You are on page 1of 4

I.

Phân tự nhiên

– Đây là loại phân thường có sẵn trong tự nhiên, chưa được qua chế biến. Nó
thường được sử dụng để bón lót sớm vì nó khá khó tiêu.

– Đó là loại quặng khai thác từ các mỏ dùng làm phân bón. Các mỏ này có
nguồn gốc do núi lửa phun ra tạo thành hoặc do lân tích đọng ở đáy biển tạo
thành. Lân trong các loại quặng này đều là các hợp chất photphat canxi có chứa
gốc Cl–, F–, OH– hay CO32- .

– Tùy theo thành phần hợp chất, nguồn gốc thành tạo mà phân làm hai loại
apatit và photphorit.

1. Apatit

– Apatit phần lớn có nguồn gốc phún xuất và có cấu trúc tinh thể hoặc vi tinh
thể và cũng khó phá vỡ, khó dùng để bón trực tiếp. Apatit Lào Cai cũng thuộc
về loại này.

– Apatit phần lớn là các mỏ thành tạo có nguồn gốc phún xuất, nhưng cũng có
mỏ có nguồn gốc trầm tích. Mỏ apatit Lao Cai thuộc loại sau.

– Apatit Lao cai có 3 loại: Loại giàu có chứa >31% P2O5, loại 2 có chứa 23-
31%. Loại 3 dưới 23%.

– Quặng loại 3 được làm giàu để sản xuất supe lân. Quặng loại hai dùng để sản
xuất phân lân nung chảy.

– Trong 3 loại quặng, quặng 1 có cấu trúc tinh thể, ít bền chặt, dễ phá vỡ, có thể
nghiền bón trực tiếp, nhưng hàm lượng P2O5 cao nên dùng để sản xuất supe lân
và xuất khẩu. Quặng loại 3 có hàm lượng P2O5 thấp có thể dành nghiền bón
trực tiếp nhưng tinh thể khá bền vững, hiệu lực kém hơn.

– Hiệu lực các loại phân bón khó tan dùng bón trực tiếp phụ thuộc vào sự tiếp
xúc của các phân với đất và rễ cây. Dựa vào axit do rễ cây tiết ra và dựa vào độ
chua của đất mà các loại phân khó tiêu trở thành dễ tiêu. Cây có thể sử dụng
được. Các biện pháp chính để làm tăng hiệu quả các loại phân lân này là:

+ Nghiền mịn: Độ mịn càng cao càng có hiệu quả. Phân phải có độ mịn đạt 20%
qua rây 0,25 mm mới có thể làm tăng năng suất khá. Nếu giá thành cho phép tốt
nhất là 100% qua rây 0,10 mm.
+ Bón sớm: các loại phân lân khó tan chỉ có thể bón lót. Bón tập trung theo hàng
hoặc hàng cây tốt hơn bón vãi ra ruộng vì phân dễ tiếp xúc với cây hơn. Trong
trường hợp dùng với lượng lớn để vừa cải tạo độ chua vừa cung cấp cho cây mới
nên bón vãi và cày bừa trộn đều trong toàn tầng đất canh tác.

+ Ủ với phân chuồng để lợi dụng chất chua khi chất hữu cơ phân giải. Trộn
photphorit với các loại phân vô cơ có khả năng gây chua như amon sunfat, amon
clorua hay các loại phân Kali cũng có tác dụng làm tăng hiệu lực của phân.
Cũng như các loại phân ít hòa tan, sự phối hợp phân lân khó tiêu với các loại
phân lân dễ tiêu thường có tác dụng tốt. Nhà máy supe lân Long Thành đã có
sáng kiến xuất loại supe lân PA bằng cách trộn supe lân sau khi ủ 5 ngày với bột
đá xà vân và bột apatit hoặc bột phophorit. Loại phân này có tác dụng giống như
các loại phân snr xuất theo quy trình chậm tan. Lượng bón các loại phân khó
tiêu nên cao hơn supe lân 1,5 – 2 lần.

2. Photphorit

– Các loại quặng nguồn gốc trầm tích, cấu trúc vô định hình, dễ phá vỡ có thể
dùng để bón trực tiếp gọi là photphorit. Các loại này thường lẫn lộn với đất có
nhiều chất hữu cơ và tỉ lệ Fe, Al cao.

– Photphorit sử dụng ở các nước EU đều lấy từ các mỏ của Bắc Phi, Mỹ,
canada, SNG. Mỏ này nhỏ trữ lượng ít hàm lượng lân thấp. Trong các hang núi
đấ vôi ven bờ biển (Còn gọi là phân lèn). Các núi đá này rải rác ở các tỉnh Sơn
La, Lai Châu, Bắc Thái, Hòa Bình, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình. Tính chất
các loại này gần giống photphorit Vĩnh Thịnh.

– Cần phân biệt phân lèn là photphorit chính cống với loại phân cũng lấy được
từ trong hang đá nhưng là xác của phân dơi, chim chóc sống lâu trong hang đá
để lại. Loại phân này là một loại phân đặc biệt giàu chất dinh dưỡng rất tốt, dùng
như các loại phân hữu cơ nhiều yếu tố N, P, K và vi lượng khác hẳn photphorit
thông thường.

– Chất lượng của photphorit được đánh giá theo các tiêu chuẩn sau:

+ Tính chất vật lý - xốp nhẹ.

+ Tính chất hóa học: Lân tổng số và lân tan trong axit citric cao, tỷ lệ CaO cao
và tỷ lệ P2O3 thấp, hàm lượng fluo thấp.

– Chất lượng photphorit thay đổi rất nhiều tùy nơi khai thác. Các loại photphorit
của Maroc, Angieri, Mỹ, Canada chất lượng tốt được nghiền bón trực tiếp và có
tín nhiệm trên thị trường. Photphorit ở mỏ Vĩnh Thịnh và các núi đá vôi nhiều
sắt nhôm, tỷ lệ lân thấp thay đổi rất nhiều tùy nơi khai thác. Hàm lượng P2O5
tổng số thay đổi từ 10-31% P2O5.

– Ưu điểm chính của bột photphorit là có khả năng khử chua, hiệu lực lâu dài
trong nhiều vụ.

– Nhược điểm chính là không phải đất nào, cây nào bón photphorit cũng có hiệu
lực. Ở đất trung tính và ít chua, photphorit chỉ có hiệu lực rõ đối với một số cây
họ đậu và cây phân xanh, cây họ thập tự.

– Ở đất chua pH< 5,5 hiệu lực của photphorit mới rõ. Đất càng chua hiệu lực
càng rõ. Hiệu lực photphorit rõ nhất ở các chân ruộng trũng, lầy thụt giàu hữu
cơ.

Lưu ý:

– Chất lân trong lân tự nhiên thường nên bón lót sớm (chính xác là vì nó khó
tiêu).

– Lân tự nhiên có hàm lượng lân hữu hiệu từ 9% trở lên và hàm lượng kim loại
nặng thấp dùng hiệu quả trong bón trực tiếp.

–Việc bón trực tiếp lân tự nhiên tránh được quá trình axit hóa đối với các loại
supe lân hòa tan và tránh việc sản sinh ra nhũng chất thải gây ô nhiễm như
Phospho – Gypsum và khí ga hiệu ứng nhà kính dẫn đến tiết kiệm năng lượng và
bảo vệ môi trường khỏi ô nhiễm.

– Lân tự nhiên có thể sử dụng trong nông nghiệp hữu cơ.

– Bón trực tiếp đảm bảo tối ưu hóa nguồn lân tự nhiên mà khó có thể tối ưu
trong sản xuất supe lân hòa tan và axit photphoric.

– Lân tự nhiên phù hợp cho bón trực tiếp có thể hiệu quả nhanh hơn phân supe
lân hòa tan trên phương diện khả năng phục hổi P bởi cây trồng trong một điều
kiện nhất định.
– Trên yếu tố giá thành, lân tự nhiên hoặc nguyên bản có giá thị trường rẻ nhất.

– Nhờ những thành phần hóa học phức tạp, lân tự nhiên là nguồn cng cấp các
dinh dưỡng khác ngoài P. Chúng thường được bón để cải thiện tình trạng lân của
đất, nhưng theo quá trình phân giải, chúng cũng cung cấp các dinh dưỡng khác
có sẵn trong lân tự nhiên. Bón lân tự nhiên hữu hiệu trung bình và cao nhất cho
đát axit nhiệt đới có hiệu quả kéo lên sự phát triển của cây trồng và năng suất
mùa vụ vì không chỉ P được giải phóng mà còn hiệu quả trong việc trao đổi
Canxi và giảm bão hòa Al. Sản phẩm được thu hoạch và phần tàn dư có chất
lượng dinh dưỡng cao hơn (hàm lựng P cao hơn). Sự kết hợp của tàn tích hữ cơ
tăng hiệu quả sinh học và tích lũy Cacbon trong dất dẫn tới cải thiệt đặc tính lý
hóa của đất. Do đó, lân tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc cải thiện độ
màu mỡ của đất và kiểm soát quá trình suy thoái đất, cụ thể là sự giảm sút dinh
dưỡng.

You might also like