You are on page 1of 7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1 Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng


1.1.1 Định nghĩa phạm trù và phạm trù triết học
Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ chung và cơ bản nhất của các sự vật và hiện tưọng thuộc một lĩnh vực
hiện thực nhất định.1
Phạm trù là cái thực sự tồn tại trong thế giới khách quan đã được con người nhận
biết và phân biệt trên cơ sở những khái niệm tương ứng. Mỗi bộ môn khoa học đều
có phạm trù riêng của mình.
Ví dụ: Vật lý học có các phạm trù năng lượng, khối lượng…; trong sinh học có
phạm trù biến dị, di truyền,…; trong kinh tế học có các phạm trù hàng hóa, giá trị,
mỹ học có các phạm trù cái đẹp, cái bi, cái hài…
Phạm trù của phép biện chứng duy vật là những khái niệm chung nhất, phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản phổ biến nhất của toàn bộ
thế giới hiện thực (bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy).
Ví dụ: Các phạm trù: vật chất, ý thức, mâu thuẫn, nguyên nhân, kết quả, bản chất,
hiện tượng...
1.1.2 Khái niệm Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Bản chất là phạm trù tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn
định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình
qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.2
Ví dụ: Trong xã hội có giai cấp, bản chất của nhà nước là công cụ chuyên chính
của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội. Bản chất này được thể hiện ra dưới
nhiều hình thức cụ thể khác nhau phụ thuộc vào tương quan giai cấp trong xã hội.
Bản chất gắn bó với cái chung nhưng không phải cái chung nào cũng là bản chất,
chỉ những cái chung nào quy định sự vận động phát triển của sự vật mới chung bản
chất.
Ví dụ: Người Việt Nam có cái chung là màu tóc đen và da vàng. Nhưng cái chung
của tóc đen da vàng không phải là cái chung bản chấtcủa con người Việt Nam.
Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên ngoài, là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của
bản chất đối tượng.
Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen... chỉ là hiện
tượng, là vẻ bề ngoài
Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách quan.
Nó ẩn dấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra ngoài những hiện
tượng ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của hiện
thực khách quan.
Ví dụ: Trong một nguyên tố hóa học thì bản chất là mối liên hệ giữa nguyên tử và
hạt nhân, hiện tượng là những tính chất hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với
các nguyên tố khác.
1.1.3 Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta thấy hai phạm
trù này đều tồn tại khách quan. Mối quan hệ giữa chúng là hai mặt vừa thống nhất,
vừa đối lập.
Sự tồn tại khách quan giữa bản chất và hiện tượng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách
quan:
- Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố
ấy tham gia vào những mối quan hệ qua lại đan xen chằng chịt với nhau,
trong đó có những mối quan hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên
hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
- Sự vật tồn tại khách quan và những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định
này lại ở bên trong sự vật, nên đương nhiên chúng cũng tồn tại khách quan,
do đó bản chất của sự vật cũng tồn tại khách quan.
- Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện bản chất ra bên ngoài, cũng là cái khách quan
không phải do cảm giác chủ quan của con người quyết định.
Sự thống nhất của bản chất và hiện tượng
Để nhấn mạnh sự liên kết bền chặt giữa hai mặt bản chất và hiện tượng, nhà
triết học V.I.Lê-nin đã từng nói: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính chất bản
chất”.3
- Bản chất và hiện tượng liên hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự vật nào
cũng là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
- Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ
cũng là biểu hiện của bản chất. Không có bản chất nào tồn tại một cách
thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng
nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
- Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, và
bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó (hoặc
nhiều hoặc ít).
- Bản chất bao giờ cũng tự bộc lộ ra thông qua những hiện tượng nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra thành những loại hiện tượng khác nhau. Bản
chất nào thì có hiện tượng đó. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện
nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó
cũng biến mất. Bản chất mới ra đời thì hiện tượng mới cũng ra đời.
Ví dụ: Trong xã hội có giai cấp, bất kỳ Nhà nước nào cũng là một bộ máy trấn áp
của giai cấp này đối với giai cấp khác. Bản chất ấy thể hiện ở chỗ bất kỳ Nhà nước
nào cũng có quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,... Tất cả bộ máy này đều nhằm mục
đích trấn áp sự phản kháng của giai cấp khác để bảo vệ quyền lợi kinh tế và chính
trị của giai cấp thống trị.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện ở chỗ
- Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Hiện tượng không
những bị quy định bởi bản chất mà còn bởii sự tương tác với các sự vật
khác. Vì vậy, cùng một bản chất có thể được biểu hiện ở nhiều hiện tượng
khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể. Chính vì thế, hiện tượng phong phú
hơn bản chất; ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
- Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện tượng khách quan, còn
hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy. Về cơ bản, hiện
tượng phù hợp với bản chất, nhưng không bao giờ phù hợp hoàn toàn.
Chúng biểu hiện bản chất không dưới dạng y nguyên như bản chất vốn có
mà dưới hình thức cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản
chất.
Ví dụ: Hàng bao thế kỷ người ta vẫn tin rằng trái đất đứng yên còn mặt trời quay
xung quanh trái đất, và vì vậy mà có ngày và đêm, nhưng sự thực lại hoàn toàn
ngược lại: chính là trái đất quay xung quanh mặt trời. Hay nhúng một nửa cái
thước vào chậu nước, nhìn vào ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi đó sự thực
thước vẫn thẳng. Quần chúng nhân dân chính là lực lượng quyết định trong sự sáng
tạo ra lịch sử, nhưng nhìn theo những hiện tượng bề ngoài, hình như lịch sử được
tạo nên bởi những vĩ nhân,...
Thực tế, có rất nhiều câu nói nổi tiếng hay câu ca dao tục ngữ cũng thể hiện sự
khác biệt giữa bản chất và hiện tượng như “Khẩu xà tâm phật”, “Đừng đánh giá
quyển sách qua trang bìa”… Điều này chứng tỏ rằng tính mâu thuẫn của sự
thống nhất trong mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng cũng rất gần
gũi với cuộc sống hàng ngày của con người.4
“Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất,
không bám chắc, không ngồi vững bằng "bản chất". (Lenin)
1.1.4 Y đức nhìn từ góc độ của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Lịch sử về đạo đức y học Hippocrtes – ông tổ của ngành Y, một thầy thuốc danh
tiếng thời Hy lạp cổ đại, người sống cách chúng ta hơn 2.500 năm, nhưng những tư
tưởng và kiến thức của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ông đã dạy những
người làm ngành y phải có y đức.
Y đức: Là những quy ước không có tính chất pháp lý, nhưng thuộc phạm trù luân
lý, đạo đức ràng buộc người thầy thuốc phải chấp hành trong quá trình hành nghề,
vì danh dự của tập thể, bản thân và quyền lợi của bệnh nhân. Các quy định của Y
đức thay đổi theo không gian và thời gian tùy theo các yếu tố tâm lý, tín ngưỡng,
phong tục tập quán của mỗi cộng đồng xã hội.5
Y đức là những tiêu chuẩn và nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định
hành vi và mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân và đối với đồng nghiệp. 6
Cán bộ cần phải thương yêu, sǎn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình,
coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. "Lương y phải như từ mẫu".
Dân tộc Việt Nam đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử, đã tích lũy được rất nhiều tri
thức và kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực, trong đó có những tri thức bảo vệ sức khỏe,
duy trì và phát triển nòi giống và đã sản sinh ra nhiều danh y nổi tiếng. Hơn 200
nǎm trước đây, ở nước ta, nhà đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông đã từng
nói: "Suy nghĩ sâu xa, tôi hiểu rằng thầy thuốc là người bảo vệ tính mạng con
người: sống chết trong tay mình nắm, phúc hoạ trong một tay mình giữ. Thế thì
đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm hồn không rộng
lớn, hành vi không thận trọng mà dám liều lĩnh học đòi cái nghề cao quý đó
chǎng!".
Các danh y đã để lại cho hậu thế của dân tộc một khối lượng tri thức phong phú về
y lý, y đức, y thuật và những bài thuốc quý. Cũng trong quá trình xây dựng nền y
học dân tộc, các danh y của ta đã khẳng định yếu tố cơ bản, yếu tố gốc của người
thầy thuốc là y đức. Làm nghề y là theo phương châm trị bệnh cứu người. Con
người phải được đối xử bình đẳng trong chữa trị bệnh.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nội dung y đức về cơ bản
không thay đổi. Tuy vậy, người thầy thuốc hiện nay đứng trước cơ chế mới phải
đấu tranh để giữ vững bản chất nghề nghiệp, bảo vệ sự trong sáng của y đức. Trước
những cám dỗ của đồng tiền, trước một đối tượng phục vụ đủ mọi thành phần giai
cấp, đủ mọi tầng lớp của xã hội, với mạng lưới y tế Nhà nước và mạng lưới y tế tư
nhân song song tồn tại, y đức thực sự đứng trước những thách thức. 7 Những “điệp
khúc” buồn về y đức, y nghiệp của một số cán bộ ngành Y thông qua những vi
phạm về kê đơn thuốc; móc ngoặc chuyển bệnh nhân về phòng khám tư để trục lợi;
cư xử thiếu lễ độ, tôn trọng đối với bệnh nhân; có thái độ thờ ơ, gây khó khăn với
bệnh nhân và thân nhân người bệnh; xao lãng, tắc trách trong công việc, không
hoàn thành tốt vai trò của một lương y… Đặc biệt, một số trường hợp do khả năng
chuyên môn kém, ít kinh nghiệm, còn chủ quan, lơ là trong chăm sóc, điều trị bệnh
nhân đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng làm tổn hại sức khỏe, tính mạng
người bệnh; gây bức xúc cho thân nhân, gia đình, bất bình trong quần chúng nhân
dân và làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành Y tế. Không chỉ vậy, hiện tượng
nhận “phong bì”, tha hóa về đạo đức, tác phong của một số cán bộ ngành Y vẫn
còn tồn tại như những “con con sâu làm rầu nồi canh”, làm vấy bẩn hình ảnh đẹp
của những lương y chân chính.8
Vấn đề y đức trong bệnh viện cũng đã được đề cập rất nhiều trong các báo cáo của
Bộ Chính trị, của Chính phủ cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng,
vấn đề y đức trong ngành y tế được xác định là một trong những vấn đề trọng tâm
được thể hiện trong Thông báo của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai công
tác y tế năm 2008, Thủ tướng đã nêu ra một số vấn đề trọng tâm, trong đó có vấn
đề chất lượng nhân lực y tế và y đức, cụ thể là: “…Loại trừ các hành vi sách nhiễu,
gây phiên phiền hà, thái độ vô cảm đối với người bệnh; đẩy mạnh công tác phòng,
chống tham nhũng ở mọi cấp, mọi đơn vị…”.9
1.2 Ý nghĩa phương pháp luận
Mác nhận xét: “Nếu hình thái biểu hiện bản chất của sự vật trực tiếp đồng nhất với
nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”10. Vì vậy, khi xem xét sự vật, ta không thể
dừng lại ở biểu hiện bề ngoài mà phải đi sâu vào tìm hiểu bản chất của nó.
- Bản chất không được thể hiện qua một hiện tượng cụ thể nào mà được bộc
lộ nhờ rất nhiều những hiện tượng khác nhau. Không chỉ vậy, hiện tượng
mang nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Vì thế, ta cần dựa vào quy luật
khách quan quy định sự vận động và phát triển để tổng hợp để đi sâu vào
phân tích nhiều hiện tượng, dưới nhiều góc độ khác nhau nhằm tìm ra bản
chất thuần túy ẩn giấu sâu bên trong của sự vật.
- Việc tìm ra và nhận thức đúng đắn về một sự vật hay một đối tượng nào đó
là quy trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất. Qua bước phân tích các
hiện tượng, ta sẽ kết luận được bản chất thuần túy ban đầu. Sau khi kiểm
chứng lại các hiện tượng đó, ta sẽ đi đến một bản chất sâu sắc hơn, cứ như
thế mãi, ta sẽ tìm được bản chất sâu sắc nhất. V.I. Lê-nin cũng đã khẳng
định sự đúng đắn của phương pháp luận này với câu nói: “Tư tưởng của
người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp
một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai..., cứ như thế mãi”.
- Hiện tượng của một đối tượng luôn biến đổi từng ngày, nó chịu nhiều sự tác
động từ những yếu tố thực tiễn khách quan và thay đổi một cách vô cùng
phong phú, đa dạng. Bởi thế, trong quá trình nghiên cứu, con người cần bám
sát vào thực tiễn lúc đó để nắm bắt kịp thời các hiện tượng, để từ đó dần dần
đi đến những kết luận chính xác về bản chất sâu xa của sự vật.
Y đức không có giới tuyến, không có hình mẫu tốt duy nhất nên việc ôn luyện và
nhắc nhở nhau giữ gìn y đức, y nghiệp phải là một việc làm thường xuyên, lâu dài
nhất là khi đội ngũ thầy thuốc phải sống và hành nghề trong cơ chế thị trường.
Việc đánh giá y đức, đạo đức của cán bộ nhân viên y tế, ta phải đi sâu tìm hiểu,
tránh việc lấy hiện tượng kết luận bản chất.

1
TS. Nguyễn Thị Hồng Vân và tgkđtg, Giáo trình triết học Mac - Lenin, Nxb.
CTQG..
2
GS Nguyễn Duy Quý và tgk, Giáo trình triết học Mác - Lênin, Hà Nội, Nxb.
CTQG, 2008, tr.275 – 276.
3
Giáo trình triết học Mac - Lenin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb. Chính trị quốc
gia sự thật, Hà Nội, 2006.
4
Nguyễn Văn Hiền, Võ Thị Nhung, Minh họa “phép biện chứng duy vật” qua một
số câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao Việt Nam.
5
Tài liệu giảng dạy Môn Tâm lý y học - Đạo đức y học, Đại học Trà Vinh, tr.47.
6
Nguyễn Huỳnh Ngọc, Tâm lý học y học – Y đức, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam, 2011.
7
GS. Đỗ Nguyên Phương, PTS. Nguyễn Khánh Bật, BS. Nguyễn Cao Thâm, Y
đức - vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế Việt Nam, 2015.
8
GS-TS Phạm Mạnh Hùng - Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam phát biểu tại hội
thảo.
9
PGS, TS Trần Văn Thụy, Nâng cao y đức, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt
động khám chữa bệnh, Tạp chí Cộng sản, 31/10/2011.
10
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.25, phần II, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.540.

You might also like