You are on page 1of 13

Tiết 36, 37, 38, 39: Đọc văn NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

NGUYỄN TUÂN
I. KIẾN THỨC CHUNG
1. Tác giả:
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của VHVN hiện đại, nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
- Ông là người có cá tính độc đáo, tài hoa, uyên bác: Nhìn nhận và khám phá sự vật, hiện tượng
ở phương diện thẩm mĩ và miêu tả con người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ. Văn Nguyễn Tuân đầy
ắp những hiểu biết phong phú, đa dạng về các lĩnh vực đời sống, từ các bộ môn nghệ thuật (hội
họa, điêu khắc) cho đến lịch sử, địa lý, quân sự, thể thao. Các sáng tác của ông giàu lòng yêu
nước và tinh thần dân tộc.
- Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại, song đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu
biểu nhất của Nguyễn Tuân về thể loại này là tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
2. Tác phẩm:
- Tác phẩm được sáng tác nhân một chuyến đi công tác của nhà văn lên vùng núi Tây Bắc và
được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960).
- Mục đích: Khám phá, phát hiện chất vàng của núi rừng Tây Bấc và “ chất vàng mườỉ trong
tâm hồn của người lao động đã qua thử lửa ”
II. KIẾN THỨC TÁC PHẨM
1. Hình tượng con sông Đà hung bạo.
– Lai lịch: Mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc→
Cách giới thiệu tạo ấn tượng về sông Đà như một nhân vật có cá tính độc đáo.
- Cách quan sát công phu, kĩ càng để nhận ra sự hung bạo ở nhiều góc độ:
* Đoạn 1: “ Hùng vĩ Sông đà không chỉ có thác đá...vừa tắt phụt đèn điện”/186
- Cảnh vách đá bờ sông đầy nguy hiểm:
Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái
đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm
bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò
sông Đà” trích từ tập tuỳ bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân
sau cách mạng tháng Tám. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để
kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của
con người nơi đây.
Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông Đà.
Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà là "Đá bờ sông dựng vách
thành"; "mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời" bởi đá bờ sông đã chắn hết nắng,
chúng không cho tia nắng nào chiếu xuống mặt sông trừ lúc giữa trưa cũng chính là lúc mặt trời
1
lên cao nhất. với sự liên tưởng độc đáo, vách đá cao vút, vững chãi, thâm nghiêm,...đã Tạo cho
lòng sông một sức mạnh bí ẩn, ghê rợn, hiểm hóc...Tác giả lại tiếp tục miêu tả ở đây với vách đá
“chẹt lòng sông như cái yết hầu; .có quãng tưởng như Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và
chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách; với việc sử dụng
động từ mạnh “chẹt” rất biểu cảm xen lẫn với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên
bờ con hươu con nai có thể nhảy qua được. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo lồng
vào, đã cho người đọc cảm nhận được độ cao của vách đá, độ hẹp cũng như sự lạnh lẽo u tối của
lòng sông so sánh lòng sông như bộ phận nhỏ hẹp ở cổ họng con người để thấy sự nhỏ hẹp và
lưu tốc mạnh của dòng chảy, mùa lũ qua những khúc sông này nguy hiểm vô cùng
→ Khắc sâu độ cao vách đá, sự lạnh lẽo u tối của lòng sông, sự nhỏ hẹp của dòng chảy.
+ Tác giả Bằng liên tưởng đọc đáo tác giả đã tạo ấn tượng cho thị giác lấy hè phố tả mặt sông,
lấy nhà cao tầng gợi ra vách đá "Ngồi trong khoang đò qua quãng ây, đang mùa hè cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứmg ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". tác giả miêu tả thông qua cảm giác, mùa
hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây, chính cái khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã
làm cho ta cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên. Nghệ thuật So sánh, liên tưởng vừa
chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận cùng
kiệt của sự tối tăm, lạnh lẽo, của sự ghê rợn, hiểm nguy,...làm cho người đọc ấn tượng về sự
hung bạo của Sông Đà cũng như vẻ đẹp hùng vĩ cùa thiên nhiên Tây Bắc: u ám, hiểm hóc, ghê
rợn.
* Đoạn 2: “ Lại như quãng mặt ghềnh Hát Lóong...lật ngửa bụng thuyền ra”/186
- Quãng mặt ghềnh Hát Lóong: Sự phối hợp giữa gió và sóng
Vừa vượt qua những quãng đá bờ sông chẹt thành vách thành vừa hẹp, vừa sâu và đầy sự
tối tâm lạnh lẽo đã tiếp tục phải đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm
mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi nhất là ghềnh Hát Loóng "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm " . cấu trúc trùng điệp, nhịp điệu câu
văn ngắn, mạnh, nhanh, dồn dập kết hợp với động từ “ xô” điệp lại trong cả ba vế câu “xô đá,
xô sóng, xô gió” tạo ấn tượng mạnh về những chuyển động liên tiếp, không dừng. Từ đó gợi ra
sự khủng khiếp của thiên nhiên, những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang,
vút cao theo chiều dọc rồi đỗ ập xuống thật ghê rợn, khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước
những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa gợi âm thanh
ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ
sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. Nó hung hãn, lì lợm, cuồn bạo, nó đe dọa, uy
hiếp con người và có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước
được. + Biện pháp nhân hóa “ đòi nợ xuýt” + từ láy” ghùn ghè”: nhấn mạnh đến sự hung hãn, lì

2
lợm, cuồn bạo của dòng sông ngày đêm như đe dọa, uy hiếp con người. Sự chuyển động của
sóng và gió nơi đây đã tạo nên sức mạnh tiêu diệt sự sống.
* Đoạn 3: “ Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Son La...rút lên cây gậy đánh
phèn”/186,187- Những hút nước khủng khiếp, dữ dội:
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt thủ
pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước sông Đà. Nhìn từ xa
những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái nhưng nó lại không
hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và
đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái
giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi độ sâu
hun hút của những cái xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ
hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước "nước ở đây thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc"; và "những cái giếng nước sâu ặc ặc lên như vừa rót nước sôi
vào”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như mới rót dầu sôi vào. Từ láy
“ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại
giãy giụa. Còn “trên mặt cải hút xoay tít đấy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ
đàn”;không một chiếc thuyền nào dám chèo qua đó một cách nghênh ngang cả mà phải chèo
thật nhanh “như ô tô sang số ấn ga” vậy. Chèo thật nhanh và tay lái phải vững nếu không muốn
những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan
xác" ; Sự hung bạo này khiến nhà văn liên tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào
đó mang máy quay ngồi trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống
kính để ghi lại cảnh tượng ghê sợ “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh
ve một áng thủy tỉnh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người
đang quay phim cả người đang xem ” Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay
tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ
phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
+ Sau Một loạt những so sánh, nhân hóa, liên tưởng sống động, đặc sắc khiến cái hút nước hiện
ra trong hình ảnh cái giếng bê tông to lớn, trong âm thanh ghê rợn của cửa cống cái bị sặc, trong
hình ảnh mặt nước như đang rót dầu sôi,.. .người đọc như cảm nhận được cả sức mạnh và sự
hung bạo của những cái ấy hút nước ấy
+ Từ láy tượng hình “ lừ lừ”, từ láy tượng thanh “ ặc ặc”: cái hút nước như một quái vật đang
giận dữ, cuồn nộ,... Nó như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
+ Thủ pháp điện ảnh khi miêu tả(...): Từ đó tạo cảm giác sợ hãi chân thực cho con người khi đối
diện với nó.
* Đoạn 4: “ Còn xa lắm mới đến cái thác dưới...cháy bùng bùng”/187,188

3
- Tiếng thác nước khủng khiếp:
Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng người
đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình tự từ xa đến gần. “Còn xa lắm
mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra.
Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên” Tiếng thác nghe như là. “ oán
trách", nghe như là"van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo. Cách kết hợp khéo léo
giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. Thế rồi "nó
rống lên như tiêng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa ...
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng... ". Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng
đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban
đầu Sông Đà cất lên khúc như đang thử thách lòng người. Âm thanh của tiếng thác gào rùng
rợn, hoang dã. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên
khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại:
Nghệ thuật nhân hóa, so sánh, liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà
được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn
núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy hình sắc để vẽ âm thanh,…
Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật nhưng cũng từ đó thể hiện sự độc đáo
và tài hoa của Nguyễn Tuân . Thi sĩ đã lấy những cái tương khắc với nhau để tô đậm sức mạnh
của đối phương .Từ đó âm thanh của thác nước được miêu tả ở nhiều cung bậc để tạo cảm giác
dữ dội khiến thác nước trở thành bày thủy quái hung hăng ,bạo ngược.. Lấy rừng để tả sông, lấy
lửa để tả nước, lấy hình sắc để vẽ âm thanh,…
→Thác nước thành bầy thủy quái hung hăng, bạo ngược.
* Đoạn 5:/188
- Sự hung bạo, man dại của lũ đá:
+ Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình vào
miêu tả đá sông. Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những
hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng
thớ đá: Những hòn đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân trời đá”
rộng lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn nào hòn nấy mặt trông cũng rất
“ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả dùng nhiều tính từ chỉ con người để miêu
tả qua đó người đọc cảm nhận được sự dữ tợn, sự bất cần, bướng bỉnh của hòn đá, chúng như
những vật thể sống và là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà dường như đã giao nhiệm
vụ cho từng hòn đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thức với con người "Cả một chân
trời đá mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" ->Những hòn đá vô tri vô
giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và

4
hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
+ Ở Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa
vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền" Ở trận này chúng
bày ra năm cửa trận trong đó có 4 cửa tự và 1 cửa sinh nằm lập lờ nơi tả ngạn con sông. Ở
trùng vi thạch trận thứ 2 , thác sông đà đã bộc lộ hết sự gian manh và cái sự háo thắng của
nó lần này chúng bày trận ở khắp nơi tăng thêm nhiều cửa tử hơn để đánh lạc hướng con
thuyền đi vào chỗ chết,còn cửa sinh thì được bố trí về phía hữu ngạn và cuối cùng ở trùng
vi thạch trận thứ 3 chính là vòng quyết định thắng thua cuối cùng , thác sông đà bày ít cửa
hơn nhưng trái phải đều là luồng chết , cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữ bọn đá hậu vệ
đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo , sinh động, giàu trí tưởng tượng của
Nguyễn Tuân ,con sông đà hiện lên thật hung bạo nó như một loài thủy quái khủng lồ tâm
địa vừa độc ác vừa nguy hiểm không khác gì kẻ tù số 1 của con người trong một cuộc
chiến không cân sức . + Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng
nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn + Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên
phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác
gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh
tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút
VN.
* Đánh giá:
+ Những nhân hóa, so sánh liên tưởng độc đáo, bất ngờ thú vị.
+ Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
+ Câu văn giàu nhịp điệu: lúc hối hả mau lẹ, khi chậm rãi từ tốn,...
→ Nổi bật sự hung bạo của Sông Đà, Sông đà như “loài thủy quái khổng lồ” của con người nơi
đây, cũng là khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc. Ta tự hào về vẻ đẹp núi sông tổ quốc,
về chất vàng của Tây Bắc với tiềm năng thủy điện. → Tình yêu quê hương đất nước vài tài năng
bậc thầy của ngòi bút Nguyễn Tuân.
2. Bên cạnh nét tính cách hung bạo, Sông Đà cũng rất trữ tình, thơ mộng:
Trong tuỳ bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp, dịu dàng, thơ
mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ, nhiều phương diện mà nhìn trên
phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè,
cũng không mang nét tư lự trong từng hơi thể khi màn đêm buông xuống mà sông Đà hiện lên vô
cùng sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là "kẻ thù số một của con người". Những
con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh mang. Hai bờ sông dựng đá
thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô
bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết
hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như
những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như những cái
giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm
5
trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng
dũng và có phần bạo ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước
từng con con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông. Bởi vậy mà nó khiến
bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông Đà bố trí
sẵn: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để
lướt quãng sông”, biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao
nhiêu con thuyền nghênh ngang phải tan xác dưới lòng sông.
* Đoạn 1: “ Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần...bản đồ lai chữ”/190,191
- Sông Đà nhìn từ trên cao: Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình
thơ mộng của nó. Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, không
gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như áng
tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp. Dòng sông Đà được nhà văn bằng những
hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc. Sông Đà như chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”: phép
so sánh cụ thể hóa ví dòng sông uống lượn như hình con rồng trên đất trời Tây Bắc. "con Sông
Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban, hoa gạo tháng hai": điệp ngữ “ tuôn dài” nhấn mạnh đến chiều dài sông Đà chảy suốt
biên giới phía Tây tổ quốc. Phép so sánh “sông Đà như áng tóc trữ tình”nhấn mạnh đến dáng
hình dòng sông mềm mại, óng ả, mượt mà, duyên dáng, uyển chuyển.... Thông thường người ta
sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn
Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một
tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra. Hình ảnh “ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc cuồn cuộn
khói mèo đốt nương xuân” làm tăng vẻ đẹp hư ảo, kín đáo, tình tứ của dòng sông. Động từ
“bung nở: là động từ mạnh đứng trước hai loài hoa: hoa ban, hoa gạo gợi lên sự vận động của
sắc màu cứ xôn xao, rạo rực rồi bừng lên lộng lẫy trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt diệu cuốn
hút lòng người. Làm cho con Sông Đà không khác gì mĩ nữ tràn đầy sắc xuân.
- Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Màu sắc dòng sông thay đổi
theo mùa: Tác giả đã quan sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau
+ "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến": sự quan
sát công phu, tinh tế trong thời điểm khác nhau của nước dòng sông. Màu xanh ngọc bích gợi sự
quí giá, êm nhẹ, dịu dàng của dòng sông vào mùa xuân,
+ Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa": lừ lừ cái màu
đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm,
trĩu nặng phù sa thượng nguồn. Sông Đà mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình
tứ. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa
đa dạng và qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế

6
của nhà văn.
* Đoạn 2: “Con Sông Đà gợi cảm...lũ thác ngay đấy”/191
- Từ trong rừng đi ra: Dòng Sông Đà khơi dậy trong lòng người bao cảm xúc.
Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”. “Đối vớ mỗi con
người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã cỏ lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Biện pháp so
sánh cộng với hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ xa
nhớ gần yêu, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ của Đường thi, không
chỉ vậy dòng sông còn đem lại cho con người cảm xúc dịu ngọt, đằm thắm, mến thương,...Đoạn
văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc để miêu tả dòng sông Đà gợi cảm và trước
hết là để bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy “loang
loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của một người chưa ra tới
cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà
đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát…Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng
sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng
mạn của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được
coi là “thiên cổ lệ cú” của Lý Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà
văn đã làm xao xuyến những tâm hồn chưa hề nguôi nỗi tiếc nuối nhớ nhung với những phong vị
Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà
không chỉ chảy trong không gian, mà như còn tha thiết trong dòng thời gian miên viễn xa xăm
của Đường thi. Đây là màu thứ 3 trong sắc nước của Sông Đà: màu nước này nảy sinh trong ý
định sáng tạo của chủ thể: “màu nắng tháng 3 Đường thi”-sắc màu không tồn tại trong hội họa mà
hiện lên trong cảm hứng thăng hoa của người nghệ sĩ, là sự liên tưởng độc đáo khiến nắng Sông
Đà như ngậm thơ, ngậm họa –màu nước ấy khiến Nguyễn Tuân muốn đề thơ vào sông nước là
chất lãng tử, nghệ sĩ tác giả. Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ sông Đà, bãi
sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu
đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng
khoáng của bến bãi Đà giang, tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian
sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, không kịp bình tĩnh quan sát
bằng lý trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi, dồn dập, gấp gáp theo nỗi
khát khao.
+ “Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng thánh ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt hả
Dương Châu”: Sông Đà gợi cảm hứng thi ca trào dâng cho các nhà thơ.
Cảm xúc gặp lại sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ thú vị: “Chao ôi, trông
con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt, “giòn tan” là chính
từ thường chỉ đặc điểm sắc thái của những vật thể mỏng manh dễ vỡ. Nắng “giòn tan” là một ẩn
dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quý
giá, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày “mưa dầm”, giúp
người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà văn khi gặp lại con sông. Và
sự nối lại giấc mơ càng hy hữu hiếm quý bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị
bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao đã nhiều lần tới sông Đà và bất cứ lúc nào nếu muốn,
ông cũng có thể đến với người cố nhân của mình, vậy mà qua so sánh “vui như nối lại chiêm bao
đứt quãng” có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới kỳ diệu như được

7
nối lại một giấc mơ đẹp, lần nào cũng như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần
nào cũng như lần đầu tiên, cuối cùng và duy nhất.
+ “ôi chao, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm
bao đứt quãng”: “nắng giòn tan” là ẩn dụ đẹp để gợi lên cái nắng thật trong, thật mỏng, thật
sáng, thật nhẹ,.. .xua đi cái u ám, lạnh lẽo của những cơn mưa dài. Các so sánh làm nổi bật cảm
xúc vui tươi, hạnh phúc khi gặp được dòng sông→ Ta càng cảm thấy tình sông núi cũng là tình
tri âm, tri kỉ, Sông Đà thực sự đã trở thành cố nhân→ tâm hồn người đọc như nâng lên một tầm
cao nhân vãn, trí tuệ.
Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó “đằm đằm ấm ấm như
gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với bao kỷ niệm gắn bó
trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân
trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.
* Đoạn 3: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà...trên dòng trên”/191,192
- Thuyền trôi trên sông Đà: Cảnh sắc đôi bờ Sông Đà hiện lên vẻ đẹp trữ tình của không gian
tĩnh lặng
Thông qua Sông Đà, bằng ngòi bút tài hoa, già dặn của mình, Nguyễn Tuân không chỉ phác họa
được bức chân dung ông lái đò trên sông Đà, bức chân dung người lao động trên sông nước
được nâng lên ngang tầm nghệ sĩ, mà còn đem đến con sông Đà một cái hồn người thực sự:
cũng biết vui, buồn, giận dỗi, phẫn nộ, nhớ thương... Nhưng, gấp lại trang sách, đọng lại trong
tôi vẫn là đoạn này: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà... trên dòng trên”. Sau những đợt gầm rung
giận dữ, sóng vỗ tung bờ, sau những trận “làm mình mẩy” với con người Tây Bắc, con sông Đà
lại trở về với cái đằm thắm, hiền hòa cố hữu của nó:
+ “Thuyền tỏi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần, đời Lí,
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”: Cụm từ ước lệ “đời Trần, đời Lí, đời
Lê,” + các từ ngữ giàu cảm xúc “lặng tờ; lặng tờ đến thế mà thôi”: diễn tả một không gian
ngưng động, nguyên sơ, thuần khiết, an lành. Một không gian nằm ngoài sự trôi chảy vận động,
đổi thay của cuộc sống vốn ồn ào, náo nhiệt.
+Những hình ảnh về "một nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa", “cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp. cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và
tràn đầy sức sống. “Một đàn hươu củi đầu ngốn những búp cỏ gianh đẫm sương đêm”: khiến
cho thiên nhiên hiện lên trong mối giao hòa, gắn kết.vẻ đẹp hoang sợ, trong trẻo, an lành, thuần
hậu,...
+Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong sự tươi mới, tinh khôi đã đưa tác giả vào một không gian
mang đầy sự huyền ảo “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm
cồ tích xưa”: cách nói độc đáo, rất riêng của Nguyễn Tuân, nó vừa gợi nhạc tính, vừa gợi cảm:
dòng sông đà hiện lên thơ mộng, trữ tình, hồn nhiên, trong sáng. Cảnh sắc ven sông đẹp như
8
trong huyền thoại, cổ tích, trong thế giới thần tiên thoát tục. Đằng sau những cảm nhận vô cùng
tinh tế đó, chúng ta có thể thấy được tâm hồn của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã hòa
mình vào thiên nhiên cùng mây trời non nước sông Đà. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi,
thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: “con
hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trên một mũi đò...
Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thay một tiếng còi sương? ”: thiên nhiên và
con người có một mối chan hòa, giao cảm, đồng điệu tuyệt vời. Thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp, con
người cảm nhận vẻ đẹp trong mối quan hệ hòa hợp, thân thiện. Hình ảnh này gợi cho chúng ta
nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ của tác giả Lưu Trọng Lư:
"Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"
Chú hươu trong những câu văn của Nguyễn Tuân hay chú nai vàng đang lắng nghe "Tiếng thu"
trong thơ Lưu Trọng Lư đều gợi lên sự tinh khôi, thuần khiết của thiên nhiên. Sau khi miêu tả
quanh cảnh ven sông, tác giả tập trung miêu tả cảnh sắc dưới lòng sông. Hàng loạt những thực
thể hiện lên với sắc màu và dáng vẻ khác nhau trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: "Đàn
cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi". Và rồi dòng sông đã được
nhân hóa với những nét tính cách của con người, trôi chậm như "nhớ thương những hòn đá thác
xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc".

* Đánh giá:
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo.
+ Ngôn ngữ phong phú, tinh tế, chính xác,...
+ Câu văn giàu giá trị tạo hình, giàu nhạc điệu,...
→ Vẻ đẹp thơ mộng, trừ tình của Sông Đà. Con Sông đà như một công trình nghệ thuật tuyệt mĩ
mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Ta tự hào về vẻ đẹp núi sông tổ quốc, về chất vàng của
Tây Bắc với tiêm năng du lịch→ Tình yêu quê hương đất nước vài tài năng bậc thầy của ngòi
bút Nguyễn Tuân.
3. Hình tượng người lái đò sông Đà: Trong tuỳ bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ
dội lại vừa xinh đẹp, dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ,
nhiều phương diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng
soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự trong từng hơi thể khi màn đêm
buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là
"kẻ thù số một của con người". Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi
thật mênh mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô
chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: "Có vách đá

9
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ trên
cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những
tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu
sôi”. Tất cả những sự hùng vĩ, rộng lớn và đầy nguy hiểm đó thì làm sao Nguyễn Tuân có thể
quên đi hình bóng của con người. Hình tượng một con người lao động hiện lên trí dũng, tài hoa,
là một người nghệ sĩ trên lĩnh vực chèo thuyền vượt thác đã chiến thắng sức mạnh của thiên
nhiên hung bạo.
* Lai lịch của người lái đò sông Đà:
- Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là Đó là một ông lão gần
bảy mươi tuổi, “làm nghề chở đò, dọc” suốt sông Đà đã mười năm liền và thôi làm đò cũng gần
chục năm nay, quê ông ở “ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh” Lai Châu.
- Đó là một người lái đò lão luyện “trên dòng sông Đà, ông xuôi ngược hơn 100 lần rồi, chính
tay giữ lải độ 60 lần” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ
này.* Ông hiểu biết sâu sắc con Sông Đà:
- Sở dĩ người lái đò sông Đà bất khả chiến bại trong số hơn một trăm lần vượt thác sông Đà đầy
nguy hiểm vì ông đã nằm lòng đối tượng chiến đấu của mình. Nguyễn Tuân gọi ông là “thổ
công” trên sông nước.
- Ông là một con người hiểu biết, từng trải, thành thạo về con sông đến mức độ “lấy mắt mà
nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm
trở”.
- Người lái đò thuộc nằm lòng con sông như thuộc một trường thiên anh hùng ca “thuộc tất cả
những cái chẩm than, chẩm câu và những đoạn xuống dòng”.
→ Một con người từng trài, hiểu biết, thành thạo nghề lái đò và nắm chắc đối tượng chiến đấu
của mình.
* Người lái đò tài hoa, trí dũng:
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh
như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng
quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Cái tài năng, bản lĩnh và những phẩm
chất tuyệt vời của người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện tập trung nhất trong cảnh
chiến đấụ với ba trùng vi thạch trận. Như một vị tướng tài ba, ông lái đò đã điều khiển thế trận
như một chiến lược, chiến thuật độc đáo.
- Ở trùng vi thứ nhất:
+ Sông Đà chia thành năm cửa trận, trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh được nguy
trang nằm lập lờ bí hiểm phía tả ngạn.

10
+ Vừa vào thạch trận “sóng, nước, đả sông hò la vang dậy”, ùa vào định “bẻ gãy cán chèo võ
khỉ” trên tay người lái đò. Sóng nước như một đám quân liều mạng xông vào “đá trái”, “thúc
gối vào bụng, vào hông thuyền”. Nước như một đô vật “tủm thắt lưng ông đò đòi vật ngửa mình
ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt ” rồi thác nước thì đánh miếng “đòn hiểm độc
nhất ’ vào chỗ “hạ bộ ” của người lái đò. Khi bị trúng đòn, mắt người lái đò như thấy “một cửa
bể đom đóm” nhưng ông vẫn “cố nén vết thương”, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”. Mặc
dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ
tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
+ Nghệ thuật: nhân hóa, so sánh, liên tưởng bất ngờ thú vị + động từ mạnh (...) + sự phong phú
về ngôn ngữ diễn tả trên nhiều lĩnh vực: quân sự, võ thuật, địa lí, văn học,..:
→ Và Ông chiến thắng Sông Đà, chiến thắng trong một trận chiến không hề cân sức,ông chiến
thằng bởi phẩm chất của một chiến sĩ trên mặt trận sông nước, bởi sự lão luyện, luôn bình tĩnh,
dũng cảm, biết nén mọi đau đớn để chiến thắng đối thủ hiểm ác của mình.
- Ở trùng vi hai:
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ông đã phải bắt đầu ngay vào trùng vi thạch trận thứ hai và
lần này Kẻ địch đã thay chiến thuật. Chúng tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch sang
phía bờ hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền. Nhưng Ông lái đò đã “nắm chắt binh pháp của
thần sông thần đả ” nên đã “nắm chặt được bờm sóng đúng luồng” rồi “ghì cương lái (...) mà
phóng nhanh vào cửa sinh ”.
+ “Đám thủy quân” định “níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Nhưng ông đã có cách trị bọn
chúng. Đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “chặt đôi ra để mở đường tiến”.
+ Nghệ thuât: nhân hóa, so sánh, liên tưởng bất ngờ thú vị + động từ mạnh (...) + điệp từ, ngữ,
câu trúc (...) + sự phong phú vê ngôn ngữ diễn tả trên nhiều lĩnh vực: quân sự, võ thuật, địa lí,
văn học,...: Thế là những luồng chết đã bỏ lại sau thuyền. Lại một lần nữa Ông chiến thắng sông
Đà, lần này ông chiến thắng bởi phẩm chất của một dũng tướng có nhiều kinh nghiệm, có hành
động chuẩn xác, mau lẹ, quyết đoán, một dũng tướng thông minh tài giỏi.
- Ở trùng vi thử ba:
Bước vào trận chiến thứ ba, cũng chính là trận chiến cuồi cùng quyết định thắng thua. Lần này
chúng bày Ít cửa hơn nhưng “bên phải, bên trái đều là nguồn chết cả”. Cửa sinh lại nằm giữa
bọn đá hậu vệ của con thác.
+ Ông lái đò như một chỉ huy dạn dày kinh nghiệm: “Cứ phóng thảng thuyền, chọc thủng cửa
giữa” mà vượt qua cổng đá, cánh mở, cánh khép. “Thuyền như một mũi tên xuyên nhanh qua
hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác. ”
+ Nghệ thuật: nhân hóa, so sánh, liên tưởng bất ngờ thú vị + động từ mạnh (...) + điệp từ, ngữ,
câu trúc (...) + sự phong phú về ngôn ngữ diễn tả trên nhiều lĩnh vực: quân sự, võ thuật, địa lí,

11
văn học,.. :
→ Đến đây, trình độ chèo thuyền lái đò vượt thác của người lái đò đã đạt đến mức độ tài hoa, đã
nâng lên thành nghệ thuật chèo đò, là một tay chèo điêu luyện, một nghệ sĩ trên sông nước. Nói
như Nguyễn Tuân đó là “một tay lái ra hoa”.
* Người lao động đời thường:
Sau khi chiên thăng ba vòng trùng vi thạch trận, vượt qua những “cửa ải nước dữ tướng dữ
quán tợn ”, đêm ấy ông lái đò và những người bạn sông nước của mình “đốt lửa trong hang đá,
nướng ông cơm lam ” và chỉ bàn vê chuyện “cá anh vũ, cá dầm xanh và những hâm cá, hang cá
mùa khô nồ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cả tủa ra đầy tràn ruộng” mà không nhắc đến
chiến công trên sông nước vừa qua: Người lái đò coi việc đối mặt với sóng nước hung bạo là là
chuyện thường tình, không có gì đáng nói, những hồi ức về sự hiểm nguy không có mà chỉ có sự
lãng mạn ngọt ngào của cuộc sống bình yên. Một con người có tâm hồn cao đẹp, phong thái ung
dung, khiêm tốn, giản dị xem chuyện chiến thắng dòng sông Đà hung hãn là một câu chuyện đời
thường không cần phải bận tâm, không đáng để tự hào.
* Đánh giá:
- Quan niệm thẩm mĩ mói mói mẽ, tích cực của Nguyễn Tuân:
+ Hình tượng người lái đò sông Đà là một con người bình dị mà phi thường được Nguyễn Tuân
khắc họa như một biêu tượng đẹp của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước.
Đó là một cách nhìn, một cách khám phá và khẳng định vẻ đẹp của con người Việt Nam trong
thời đại mới. Ồng lái đò chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của con người Tây Bắc.
+ Ba lần vượt trùng vi thạch trận đã toát lên những vẻ đẹp tuyệt vời của một con người lao động
trí dũng, một nghệ sĩ tài hoa trong lĩnh vực chèo thuyền vượt thác. Ca ngợi hình tương người lái
đò sông Đà chính là một cách tôn vinh tài năng, ý chí, nghị lực của con người trong công cuộc
chinh phục thiên nhiên. Qua đó, Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh
hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể hiện
sâu sắc trong việc xây dựng và chinh phục thiên nhiên.
- Nét đặc sắc trong phong cách Nguyễn Tuân- nhà văn tài hoa, uyên bác:
+ Quan sát, khám phá diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mĩ.
+ Miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
+ Ngôn ngữ tùy bút giàu hình ảnh, giàu chất thơ.
Tổng kết nghệ thuật: Có thể nói Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư
thế của một người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng
người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách
mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa, nghệ
sĩ; m người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong lao động thường ngày. Đó

12
là “chất vàng” trong cuộc sống. Để miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức
của nhiều ngành khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh; câu văn trùng điệp,
nhiều nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…
Tóm lại, qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước
những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất
vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ
nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo
của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu
cho nghệ thuật. Họ là đối tượng của cái đẹp, của ánh sáng thẩm mĩ hiện đại.

13

You might also like