You are on page 1of 10

Ôn thi ĐH Văn

VỢ CHỒNG A PHỦ -Tô Hoài-


Đề 1: Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài)
I.MỞ BÀI:
Cách 1:
- Giới thiệu về Tô Hoài và Truyện Tây Bắc: Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi
hàng đầu của VHVN. Ông thành công ở nhiều thể loại, nhiều đề tài. Sáng tác của Tô Hoài
thể hiện vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt về phong tục và cuộc
sống đời thường. Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm thành công nhất của Tô
Hoài in trong tập Truyện Tây Bắc.
- Giới thiệu nhân vật: Qua truyện ngắn này, nhà văn đã thể hiện những khám phá mới mẻ về
số phận và phẩm chất của người lao động miền núi. Nhân vật chính của tác phẩm - Mị - để
lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về hình ảnh người con gái Mèo xinh đẹp, với sức
sống tiềm tàng mãnh liệt đã đi từ bóng tối của cuộc đời nô lệ đến ánh sáng của cuộc sống tự
do.
Cách 2: Trong “Kinh nghiệm viết văn của tôi”, Tô Hoài từng tâm sự: “Thiên nhiên và con người
miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”. Hình ảnh Tây Bắc “lúc nào cũng thành nét,
thành người, thành việc trong tâm trí tôi”. Quả thực, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ ” chính là niềm
thương nỗi nhớ của Tô Hoài gửi vào Tây Bắc - một Tây Bắc đau thương mà anh dũng, một Tây
Bắc thấm đẫm nước mắt tủi hờn và vời vợi chất thơ. Gấp trang truyện lại, người đọc vẫn không khỏi
day dứt về nhân vật Mị, người phụ nữ nghèo miền núi sống dưới ách áp bức bóc lột tàn tệ của bọn
thực dân phong kiến nhưng vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt.
II.THÂN BÀI:
1- Khái quát chung:
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- Vai trò của nhân vật:
Mị là nhân vật trung tâm, là linh hồn ở nửa đầu truyện “Vợ chồng A Phủ”, là người phụ nữ có
sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Đó là lòng yêu đời, ham sống, là khát vọng tha thiết về cuộc sống tự
do và hạnh phúc nhưng tất cả đều tồn tại ở dạng tiềm ẩn, chưa thể hiện rõ nếu không có hoàn cảnh
cụ thể. Sức sống tiềm tàng của Mị được nhà văn miêu tả ở những chặng đường đời khác nhau của
nhân vật để từ đó khẳng định: dù hoàn cảnh có đen tối nghiệt ngã đến đâu, cũng không thể hủy diệt
được sức sống tiềm tàng mạnh mẽ ẩn chứa trong tâm hồn con người.
- Cách giới thiệu nhân vật Mị của Tô Hoài ở đầu tác phẩm rất đáng chú ý. Bằng giọng kể chầm
chậm, nhà văn để Mị hiện lên với đầy đủ tín hiệu của một cuộc đời giông bão: “ai ở xa về, có việc
vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước
cửa, cạnh tàu ngựa”. Chỗ ngồi của Mị âm thầm lặng lẽ bên tàu ngựa, tức là Mị bị đẩy vào vị trí
không dành cho con người. Ấn tượng đặc biệt này ám ảnh người đọc suốt đoạn trích; khiến ta
không khỏi xót xa. Có ai ngờ bông hoa xinh đẹp chốn núi rừng Tây Bắc kia lại gánh nặng trên mình
một thân phận trâu ngựa. Mị còn xuất hiện với dáng vẻ câm lặng đến tội nghiệp: dù làm gì hay ở
đâu, lúc nào cũng thấy cô cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Gương mặt của Mị như nói với chúng ta một
điều: Mị có nỗi khổ đau quá lớn. Tuy nhiên, khuôn mặt buồn rười rượi giữa cảnh giàu sang tấp nập
của nhà thống lí kia không phải của người cam chịu nhẫn nhục hoàn toàn. Ý thức rõ sự khổ đau
cũng là một cách phản kháng trong sâu thẳm tâm hồn Mị, cũng là sự phủ nhận hoàn cảnh để sống
1
Ôn thi ĐH Văn
đời sống nội tâm. Hình ảnh của Mị đối lập với môi trường mà cô đang sống - tương phản với gia
đình thống lý Pa Tra nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện và giàu có nhất vùng. Điều ấy
khiến người đọc đặt ra nhiều câu hỏi. Đây cũng là cái cớ rất tự nhiên và hợp lý để Tô Hoài dẫn đưa
độc giả tiếp tục khám phá về cuộc đời, số phận, tính cách của Mị ở phần sau tác phẩm.
2- Phân tích nhân vật Mị:
a, Gia cảnh và vẻ đẹp của Mị trước khi Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra
Trước khi bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị đã có thời con gái tươi đẹp,
xứng đáng được hưởng hạnh phúc:
+ Gia cảnh, xuất thân: Mị vốn là con nhà nghèo, nghèo tới mức cha mẹ Mị không có đủ tiền
cưới, phải đến vay nhà thống lí Pá Tra, để rồi sau đó mỗi năm phải trả lãi một nương ngô. Đến khi
cha Mị đã già, mẹ Mị đã chết, Mị đã lớn mà món nợ ấy vẫn chưa trả được.
+ Hình thức xinh đẹp: Sinh ra và lớn lên trong gia cảnh nghèo khổ như vậy, nhưng Mị vẫn
là cô gái rất xinh đẹp. Cho dù tác giả không miêu tả trực tiếp nhan sắc Mị song người đọc vẫn nhận
thấy được nét duyên dáng trẻ trung của Mị qua chi tiết: trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng
Mị.
+ Tâm hồn tài hoa: Mị cũng là cô gái có tài thổi sáo, Mị còn uốn chiếc lá trên môi, thổi lá
hay như thổi sáo. Điều đó đã hé mở phần nào đời sống nội tâm phong phú của người con gái đẹp
như đóa hoa ban rừng nơi vùng caoTây Bắc này.
+ Tính cách cao đẹp: Không chỉ có vậy, Mị còn là người con chăm chỉ, hiếu thảo, khao khát
hạnh phúc, giàu lòng vị tha và đức hy sinh. Cô gái tha thiết yêu đời và ý thức rất rõ giá trị của cuộc
sống tự do nên đã từ chối về làm con dâu nhà giàu. Mị đã nói với cha: Con nay đã biết cuốc nương
làm ngô, con phải làm nương ngô để trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu. Cũng như
biết bao cô gái bước vào tuổi thanh xuân khác, Mị khao khát yêu và được yêu. Mị đã được sống
những tháng ngày hạnh phúc với tuổi trẻ và tình yêu trong những đêm tình hò hẹn say mê. Tưởng
như tất cả cuộc đời tươi đẹp, hạnh phúc đang chờ đón Mị phía trước.
➔ Nhưng rồi Mị đã bị chà đạp tàn nhẫn: cha con thống lý Pá Tra lợi dụng món nợ truyền kiếp
đẩy Mị vào số phận bi kịch. Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý, bắt đầu cuộc sống đày ải
nơi địa ngục trần gian.
b, Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị phải chịu nỗi đau về thể xác tinh thần:
- Về thể xác:
+ Mị phải làm việc quanh năm ngày tháng với những công việc vất vả mà đơn điệu: Tết xong
thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…Lúc nào
cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi…Con ngựa con trâu còn có lúc, đêm còn được
đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày.
+ Không chỉ có vậy, Mị còn bị A Sử đánh đập, hành hạ không thương tiếc bất cứ lúc nào: Mị
muốn được đi chơi xuân thì A Sử đã trói đứng Mị vào cột suốt đêm bằng cả thúng sợi đay. Khi A Sử
bị A Phủ đánh, Mị phải vào rừng lấy thuốc về bóp chân cho nó dù khắp người đau nhức. Lúc bóp
thuốc cho chồng, Mị mệt mỏi, ngủ thiếp đi, A Sử lấy chân đạp thẳng vào mặt Mị. Những đêm mùa
đông lạnh và cô đơn, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay bên bếp có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử
đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp…
- Về tinh thần:

2
Ôn thi ĐH Văn
+ Nhưng có lẽ điều mà Tô Hoài muốn nhấn mạnh hơn là sự đầy đoạ về mặt tinh thần trong gia đình
thống lý khiến cho Mị dần trở nên tê liệt, chai sạn, sống mà như đã chết. Trước khi bị bắt về làm
dâu nhà thống lý, Mị là người con gái trẻ trung yêu đời, tràn đầy khát vọng hạnh phúc. Lúc mới bị
bắt về làm vợ A Sử, Mị phản kháng dữ dội: có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc. Đó là
những dòng nước mắt đau khổ tuyệt , uất ức tiếp nối nhau chảy tràn, triền miên theo thời gian, Mị
khóc cho khát vọng tự do hạnh phúc của mình bị tước đoạt.
+ Nỗi đau còn dồn đẩy Mị ý định toan tự tử, bởi cô ý thức được cuộc sống cực nhục, sống mà còn
khổ hơn chết ở địa ngục trần gian nhà thống lí. Mị trốn về nhà cùng nắm lá ngón hái trong rừng, quỳ
lạy cha nhưng lòng hiếu thảo đã không cho Mị chết: mày chết nhưng nợ tao vẫn còn...quan lại bắt
tao trả nợ... không được đâu con ơi. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, chấp nhận quay về với cuộc
đời làm dâu gạt nợ nhà thống lý. Nhìn bề ngoài đây là hành động tiêu cực, biểu hiện sự phản kháng
quyết liệt nhưng thực chất hành động này cũng thể hiện sức sống tiềm tàng trong Mị, âm thầm mà
mạnh mẽ. Nó bộc lộ thái độ không chấp nhận thân phận nô lệ, muốn tự tử để giải thoát khỏi kiếp
đời ngựa trâu. Đây là hành động chỉ có ở con người ý thức sâu sắc về sự sống, về phẩm giá của
mình trong hoàn cảnh éo le ngang trái. (liên hệ Thúy Kiều tự tử khi bị bắt vào lầu Ngưng Bích)
+ Cứ thế Mị dần trở nên tê liệt về ý thức. Cho đến khi cha mất, sợi dây tình thương duy nhất cuộc
đời này níu giữ Mị với cuộc sống không còn nữa thì Mị cũng không còn nghĩ đến việc ăn lá ngón tự
tử nữa bởi sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Lúc nào Mị cũng cúi mặt, không còn nghĩ ngợi
gì nữa, không biết đến buồn vui, sướng khổ, sống hay chết đều vô nghĩa.. Tô Hoài đã đưa ra hình
ảnh so sánh nhói lòng về một cô Mị câm lặng: lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Hình ảnh đó
gợi liên tưởng đến câu ca dao quen thuộc về cuộc sống lam lũ, tủi nhục, nô lệ của người dân lao
động xưa.
Thương thay thay phận con rùa
Xuống sông đội đá, lên chùa đội bia
+ Cuộc đời Mị cũng giống như căn buồng Mị ở. Nhà văn tạo ra một tương phản nghiệt ngã: giữa
núi rừng Tây Bắc bát ngát là căn buồng kín mít, tối bưng, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay,
lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Phải chăng căn buồng
đó chính là cái ngục thất của đời Mị. Còn cái mờ mờ trăng trắng ở ngoài cửa sổ kia chính là tương
lai mờ mịt của cô, một tương lai không chút hi vọng. Người đọc bị ám ảnh và không thể nào quên
được chi tiết Mị thẫn thờ, vô hồn ngồi trong căn buồng ấy nhìn qua cửa sổ đến bao giờ chết thì thôi.
Căn buồng cũng như nấm mồ chôn sống tuổi thanh xuân của Mị, khiến Mị trở thành một người
đàn bà tàn tạ về thể xác, tê liệt về tinh thần.
+ Ngoài việc bị áp bức cường quyền thể hiện qua cách đối xử tàn bạo của cha con thống lí, Mị còn
chịu thêm ách áp bức của thần quyền. Mị luôn bị một thế lực vô hình hù doạ khiến cô không dám
bỏ trốn, cũng không dám phản kháng lại, đó là con ma nhà thống lý. Mị luôn bị ám ảnh bởi suy
nghĩ: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi, thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi. ➔ Vậy là cái địa ngục trần gian nhà thống lí đã lấn át, đã che đi con người thật của Mị.
Ngòi bút nhà văn Tô Hoài không chỉ khắc họa thành công bức tranh tăm tối về cuộc đời khổ đau
của người dân lao động nghèo miền núi mà còn bày tỏ niềm cảm thông xót xa trước số phận bất
hạnh của người phụ nữ nơi đây.
c, Sức sống tiềm tàng của Mị

3
Ôn thi ĐH Văn
c1- Sức sống ẩn chứa ngay trong nỗi buồn của Mị: 3ý – lướt để tránh trùng lặp -(Nếu đề
phân tích riêng sức sống tiềm tàng thì cần phân tích kĩ hơn, có dẫn chứng cụ thể ở ba ý: Khóc/ Tự
tử/Buồn)
Như đã phân tích ở trên, ngòi bút Tô Hoài diễn tả dáng vẻ lầm lũi, khuôn mặt buồn rười
rượi của Mị cũng là để tô đậm sức sống bên trong mà thôi. Sức sống ẩn chứa ngay trong nỗi buồn
của Mị; vì ý thức rõ sự khổ đau cũng là một cách phản kháng
cũng là sự phủ nhận hoàn cảnh để sống đời sống nội tâm. Tiếng khóc uất ức, ý định tự tử hay gương
mặt cúi xuống cam chịu câm lặng như hóa đá kia đều ẩn chứa bên trong một sức sống tiềm tảng bởi
nếu không có khát vọng sống, khát vọng tự do hạnh phúc thì Mị không thể có nỗi buồn sâu sắc đến
như thế. Ngay từ đầu truyện, ngòi bút chu đáo của Tô Hoài đã chuẩn bị hai chi tiết: trong đêm
xuân Mị hồi hộp quờ tay tìm ngón tay đeo nhẫn của người yêu và một cô Mị khác từng có ý định ăn
lá ngón tự tử. Một cô Mị run rẩy thổn thức với tình như thế lại được đặt sát với một cô Mị đau đớn,
tuyệt vọng đến thế; hai chi tiết khác biệt gay gắt ấy lại đều có giá trị phục bút : Mị vốn đầy lòng
ham yêu ham sống, ngay cái ý định tự tử kia cũng là phản kháng của lòng ham sống, khát vọng
hướng tới một cuộc sống cho ra sống. Tất yếu mà vẫn bất ngờ, đó là sự lí thú của ngòi bút Tô Hoài.
c2, Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân:
Người đọc tưởng như sức sống trong Mị đã lụi tắt; thế nhưng với tài năng miêu tả tâm lý
và tấm lòng nhân đạo của mình, Tô Hoài đã khẳng định: Ngọn lửa của lòng ham sống chưa tắt hẳn
trong tâm hồn Mị. Nó vẫn âm ỉ cháy như hòn than dưới lớp tro tàn để rồi có cơ hội là bùng lên mãnh
liệt. Và cơ hội ấy đã đến vào đêm tình mùa xuân.
*Hoàn cảnh Mị hồi sinh:
Tô Hoài tỏ ra am hiểu sâu sắc về vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc vào xuân. Chỉ bằng vài nét
chấm phá, ngòi bút dựng cảnh tài hoa của nhà văn đã tái hiện được sự chuyển mình của đất trời từ
mùa đông khắc nghiệt sang mùa xuân ấm áp. Cảnh xuân về trên những bản làng thật đẹp và sống
động với sắc màu rực rỡ : gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng - những chiếc váy hoa đã đem ra phơi
trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ; với âm thanh rộn ràng: tiếng trẻ con cười ầm trước nhà,
tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi. Mùa xuân bừng bừng sức sống mãnh liệt bất chấp cái giá lạnh dữ
dội của đất trời đã làm tan đi băng giá, thắp lên khát vọng sống tự do, hạnh phúc trong lòng Mị.
Đây là hoàn cảnh, tình huống đầy ý nghĩa, khơi dậy sức sống tiềm tàng trong Mị, khiến Mị hồi sinh.
* Diễn biến tâm trạng của Mị :
Chặng 1: tiếng sáo vẳng lại từ đầu núi và hơi rượu tác động
+ Tâm lí Mị được thay đổi bởi sự tác động của tiếng sáo và hơi rượu trong đêm xuân. Đầu
tiên, Mị nghe thấy ngoài đầu núi lấp ló tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Tiếng sáo vọng lại nơi đầu
núi tuy ở rất xa nhưng nó đã đưua Mị bước qua ranh giới của sự im lặng. Tiếng sáo thiết tha bổi hổi
như mời gọi khiến Mị nhẩm thầm theo lời bài hát của người đang thổi. Lời bài hát giản dị mộc
mạc mà hàm chứa lẽ sống phóng khoáng tự do của con người đã tác động mạnh mẽ đến Mị:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu

4
Ôn thi ĐH Văn
Lâu lắm rồi, cô Mị lùi lũi câm lặng, không nói ấy hôm nay lại hát; tiếng hát không vút cao,
ngân dài, chỉ là “nhẩm thầm” thôi nhưng cũng đủ cho ta thấy có một mùa xuân đang thức dậy trong
Mị. Đây là dấu hiệu hồi sinh đầu tiên của một tâm hồn bấy lâu nay đang đóng chặt.
+ Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Cách uống rượu rất lạ, uống như muốn nuốt đi
những tủi hờn cay đắng, giống như muốn trút bỏ nỗi uất ức căm hận vào lòng; uống như muốn quên
đi hiện tại khổ cực. Mị đã hồi sinh, đã trở lại với cảm xúc của một người bình thường.
+ Mị uống rượu say đến lịm người. Uống xong, tai Mị nghe thấy tiếng sáo văng vẳng gọi
bạn ở đầu làng … Một lần nữa, tiếng sáo được nhắc lại ; nó văng vẳng như tiếng gọi của quá khứ,
tiếng gọi của những tháng ngày hạnh phúc trước kia. Hơi men làm thức dậy kỉ niệm của ngày xưa;
tiếng sáo và hơi rượu trở thành nhịp cầu giúp Mị quên đi hiện tại đắng cay, dẫn Mị trở về với quá
khứ tươi đẹp; dìu Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Tiếng sáo của hiện tại đã đưa Mị trở về quá khứ
ngày xưa. Lòng Mị đang « sống về ngày trước » với sự toàn tâm toàn ý của tâm hồn, với bao nhiêu
khát vọng sống và khát vọng yêu. Dạo ấy, Mị là một thiếu nữ với tuổi xuân phơi phới, với tài thổi
sáo, thổi lá khiến bao người say mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo như dòng nước mát
hiếm hoi đã len lỏi vào tâm hồn đang khô cạn, héo mòn của Mị, tiếng sáo đã đưa Mị về với những
kỉ niệm đẹp của tình yêu.
Chặng 2: Rượu tan, sáo tắt, Mị nổi loạn trong suy nghĩ – muốn chết :
+Nhưng quá khứ càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện tại lại chua xót bấy nhiêu. Rượu tan, mọi
người ra về hết, tiếng sáo tình yêu khi xưa vụt tắt và Mị nhận ra cái bóng của mình trơ trọi giữa
nhà. Giờ đây, Mị còn nhận thức được hiện tại : «Đã từ nãy, Mị thấy phới trở lại”. Mị ý thức được
mình “còn trẻ” tức là trong Mị đã trỗi dậy khát vọng tự do hạnh phúc của tuổi trẻ. Thế mà tuổi trẻ
của Mị lại không có tình yêu hạnh phúc, không có tự do, Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn
phải ở với nhau.
+ Thực tại đau xót ấy khiến Mị tuyệt vọng và nghĩ đến cái chết: Nếu có nắm lá ngón trong
tay lúc này…Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Đây là lần thứ hai Mị nghĩ đến
cái chết nhưng là để tỏ rõ sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh bi đát của mình. Muốn chết tức là
lòng yêu đời, ham sống đã trở lại, đã khiến Mị ý thức rõ tình trạng thê thảm của đời mình. Mị muốn
ăn lá ngón để thoát khỏi kiếp nô lệ, kiếp sống mà không bằng chết. Mị muốn chết đi vì cô chỉ tha
thiết có một cuộc sống hạnh phúc. Mị đã có sự nổi loạn trong suy nghĩ .
Mở rộng : Cái chết như một sự giải thoát ta đã từng bắt gặp nhiều lần trong văn học. Thúy
Kiều trong tác phẩm của Nguyễn Du : «Thôi thì thôi có tiếc gì » đến hai lần, một lần là cầm dao tự
tử khi bị Mã Giám Sinh làm nhục và bị Tú Bà bắt ép làm gái lầu xanh ; lần tiếp theo là trầm mình
xuống dòng sông Tiền Đường cuồn cuộn nước chảy. Hay như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm
cùng tên của Nam Cao đã tự tay giết kẻ thù và tự tử với sự tự vấn về bản tính thiện lương của bản
thân, quyết không trở lại kiếp quỷ dữ. Quả vậy, những con người ở trong trạng thái đau khổ, cay
đắng cùng cực luôn muốn hướng đến cái chết ; vì họ không muốn sống cuộc đời bi kịch ; cái chết
còn ý nghĩa hơn với họ.
Chặng 3: Mị nổi loạn trong hành động: muốn đi chơi
+ Thế nhưng lá ngón thì không có, mà chỉ có tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài
đường. Tiếng sáo đó không còn là tiếng sáo bên ngoài nữa mà dường như nó đã thâm nhập vào tâm
hồn Mị và trở thành tiếng lòng của cô. Theo tiếng sáo ấy Mị từ từ đứng dậy. Dường như lúc này Mị
đang sống trong thế giới khác, Mị không còn là cô Mị của ngày thường nữa. Nhịp sống mùa xuân
5
Ôn thi ĐH Văn
khơi dậy trong lòng Mị ý thức muốn sống và muốn được đi chơi. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ xắn
một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Đây là hành động tưởng như vô thức nhưng chứa đựng
rất nhiều ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên Mị biết đến sự tồn tại của đĩa đèn bởi lẽ từ bấy lâu nay Mị chỉ
sống trong bóng tối. Mị đã chủ động thắp sáng lên căn buồng tăm tối của mình, khơi bùng lên khát
vọng tự do, khát vọng hạnh phúc. Ánh sáng đĩa đèn là ánh sáng của sự sống, ảnh sáng của tự do, của
sức mạnh được thắp lên, của niềm tin hy vọng đang bùng cháy. Ánh sáng đó đang được chắt chiu
trong cái khắc nghiệt của hoàn cảnh và Mị lấy ánh sáng trong lòng mình để thắp sáng cuộc đời cô.
+Lúc này Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Không để ý đến sự hiện diện của A Sử, Mị
thản nhiên quấn lại tóc, Mị với tay lấy váy hoa, Mị rút thêm cái áo chuẩn bị đi chơi. Sự chuẩn bị kĩ
lưỡng của Mị cho thấy đây là hành động của một con người đang sống trong khát vọng hạnh phúc.
Tất cả những hành động ấy diễn ra một cách đàng hoàng trước mặt A Sử. Mị đã có sự nổi loạn
trong hành động.
Chặng 4 Hiện thực tàn nhẫn : A Sử trói Mị về thể xác – Mị mộng du trong dây trói theo
tiếng sáo ; tự do về tinh thần
+ Sức sống của Mị ngay lập tức bị đàn áp tàn nhẫn. Đau đớn thay, Mị vừa được hồi sinh
trong giá trị tinh thần thì bị một hiện thực nghiệt ngã vùi dập. A Sử trở về trói đứng Mị vào cột
bằng cái thắt lưng, bằng cả thúng sợi đay và mái tóc dài của Mị cũng bị quấn vào cột. Khát vọng đi
chơi của Mị bị dập tắt, căn phòng trở lại tối tăm như bình thường ngay sau khi A Sử tắt đèn, lạnh
lùng đi ra, khép cửa buồng lại.
+ Nhưng ngay trong hoàn cảnh đó, Mị vẫn sống trong trạng thái vô cùng lạ lùng: Mị “đứng
im lặng, như không biết mình đang bị trói”. Hơi rượu vẫn nồng nàn và tiếng sáo vẫn “đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị vẫn bay bổng theo những lời ca tình tứ thật
đẹp:
Em không yêu quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào
Mị vẫn mộng du trong tiếng sáo thiết tha ngoài trời và trong tâm hồn. Tiếng sáo giúp Mị
quay lại những kỉ niệm năm xưa và ước mơ của một thời tuổi trẻ ; tiếng sáo đánh thức những ước
mơ và khát vọng tưởng chừng đã lụi tắt trong Mị. Tiếng sáo cất lên trong lúc bị trói như biểu hiện
của sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, không gì cản được của Mị.
+ Rồi Mị “vùng bước đi” . Hành động này quyết liệt và lãng mạn lạ lùng. Nó chứng tỏ sợi
dây trói ấy có thể cầm tù thế xác Mị nhưng không thể trói buộc được tâm hồn Mị. Bạo lực đã trở
nên bất lực trước khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt của con người.
Chặng 5: Mị trở về với thực tại đau đớn, tàn khốc : Dây trói cứa vào da thịt ; Mị cay đắng
nghĩ về thân phận mình
Thế nhưng thực tại đã cứa vào da thịt Mị bằng những lằn dây trói thít chặt, đau nhức. Lúc
này Mị không còn nghe thấy tiếng sáo nữa mà chỉ nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vào vách. Và đây
chính là lúc Mị ý thức được rõ nhất thân phận cay đắng của mình. Mị thổn thức nghĩ mình không
bằng con ngựa… Ý thức về quyền sống đã khiến Mị âm thầm khóc trong vòng dây trói oan nghiệt.
Tuy nhiên, khát vọng sống cứ trào dâng khiến Mị lại bồi hồi, nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu với
tiếng sáo quay trở lại nâng tâm hồn Mị bay bổng… Cứ thế suốt đêm Mị lúc tỉnh lúc mê giữa hiện
tại và quá khứ. Cho đến khi trời sáng, Mị chợt nhớ đến câu chuyện người đàn bà xưa kia đã bị trói
đến chết trong cái nhà này. Câu chuyện đó đã khiến Mị sợ, cựa quậy xem mình còn sống hay đã
6
Ôn thi ĐH Văn
chết. Tâm trạng sợ chết ấy là biểu hiện cao nhất của lòng ham sống đã được hồi sinh trong tâm hồn
Mị và nó cũng thể hiện sự phát triển rất biện chứng trong tâm lý nhân vật. Điều này cho thấy sự am
hiểu sâu sắc và khả năng diễn tả tâm lý nhân vật tinh tế, chính xác của Tô Hoài.
➔ Thế rồi đêm tình mùa xuân đó cũng qua đi, khát vọng sống trào dâng trong Mị tạm lắng xuống
và Mị trở lại cuộc sống cam chịu nhẫn nhục. Tuy nhiên, khát vọng sống trong đêm xuân ấy không
tắt, nó vẫn âm ỉ cháy để đến lúc sẽ bùng lên mãnh liệt trong đêm đông cởi trói cho A Phủ. Sự nổi
loạn lần thứ nhất của Mị không đủ sức giải phóng được số phận nhưng sẽ là tiền đề quan trọng
chuẩn bị cho những đột biến lớn hơn trong cuộc đời Mị. Đằng sau những trang viết xúc động, ta
cảm nhận được trọn vẹn tấm lòng thương yêu, trân trọng của Tô Hoài trước nỗi khổ đau và khát
vọng của người phụ nữ lao động miền núi trong xã hội cũ.
d,Sức sống tiềm tàng của Mị được đẩy lên cao trào trong đêm đông cởi trói cho A Phủ:
* Tình huống:
Để khám phá tận cùng sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài đã tạo ra một tình huống bất ngờ:
đó là sự xuất hiện của A Phủ - chàng trai từng dám đánh con quan để rồi bị thống lí Pá Tra bắt ở trừ
nợ. A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vì chẳng may đánh mất bò nhà thống lí. Còn Mị, sau khi bị
chà đạp quá nặng nề trong đêm mùa xuân, Mị lại trở về với cuộc sống ngục tù như trước và rơi vào
trạng thái hầu như tê liệt về ý thức. Một biến cố mới đến với cuộc đời Mị, làm thay đổi số phận cô
chính là vào đêm đông, Mị dậy thổi lửa hơ tay, Mị nhìn thấy A Phủ đang bị trói đứng vào cột mặc
cho đói rét giữa những ngày đông lạnh giá.
*Diễn biến tâm trạng Mị:
- chặng 1: thờ ơ vô cảm lạnh lùng
Những đêm đầu, nhìn thấy A Phủ bị trói ở cột, Mị có tâm lí thản nhiên đáng sợ. Mị chỉ biết
sống với ngọn lửa bởi : những đêm trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị
cũng đến chết héo » Câu văn miêu tả cái héo mòn của người đàn bà vì đau khổ đến cùng cực mà
mất hết ý niệm sống thật ám ảnh, xót xa. Tâm hồn Mị băng giá, khép chặt ; Mị không để ý tới A
Phủ, mỗi lần ngọn lửa bùng lên, nhìn sang thấy A Phủ mắt vẫn mở trừng trừng mới biết A Phủ còn
sống. Nhưng Mị thờ ơ, Mị nghĩ: nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Suy nghĩ ấy
cho thấy Mị đã rơi vào trạng thái vô cảm đến cao độ.
+ Có lẽ, do đây là chuyện thường gặp, Mị đã quá quen và bất lực với những bất công,
những cảnh thương tâm trong gia đình thống lí.
+ Và cũng bởi nỗi đau khổ của Mị quá lớn, Mị bị áp bức thường xuyên và dai dẳng đến mức
Mị đã trở nên chai lì cảm xúc, mất đi khả năng đồng cảm và lòng trắc ẩn yêu thương. Ngay cả bản
thân cô không còn cảm nhận được nỗi đau khổ của bản thân mình thì nói gì đến nỗi khổ của người
khác. Hiểu như vậy, ta thấy Mị chỉ đáng thương chứ không đáng trách.
- Chặng 2: Nước mắt A Phủ - Mị đồng cảm: thương mình, thương người, nhận thức kẻ thù
+Sau đó, dòng nước mắt của A Phủ vô tình mà hữu ý đã làm hồi sinh trái tim đầy thương tích của
Mị. Cho đến một đêm khi ngọn lửa bùng lên, nhìn sang, Mị chợt nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh
bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Trong văn chương ta đã từng gặp nhiều giọt nước
mắt như giọt nước mắt trong phút giây thức tỉnh của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên, giọt nước
mắt ân hận muộn màng của nhân vật Hộ trong tác phẩm của Nam Cao. Ở đây là giọt nước mắt đắng
cay tuyệt vọng của một chàng trai vốn gan góc, mạnh mẽ, tràn đầy sức sống mà đang tuyệt vọng,
bất lực chờ chết. Những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng của A Phủ đã kéo Mị ra khỏi trạng
7
Ôn thi ĐH Văn
thái vô cảm. Mị chạnh nhớ lại những giọt nước mắt của chính mình ngày trước khi bị A Sử trói vào
cột, cũng đau đớn, uất ức, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Khi nỗi
đau của Mị ngày xưa hiện lại, nỗi đau của một con người bị tước đoạt quyền sống, Mị đã vượt qua
trạng thái vô cảm và bắt đầu có những xúc cảm yêu thương .
+ Xúc cảm thương thân mình ngày một đầy lên dẫn Mị đến xúc cảm thương người cùng cảnh ngộ,
Mị chợt nhận ra nỗi khổ của A Phủ và thấy thương A Phủ, thấy cái chết đang dần đến với anh: cơ
chừng này thì chỉ đêm nay, đêm mai là người kia chết…Chết đau, chết đói, chết rét…phải chết. Mị
còn chợt nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước cũng bị trói đứng đến chết ở nhà thống lí.
+Thương cho nỗi đau khổ của A Phủ, Mị còn nhận thức rõ bản chất của giai cấp thống trị và căm
phẫn tội ác dã man của cha con thống lý: Chúng nó thật độc ác!
- Chặng 3: Mị đồng tình A Phủ, cắt dây trói cứu A Phủ, tự cứu mình
+Trong suy nghĩ của Mị xuất hiện mong muốn cứu thoát A Phủ; dẫu Mị biết rằng nếu giải
thoát cho anh thì chắc chắn cô phải chết thay. Lòng thương người cứ lớn dần lên, đến mức át cả nỗi
sợ hãi, Mị đã có đủ dũng khí cầm dao cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ. Rõ ràng ý thức của Mị đã
hoàn toàn trở lại, Mị đã thoát ra khỏi trạng thái vô cảm ban đầu mà có sự đồng cảm sâu sắc với
người cùng cảnh ngộ. Mị cởi trói cho A Phủ vì bất bình, vì sự thức tỉnh của lòng cảm thông. Đây
là sự vùng lên đấu tranh đột ngột, tự phát mà vô cùng quyết liệt, bất chấp hoàn cảnh, bất chấp hiểm
nguy và thậm chí là cái chết.
+ Sau khi sợi dây trói được cắt đứt, Mị cũng hốt hoảng, có lẽ lúc ấy, Mị mới nhận ra mình đã
làm một việc thật ghê gớm!
Mở rộng : Mọi việc tưởng như chỉ xuất phát từ tiềm thức, nhất thời, mơ hồ. Tuy nhiên, nhà
văn Tô Hoài lại có một lời giải thích khác: “ Không phải Mị hành động một cách vô thức, trái lại,
Mị hiểu rất rõ việc mình làm. Khi bếp lửa tắt, Mị không thổi lửa, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại
đời mình rồi Mị tưởng tượng ra cảnh A Phủ trốn đi, Mị đứng thay vào chỗ đó, Mị sẽ chết ở chỗ đó.
Trong đầu Mị không phải là hình ảnh A Phủ mà là hình ảnh của chính Mị. Cắt dây trói cho A Phủ
là Mị giải thoát ( hay là mong giải thoát) cho chính tâm hồn mình. Khi cắt dây trói xong Mị mới hốt
hoảng. Ấy là lúc cuộc sống thực tại ập đến.” (In trong Tác giả nói về tác phẩm, Hỏi chuyện các tác
giả có tác phẩm giảng dạy trong nhà trường, Nguyễn Quang Thiều chủ biên, Nxb Trẻ, 2000)
+ Mị đứng lặng trong bóng tối. Câu văn ngắn gọn nhưng đã diễn tả thật chính xác tâm trạng
đầy phức tạp của Mị lúc đó. Cái lặng đi ấy là lúc Mị đang đấu tranh với chính mình. Có lẽ ở thời
điểm cứu A Phủ, Mị vẫn chưa nghĩ đến việc chạy trốn, tuy nhiên, khi chứng kiến cảnh A Phủ quật
sức vùng lên chạy, lúc đó ý nghĩ cứu mình mới đến. Mị đồng cảm với nỗi khổ của người khác để rồi
cô mới không thể vô cảm với nỗi khổ của chính mình được nữa. Mị thì thào Đi ngay. Đó là mệnh
lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình.
+ Tác giả đã miêu tả hành động của Mị bằng những câu văn ngắn cùng những động từ mạnh,
gấp gáp: Mị cũng vụt chạy ra… Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp… Mị nói, thở. Không còn những dòng
độc thoại nội tâm, Mị đã hành động, những hành động còn nhanh hơn cả tâm trí, những hành động
được chi phối bởi khát vọng sống cháy bỏng, mãnh liệt.Người đàn bà ấy đang tự cứu lấy chính
mình, đang cất lên tiếng nói xin được giải thoát: A Phủ cho tôi đi. Mị ý thức rất rõ ở đây thì chết
mất. Tâm trạng sợ chết lúc này trong Mị không phải sự hèn nhát mà là biểu hiện rõ nhất của lòng
ham sống, khát vọng được tự do. Đứng giữa sự lựa chọn sống và chết, đi hay ở lại, khát vọng sống
đã giúp Mị quyết định rất nhanh: Mị chạy vụt theo A Phủ .
- 3 lời bình cho hành động của Mị
-> Đó là một hành động bất ngờ, đột ngột tưởng như bộc phát nhưng thực ra rất hợp lí,
biện chứng; bởi đây là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng; phù hợp với sự phát triển tính cách
nhân vật. Mị vốn là cô gái yêu đời, tha thiết với tự do, Mị từng hồi sinh khát vọng tình yêu, tuổi
8
Ôn thi ĐH Văn
trẻ hạnh phúc trong đêm tình mùa xuân; cô không thể có kết cục như những người đàn bà khác
trong nhà thống lí. Ở đêm mùa đông này, khát vọng sống mãnh liệt đã thức tỉnh hoàn toàn trong
Mị. Mọi thứ không còn chỉ dừng lại ở ảo giác, tiềm thức, nội tâm nhân vật mà đã biến thành những
hành động mạnh mẽ, quyết liệt để vượt lên số phận, chống lại vòng cương toả của cha con thống lí,
giành lấy cho mình quyền được tự do, quyền được hạnh phúc.
=> Đây còn là hành động táo bạo, quyết định đến cuộc đời Mị vì nó không chỉ cứu thoát A
Phủ, mà còn cứu Mị khỏi kiếp đời nô lệ. Hành động chạy trốn theo A Phủ của Mị chứng tỏ cô đã
nhất quyết bước qua hai ngục tù của số phận: cường quyền, thần quyền để tự giải phóng cuộc đời
mình.
-> Tô Hoài đã để cho Mị và A Phủ chạy khỏi Hồng Ngài vào một đêm mùa đông giá lạnh.
Đây là chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa; phía trước họ sẽ là một mùa xuân đầy tự do hạnh phúc ở
mảnh đất mới Phiềng Sa dưới ánh sáng của cách mạng. Họ nên vợ nên chồng, trở thành du kích
chiến đấu cho tự do của quê hương và của chính mình. Tô Hoài đã phản ánh được một quy luật tất
yếu của cuộc đấu tranh giai cấp “tức nước vỡ bờ”, có áp bức có đấu tranh. Nhà văn bày tỏ niềm tin
yêu vào khả năng người lao động tự đứng lên cải tạo hoàn cảnh, giải phóng chính mình. Đây là nét
mới mẻ của chủ nghĩa nhân đạo Tô Hoài.
-Mở rộng: CN nhân đạo truyền thống và cách mạng đều yêu thương con người nhưng trước CM:
yêu thương – bất lực-> âm hưởng bi quan; sau: tình thương – đấu tranh – tin vào khả năng tự đổi
đời của người lao động -> âm hưởng lạc quan
Nhân vật Mị trong trang viết của Tô Hoài gợi ta nhớ đến chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất
Tố . Hai người phụ nữ bất hạnh ấy cùng đối mặt với một đêm tối trời tối đất nhưng mỗi nhà văn có
cách giải quyết số phận con người theo hướng khác nhau. Xét ở một phương diện nào đó, sự phản
kháng của chị Dậu mạnh mẽ quyết liệt hơn Mị nhưng sự vùng lên của chị Dậu không có định hướng
tích cực. Người đàn bà ở làng Đông Xá ngày ấy đã lao vào giữa trời đêm tối đen như mực và như
cái tiền đồ của chị. Do bị hạn chế của thời đại, các tác giả VH HT PP trước CM chưa tìm ra được
giải pháp tích cực cho số phận bi kịch của con người trong xã hội cũ; bởi thế những nhân vật như
chị Dậu,Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao); anh Pha (Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan) đều bị
rơi vào sự bế tắc, tuyệt vọng, cùng đường. Chỉ đến văn học sau cách mạng, số phận người lao động
mới có quá trình vận động đi lên không ngừng, từ bóng tối đến ánh sáng, từ khổ đau tới hạnh phúc,
từ héo hắt đến hồi sinh.
3- Đánh giá nhận xét :
-Về sức sống tiềm tàng: Miêu tả sức sống tiềm tàng của Mị, nhà văn đã phát hiện ra hai mặt tưởng
như đối lập mà thống nhất trong tính cách nhân vật: cam chịu và phản kháng, con người nô lệ và
khao khát tự do, hạnh phúc. Sức sống tiềm tàng của Mị đã được thể hiện theo một quá trình tinh tế
và biện chứng: từ những biểu hiện của nỗi buồn, của những giọt nước mắt; đến sự hồi sinh của tâm
hồn trong đêm tình mùa xuân tới đỉnh điểm là hành động cứu A Phủ và tự giải phóng chính mình
trong đêm mùa đông trên núi cao.
-Giá trị hiện thực: Thể hiện sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài đã phản ánh thân phận khốn khổ
của người dân lao động Tây Bắc dưới sự áp bức bóc lột, chà đạp tàn tệ của giai cấp thống trị miền
núi.
-Giá trị Nhân đạo: Nhà văn cũng bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc tới số phận bất hạnh, kiếp sống
trâu ngựa của người phụ nữ nghèo vùng cao; đồng thời tố cáo bọn thực dân phong kiến đã đè nén,

9
Ôn thi ĐH Văn
áp bức, đày đọa người lao động. Bên cạnh việc ngợi ca phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Tây
Bắc; điểm mới của chủ nghĩa nhân đạo Tô Hoài chính là ở chỗ nhà văn thể hiện niềm tin vào khả
năng con người có thể tự đứng lên giải phóng mình, đề xuất con đường đấu tranh để người lao
động đổi đời nhờ cách mạng.
- Nghệ thuật: Nhân vật Mị được khắc họa một cách sinh động, có cá tính rõ nét, ít được miêu tả
bằng hành động mà chủ yếu qua dòng suy nghĩ tâm tư; thậm chí có lúc là tiềm thức chập chờn.
Nhà văn nhiều khi như nhập thân vào nhân vật , diễn tả những tâm trạng mơ hồ, những gấp khúc
trong tâm hồn Mị để có những phát hiện tâm lý hết sức tinh tế và phù hợp. Ngoài ra, nghệ thuật
kể chuyện linh hoạt, giọng điệu trần thuật trầm lắng, ngôn ngữ chọn lọc, sáng tạo, giàu tính tạo
hình, giàu chất thơ... Tất cả đều góp phần không nhỏ làm nên sức hấp dẫn cho thiên truyện.
III- Kết bài: Tóm lại, với bút pháp hiện thực sắc sảo, với nghệ thuật phân tích tâm lý tinh tế,
Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Mị. Cuộc đời đau khổ tủi nhục của Mị tiêu biểu
cho những kiếp sống khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực phong
kiến và thực dân. Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã ca ngợi sức sống tiềm tàng và sức vươn lên mạnh
mẽ của con người trong hoàn cảnh sống tăm tối, hướng tới tự do, tới cuộc sống hạnh phúc. Chính
điều đó đã tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

10

You might also like