Professional Documents
Culture Documents
Tôi không biết phải gọi Hoàng Dung, tác giả cuốn sách này bằng danh
hiệu gì. Về nghề nghiệp ông là bác sĩ, nhưng chức vị bác sĩ sẽ không
làm cho giá trị cuốn sách này tăng lên một chút nào. Ông không phải là
nhà văn, mặc dù thỉnh thoảng có viết đôi bài đăng báo. Ngay cả ông là
tác giả thiên khảo cứu này, ông cũng không nhận là nhà biên khảo Có
một điều chắc chắn: ông là một người ưa đọc sách, có thói quen ghi lại
những gì ông rút tỉa được nơi những trang sách ông đã đọc.
Tôi biết Hoàng Dung từ khi chúng tôi còn thơ ấu. Trong sân trường
trung học Nguyễn Trãi, lúc trường này chưa có trụ sở riêng, còn học
nhờ tại trường Tiểu học Lê Văn Duyệt. Năm đó là năm 1957, tôi học
Đệ Ngũ, Hoàng Dung dưới tôi một lớp. Chúng tôi là bạn chơi banh
trong trường. Hai năm sau tôi rời Nguyễn Trãi lên Chu Văn An, một
năm sau chúng tôi gặp lại nơi trường Chu Văn An cũ, sau lưng trường
Ghi nhận của Hoàng Dung, bìa Khánh Trường, trình bày Cao Xuân
Huy, Văn Nghệ xuất bản Califomia USA ISBN 1-886566-85-2
Copyright 2000 by Văn Nghệ
P1
Sơ lược lịch sứ Cam pu chia từ lập quốc đến thời cận đại
Một trong những nguyên nhân sâu xa đưa đến cuộc chiến tranh Đông
dương thứ ba hay cuộc chiến tranh hậu chiến là mối thù hận lâu đời của
người Campuchia đối với người Việt Mối thù hận này, ít có người Việt
nào để ý đến nhiều, mặc dù đã kéo dài suất trong lịch sử mấy trăm năm
nay, kể từ khi Việt nam đã thôn tính xong nước Chiêm Thành, và trở
nên một lân quốc của Campuchia.
Cũng như lịch sử Việt nam, nguồn gốc lập quốc của Campuchia rất mơ
hồ. Người ta chỉ biết tại vùng đất trước kia từng thuộc Campuchia đã
có người sinh sống từ hai ngàn năm trước Tây lịch. Quốc gia đầu tiên
được biết đến ở phần đất này là Phù Nam, khi thứ sử Giao Châu là Sĩ
Nhiếp năm 220 báo cáo về triều đình Đông Hán là đất Giao Châu (Việt
nam hồi đó) bị quân Lâm ấp (sau là Chiêm Thành) và Phù Nam quấy
nhiễu. Năm 245, vua Tàu nhà Hán có gửi một sứ bộ đến Phù Nam. Một
trong những sứ giả là Khang Thái, khi về nước đã viết về quốc gia này.
Theo ông, người sáng lập ra vương quốc là vua Kaundinya. Ông đến từ
Ấn độ, đánh bại nữ hoàng Liệu Yeh rồi kết hôn với bà này. Tuy nhiên,
cũng như người Việt từng tự hào là con rồng cháu tiên, người Khmer
cũng huyền thoại hoá lịch sử của họ. Trên một bia dá tìm thấy ở Phú
Yên, có khắc một chuyện thần tiên, trong đó kể lại vua Kaundinya có
một cây thương thần và đã kết hôn với con gái của thần rắn Nga. Do đó
mà về sau, thần rắn trở nên một biểu tượng cho nguồn gốc thần thánh
của dân tộc Campuchia.
Đế quốc Phù Nam, cũng như tất cả những đế quốc khác, sau một thời
gian hưng thịnh, rồi cũng bị sụp đổ vào thế kỷ thứ sáu do cuộc nổi loạn
của một quốc gia chư hầu là Chân Lạp. Theo sử nhà Tuỳ, Chân Lạp là
một nước nhỏ ở phía tây nam Lâm ấp (vùng rừng núi Ratakini ở phía
Năm 802, vua Jayavarman II, một vị vua sáng suốt của Thổ Chân Lạp
lên ngôi. Ông thống nhất hai nước, củng cố hành chánh, đổi tên nước là
Kambuja, tên nguyên thuỷ của Campuchia, dời đô về Angkor, mở đầu
một kỷ nguyên vàng son. Những vị vua kế nghiệp ông đã xây thêm
nhiều đền đài lăng tẩm, nhất là cha con vua Indravarman (877- 900) đã
phát triển hệ thống dẫn thuỷ nhập điền, đào những con kinh rộng hơn
cây số, những hồ chứa nước, mở ra một cuộc “cách mạng xanh” khiến
cho đất đai Campuchia có thể sản xuất lương thực dồi dào cho suốt
mấy trăm năm. Một vị vua nổi tiếng khác, vua Suryavarman II (1113-
1150) đã bành trướng đất đai đến bán đảo Malaysia, đánh phá Chiêm
Thành, và xây dựng ngôi đền Đế thích Angkor Wat, một công trình
kiến trúc nổi tiếng nhất Đông Nam Á. Sau khi vua Suryavarman II
băng hà, thành Angkor bị người Chiêm Thành tấn công, và vua
Jayavarman VII sau đó lên ngôi. Ông có lẽ là vị vua nổi tiếng nhất
trong lịch sử Campuchia. Ông hưng binh phục hận và chinh phục
Chiêm Thành, biến nước này thành chư hầu, mở rộng lãnh thổ. Đồng
thời ông đào thêm kinh rạch, xây dựng Đế Thiên Angkor Thom và đền
Bayon, cùng hơn một trăm ngôi nhà nghỉ mát. Nhưng những chiến
công của ông và những công trình vĩ đại đó đã phải trả một giá rất đắt.
Dân chúng phải làm việc như nô lệ để xây dựng và trùng tu cung điện,
đền đài. Trai tráng bị cưỡng bách tòng quân chinh chiến liên miên. Tài
nguyên quốc gia bị kiệt quệ, và ngay sau khi vua Jayavarman VII qua
đời, những gì ông thực hiện được hoàn toàn tan rã. Tuy nhiên, những
công trình xây dựng và những chiến công hiển hách của ông đã trở nên
niềm hứng khởi cũng như mối ám ảnh cho đường lối cai trị cuồng điên
của những lãnh tụ Khmer Đỏ sau này.
Sau khi vua Jayavarman VII qua đời (năm 1228), triều đại Angkor bắt
đầu suy tàn, khởi đầu là nước Chiêm Thành thâu hồi độc lập. Từ đó,
người Chiêm Thành và người Thái liên tiếp tấn công thủ đô, triều đình
phải di chuyển về Phnom Penh (1434), rồi Lovek (15161. Đế Thiên Đế
Thích bị bỏ hoang. Năm 1594, quân đội Thái tấn công chiếm được kinh
Cũng trong giai đoạn suy tàn đó, vào thế kỷ thứ mười bảy, Việt nam đã
thôn tính xong quốc gia Chiêm Thành và trở nên một lân quốc trực tiếp
của Campuchia. Bị nằm kẹt giữa hai quốc gia hùng mạnh đang phát
triển, Campuchia chỉ có một cách duy nhất để sống còn là hoặc thần
phục Thái lan, hoặc thần phục Việt nam, có khi đồng thời thần phục cả
hai nước. Nhưng vì nhu cầu bành trướng lãnh thổ của Việt nam, và vì
nội bộ triều đình Campuchia luôn luôn lủng củng, lãnh thổ quốc gia
Campuchia dần dần bị thu hẹp. Tới thế kỷ thứ mười chín thì Việt nam
đã chiếm hết lãnh thổ Thuỷ Chân Lạp cũ, và nếu người Pháp không can
thiệp vào Đông dương, có lẽ quốc gia Campuchia đã biến mất.
Người Pháp bắt đầu can thiệp vào nội tình Đông dương vào thế kỷ thứ
mười chín. Lúc đó người Anh đã chiếm được Ấn độ, Malaysia và
người Pháp đang cần một đầu cầu để đi vào thị trường rộng lớn Nam
Trung hoa. Trong thời gian đó, Nhật bản có Minh Trị Thiên Hoàng,
Thái lan có vua Mongkut có đầu óc canh tân, thì những vị vua triều
Nguyễn đã vụng về thi hành chính sách bế quan toả cảng và đàn áp đạo
Thiên Chúa, khiến cho người Pháp có cớ để tấn công Việt nam. Từ
năm 1851, sau khi vua Tự Đức ký dụ cấm đạo, các tướng Pháp
Grenouilly, Charner liên tiếp bắn phá Đà Nẵng và rồi Bonard, De
Lagrandière lần lượt chiếm hết sáu tỉnh Nam Kỳ làm thuộc địa. Tiếp
theo, người Pháp bắt đầu dòm ngó Campuchia. Tháng 9.1862, Bonard
đích thân sang thăm vua Norodom (Nặc Ông Chân), yêu cầu nhà vua
nhận cho Pháp bảo hộ. Nhà vua còn trù trừ thì năm sau, Lagrandière sợ
nếu để trì hoãn lâu thì Thái lan sẽ nhảy vào tranh giành ảnh hưởng nên
đã đích thân lên Phnom Penh gặp Norodom, ép nhà vua ký hiệp ước
bảo hộ vào tháng 7-1863.
Mới đầu, người Pháp chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và Campuchia với mục
đích tìm đường đi đến Nam Trung hoa. Một phái đoàn thám hiểm
Thấy không sử dụng được sông Cửu Long, người Pháp tìm cách khai
thác những mối lợi khác. Năm 1884, họ đòi vua Norodom phải ký thoả
ước để người Pháp được nắm toàn quyền về hành chánh, tư pháp, tài
chánh, thương mại và thu tất cả mọi thứ thuế. Vua Norodom từ chối,
Lagrandière tự đem tàu chiến lên Phnom Penh, vào tận hoàng cung, ép
vua Norodom phải ký.
Tự ái dân tộc bị tổn thương, nhân dân Campuchia nổi loạn dưới sự lãnh
đạo của hoàng thân Si Vatha. Người Pháp phải đánh dẹp hai năm mới
yên. Vua Norodom chết năm 1904, em của ông là Sisowath nối ngôi, trị
vì đến năm 1927 thì con là Monivong nối nghiệp. Nhưng khi Monivong
mất năm 1941 thì toàn quyền Decoux lại chọn Sihanouk là chắt của vua
Norodom lên ngôi vua, chỉ vì lúc đó ông ta còn trẻ và người Pháp nghĩ
là ham chơi, thiếu kinh nghiệm.
Nước Campuchia, dưới sự bảo hộ của Pháp, có được một thời kỳ tương
đối yên tĩnh, và họ cũng may mắn không bị liên quan nhiều đến thế
chiến thứ hai. Tuy rằng mối quan tâm chính của người Pháp là bóc lột
tài nguyên và nhân lực của dân bản xứ, nhưng họ đã bảo vệ được sự
toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia và đã làm được vài công trình có lợi
ích. Trước hết là sự phát hiện và trùng tu những lăng tẩm Đế Thiên Đế
Thích, làm sống lại một thời đại vàng son rực rỡ của quốc gia
Campuchia khơi dậy niềm tự hào dân tộc. thứ hai là họ đã canh tân hệ
thống giáo dục, mở mang dân trí, trong đó có sự thành lập hai cơ sở
chính là Viện nghiên cứu Phật học và trường trung học Sisowath. Hai