói ở phần Ý nghĩa của Xuất khẩu tư bản, Xuất khẩu tư bản luôn thể hiện tính hai mặt, tích cực và tiêu
cực.

Các nước nhập khẩu tư bản phải biết lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản , nhiều nước đã mở rộng việc
tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá ở nứơc mình. Biết linh hoạt , nguyên tắc cùng có lợi,
lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.

Ví dụ: Việc samsung đặt nhiều nhà máy tại VN là biểu hiện cho việc hợp tác cùng có lợi, samsung sẽ có được
nguồn lao động dồi dào với giá thành rẻ, còn VN sẽ giải quyết được phần nào đó vấn đề thất nghiệp của người
dân.

You might also like