You are on page 1of 8

KIỂM TRA MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

LỚP PHR21
Thời gian làm bài: 60 phút + 15 phút ( thời gian chép đề và nộp bài) 
Sinh viên được sử dụng tài liệu. 
SV nộp bài trên MS Team và qua mail của tổ trưởng 
------------------------------- 
Đề thi có 2 câu 
Tên: Nguyễn Phương Nga
Lớp: PHR21

Câu 1: Câu hỏi dạng tự luận: (5 điểm)


Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) chứng minh luận điểm: Giai cấp công
nhân Việt Nam là giai cấp thực sự cách mạng, có đủ khả năng thực hiện thắng lợi
sứ mệnh lịch sử của mình.
Câu 2: Câu hỏi nhận diện Đúng – Sai: (5 điểm)
Quan điểm sau đây Đúng hay Sai và giải thích ngắn gọn vì sao?
“Trong chế độ tư bản chủ nghĩa giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức có lợi ích
cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản”

Bài làm

Câu 1: Luận điểm “Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp thực sự cách mạng,
có đủ khả năng thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình” là vô cùng đúng đắn
do tính chất và đặc điểm của giai cấp công nhân như sau:
a) Giai cấp công nhân có định nghĩa:
 Là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thái và phát triển cùng với quá trỉnh
của nền công nghiệp hiện đại; Là giai cấp đại diện của lực lượng sản xuất
tiên tiến.
 Là lực lượng chủ yếu của của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
 Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền
với quá trình SX vật chất hiện đại, đại biểu cho PTSX mang tính XH hóa
ngày càng cao
 Họ là người làm thuê do không có TLSX, buộc phải SLĐ để sống và bị
GCTS bóc lột GTTD; vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản
của GCTS.
 Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ TBCN, xây dựng thành công
CNXH và CNCS trên toàn thế giới.

b) Đặc điểm của giai cấp công nhân:


 Là sản phẩm của nền đại công nghiệp,
 Lao động bằng phương thức công nghiệp mang tính chất xã hội hóa cao,
 Chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại,
 Tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công
nghiệp.
 Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để. Là “giai cấp dân tộc” –
vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc và chịu trách nhiệm trước hết
với dân tộc mình.

Theo Hồ Chí Minh, đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết,
triệt để, tập thể, có tổ chức, kỷ luật. Công nhân là giai cấp tiền tiến nhất trong
sức sản xuất, có trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, xây dựng một
xã hội mới. Vì những lẽ đó, giai cấp công nhân có thể lĩnh hội và thấm nhuần
một tư tưởng cách mạng nhất: chủ nghĩa Marx Lenin. Đồng thời, tinh thần đấu
tranh của họ ảnh hưởng và làm gương cho các tầng lớp khác. Do đó, về mặt
chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò
lãnh đạo.

Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam:


 Là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên
ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp,
một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển công
nghiệp, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.

Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai
cấp công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông
dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm
đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình là giải phóng dân tộc để giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội.

 Giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nước, đấu
tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Giai cấp công nhân khi ra đời
vừa chịu nỗi nhục mất nước, vừa bị áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế
quốc nên họ có tinh thần cách mạng kiên cường, triệt để, sớm nhận thức
được mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
 Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong điều kiện các giai cấp khác đã bế
tắc về con đường cứu nước thì chỉ có giai cấp công nhân mới có khả năng
tìm thấy lối thoát cho cách mạng
 Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười Nga thành công, sớm tiếp thu CN Mác- Lênin, mở ra một chế độ xã
hội mới trong lịch sử nhân loại, đó là chế dộ xã hội xã hội chủ nghĩa và cùng
lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giảỉ phóng dân tộc là
con đường cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đó là
yếu tố hết sức quan trọng khích lệ, thúc đẩy giai cấp công nhân Việt Nam
đứng lên làm cách mạng để giải phóng dân tộc
 Giai cấp công nhân Việt Nam- sản phẩm của một quá trình công nghiệp hoá
đặc biệt. Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự
nhiên với nông dân và đông đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp
công nhân Việt Nam sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh
công – nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng. Đây cũng là điều kiện
cần thiết đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi.
 Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau một thời gian ngắn thì Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào phong trào
công nhân, làm cho phong trào công nhân có một bước phát triển nhảy vọt
về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành lực lượng
chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân Việt
 Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và sớm có
Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các khuynh hướng cơ hội chủ
nghĩa, cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc về tư tưởng nên
luôn luôn đoàn kết, thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và
bọn địa chủ phong kiến tay sai. Theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt
Nam “là giai cấp kiên quyết nhất, cách mạng nhất, đi đầu trong đấu tranh
cách mạng”

Nội dung của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn
thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ
nghĩa.

Phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực
ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm
việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.

a) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gồm ba nội dung chính:
 Nội dung kinh tế: Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản sản xuất
ra của cải cho xã hội xã hội chủ nghĩa
 Nội dung chính trị: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, giai cấp công
nhân tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xây dựng nhà nước mới của
nhân dân
 Nội dung văn hóa–xã hội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, giai cấp
công nhân xây dựng nền văn hóa, con người mới với tư tưởng, đạo đức xã
hội chủ nghĩa..
b) Giai cấp công nhân Việt Nam có đủ các điều kiện để thực hiện sứ mệnh
lịch sử:
 Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích mâu thuẫn với giai cấp
thống trị đương thời. Do tồn tại mâu thuẫn nên giai cấp công nhân có thể đấu
tranh và tính chất của mâu thuẫn ấy là mâu thuẫn đối kháng. Do đó, giai cấp
công nhân lãnh đạo được phong trào cách mạng và cách mạng mới có thể
diễn ra và thành công.
 Thứ hai, giai cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử của thời đại phải là một giai cấp
có hệ tư tưởng riêng, độc lập và tiến bộ. Để sáng tạo ra một hệ tư tưởng
riêng, độc lập thì không phải giai cấp nào cũng làm được điều đó, hơn nữa
hệ tư tưởng của giai cấp thì luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp ấy, nó có
tiến bộ và phù hợp hay không là do hệ thống lợi ích của giai cấp ấy chi phối.
Trong lịch sử xã hội, trí thức là người có khả năng sáng tạo ra các hệ tư
tưởng và giai cấp nào lôi kéo, vận động được trí thức đi theo phong trào
cách mạng của mình thì trí thức sẽ sáng tạo ra hệ tư tưởng riêng, độc lập,
tiến bộ trên lập trường, tư tưởng của giai cấp đó. Và trong lịch sử, ngoài giai
cấp địa chủ và giai cấp tư sản, giai cấp công nhân đều vận động được trí
thức làm được điều đó và trở thành giai cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử của
thời đại.
 Thứ ba, giai cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử của thời đại phải là giai cấp có
lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã
hội đương thời. Điều này là cơ sở để giai cấp lãnh đạo cách mạng vận động
thu hút và tập hợp lực lượng cho phong trào cách mạng. Giai cấp công nhân
là đại diện cho lực lượng sản xuất chính, chủ yếu của xã hội, đồng thời họ là
người bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất và không còn con đường nào khác để
giải phóng họ, đó là giải phóng toàn nhân loại.
 Thứ tư, giai cấp công nhân đảm nhận sứ mệnh lịch sử của thời đại còn là
giai cấp có chính đảng riêng, độc lập lãnh đạo phong trào cách mạng. Đảng
là tổ chức chính trị tiên phong của cách mạng, là tổ chức lãnh đạo mọi hoạt
động của phong trào cách mạng. Đảng vừa là nhân tố đề ra các chủ trương,
đường lối cho phong trào cách mạng, đồng thời còn là hạt nhân đoàn kết, tập
hợp lực lượng cho phong trào cách mạng. Chính vì vậy, để lãnh đạo được
phong trào cách mạng thì giai cấp lãnh đạo đó phải có chính đảng riêng, độc
lập, và chính đảng đó phải có một lý luận cách mạng tiến bộ dẫn lối, làm cơ
sở để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn, dẫn dắt phong trào cách mạng
đi tới thắng lợi.
c) Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Theo Mác và Ăngghen, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải do ý
muốn chủ quan của giai cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của các nhà tư tưởng mà
do những điều kiện khách quan quy định.

 Thứ nhất, là do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định. Giai cấp công
nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất
hiện đại mang trình độ xã hội hóa cao. Nền sản xuất hiện đại với xu thế xã
hội hóa mạnh mẽ hiện nay đang tạo ra “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết”
cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân là sản phẩm và chủ
thể của nền đại công nghiệp; sản xuất vật chất là chủ yếu; do đó, là giai cấp
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong chủ nghĩa tư bản, xét từ
địa vị chính trị giai cấp công nhân là đối tượng bị bóc lột trực tiếp và nặng
nề nhất nên họ có tinh thần cách mạng triệt để và là giai cấp cách mạng nhất.
 Thứ hai là do đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp công nhân quy định.
Quá trình dân chủ hóa trong đời sống tư bản chủ nghĩa là hệ quả của xu thế
xã hội hóa sản xuất và là kết quả của đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cũng tạo ra điều kiện thuận lợi
để giai cấp công nhân tập dượt và từng bước thực hiện sứ mệnh của mình.
Sự thống nhất cơ bản về lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của nhân
dân lao động cũng tạo ra điều kiện để hiện thực hóa đặc điểm này. Trong
cuộc đấu tranh ấy vị trí của giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về chính
trị, lãnh đạo toàn xã hội thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng
sản.
 Thứ ba là do mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản quy định. Quá trình sản
xuất mang tính xã hội hóa cao làm cho mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất tư hữu của quan hệ sản
sản xuất. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thể
hiện ra về mặt xã hội là mâu thuẫn cơ bản giữa các giai cấp công nhân và tư
sản. Giải quyết mâu thuẫn là động lực chính của cuộc đấu tranh giai cấp hiện
đại và giai cấp công nhân chính là lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử ấy.

d) Thực trạng GCCN VN hiện nay và vấn đề đặt ra:

 Là lực lượng hàng đầu của Việt Nam song chưa chiếm đa số trong dân cư và
lao động.
 Trình độ văn hoá, tay nghề, công nghệ... chưa đáp ứng yêu cầu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
 Giác ngộ chính trị chưa đồng đều, một bộ phận chưa ngang tầm với vị trí
tiền phong.
 Đào tạo và sử dụng công nhân nhiều bất cập
 Việc làm và đời sống của công nhân còn khó khan
 Nhiều tổ chức chính trị-xã hội của công nhân còn yếu ...
 Một bộ phận giới chủ trong các doanh nghiệp FDI, tư nhân… thể hiện “mặt
đối lập” với công nhân
 Một bộ phận CN trong các TPKT tư nhân, nước ngoài đang bị bóc lột khá
nặng nề, bộc lộ tâm lý làm thuê, nô lệ, sự cạnh tranh, nỗi thất vọng, sự vùng
dậy… lao động của họ đang bị tha hóa
 Nguy cơ “4 hóa” của một bộ phận CN (Công đoàn Trung Quốc) sẽ là hiện
thực: làm thuê hóa, bần cùng hóa, vô quyền hóa, phân tán hóa

e) Giải pháp:

 Nâng cao nhận thức trong Đảng, tổ chức công đoàn, bản thân giai cấp công
nhân và trong toàn xã hội về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam. Xây dựng giai cấp ngày càng lớn mạnh.
 Thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh
 Tăng cường “trí thức hóa” công nhân; Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ
mọi mặt cho công nhân
 Xây dựng, củng cố các tổ chức chính trị trong các doanh nghiệp, nhà máy,
nhất là các DN ngoài NN.
 Hoàn thiện luật đầu tư (thu hút đầu tư nhưng phải bảo vệ lợi ích người lao
động)
 Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân.
Câu 2:

Quan điểm “Trong chế độ tư bản chủ nghĩa giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức có
lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản” sai.
 Vì trong chế độ tư bản chủ nghĩa giai cấp nông dân, tầng lớp nông dân mới
có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích giai cấp tư sản.
 Theo V.I.Lênin, trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà là
một tầng lớp (đội ngũ) trung gian trong xã hội, hoạt động trong lĩnh vực lao
động trí óc (sản xuất tinh thần là chủ yếu), trí thức không có hệ tư tưởng độc
lập mà phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp mà họ phục vụ. Với tư cách là
một tầng lớp đặc biệt và ở trong một thể chế chính trị cụ thể, trí thức nói
chung là của giai cấp thống trị, do hệ thống giáo dục và đường lối đào tạo
của nhà nước, của thể chế chính trị ấy tạo ra. Đội ngũ này tự giác hoặc
không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình đấu tranh
giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho trí thức phân hóa thành
những bộ phận khác nhau. Do đó, trí thức chỉ có thể chứng tỏ mình là một
lực lượng xã hội thực sự khi gắn bó chặt chẽ và được sự ủng hộ của một giai
cấp, tầng lớp nào đó trong xã hội.
 Ngoài ra, giai cấp tư sản là giai cấp thống trị, nắm giữ tư liệu sản xuất trong
tay, mục đích chính của chúng là bóc lột nông dân và công nhân để làm giàu
cho bản thân, với lợi ích cơ bản chung của tầng lớp là bòn rút, bóc lột phần
lớn nhân công. Trong nền kinh tế phong kiến và các nền kinh tế cấp thấp lực
lượng nhân công (nông dân, nông nô) bị phụ thuộc vào chủ đất (địa chủ,
lãnh chúa) và quý tộc về mặt pháp lý, họ bị gắn chặt vào ruộng đất và ý chí
của chủ đất và quý tộc, nên lợi ích cơ bản của họ đối lập hoàn toàn với giai
cấp tư sản.

You might also like