You are on page 1of 39

Contents

Triều đại nhà Trần (1125 – 1400) ........................................................................................................3


Lịch sử ....................................................................................................................................................... 3
Nguồn gốc ................................................................................................................................................. 3
Nguồn gốc tên ........................................................................................................................................... 3
Thay ngôi nhà Lý, củng cố chính quyền .................................................................................................... 4
Thay ngôi nhà Lý ................................................................................................................................... 4
Dẹp nội loạn .......................................................................................................................................... 5
Chống Nguyên Mông ................................................................................................................................ 5
Đối ngoại ................................................................................................................................................... 7
Với Chiêm Thành ................................................................................................................................... 7
Với Ai Lao .............................................................................................................................................. 8
Tổ chức quân đội ...................................................................................................................................... 8
Hành chính ................................................................................................................................................ 9
Luật pháp .................................................................................................................................................. 9
Kinh tế ....................................................................................................................................................... 9
Giáo dục, thi cử ....................................................................................................................................... 10
Tôn giáo................................................................................................................................................... 10
Văn hóa nghệ thuật................................................................................................................................. 11
Thời kỳ suy tàn ........................................................................................................................................ 11
Chính sách hôn nhân............................................................................................................................... 12
Nhận định................................................................................................................................................ 15
Về chiến thắng Mông - Nguyên........................................................................................................... 15
Về hậu kỳ nhà Trần ............................................................................................................................. 16
Các vị vua nhà Trần .......................................................................................................................... 17
1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)............................................................................................ 17
2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278) ...................................................................................... 18
3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279-1293)........................................................................................... 19
4. Trần Anh Tông (1293 - 1314) .............................................................................................................. 22
5. Trần Minh Tông (1314 - 1329) ............................................................................................................ 22
6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341) ............................................................................................................. 22
7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369) ................................................................................................................ 23
8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372) ............................................................................................................ 23
9. Trần Duệ Tông (1372-1377) ................................................................................................................ 24
10. Trần Phế Đế (1377-1388) .................................................................................................................. 24
11. Trần Thuận Tông (1388-1398) .......................................................................................................... 24
12. Trần Thiếu Đế (1398-1400) ............................................................................................................... 25
Nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Trần .................................................................................................. 26
1. Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung ....................................................................................................... 26
2. Thái sư Trần Thủ Độ ............................................................................................................................ 26
3. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn ................................................................................................ 29
4. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải............................................................................................. 31
5. Chiêu văn Đại vương Trần Nhật Duật ................................................................................................. 32
6. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư ........................................................................................................ 34
7. Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng ...................................................................................................... 34
8. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản ............................................................................................................ 35
9. Điện Suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão..................................................................................... 35
10. Tướng quân Nguyễn Chế Nghĩa ........................................................................................................ 38
11. Chưởng sử quan Lê Văn Hưu ............................................................................................................ 38
Triều đại nhà Trần (1125 – 1400)

Nhà Trần hoặc Trần triều (Nôm: Trần triều) là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt
đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Lý và chấm
dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông
ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly – tổng cộng là 175 năm.

Lịch sử
Khi nhà Lý bắt đầu suy yếu, người đứng đầu dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái Tông)
nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là Trần Thủ Độ. Nhà Lý suy
vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hoàng (7 tuổi) nhường ngôi cho
chồng là Trần Cảnh (8 tuổi; 1218 - 1277) thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225.
Trong khoảng 175 năm trị vì, nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống
quân Nguyên thành công vào các năm 1258, 1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể
từ đời vua Dụ Tông thì triều đại nhà Trần đã suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự mục nát
và yếu kém của hệ thống quan lại. Cuối cùng vào năm 1400, Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần,
chấm dứt 175 năm trị vì của dòng họ này.

Nguồn gốc
Tổ tiên của dòng dõi nhà Trần có nguồn gốc dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc Kiến,
Trung Hoa. Ông Trần Quốc Kinh từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm 1110, thời vua
Lý Nhân Tông (1072-1127), lúc đầu cư trú tại xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
ngày nay; sống bằng nghề chài lưới trên sông nước, trên đường làm ăn chuyển dần vào hương
Tức Mạc, huyện Thiên Trường, nay là vùng đất thuộc Thái Bình - Nam Định. Trần Quốc Kinh
lấy vợ ở Tức Mạc, sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý và Trần Hoằng Nghi. Trần Lý
sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung- sau được tôn là Trần Thái Tổ. Trần Hoằng
Nghi sinh được ba người con trai: Trần An Quốc, Trần An Bang và Trần Thủ Độ.

Nguồn gốc tên


Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất
thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên
âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần
Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn),
người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh (vua Thái Tông).
Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi
gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".

Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.
Thay ngôi nhà Lý, củng cố chính quyền

Một công trình trong quần thể đền Trần, Nam Định, Việt Nam

Thay ngôi nhà Lý

Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển,
đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải
Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hoá, Thái tử Sảm
chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị
Dung, con gái thứ hai của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt
trừ Quách Bốc (thuộc tướng của Phạm Bỉnh Di), đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị
Dung là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ

Uy thế họ Trần bắt đầu được đề cao từ khi hoàng tử Sảm lên ngôi vào năm 1211, tức là vua Lý
Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm nguyên phi. Lúc này, Tô Trung Từ
được phong Thái uý phụ chính.

Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Thái hậu họ Đàm khống chế, nên mọi việc đều phó thác cho
Đàm Dĩ Mông, người chức cao, quyền lớn nhưng "không có học thức, không có mưu thuật, lại
nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát". Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng
làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi.
Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung,
cùng với Trần thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn
phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần.

Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ (em họ Trần Thừa và
Tự Khánh) khi ấy là chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân.
Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Huệ Tông nhường ngôi cho công
chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho
Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh lên 8 tuổi. Một năm sau,
vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần
bắt đầu nắm quyền cai trị.

Khi lên ngôi, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư
Trần Thủ Độ và cha là Nhiếp chính Trần Thừa.

Dẹp nội loạn

Từ năm 1211 trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực phân cát lớn là:

* Họ Đoàn (Hải Dương và Hải Phòng).

* Họ Trần (Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên).

* Họ Nguyễn (Quốc Oai, Hà Tây)

Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong quá trình nắm quyền bính
trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ
từ thời Lý.

Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật
khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực
này tự làm yếu nhau.

Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng
không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần
chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới
thời Lý.

Chống Nguyên Mông


Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần dà xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi tiêu diệt nhà Kim phía
bắc, các vua Mông Cổ tiến xuống phía nam để diệt nước Nam Tống vốn đã suy yếu khi bị nhà
Kim của người Nữ Chân xâm lấn từ đầu thế kỷ 12. Để tạo thế bao vây Nam Tống, vua Mông Cổ
đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau đó đánh sang Đại Việt.

Cuối năm 1257 âm lịch, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai ) mang 3 vạn
quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân ra chiến trận.
Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân dân Thăng
Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn không nhà trống", rút về Thiên Mạc (Hà Nam).
Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân
cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải
rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng đánh tan
tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam.

Năm 1279, quân Mông diệt được Nam Tống. Từ năm 1260, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đã lập
ra nhà Nguyên. Để lấy cớ đánh Đại Việt, nhà Nguyên cho Toa Đô mượn đường đánh Chiêm
Thành (Champa). Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối cùng chiến tranh
bùng phát. Cuối năm 1284, nhà Nguyên liền phái hoàng tử Thoát Hoan và tướng Toa Đô mang
quân đánh hai đường nam, bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát Hoan đi từ Quảng Tây còn Toa
Đô đi đường biển từ cảng Quảng Châu, trước hết đánh vào Chiêm Thành rồi đánh "gọng kìm"
thốc lên từ phía nam Đại Việt.

Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên (huy động hơn 50 vạn quân)
và cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của nhà Trần chống phương Bắc, quyết định sự tồn
vong của Đại Việt lúc đó.

Sau nhiều đợt rút lui để tránh thế mạnh của các đạo quân Mông, dùng chiến thuật vườn không
nhà trống để quân địch không có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ bản địa, nhà
Trần tổ chức phản công vào cuối xuân, đầu hè năm 1285. Với những chiến thắng ở Tây Kết,
Hàm Tử, Chương Dương, quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô. Thoát Hoan thu tàn quân
chạy về bắc.

Thắng lợi năm 1285 cơ bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lòng tin của người Việt
có thể đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề phía bắc. Bởi vậy
trong lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
nói với vua Trần: "...Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa... Theo như
thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn". Nhà Trần tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật
tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng
tháng 4 năm 1288, bắt sống Nguyên soái Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần
nữa chạy trốn về bắc.

Sau thất bại lần thứ ba ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang
các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Tới
năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành
Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó
mới chấm dứt.

Đối ngoại
Trong triều đại nhà Trần, ngoài những cuộc chiến tranh với quân Nguyên Mông ở phía Bắc thì
Đại Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng phía tây và phía nam là Ai Lao và
Chiêm Thành.

Với Chiêm Thành

Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành không lúc nào không quấy phá và cuộc
chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. Lúc nhà Trần lên ngôi, nước Chiêm Thành
vẫn giữ lệ triều cống và giao hòa. Trong đời vua Trần Nhân Tông, sau khi chinh phạt Chiêm
Thành, thì giữa Đại Việt và nước Chiêm Thành có sự qua lại tốt đẹp. Đến đời vua Trần Anh
Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đã lên làm thái thượng hoàng và trong lúc sang thăm vãn
cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả
công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và
châu Rí cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai
trị cũng như cho di dân sang ở. Một năm sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng
hậu phải bị hỏa thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào
thăm rồi tìm kế rước về.

Chế Mân chết thì Chế Chỉ lên thay và đòi lại hai châu mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt. Vua
Trần Anh Tông sai quân sang bắt Chế Chỉ đem về trị tội và phong cho em của Chế Chỉ là Chế
Đà A Bà lên thay làm vua nước Chiêm Thành. Đến đời vua Trần Dụ Tông, con và rể của vua
Chiêm Thành tranh giành nhau ngôi vua, quân nhà Trần sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm
Thành đánh bại cả hai lần.
Năm 1370, các hoàng tử con vua Minh Tông lật đổ Dương Nhật Lễ (xem phần "Thời kỳ suy tàn"
bên dưới) lập Trần Nghệ Tông. Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xui vua Chiêm đánh Đại
Việt. Lúc đó thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh đánh đòi lại hai châu đã mất.
Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Duệ
Tông sai Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử
Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ
Tông giận lắm, quyết ý thân chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần
chiếm cửa Thị Nại (Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng
Nga, một ông vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Trần vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần
Duệ Tông bị tử trận, Hồ Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên,
Chế Bồng Nga nhiều lần mang quân sang đánh phá Đại Việt, Hồ Quý Ly nhiều lần ra trận bị
thua, quân Chiêm ba lần chiếm được kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành
chạy. Quân Chiêm cướp phá kinh thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm rồi sau
đó lại được nhấc lên địa vị cao hơn.

Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh đem
binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có hàng tướng bên
Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền Chế Bồng Nga mà bắn.
Vua Chiêm trúng đạn tử trận, quân Chiêm bỏ chạy và sau đó con của Chế Bồng Nga hàng phục
Đại Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không dám đánh Đại Việt chúng ta nữa.

Với Ai Lao

Vào đời nhà Trần, quân của Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và Thanh
Hóa. Vì thế triều đình đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua phải thân chinh
đi dẹp giặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi lần bị thua thì quân Ai
Lao rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua Trần Anh Tông, ông cũng nhiều
lần thân chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi
dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần,
mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có
mục đích đánh chiếm lấy đất nước này.

Tổ chức quân đội


Quân chủ lực nhà Trần gồm cấm quân và quân các lộ. Quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính
binh, ở miền núi gọi là phiên binh. Cấm quân được gọi là quân túc vệ.

Các đơn vị quân đội được gọi là quân. Đứng đầu mỗi quân là một đại tướng quân. Mỗi quân có
30 đô, chỉ huy mỗi đô có chánh phó đại đội. Mỗi đô có 5 ngũ, đứng đầu mỗi ngũ là đầu ngũ.

Cấm quân là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm, có thể được điều động đi
các lộ để tác chiến.

Nhằm có lực lượng đông đảo cần thiết khi chống xâm lược, nhà Trần kế tục chính sách ngụ binh
ư nông (giữ quân lính ở nhà nông) của nhà Lý, vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi có chiến
tranh xảy tới. Quân cấm vệ và các lộ có khoảng 10 vạn người .
Hành chính

Đền nhà Trần (Nam Định)

Đời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép như sau:

Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 1242: Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ.
Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức đại tư xã,
tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm
kiêm cả 2-4 xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan.

Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được chia ra
làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60
tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới được giữ các
chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng được tuyển dụng vào giữ các
chức vụ quan trọng này. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phần chính biên, có
ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên,
Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá, Hoàng Giang, Diễn Châu.

Luật pháp
Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại như
sau:

Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước,
soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển.

Định bị đồ có mức độ khác nhau:

* Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã Nhật Cảo), cày
ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc.

* Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng Thành, thành Thăng
Long, lệ vào quân Tứ sương.

Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với chức quan
kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành Đại an phủ sứ, sau
lại đổi thành Kinh sư đại doãn.

Kinh tế
Về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan
đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh cho quân
sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Đại Việt sử ký toàn thư có chép:

Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7, 1231: Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự Nguyễn Bang
Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào (là tên hai con
kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hóa) từ phủ Thanh Hóa đến địa giới
phía nam Diễn Châu.

Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi
khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương.

Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít
nhiều tuỳ theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng
bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu
dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua.

Giáo dục, thi cử


Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý.

Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học Viện để
giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng.

Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa
thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở định kỳ.
Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7
năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên,
bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn.

Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy
283 người đỗ . Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại
trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi.

Tôn giáo
Về Phật giáo, vào đầu đời nhà Trần thì Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo cho xây
chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. ĐVSKTT chép lại Thượng hoàng xuống
chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng phật để thờ.

Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và ông chính là
ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị pha thêm các hình
thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được nhân dân ngưỡng mộ.
Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như đời nhà Lý.
Văn hóa nghệ thuật
Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt Sử
Ký và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực
thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn
An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông,
Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn Ngự tập và
danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch tướng sĩ.

Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế
đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá
trị. ĐVSKTT chép:

Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài
văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là
Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực
bắt đầu từ đấy.

Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý,
trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành.
Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng .

Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc . Một số
nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho
dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến.

Thời kỳ suy tàn


Nhà Trần đã có một thời đại rất hưng thịnh, đã từng đại phá quân Nguyên cũng như bình phục
được Chiêm Thành, nhưng kể từ khi thái thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời (1357), vua
Trần Dụ Tông ham mê tửu sắc, phó mặc mọi việc triều chính để cho nhà Trần bước vào giai
đoạn suy vi và sau cùng bị mất ngôi.

Vua Trần Dụ Tông chẳng những bỏ bê triều chính mà còn ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu
cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp
nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.

Chu Văn An, một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng thất trảm sớ đề nghị trị
tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ
quan về nhà dạy học.

Năm 1369, Trần Dụ Tông mất, một người con là Nhật Lễ lên thay. Theo sử sách, Nhật Lễ không
phải là con Dụ Tông mà mẹ Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương, đã mang thai Lễ
trước khi làm vợ Dụ Tông. Vì vậy sử vẫn gọi tên người con là Dương Nhật Lễ. Nhật Lễ ở ngôi
bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là
Dương. Sau Lễ lại giết Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng thái hậu vì bà đã hối hận việc lập Nhật
Lễ. Người tôn thất và các quan đều thất vọng. Tháng 10 năm 1370, các tôn thất nhà Trần hợp
mưu lật đổ và bắt giết Nhật Lễ, đưa con thứ 3 của vua Minh Tông là Phủ lên ngôi, tức là Trần
Nghệ Tông.

Nghệ Tông làm vua được 2 năm, lên làm thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Kính lên
thay, tức là Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, thượng hoàng Nghệ Tông
lập con Duệ Tông là Phế Đế lên thay. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết
định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Lê Quý Ly (tức Hồ Quý Ly). Do đó, Quý Ly xúi
giục Nghệ Tông giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả vua Phế Đế
cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ . Con Nghệ Tông là Thuận Tông
(đồng thời là con rể Quý Ly) được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền.

Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vua mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo
được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày
càng lộng quyền không coi ai ra gì. Năm 1394, Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền
hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Hồ Quý
Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là
Thiếu Đế khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông và
chuẩn bị cướp ngôi.

Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Trần Khát Chân lập hội với
mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370
người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi
sang họ Hồ.

Nhà Trần chấm dứt,kéo dài 175 năm với 13 đời vua.

Chính sách hôn nhân


Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân. Nhà Trần từ vai trò là ngoại thích của nhà
Lý đã giành ngôi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người
trong họ.

Tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã dẫn ra hơn 30 trường hợp hôn nhân nội tộc của nhà Trần:

1. Trần Liễu, anh Thái Tông, con Thượng hoàng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên công chúa, con vua
Lý Huệ Tông và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột Trần Thừa, Trần Liễu và Thuận Thiên là
con cô con cậu.

2. Năm 1225, Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông, lấy Lý Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên; trường
hợp này cũng là con cô lấy con cậu.

3. Sau khi Lý Huệ Tông chết, giáng Huệ hậu (Trần Thị Dung) làm Thiên Cực công chúa, gả cho
Trần Thủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Hai người vốn đã có tư tình với nhau từ trước.[cần dẫn
nguồn]
4. Năm 1237, vì Chiêu Hoàng không có con, Thủ Độ ép Thái Tông lấy Thuận Thiên, lúc ấy đã
có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu lấy nhau, vừa là em
chồng lấy chị dâu.

5. Vua Thái Tông hứa gả em gái là Trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương và
đã cho Thiên Thành tới ở nhà Nhân Đạo vương, là cha đẻ ra Trung Thành vương, để chờ ngày
cưới. Năm 1251, Hưng Đạo vương muốn lấy công chúa Thiên Thành, đang đêm lẻn vào phòng
Thiên Thành thông dâm. Thụy Bà Trưởng công chúa, chị Thái Tông và Thiên Thành, lại là mẹ
nuôi Hưng Đạo vương, đang đêm gõ cửa cung nói dối là Hưng Đạo vương đã bị Nhân Đạo
vương bắt giam, xin vua cứu giúp. Sự thật, khi vua sai người tới thì Hưng Đạo vương còn trong
phòng Thiên Thành và lúc ấy Nhân Đạo vương mới biết. Hôm sau Thụy Bà phải dâng mười
mâm vàng sống xin cưới Thiên Thành cho Hưng Đạo. Vua bất đắc dĩ phải gả và bồi thường cho
Trung Thàng vương (Trung Thành vương?). Như vậy Thiên Thành có họ với Trung Thành
vương, lại là cô ruột Hưng Đạo, vì Hưng Đạo là con Trần Liễu, anh ruột Thiên Thành. Đây là
trường hợp cháu lấy cô.

6. Năm 1258, Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm công chúa là con Trần Liễu, tức là con chú con
bác lấy nhau.

7. Thụy Bảo công chúa, con vua Thái Tông, lấy Uy Văn vương Toại.

8. Gả công chúa tên Thúy, con Thái Tông cho Thượng vị Văn Hưng hầu.

9. Thiên Thụy công chúa, con vua Thánh Tông và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái Tông và cháu
ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn (con Trần Hưng Đạo), cháu nội Trần Liễu;
trường hợp này vừa là con cô con cậu (Trần Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) vừa là
cháu chú cháu bác lấy nhau.

10. Thiên Thụy công chúa lại tư thông với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tông thất nhà
Trần. Khánh Dư nhờ có công đánh quân Nguyên được Thượng hoàng Thánh Tông nhận làm con
nuôi.

11. Năm 1274, Nhân Tông, con Thánh Tông, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều là con Hưng
Đạo vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn.

12. Anh Tông, con Nhân Tông, cháu Thánh Tông, chắt Thái Tông, lấy Văn Đức phu nhân năm
1292, là con Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, cháu nội Hưng Đạo vương, chắt Trần Liễu.
Trường hợp này là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo vương và Thiên Cảm là con Trần Liễu) hay chắt
chú chắt bác lấy nhau.

13. Sau Anh Tông lại bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư.

14. Anh Tông lấy Huy Tư là con Thụy Bảo công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy Bảo là em
Thánh Tông, Anh Tông là cháu nội Thánh Tông, tức cháu lấy cô.
15. Năm 1301, Thiên Trân công chúa, con Anh Tông, Anh Tông là con Nhân Tông, cháu Thánh
Tông, lấy Uy Túc công Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải. Quang Khải và Thánh Tông là anh
em, tức cháu chú cháu bác lấy nhau.

16. Thiên Trân chết, Uy Túc lại lấy Huy Thánh công chúa.

17. Thượng Trân công chúa, em Anh Tông, chắt Thái Tông lấy Văn Huệ công Quang Triều, con
Quốc Tảng, cháu Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức chắt chú chắt bác lấy nhau.

18. Trần Minh Tông, con Anh Tông, cháu Nhân Tông, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh, con gái lớn
Huệ Vũ vương Quốc Chẩn. Chẩn là em Anh Tông: con chú con bác lấy nhau.

19. Minh Tông gả Huy Chân, con Nhân Tông, cho Uy Giản hầu năm 1317. Mẹ Huy Chân là
Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hoàng Anh Tông.

20. Năm 1318 Minh Tông gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính vương.

21. Năm 1337 Hiến Tông, con Minh Tông, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc vương Đại
Niên.

22. Năm 1342, Thiên Ninh công chúa, con Minh Tông, lấy Hưng/Chính Túc vương Kham.

23. Năm 1349, Dụ Tông, con Minh Tông, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là YÙ Từ Nghi
Thánh.

24. Năm 1351, Dụ Tông loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339 Dụ Tông bị
chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tàu là Trâu Canh dùng kim châm cứu khỏi nhưng đoán sau
này lớn lên sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy ra đúng như vậy, Trâu Canh được vời đến
chữa, khuyên vua giết một đứa con trai nhỏ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương khởi thạch mà
uống rồi thông dâm với chị hay em ruột. Vua nghe theo, thông dâm với Thiên Ninh công chúa.

25. Huy Ninh công chúa, con Minh Tông, lấy tông thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị Dương
Nhật Lễ giết, Nghệ Tông là anh, lại gả Huy Ninh cho Quý Ly.

26. Duệ Tông, con Minh Tông và Lê Đôn Từ, cô Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ Quý Ly, tức
anh em họ lấy nhau.

27. Duệ Tông lấy con gái Thái bảo Trần Liêu làm phi.

28. Năm 1375 Duệ Tông gả con là Trang Huy công chúa cho Nguyên Dẫn, con Cung Chính
vương. Cung Chính vương và Duệ Tông đều là con Minh Tông, tức con chú con bác lấy nhau.

29. Thiên Huy hay Thái Dương công chúa, con Nghệ Tông, lấy Phế Đế là con Duệ Tông. Nghệ
Tông và Duệ Tông cùng là con Minh Tông, mẹ Nghệ Tông là Minh Từ, mẹ Duệ Tông là Đôn
Từ, là hai chị em ruột, cô của Quý Ly: vừa là con chú con bác, vừa là cháu dì cháu già lấy nhau.
30. Sau khi Phế Đế chết, vợ là Thái Dương tư thông với Nguyên Uyên, con Cung Tín vương
Thiên Trạch, em Nghệ Tông: con chú con bác tư thông với nhau.

31. Năm 1393, thượng hoàng Trần Nghệ Tông giận Thái Dương, đem gả Thái Dương cho
Nguyên Hãng là em Nguyên Uyên để làm nhục.

32. Tuyên Huy công chúa, con Duệ Tông, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ Tông, giống
trường hợp Thái Dương lấy Trần Phế Đế.

33. Quý Ly gả Trang Huy công chúa, con Tông thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho Mộng Dữ,
con Trần Nguyên Đán, cháu bốn đời của Quang Khải.

34. Thuận Tông, con út Nghệ Tông, lấy Thánh Ngẫu công chúa là con gái lớn của Hồ Quý Ly và
Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tông, tức là con cô con cậu lấy nhau. Thuận Tông
lại là cháu nội của Đôn Từ, cô của Quý Ly, lấy con gái Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.

Từ khi Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly là một ngoại thích, lập tức nhà Trần cũng gặp
"họa ngoại thích" và mất về tay ngoại thích.

Nhận định
Về chiến thắng Mông - Nguyên

Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp
thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu không có sự
xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn
Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các nước Đại Lý, Nam Tống láng
giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội
bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà
Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng .

Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất
sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các
hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là
những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và
nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông,
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa
kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...

Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó
như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng
không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm
liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người
Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi
một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với
những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi
Mông - Nguyên của nhà Trần.

Về hậu kỳ nhà Trần

Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời
xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng
Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới
khi kết thúc là thời suy tàn.

Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự nhà
Trần bắt đầu suy từ đời vua Dụ Tông xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần.
Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau, đặc
biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối
của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại
hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để "dọn
đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống
Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch,
không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Đế Hiện đối với Đỗ Tử
Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của cha mình (Duệ Tông), không những không trừng trị
đích đáng mà còn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được
truy tặng gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái
hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác
trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc
cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa Quý Ly với Nghệ Tông, Tử
Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung
Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc
mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có .

Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan
lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì
đời con cháu phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh
chống Mông-Nguyên xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn,
không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào
một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời
kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính
chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết
của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc
chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần.

Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử
về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời
sau.
Các vị vua nhà Trần

1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)


Sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần - 1218, con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ
tiên Nhà Trần là Trần Kính vốn gốc ở Đông Triều (Quảng Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở
hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra
Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý.

Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ,
được Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con
trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo
diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu - 1225, Lý
Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.

Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu - 1225, Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên
hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là
Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.

Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Thìn - 1232, vua Trần Thái Tông ban bố các chữ quốc huý
và miếu huý.

Vì Tổ nhà Trần là Trần Lý mới đổi họ Lý sang họ Nguyễn. Năm Đinh Dậu - 1237, Trần
Thái Tông lấy Chiêu thánh Hoàng hậu đã 12 năm mà chưa có con. Trần Thủ Độ và vợ là công
chúa Thiên Cực ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) là công
chúa Thuận Thiên đã có mang 3 tháng làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân ra sông Cái
làm loạn. Còn vua Trần Thái Tông đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử, Quảng
Ninh để phản đối.

Trần Thủ Độ dẫn các triều thần lên núi mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ
chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên
không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".

Trần Thủ Độ cố nài xin nhiều lần, vua vẫn không nghe, mới bảo mọi người rằng: "Xa giá
ở đâu là triều đình ở đó". Rrồi sai người xây dựng cung điện. Bấy giờ nhà vua mới chịu về kinh
đô.

Trần Liễu làm loạn ở sông Cái được vài tuần, lượng thấy thế cô, bèn ngầm đi thuyền đến
chỗ vua xin hàng, anh em nhìn nhau mà khóc.

Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm định giết Trần Liễu. Nhà vua phải
lấy thân mình che đỡ cho anh. Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con
chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?"
Vua nói giải hoà, rồi bảo Trần Thủ Độ rút quân về.

Nhà vua lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là Đông
Triều, Yên Hưng, Quảng Ninh) là đất thang mộc và phong cho anh là Yên Sinh Vương.

Hoàng hậu Thuận Thiên sau sinh ra Quốc Khang, thái tử Hoảng, Quang Khải, Nhật Vĩnh,
ích Tắc, Nhật Duật đều được phong Vương, và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.

Kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258)

Năm Đinh Tỵ - 1257, Hốt Tất Liệt sai một đạo quân do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ
huy đánh lấy nước Đại Lý (Vân Nam) và sai sứ sang dụ ta hàng. Vua Trần Thái Tông bắt giam
sứ Mông Cổ và hạ lệnh cho các quan ngoài biên ải đề phòng cẩn mật, ba lần sứ sang Đại Việt
đều không thấy về.

Ngày 12 tháng 12 năm 1257, Hốt Tất Liệt sai danh tướng Ngột Lương Hợp Thai đem 10
vạn quân sang xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ và Trần
Quốc Tuấn, toàn quân và toàn quân ta đã dũng cảm chống quân xâm lược Nguyên - Mông, một
đế quốc hung hãn và mạnh nhất thời đại. Bấy giờ. quân Nguyên - Mông đã chiếm đóng hầu khắp
châu Âu, đến tận Ba Tư và đã chiếm đóng gần hết Trung Quốc.

Thế giặc mạnh quá, để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ kinh đô Thăng Long lui quân về
giữ Mãn Trù, Khoái Châu, Hưng Yên. Vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến Thái uý Nhật Hiệu thì
Nhật Hiệu lấy nước viết vào mạn thuyền hai chữ "Nhập Tống". Vua lại đến hỏi ý kiến Thái sư
Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ khảng khái nói rằng: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng
lo".

Quân dân Đại Việt ta đã dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh
lực kẻ thù, đợi cho kẻ thù bị quẫn bách về lương thực, khốn khổ vì không hợp thuỷ thổ. Quân ta
tổ chức phản công địch ở Đông Bộ Đầu thắng lợi, quân Nguyên phải rút chạy về nước. Thế là đất
nước ta sạch bóng quân thù, giữ vững được nền độc lập của Tổ quốc.

Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử
Trần Hoảng, đây là một cách tập sự cho con quen với việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên
làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nước.

Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu - 1277, Thái Thượng hoàng mất, thọ 60 tuổi, trị vì
được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm.

2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278)


Là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Thái hậu Lý
Thị, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý - 1240. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258 lên ngôi
hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1.
Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà
vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những
người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng
cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc
Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là
"Đại Việt sử ký".

Về đối ngoại. Lúc đó nhà Nguyên đã chiếm toàn bộ Trung Quốc của nhà Tống, đang
chuẩn bị điều kiện để thôn tính Đại Việt, chúng sai sứ sang phong Vương cho Vua Trần Thánh
Tông và bắt nước ta cứ 3 năm một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và
những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3 người cùng với những sản vật: sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi,
châu báu và những vật lạ khác, chúng còn đòi đặt quan Chưởng ấp giám sát các châu quận Đại
Việt để chuẩn bị xâm lược nước ta.

Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo những rất kiên quyết,
nhằm bảo vệ danh dự và nền độc lập của Tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân
sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ
hai. Vua Trần Thánh Tông ở ngôi được 20 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm. Ngày 25 tháng
5 năm Canh Dần - 1290 Thái Thượng Hoàng mất ở cung Nhâm Thọ, hưởng thọ 51 tuổi.

3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279-1293)


Con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh ngày 11
tháng 11 Mậu Ngọ - 1258, ngày mồng 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão - 1279 lên ngôi Hoàng đế đổi
niên hiệu là Thiệu Bảo.

Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết
lòng vì dân vì nước trong thời gian 14 năm ở ngôi khi đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.

Kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285)

Tháng 12/1284, vua Nguyên sai Thái tử Thoát Hoan đem 500 nghìn quân sang xâm lược
nước ta, có thêm 100 nghìn quân của Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An, kẹp ta
vào thế bị đánh cả hai đầu.

Giúp việc Thoát Hoan có tả tướng Lý Hằng, hữu tướng Lý Quán làm Tham tán nhung vụ
và bọn đại tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đải, Phàn Tiếp v.v...

Trước khi quân Nguyên vào xâm lược nước ta, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và
vua Trần Nhân Tông đã sắc phong cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công
tiết chế chỉ huy toàn bộ quân dân Đại Việt kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông.
Các vua Trần đã tổ chức Hội nghị quân sự ở Bình Than và tháng 8-1284, Hưng Đạo Đại
Vương tổ chức tập trận ở Đông Bộ Đầu. Người đã công bố "Hịch tướng sĩ" để khích lệ lòng yêu
nước của toàn quân, toàn dân.

Các vua Trần đã tổ chức hội nghị các bô lão trong cả nước ở điện Diên Hồng để hỏi ý dân
nên hàng hay nên đánh, cả nước đồng lòng "đánh". Quân và dân ta khắc vào tay hai chữ "Sát
Thát" (Giết giặc Nguyên). Với quyết tâm giết giặc của toàn quân và toàn dân, dưới sự chỉ huy
chiến lược tuyệt vời của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ta tổ chức đánh cầm cự, bỏ kinh
đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng, dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu
hao sinh lực địch, đợi cho quân địch khốn khổ vì thiếu lương thực mới tổ chức phản công địch ở
mọi phía. Với chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp... chỉ trong
vòng nửa năm, quân Nguyên bị đánh tơi bời, phải rút chạy. Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán bị chém
đầu tại trận, còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho người khiêng chạy về nước mới thoát
chết.

Ngày 6 tháng 6 năm 1285, quân và dân ta tiến về giải phóng kinh đô Thăng Long, mở hội
ca khúc khải hoàn.

Trong chiến thắng quét sạch quân Nguyên - Mông lần này ra khỏi bờ cõi, có công lao to
lớn của hai anh em tù trưởng dân tộc ít người miền núi Phú Thọ là Hà Đặc và Hà Chương đã
dùng mưu trí, tổ chức dân binh địa phương, phối hợp với quân triều đình, đánh quân Nguyên -
Mông ở sau lưng địch, làm cho chúng mất ăn mất ngủ. Hà Đặc đã anh dũng hy sinh ở A Lạp khi
đánh quân giặc đang bắc cầu phao ở đó. Chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285) là
thể hiện sức mạnh đoàn kết kháng chiến chống ngoại xâm của toàn thể cộng đồng các dân tộc
Đại Việt thời bấy giờ.

Kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288)

Sau hai lần xâm lược nước ta bị thất bại nhục nhã. Vua Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vô
cùng căm giận, ra lệnh huy động 500 nghìn quân ở các tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây,
Vân Nam và các châu ngoài biển như Nhai, Quỳnh, Đam... vẫn trao cho Thoát Hoan thống Lĩnh,
cho A Bát Xích làm Tả thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình chương sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm tham
tri chính sự, đưa quốc vương bù nhìn Trần ích Tắc đi theo đoàn quân Nguyên - Mông sang xâm
lược nước ta một lần nữa.

Lại sai Vạn Hộ hầu Trương Văn Hổ theo đường biển vận tải 700 nghìn thạch lương thực
sang cung cấp cho quân xâm lược.

Mùa đông năm Đinh Hợi - 1287, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của Trấn nam vương
Thoát Hoan ồ ạt kéo vào xâm lược nước ta.

Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn,
toàn quân và dân ta lại dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch.
Ngày 24/11/1287, Phán thủ thượng vị Nhân Đức Hầu Toán đánh lui địch ở eo biển Đa
Mỗ (Móng Cái, Quảng Ninh).

Ngày 28/12/1287, quân ta phục kích bắn chết Sảnh đô sự hầu Sư Đạt của giặc tại ải Nội
Bàng.

Ngày 8/1/1288, quân ta đánh bắt được 300 thuyền giặc tại cửa biển Đại Bàng, giặc bị giết
và chết đuối rất nhiều.

Tại trận Vân Đồn Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem quân ra đón thuyền lương của Trương
Văn Hổ gặp quân của Trần Khánh Dư hai bên giao chiến, Trần Khánh Dư thất bại, vua Trần cho
Trung sứ bắt về trị tội. Trần Khánh Dư xin ở lại lập công chuộc tội.

Khánh Dư trở lại, chờ cho Ô Mã Nhi đi qua, đem quân tấn công vào đoàn thuyền trở
lương thực cướp được nhiều lương thực và vũ khí còn lại cho đánh chìm xuống biển. 11/1/1288,
Trương Văn Hổ phải lẻn xuống thuyền nhỏ trốn về nước.

Ngày 8/3/1288, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của Trương
Văn Hổ nhưng không gặp.

Trên khúc sông Bạch Đằng (khu vực Đò Rừng thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh
Quảng Ninh ngày nay), Hưng Đạo Đại Vương trước đó đã sai Nguyễn Khoái bí mật cho quân
đóng cọc lim đầu bịt sắt xuống khắp lòng sông .

Ngày 8/3 năm Mậu Tý - 1288, quân ta nhử địch đuổi theo khi nước thuỷ triều lên, đến lúc
thuỷ triều xuống thì thuyền sa vào trận địa cọc, quân ta đánh quật lại, Hưng Đạo Đại Vương dẫn
quân tấn công mãnh liệt ở mọi phía, quân giặc chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông Bạch
Đằng. Quân ta bắt sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp và hơn 400 thuyền giặc. Thoát
Hoan khiếp đảm, từ Vạn Kiếp theo đường bộ chạy trốn về nước.

Thế là chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông
lần thứ 3 của quân dân Đại Việt giành được thắng lợi hoàn toàn.

Vua Trần Nhân Tông đã cho đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Ô Mã Nhi,
Sầm Đoàn, Phàn Tiếp, nguyên soái Điền và các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu
Lăng.

Khi vua cử lễ bái yết, có làm bài thơ rằng:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã


Sơn hà thiên cổ điện kim âu.

Dịch:
Xã tắc hai phen dâng ngựa đá,
Non sông ngàn thuở vững âu vàng.

Trong lễ mừng công khen thưởng chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 3, nhà vua đã
cho tù trưởng Lạng Giang là Lương Uất làm trại chủ Quy Hoá, Hà Tất Năng làm Quan phục hầu
vì đã có công chỉ huy người dân tộc thiểu số đánh giặc, một lần nữa thể hiện rõ sức mạnh đoàn
kết giữa cộng đồng các dân tộc Đại Việt dưới triều Trần.

Sau 14 năm ở ngôi Vua, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, làm Thái
thượng Hoàng rồi sau đi tu, trở thành Thuỷ tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại Am Ngoạ Vân núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng
Ninh ngày nay) thọ 51 tuổi.

4. Trần Anh Tông (1293 - 1314)


Tên huý là Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh
hoàng thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân công chúa.

Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái
bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của
triều Trần.

Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần - 1314 nhường ngôi cho thái tử Mạnh. Mất năm Canh
Thân - 1320, trị vì được 21 năm, thọ 54 tuổi.

5. Trần Minh Tông (1314 - 1329)


Tên huý là Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông. Mẹ là Chiêu Hiền hoàng thái hậu Trần
Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý - 1300.

Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới
trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ
Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần
Quốc Chẩn, một lỗi lầm lớn của Trần Minh Tông.

Năm ất Tỵ - 1329 nhường ngôi cho thái tử Vượng.

Ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu - 1357, Minh Tông mất, thọ 58 tuổi.

6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341)


Tên huý là Vượng, con bà Minh Từ hoàng thái phi Lê Thị, sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ
Mùi - 1319. Năm 1329 lên ngôi vua mới 10 tuổi, ở ngôi 12 năm, nhưng việc điều khiển triều
chính đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.

Năm Tân Tỵ - 1341 Trần Hiến Tông mất, thọ 23 tuổi.

7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)


Tên huý là Trần Hạo, con thứ 10 của Minh Tông, do Hiến Từ hoàng hậu sinh ra. Vua rất
thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, cho nên đời Thiệu Phong chính
sự tốt đẹp.

Năm 1358 đổi niên hiệu là Đại Trị. Thượng hoàng Minh Tông mất, các trung thần như
Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng đã mất, bọn gian thần kéo bè kéo đảng, Dụ Tông thì
rượu chè chơi bời quá độ khiến cho triều đình đổ nát, giặc giã nổi lên như ong, nhân dân cực khổ
trăm bề. Chu Văn An dâng "Thất trảm sớ" xin chém đầu 7 tên gian thần, nhưng vua không nghe,
ông liền treo ấn từ quan về dạy học.

Năm Kỷ Dậu - 1369 vua Dụ Tông mất, ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.

Dụ Tông mất thì bão táp ở cung đình nhà Trần nổi lên vì bà Hoàng thái hậu nhất định đòi
lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát
đã lấy kép hát là Dương Khương có thai rồi mới bỏ chồng mà lấy Cung Túc Vương sinh ra Nhật
Lễ.

Nhật Lễ lên làm vua muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần. Hắn giết bà Hoàng Thái
Hậu và Cung Định Vương. Cung Tĩnh Vương hoảng sợ bỏ trốn lên Đà Giang.

Các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh giết chết Nhật Lễ rồi lên Đà Giang rước Cung
Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông.

8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)


Tên huý là Trần Phủ, con thứ ba của Minh Tông, mẹ đẻ là thứ phi họ Lê, ở ngôi được 2
năm, nhường ngôi 27 năm, thọ 74 tuổi.

Vua dẹp yên được nạn bên trong, khôi phục cơ đồ nhà Trần, song cung kính kiệm ước thì
có thừa mà cương nghị, quyết đoán lại không đủ. Bên ngoài, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga
đem quân vượt biển vào cửa Đại An tiến đánh kinh đô Thăng Long, quân Trần chống không nổi.
Vua Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Đình Bảng lánh nạn. Quân Chiêm Thành vào đốt
sạch cung đình, bắt đàn bà con gái, lấy hết tiền bạc châu báu rồi rút quân về. Ngày 9 tháng 11
năm Nhâm Tý - 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, lui về Thiên Trường làm
Thái thượng hoàng.
9. Trần Duệ Tông (1372-1377)
Tên huý là Kính, con thứ 11 của Minh Tông, em Nghệ Tông, mẹ là Đôn Từ hoàng thái
phi. Sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh Sửu - 1337. Khi Nghệ Tông lánh nạn Trấn Kính chiêu mộ
quân lính, vũ khí, lương thực để đánh Nhật Lễ, đón Nghệ Tông về, nên được nhường ngôi, làm
vua được 5 năm, thọ 41 tuổi. Duệ Tông ương gàn, cố chấp, không nghe lời can, khinh thường
quân giặc nên mang hoạ vào thân.

Tháng 12 năm 1376, nghe lời tấu man của Đỗ Tử Bình (trấn thủ Hoá Châu), nhà vua thân
chinh đem 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, tháng Giêng năm 1377 đại quân tiến đến cửa Thị
Nại (Quy Nhơn). Chế Bồng Nga dựng trại bên ngoài thành Đồ Bàn (Bình Định) rồi cho Mục Bà
Na đến trá hàng nói là Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn. Ngày 24 tháng Giêng, vua thúc
quân tiến vào thành. Đại tướng Đỗ Lễ can mãi vua không nghe cứ tiến quân đến chân thành Đồ
Bàn thì quân Chiêm Thành ở bốn phía đổ ra đánh, quân ta thua to. Vua chết trong đám loạn
quân.

10. Trần Phế Đế (1377-1388)


Tên huý là Trần Hiệu, con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị, sinh
ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu - 1361. Khi Duệ Tông chết ở mặt trận phương Nam, Nghệ Tông lập
Hiệu lên ngôi vua.

Vua u mê, nhu nhược không làm được việc gì, uy quyền ngày càng về tay Hồ Quý Ly.

Năm Mậu Ngọ - 1378, quân Chiêm Thành lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại
Hoàng vào cướp phá kinh đô Thăng Long một lần nữa.

Ngày 6 tháng 12 năm 1388, thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuóng làm Linh đức
Đại vương, sau đó bắt thắt cổ chết, và lập con út của mình lên làm vua là Trần Thuận Tông.

11. Trần Thuận Tông (1388-1398)


Tên huý là Trần Ngung, là con út của Nghệ Tông, ở ngôi được 10 năm, xuất gia hơn 1
năm, thì bị Hồ Qúy Ly giết, thọ 22 tuổi. Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, còn việc nước thì ở trong
tay bố vợ là Hồ Quý Ly.

Năm Kỷ Tỵ - 1389, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh Đại Việt, Hồ Quý Ly đưa
quân cự chiến nhưng thua trận phải rút chạy. Thượng hoàng sai đô tướng là Trần Khát Chân đem
quân đi chặn giặc.

Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát
Chân ở Hải Triều (Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hưng Yên) nhân có tên tiểu thần của Chế
Bồng Nga là Ba Lậu Kê bị Chế Bồng Nga trách phạt, chạy sang hàng quân ta cho Trần Khát
Chân hay dấu hiệu đặc biệt của thuyền chở Chế Bồng Nga. Trần Khát Chân đã ra lệnh các cây
súng (hoả súng) nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Chế Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền. Chế
Bồng Nga trúng đạn chết tại trận. Trần Khát Chân chém đầu Chế Bồng Nga đem về triều dâng
vua và Thượng hoàng.

Tướng Chiêm Thành là La Ngai đem tàn quân chạy về nước chiếm ngôi vua. Hai con của
Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế Sơn Nô sợ bị giết đã chạy sang hàng Đại Việt,
được vua Trần trọng dụng.

Ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất - 1394, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý
Ly lên làm phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ quyền bính để dễ đường cướp ngôi vua. Hồ Quý
Ly quyết định dời đô vào Thanh Hoá, xây thành Tây Đô ( ở động An Tôn, Vĩnh Lộc).

Tháng 11 năm 1397 Hồ Quý Ly bức vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô.

Tháng 3 năm 1398 ép Thuận Tông nhường ngôi cho con trai là Trần án để đi tu ở cung
Bảo Thanh tại nuí Đại Lại (Thanh Hoá).

12. Trần Thiếu Đế (1398-1400)


Tên huý là Trần Án, mưói 3 tuổi lên kế nghiệp tức là Thiếu Đế.

Hồ Quý Ly xưng là Khâm đức Hưng liệt Đại Vương, rồi sai người giết con rể là Thuận
Tông.

Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn - 1400, Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi.

Triều Trần kể từ Trần Thái Tông Đến Trần Thiếu Đế là 12 đời vua, trị vì được 175 năm.

Dân tộc ta rất đáng tự hào dưới triều Trần, có những vị vua anh hùng như Thái Tông,
Thánh Tông, Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên -
Mông, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới bấy giờ, một đế quốc rộng mông mênh từ bờ Thái
Bình Dương đến Hắc Hải.

Song cơ nghiệp nhà Trần suy vi từ Dụ Tông, Nghệ Tông.

Dụ Tông thì hoang chơi vô độ, bỏ bễ chính sự, làm loạn kỷ cương phép nước, làm cho
dân nghèo, nước yếu.

Nghệ Tông thì nhu nhược không biết dùng hiền thần mà chỉ nghe bọn nịnh thần, làm cho
cơ nghiệp nhà Trần về tay kẻ khác.
Nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Trần

1. Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung


Trần Thị Dung là con gái Trần Lý, em gái của Trần Thừa và Trần Tự Khánh và là anh em
họ với Trần Thủ Độ.

Thái Tử Sảm chạy loạn Quách Bốc về ở nhờ Hải ấp của ông Trần Lý, thấy Trần Thị
Dung xinh đẹp xin lấy làm vợ vào năm 1209.

Anh em nhà Trần đã mộ quân lính dẹp loạn Quách Bốc đón vua Lý Cao Tông và Thái tử
Sảm về Triều.

Cuối năm 1210, Thái tử Sảm lên ngôi hoàng đế là Lý Huệ Tông lập Trần Thị Dung làm
nguyên phi, đến giữa năm 1216 được phong làm Hoàng hậu.

Trần Thị Dung cùng với Lý Huệ Tông sinh được hai công chúa: Thuận Thiên công chúa
gả cho Trần Liễu và Chiêu Thánh công chúa (tức là Lý Chiêu Hoàng) lấy Trần Cảnh. Lý Huệ
Tông đi tu rồi chết. Tháng 12/1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông.

Tháng 8/1226 nhà Trần đã gả Hoàng hậu triều Lý là Trần Thị Dung cho Thái sư Trần
Thủ Độ.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất, bà Trần Thị Dung đã
có công chỉ huy hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh đô Thăng Long, sau đó lại lo liệu thu nhặt sắt
thép, động viên các hiệp thợ ngày đêm rèn đúc vũ khí để cung cấp cho quân Trần. Bà còn lo liệu
cả lương thực, thực phẩm để cung cấp cho quân đội đánh giặc.

Sau chiến thắng ở Đông Bộ đầu vào tháng 1/1258, quân dân Đại Việt đuổi giặc Nguyên -
Mông ra khỏi bờ cõi, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc.

Với công lao to lớn của bà, nhà Vua đã sắc phong bà là Linh Từ Quốc Mẫu.

2. Thái sư Trần Thủ Độ


Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần - 1194 ở làng Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình) là cháu họ
ông Trần Lý, được ông Trần Lý nuôi dạy từ nhỏ và coi như con. Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung
rất yêu nhau, nhưng khi Thái tử Sảm lánh nạn về ở nhờ nhà ông Trần Lý thấy Trần Thị Dung
xinh đẹp, xin cưới làm vợ, Trần Thủ Độ vì sự nghiệp gây dựng cơ đồ nhà Trần đã phải hy sinh
mối tình đầu, để người yêu đi lấy Thái tử Sảm. Anh em nhà Trần đã mộ quân giúp triều Lý đánh
dẹp các thế lực cát cứ, khôi phục lại cơ đồ nhà Lý.
Ông mặc dù ít học, nhưng là người mưu lược, quyết đoán, là người có công đầu xây dựng
cơ nghiệp nhà Trần.

Cuối triều Lý, các vua ăn chơi sa đoạ, nhu nhược, kinh tế đất nước suy thoái, thiên tai
mất mùa liên tiếp, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, giặc dã nổi lên như ong. Ngoài biên
ải, đế quốc Nguyên - Mông đã chiếm hầu hết châu Âu đến tận Hắc Hải và đang tung hoành đánh
Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Cao Ly, xâm chiếm nhà Tống, và sửa soạn xâm lược Đại Việt.

Trước tình hình nguy ngập đó, nếu cứ để triều đại nhà Lý yếu hèn như vậy, thì đất nước
ta không thể tránh khỏi hoạ diệt vong.

Trần Thủ Độ đã ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái 8 tuổi là Lý Chiêu Hoàng
và cũng chính việc ông thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh là hết
sức khôn ngoan và hợp với quy luật hưng vong, làm một cuộc đảo chính cung đình để thay đổi
triều đại mà không xẩy ra đổ máu, còn tạo cho đất nước bước vào thế ổn định, để xây dựng lực
lượng về kinh tế cũng như quân sự, chuẩn bị đương đầu với những thử thách vô cùng to lớn và
cực kỳ nguy hiểm trong tương lai, chứng tỏ Trần Thủ Độ là một nhà chính trị, nhà chiến lược có
tầm nhìn xa thấy rộng.

Sau khi lên ngôi vua, Trần Thái Tông cho Trần Thủ Độ làm Thái sư nắm giữ mọi binh
quyền. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã thu phục được thế lực đối địch, tổ chức lại bộ máy
chính quyền từ trung ương đến cấp xã.

Ông là người trung thực, hết lòng vì việc nước, biết nghe lời nói thẳng. Bấy giờ có kẻ đàn
hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Trần Thủ Độ thì quyền át
cả Vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?"

Thái Tông lập tức đến dinh Trần Thủ Độ, đem theo cả người đàn hặc. Vua nói với Trần
Thủ Độ:

"Trẫm biết Thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng riêng nào. Vậy
mà kẻ kia thấy ông nắm giữ mọi binh quyền, dám ngờ vực xằng bậy, tâu với Trẫm là Thượng
phụ chuyên quyền có thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói có hại đến nghĩa vua tôi và tình
cảm chú cháu giữa Thượng phụ và trẫm".

Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu:

"Đúng như những lời hắn nói. Thật quả có chuyên quyền. Thế mới biết trăm người vâng
dạ không bằng một người nói thẳng. Trong triều duy chỉ có người này ngay thẳng, bạo dạn, dám
nói những điều người khác chỉ dám nghĩ. Một triều đại muốn thịnh trị là phải khuyến khích
người nói thật".

Nói xong, xin phép vua lấy tiền lụa thưởng cho người ấy.
Linh Từ quốc mẫu có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc
bảo Trần Thủ Độ:

"Mụ này là vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế!"

Trần Thủ Độ sai người đi bắt, người quân hiệu ấy nghĩ rằng chắc là phải chết. Khi đến
nơi, Trần Thủ Độ vặn hỏi trước mặt Linh Từ quốc mẫu. Người quân hiệu ấy cứ theo sự thực trả
lời. Trần Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa". Liền lấy
vàng lụa thưởng rồi cho về.

Trần Thủ Độ có lần đi duyệt định số hộ khẩu, quốc mẫu xin riêng cho một người cháu
làm câu đương (chức dịch thu thuế ở xã). Khi xét duyệt ở xã ấy, gọi đến tên đó, đương sự mừng
rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ bảo hắn:

"Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví như những câu đương
khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác".

Người đó kêu van xin thôi, mãi mới được tha. Từ đó không ai dám đến xin vì việc riêng
nữa.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất, Trần Thủ Độ đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Thế giặc rất mạnh, Vua phải bỏ kinh đô Thăng Long, lui quân về giữ sông
Thiên Mạc (Mạn Trù, Hưng Yên). Vua ngự trên chiếc thuyền nhỏ đến thuyền Thái uý Trần Nhật
Hiệu hỏi kế sách chống giặc. Nhật Hiệu cứ ngồi chứ không dậy nổi, chỉ lấy ngón tay chấm nước
viết lên mạn thuyền hai chữ "Nhập Tống". Vua hỏi quân Tinh Cương (do Nhật Hiệu chỉ huy) ở
đâu? Nhật Hiệu trả lời: "Không gọi được chúng đến".

Vua lập tức rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Ông khảng khái trả lời: "Đầu thần
chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".

Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, ngàn cân treo sợi tóc, câu trả lời đanh thép
của Trần Thủ Độ đã giữ vững được tinh thần quyết chiến của quân dân Đại Việt. Ông thực sự trở
thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất và là người lãnh đạo
cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu, buộc quân giặc phải rút chạy về nước, giữ
vững được độc lập cho Tổ quốc.

Sử sách thời xưa thường chê Trần Thủ Độ là vô học, gian hùng như Tào Tháo, có công
với triều Trần nhưng có tội với triều Lý như đã ép Lý Huệ Tông phải chết và giết chết các tôn tộc
nhà Lý bằng cách bày mưu chôn sống họ, khi đang tế lễ ở nhà thờ họ Lý (Đông Ngàn, Bắc Ninh)
- "Đại Việt sử ký toàn thư" tồn ghi là chưa chắc đã có thật.

Trần Thủ Độ mất tháng Giêng năm Giáp Tý - 1264, thọ 71 tuổi, được truy tặng Thượng
phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương. Dân ta tưởng nhớ công lao của Trần Thủ Độ đã nhập đền thờ
ở nhiều nơi.

3. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn


Hơn bảy trăm năm trước, cả Á, Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm về cái hoạ
Tác-ta (giặc Mông), khi chúng lướt trên vó ngựa viễn chinh tàn phá hết nước này sang nước
khác. Từ Thái Bình Dương đến tận bên bờ Địa Trung Hải khắp Á, Âu chưa có một danh tướng
nào cản được. Giáo hoàng La Mã sợ hãi đến nỗi "... tuỷ khô, thân gầy, sức kiệt". Người Đức
hằng ngày cầu nguyện: "Xin chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tác-ta!" Vó ngựa của
chúng tới đâu cỏ cây đều không mọc được. Vậy mà ở miền đông nam Châu Á lũ giặc Tác-ta ấy
đã phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và tài nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại
Việt dưới sự chỉ đạo thiên tài của Quốc công tiết chế, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Công lao to lớn của người, ba lần tổng chỉ huy quân dân Đại Việt cản phá quân Nguyên -
Mông hung bạo, đánh cho chúng thất điên bát đảo. Trấn nam vương Thoát Hoan phải chui vào
ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.

Với tài thao lược, trí dũng song toàn, luôn đặt lợi ích dân tộc và đất nước lên trên hết,
Trần Hưng Đạo không chỉ sống mãi trong lòng mọi người dân đất Việt mà còn vang danh khắp
năm châu bốn biển. Trần Quốc Tuấn (1228-1300) là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta đồng
thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới. Ông sinh ngày 10/12/1228 (Mậu Tý) là con An
Sinh vương Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông - Trần Cảnh). Là người có dung mạo hùng vĩ,
thông minh hơn người, xem rộng biết nhiều, đủ tài văn võ, chuyên tâm nghiên cứu lục thao tam
lược của người xưa và dành cả tâm huyết và hiểu biết của mình để viết: Binh thư yếu lược, Vạn
kiếp tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ để dạy các tướng cầm quân đánh giặc, khích lệ lòng yêu
nước của quân dân Đại Việt.

Người luôn luôn đặt lợi ích của dân tộc, của đất nước trên thù nhà, luôn luôn vun trồng
cho khối đoàn kết giữa tôn tộc nhà Trần, để tạo cho thế nước ở đỉnh cao muôn trượng, đủ sức đè
bẹp quân thù nguy hiểm.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai, thấy rõ nếu để ngành trưởng
và ngành thứ xích mích nghi kỵ nhau thì chỉ có lợi cho kẻ thù, người đã chủ động giao lưu hoà
hiếu với Thái sư Trần Quang Khải, tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong vương triều Trần, bảo đảm
đánh thắng quân thù.

Chuyện kể rằng, một hôm Hưng Đạo Vương ở bến Bình Than sai người mời Trần Quang
Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ rồi sai người nấu nước thơm tự mình cùng tắm rửa
với Trần Quang Khải, từ đó vĩnh viễn xoá bỏ hiềm khích giữa hai chi họ Quốc Tuấn là con Trần
Liễu ngành trưởng, Quang Khải con Trần Cảnh ngành thứ.

Lần khác, người đem chuyện xích mích cũ ra dò ý các con.

Con cả Quốc Hiến nói rằng: "Dẫu họ khác cũng còn không nên, huống chi là cùng một
họ!" Người cho là phải.

Hôm khác, người lại hỏi người con thứ là Quốc Tảng. Quốc Tảng thưa rằng:

"Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ".

Người nổi giận, rút gươm kể tội:

"Tên loạn thần là do đứa con bất hiếu mà ra!" Rồi định giết Quốc Tảng. Quốc Hiến vội
chạy đến xin tha tội cho em, người mới tha và dặn Quốc Hiến:

"Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài vào đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng!"
Cả ba lần chống giặc Nguyên - Mông, các vua Trần đều giao cho ông quyền Quốc công
tiết chế (tức là Tổng tư lệnh quân đội) vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính, nên
tướng sĩ ai cũng hết lòng tin yêu ông. Đội quân phụ tử ấy đã thành đội quân bách chiến bách
thắng.

Đầu năm 1285, quân Nguyên ào ạt tiến quân vào xâm lược nước ta, để bảo toàn lực
lượng, Hưng Đạo Đại vương đã ra lệnh cho quân và dân làm "vườn không, nhà trống" rồi rời
khỏi kinh đô Thăng Long. Thấy thế giặc quá mạnh. Bọn Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên, Văn
Chiêu hầu Trần Lộng, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đem cả gia quyến sang hàng giặc. Trước
tình hình gay cấn đó, Trần Nhân Tông triệu Trần Hưng Đạo đến và nói: "Kẻ thù rất mạnh, ta e
rằng chiến tranh kéo dài sẽ làm đất nước tổn hại, hay là ta đầu hàng để cứu dân". Trần Hưng Đạo
trả lời: "Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã!" Bởi lẽ, một người rất tự tin như
Trần Hưng Đạo đã nắm chắc phần thắng trong tay.

Mùa hè đến, quân Nguyên vừa mệt mỏi, vừa thiếu đói lại thêm dịch bệnh ốm đau, tinh
thần thêm hoảng loạn. Trong khi đó quân đội Đại Việt vẫn bảo tồn được lực lượng lại tăng thêm
sĩ khí, chứng minh phép "dĩ đoản, chế trường" của Hưng Đạo Vương thêm màu nhiệm.

Tháng 5/1285, sau khi đẩy quân Nguyên - Mông vào thế trận đã bầy sẵn với toàn bộ sự
nguy khốn mà chúng đang bị sa lầy, Trần Hưng Đạo mở cuộc phản công dữ dội toàn bộ hệ thống
đồn trại trên sông Hồng, đích thân người chỉ huy trận đánh lấy lại kinh đô Thăng Long, với
những chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết.... chỉ sau gần hai tháng phản
công mãnh liệt, hơn nửa triệu quân xâm lược bị đuổi khỏi nước ta. Toa Đô bị chém đầu tại trận,
chủ tướng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết.

Mấy tháng trước khi Hưng Đạo Vương mất, vua Anh Tông đến thăm và hỏi:

- Nếu chẳng may Quốc công mất, giặc phương bắc lại sang xâm lược thì kế sách giữ
nước làm sao?

Người đã trăng trối những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho muôn đời:

- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý - 1300 "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo
Đại Vương qua đời. Theo lời người dặn, thi hài người được hoả táng thu vào bình đồng và chôn
trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như
cũ. Vua truy tặng Thái sư Thượng phụ quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

4. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải


Trần Quang Khải (1240-1294) là con trai của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) và Hoàng
hậu Thuận Thiên.

Năm 1258 được phong tước Chiêu Minh Đại vương, khi 18 tuổi. Năm 1274, ông được
giao chức Tướng quốc Thái uý. Năm 1282, dưới triều vua Trần Nhân Tông được cử làm Thượng
tướng Thái sư, nắm toàn quyền nội chính.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và lần thứ ba, Trần Quang Khải
là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Quốc Công tiết chế Trần Quốc Tuấn và lập nhiều chiến công
lớn. Trần Quang Khải đã chỉ huy đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và những trận then
chốt nhằm khôi phục kinh đô Thăng Long vào cuối tháng 5/1285.

Trận đại thắng Chương Dương đã mở đường cho quân ta tiến nhanh đến thắng lợi cuối
cùng, quét sạch giặc Nguyên ra khỏi bờ cõi.

Kinh thành được thu phục, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải hồ hởi đón vua Trần
Nhân Tông cùng triều đình trở lại Thăng Long. Tiệc mừng chiến thắng vui đến nổ trời. Giữa
cảnh tượng nức lòng người ấy, Trần Quang Khải cảm động đón lấy chén rượu mừng công còn
đang sóng sánh của Nhà Vua ban tặng, và xin phép đọc bài thờ cảm khái:

Đoạt sáo Chương Dương độ


Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san!

Tạm dịch:

Bến Chương Dương cướp giáo


Cửa Hàm Tử bắt thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước này muôn thu!

Trần Quang Khải là một anh tài kiệt xuất không những về chính tri, quân sự, mà còn là
một nhà thơ. Ông là tác giả tập thơ "Lạc Đại". Ngày 3 tháng 7 năm 1294 (Giáp Ngọ) Thượng
tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương mất, thọ 54 tuổi.

5. Chiêu văn Đại vương Trần Nhật Duật


Trần Nhật Duật (1253-1330) con trai thứ tư của Trần Thái Tông và Hoàng hậu Thuận
Thiên. Từ bé đã nổi tiếng là ông Hoàng hiếu học và "sớm lộ thiên tài, ham thích hiểu biết về các
tiếng nói và các giống người".

Do miệt mài rèn luyện mà Trần Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng, uy tín và tiếng
tăm của ông vang dội ra cả nước ngoài. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, ông chẳng những
chỉ sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu cả phong tục, tập quán của họ. Đối với
các dân tộc trong nước, ông không chỉ hiểu tiếng mà còn hiểu cả về người.

Mới ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được vua Trần Nhân Tông giao đặc trách những
công việc về các dân tộc có liên quan. Nhà vua thán phục, có lần nói đùa: "Chiêu Văn Vương có
lẽ không phải người Việt mà là hậu thân của giống Phiên, Man". Tiếp xúc với các sứ thần triều
Nguyễn, có lần Trần Nhật Duật vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt cả một ngày, khiến cho sứ
Nguyên khăng khăng cho rằng Trần Nhật Duật là người Hán ở Chân Định (gần Bắc Kinh) sang
làm quan bên Đại Việt.

Câu chuyện sau đây chứng tỏ Trần Nhật Duật chẳng những giỏi các thứ tiếng mà còn là
một nhà dân tộc học lỗi lạc.

Ngày ấy, vua quan triều Trần được tin chúa đạo Đà Giang (Tây Bắc ngày nay) Trịnh
Giác Mật nổi lên chống lại triều đình. Tin dữ trong lúc nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh
Đại Việt. Cần phải dẹp ngay mối loạn trong nước. Người đảm đương trọng trách cũng không ai
hơn Trần Nhật Duật. Thế là vị Vương gia trẻ tuổi dưới cờ hiệu "Trấn thủ Đà Giang" lên đường.

Trịnh Giác Mật định ám hại viên tướng trẻ triều Trần nên sai người đưa thư dụ Trần Nhật
Duật: "Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật
xin ra hàng ngay". Muốn thu phục được Giác Mật, Trần Nhật Duật mặc các tướng can ngăn, một
mình một ngựa đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp theo hầu. Thản nhiên đi
giữa lớp gươm giáo và đám lính sắc phục kỳ dị cố ý phô trương uy hiếp của Giác Mật, Trần Nhật
Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc Đà Giang:

- Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đến đây thì nóng tai phải.

Từ Giác Mật đến các đầu mục đều sững sờ, kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ
Đà Giang của Trần Nhật Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo mắt thách thức,
đưa tay mời. Chỉ có quả hầu cắt đôi sóng sánh rượu và đĩa mâm thịt nai muối. Trần Nhật Duật
không chút ngần ngại cầm thịt ăn vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm bầu rượu từ từ dốc vào lỗ mũi hết
sức thành thạo.

Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: "Chiêu Văn Vương là anh em với ta".

Trần Nhật Duật bấy giờ mới từ tốn nói: "Chúng ta xưa nay vẫn là anh em", rồi gọi tiểu
đồng đến gần, tự tay mở tráp, lấy ra những chiếc vòng bạc sáng lóng lánh, trao tận tay cho từng
đầu mục đạo Đà Giang, và chọn riêng cho chúa đạo Đà Giang một chiếc vòng lớn, lồng nguyên
một chiếc vuốt cọp!

Những người cầm đầu đạo Đà Giang chỉ còn biết hoan hỉ đón nhận tặng phẩm kết nghĩa
theo đúng tục lệ của họ. Chúa đạo Đà Giang đã quy thuận. Sức mạnh của dân tộc được nhân lên.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và lần thứ ba, Trần Nhật Duật
đều lập được nhiều chiến công hiển hách, đặc biệt là trận Hàm Tử.

Năm 1330 (Canh Ngọ) Tá thánh Thái sư Chiêu văn Đại vương Trần Nhật Duật mất, thọ
77 tuổi.

6. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư


Trần Khánh Dư là con Thượng tướngTrần Phó Duyệt, nhân có công đánh giặc Nguyên
trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất được vua Trần Thái Tông nhận làm
con nuôi và phong đến chức Phiên kỵ tướng quân rồi đến chức Thượng vị hầu. Sau Trần Khánh
Dư mắc tội, bị triều đình giáng xuống làm dân thường phải đi bán than để kiếm sống ở Chí Linh.

Trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, ông được vua Trần Thánh Tông
phục chức, được phong là Phó đô tướng quân.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3, Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm
giữ vùng bờ biển, không chặn nổi thuỷ quân giặc, để chúng qua được cửa An Bang tiến về Vạn
Kiếp, Thượng hoàng được tin, sai Trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh trị tội. Trần Khánh Dư
xin với Trung sứ: "Lấy quân pháp mà xử, tôi xin cam chịu tội, nhưng xin khất hai ba ngày để
mưu lập công rồi về chịu búa rìu cũng chưa muộn". Trung sứ theo lời.

Trần Khánh Dư liệu biết quân giặc đi qua, thuyền vận tải chở nặng tất theo sau, nên thu
thập tàn quân đón chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, ông đưa quân ra đánh, lấy
được lương thực, khí giới và bắt được tù binh nhiều không kể xiết, còn bao nhiêu thì đánh đắm
xuống biển. Tướng giặc Trương Văn Hổ phải xuống chiếc thuyền con chạy trốn về đảo Hải Nam
mới thoát chết.

Ông được phong tước Nhân Huệ vương, mất năm 1329.

7. Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng


Trần Bình Trọng vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành, cha ông làm quan dưới triều vua
Trần Thái Tông, có nhiều công lao được nhà vua ban quốc tính (họ Trần).

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, ông đánh nhau với giặc ở bãi Đà
Mạc (tức Thiên Mạc, nay là bãi Mạn Trù).
Ông chiến đấu rất ngoan cường nhưng giặc quá đông bao vây vòng trong vòng ngoài,
cuối cùng chúng bắt được ông.

Khi bị bắt, ông không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, ông không trả lời, cuối cùng chúng dụ
dỗ: "Có muốn làm vương đất Bắc không?"

Ông thét to: "Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc". Ông đã anh
dũng hy sinh.

Vua Trần Nhân Tông truy phong ông là Bảo Nghĩa vương.

8. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản


Trần Quốc Toản là con Trung Thành Vương, cháu nội của Nhân Đạo Vương được phong
là Hoài Văn hầu, mới 15 tuổi, vì không được dự hội nghị quân sự ở Bình Than bàn kế chống giặc
Nguyên, căm thù giặc tay cầm quả cam bóp vỡ lúc nào không biết.

Ra về, Trần Quốc Toản huy động hơn nghìn gia nô và trai tráng trong vùng mua sắm vũ
khí, đóng chiến thuyền để đánh giặc, may lá cờ đại, thêu sáu chữ vàng "phá cường địch, báo
hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua).

Trong cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ hai, khi đối trận với giặc, Trần Quốc Toản
tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không dám đối địch. Trần Quốc
Toản đã góp vào chiến công to lớn ở Tây Kết và giải phóng kinh thành Thăng Long.

Trong trận chặn đánh giặc rút chạy trên sông Như Nguyệt, Trần Quốc Toản đã anh dũng
hy sinh, góp phần xứng đáng vào trận đại thắng Vạn Kiếp, quét sạch giặc Nguyên - Mông ra
khỏi đất nước Đại Việt.

Vua Trần Nhân Tông vô cùng thương tiếc, đích thân làm văn tế truy tặng tước Hoài Văn
Vương.

9. Điện Suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão


Phạm Ngũ Lão người làng Phù ủng, Đường Hào (nay là Ân Thi, Hưng Yên) sinh năm
1255, nhà nghèo, bố chết sớm, phụng dưỡng mẹ già rất hiếu thảo, là người thông minh lại ham
đọc sách và rèn luyện võ nghệ nên làu thông văn võ.

Một lần Hưng Đạo Vương đưa quân đi tập trận rồi tắt đường qua làng Phù ủng để về
Thăng Long. Chợt đoàn quân dừng lại, tướng tiên phong Nguyễn Chế Nghĩa quay lại, trước mặt
Hưng Đạo Vương, thưa:
- Trình Đức Ông, dân chúng đều dẹp sang hai bên nhường đường cho quân trẩy qua, chỉ
riêng có một người vẫn ngồi xếp bằng tròn trên đường đan sọt, quân lính quát thét không tránh,
liền đâm mũi giáo mà người đó vẫn ngồi yên.

Hưng Đạo Vương thấy sự lạ liền xuống voi đến trước mặt chàng trai. Vương thấy chàng
trai chừng 20 tuổi, đầu để trần, mặc áo rách nhưng dung mạo rất khôi ngô, tuấn tú, một bên đùi
bị giáo đâm nhưng vẫn ngồi xếp bằng tròn đan sọt, mặc cho máu chảy đầm đìa, liền cúi xuống
hỏi:

- Nhà ngươi quê ở đâu, bị giáo đâm như thế sao không biết đau mà vẫn ngồi như vậy?

Chàng trai đó ngước nhìn lên thấy một vị tướng quân đã lớn tuổi, cằm vuông, mắt sáng,
chòm râu đen nhánh đều đặn cân đối, nét mặt hồng hào, dáng uy nghi quắc thước mà vẫn lộ rõ vẻ
nhân từ, liền kính cẩn thưa:

- Bẩm Đức Ông, tôi họ Phạm, tên Ngũ Lão, quê ở làng Phù ủng, huyện Đường Hào, châu
Thượng Hồng. Nhà nghèo, mẹ già yếu, ruộng đất không có, phải làm nghề đan sọt nuôi mẹ. Tôi
mải nghĩ mấy câu trong binh thư không biết có quân của Đức Ông trẩy qua, làm trở ngại việc
quân, xin Đức Ông xá tội cho.

Hưng Đạo Vương thấy thần sắc, khẩu khí của Phạm Ngũ Lão xứng đáng là tướng cầm
quân liền sai quân nhổ ngọn giáo vẫn cắm ở đùi Phạm Ngũ Lão, sai người lấy thuốc dấu đắp vết
thương rồi hỏi:

- Hẳn tráng sĩ biết quân Nguyên - Mông đã chinh phục hàng chục nước Đông, Tây, Nhà
Tống cũng đã bị đẩy xuống phía Nam, đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Chúng đã bị quân dân Đại
Việt ta đánh bại trong cuộc xâm lược lần thứ nhất, nay chúng đang gấp rút chuẩn bị để xâm lược
nước ta một lần nữa. Hiện nay, trai tráng cả nước đang nô nức sắm sửa vũ khí, luyện tập võ
nghệ, ta cũng đã soạn cuốn Binh thư yếu lược, hẳn tráng sĩ rõ chứ?

Phạm Ngũ Lão thưa:

- Bẩm Đức Ông, kẻ thứ dân này tuy ở nơi thôn dã, xa cách thị thành, song cũng biết giặc
Nguyên - Mông đã động binh, rắp tâm xâm lược nước ta nên đã cùng trai tráng trong vùng luyện
tập võ nghệ, chờ thời cơ đầu quân giết giặc, đền nợ nước...

Hưng Đạo Vương hài lòng, gật đầu khen:

- Tráng sĩ có chí lớn như vậy ta rất mừng, hiện ta đang chiêu mộ quân lính, kén chọn
tướng tài để cầm quân giúp nước. Ta muốn đưa ngươi về trang ấp Vạn Kiếp giúp ta huấn luyện
quân sĩ, tráng sĩ có vui lòng chăng?

Phạm Ngũ Lão chưa kịp trả lời thì Đức Ông nhìn thấy trong chiếc sọt đan dở có quyển
sách liền hỏi:
- Tráng sĩ đọc sách trong khi đang đan sọt hay sao, cho ta xem qua được không?

Phạm Ngũ Lão ngập ngừng thưa:

- Bẩm Đức Ông, quyển sách này tôi chỉ ghi lại đôi điều cảm nghĩ khi đọc sách của người
xưa.

Nói rồi, kính cẩn dâng sách lên. Đức Ông nhìn thấy trang đầu ghi dòng chữ: "Dùng binh
cốt chọn quân tinh nhuệ, không cần nhiều". Trang tiếp theo có bài thơ:

Hoành giáo giang sơn cáp kỷ thu


Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu,
Nam nhi vi liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Tạm dịch:

Vung giáo non sông trải mấy thu


Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu
Trai chưa trả nợ công danh được
Còn thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu

Xem xong, Vương càng hài lòng nhắc lại:

- Tráng sĩ tỏ ra là người thao lược, ta rất quý trọng. Ta muốn đưa về trang ấp Vạn Kiếp
giúp ta huấn luyện quân sĩ có vui lòng không?

Ngũ Lão thưa:

- Bẩm Đức Ông, tôi rất muốn đầu quân, nhưng vì còn vướng mẹ già, xin phép Đức Ông
cho tôi về thưa đã...

Hưng Đạo Vương xúc động trước tấm lòng hiếu thảo của Ngũ Lão liền truyền lấy mấy
tấm lụa và hai mươi nén bạc trao cho Ngũ Lão, nói:

- Ta tin một người mẹ đã sinh ra người con như tráng sĩ ắt vui lòng cho con đầu quân giết
giặc. Ta có chút quà nhỏ gửi biếu bà mẹ, tráng sĩ sớm đến với ta.

Phạm Ngũ Lão xúc động, vái lạy Đức Ông và xin được về thưa với mẹ rồi tới quân doanh
ở Vạn Kiếp trình diện.
Nửa tháng sau, khi đã trình với mẹ và điều trị lành vết thương, Phạm Ngũ Lão được mẹ
và dân làng tiễn đưa lên đường đầu quân giết giặc.

Phạm Ngũ Lão đến trang ấp Vạn Kiếp ra mắt Đức Ông, được Quốc công niềm nở đón
tiếp. Biết tài của Phạm Ngũ Lão, Vương giao cho cùng Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng
huấn luyện quân sĩ.

Sau một thời gian luyện quân, Hưng Đạo Vương tiến cử Phạm Ngũ Lão với nhà Vua cho
coi quân Cấm vệ là đội quân tin cậy, làm nhiệm vụ bảo vệ Vua và Cấm thành.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và thứ ba, Phạm Ngũ Lão
lập được nhiều chiến công to lớn ở Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng Giang và được phong đến
chức Kim Nghiêu đại tướng quân.

Ông được Hưng Đạo Vương rất yêu mến, đem con gái nuôi là Anh Nguyên quận chúa gả
cho.

Phạm Ngũ Lão phục vụ trải 3 đời Vua nhà Trần, được phong đến chức Điện suý thượng
tướng quân.

Ngày 1 tháng 11 năm 1320 (Canh Thân) Phạm Ngũ Lão mất tại phủ đệ Vua ban ở vườn
cam trong thành, thọ 66 tuổi. Vua nghỉ chầu 5 ngày, đó là ân điển đặc biệt.

Khi ông mất, dân làng Phù ủng lập đền thờ ngay trên nền nhà cũ ở phía tây làng.

Nhiều nơi trong nước lập đền thờ Phạm Ngũ Lão.

10. Tướng quân Nguyễn Chế Nghĩa


Nguyễn Chế Nghĩa người làng Cối Xuyên, Gia Lộc, Hải Dương, có tài võ nghệ, lại làu
thông binh pháp.

Được Hưng Đạo Vương thu nhận làm gia tướng. Nguyễn Chế Nghĩa lập nhiều công lớn
trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai và thứ ba, ông đã giết được hai
tướng giặc là Trương Ngọc và A-bát-xích.

Nguyễn Chế Nghĩa được Vua Trần Anh Tông rất yêu mến, gả con gái là Ngọc Hoa công
chúa cho và được phong là An Nghĩa đại Vương.

Khi ông mất được làng Kiêu Kỵ (Gia Lâm - Hà Nội) thờ làm Thành hoàng.

11. Chưởng sử quan Lê Văn Hưu


Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1272) dưới triều Vua Trần Nhân Tông, Chưởng sử quan
Lê Văn Hưu đã hiến dâng bộ quốc sử lấy tên là Đại Việt sử ký. Đây là bộ sử đầu tiên của nước
Đại Việt ta gồm 30 quyển.

Lê Văn Hưu sinh năm Canh Dần (1230), quê hương nay là làng Rị, xã Thiệu Trung,
huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Là người chép sử đầu tiên của dân tộc ta, ông đã nổi tiếng thần
đồng khi còn là cậu học trò nhỏ ở giáp Phủ Lý, huyện Đông Sơn, Phủ Lộ, Thanh Hóa.

Truyện kể rằng, hồi Lê Văn Hưu là học trò thầy họ Nguyễn ở làng Cổ Bôn, hằng ngày đi
học thường dừng chân bên quán thợ rèn ở đầu làng để xem.

Một hôm, Lê Văn Hưu xách túi đứng xem bác thợ rèn dùi xiên tò mò hỏi:

- Bác này! Ông tổ nghề rèn của ta là ai đó?

Thấy thằng bé mới lên mười tuổi mà đã biết hỏi vặn vẹo, bác thợ rèn liền ra câu đối, đối
được thì được thưởng, không đối được thì phải ở đây quai búa, khi nào đối được mới cho về!

Bác thợ rèn chỉ vào lò rèn đọc:

- “Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò, rèn nên dùi sắt”. Đối đi!

Lê Văn Hưu cười:

- Chả khó mấy! - Rồi vỗ vào túi đối ngay - “Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi
húi, giật lấy khôi nguyên!”.

Bác thợ rèn trợn tròn mắt khen:

- Ta xin thua rồi đó!

Rồi bác thưởng cho Lê Văn Hưu 30 đồng tiền để mua giấy bút.

Quả nhiên, qua dùi mài kinh sử, năm Đinh Mùi (1247), Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn vào
đúng lúc 17 tuổi đời. Ông làm quan dưới ba triều Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và
Trần Nhân Tông.

Sau khi đỗ Bảng nhãn, Lê Văn Hưu được triều đình phong chức Hàn lâm viện học sĩ, lại
được Vua Trần Thái Tông ủy thác cho việc dạy dỗ hoàng tử Trần Quang Khải và năm 1262 được
Thượng hoàng Thái Tông giao cho biên soạn bộ quốc sử đầu tiên của đất nước ta.

Năm 1275, ông được giữ chức Binh Bộ Thượng thư. Ông mất năm 1322, thọ 93 tuổi

You might also like