Professional Documents
Culture Documents
VỢ NHẶT (bà cụ Tứ) 3
VỢ NHẶT (bà cụ Tứ) 3
Khánh Linh
phụ nữ Việt Nam truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp. Dù
sống trong cái đói xơ xác, khi con người chỉ nghĩ đến sự đói khái,
cái chết đang đến gần, thì tình yêu thương, sẻ chia, đùm bọc, niềm
khát khao hạnh phúc gia đình, niềm hi vọng vào tương lai vẫn
luôn rực cháy. Qua hai chi tiết nghệ thuật miêu tả giọt nước mắt
của bà cụ Tứ, tác giả đã khéo léo gửi gắm tâm tư, tình cảm của
mình dành cho nhân vật. Qua đó, tư tưởng nhân đạo sâu sắc, sự
đồng cảm, sẻ chia và niềm tin của Kim Lân với nhân vật lại càng
ngời sáng, đồng thời tố cáo hiện thực chiến tranh thảm khốc đã
đẩy con người đến những tình cảnh thê lương. Nhà văn đã xây
dựng rất thành công tình huống éo le, độc đáo và những chi tiết
nghệ thuật đặc sắc, điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm.
Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ
dường như cũng được đổi khác. Ngôi nhà trước kia “đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ dại” nay đang có
những thay đổi chưa từng có, trở nên sạch sẽ, gọn gàng, tràn đầy
một nguồn sinh khí mới lạ dồi dào sức sống hơn. “Tiếng chổi kêu
từng nhát sàn sạt trên mặt đất” như đang xóa bỏ tất cả những
tăm tối, cũ kĩ tước kia, đón lấy một tương lai, một niềm tin, một
ánh hi vọng vào ngày mai, bà lão cũng vì vậy mà “cũng nhẹ
nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của
bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn qué tước nhà cửa ”
vào buổi sáng đầu tiên sau khi anh cu Tràng lấy vợ khiến người
đọc vỡ òa. Dù chỉ là một hình ảnh nhỏ, rất bình dị thường ngày
nhưng lại khiến cho khung cảnh ảm đạm suốt bao ngày qua trở
nên thông thoáng, nhẹ nhõm và trong lành hơn. Nói đúng hơn, bà
cũng đang vun vén và xây đắp cho hạnh phúc của con mình.
Giờ đây, niềm hạnh phúc, vui sướng và phấn khởi của bà
cụ Tứ đã hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ, u ám, buồn bã
thường ngày của bà. Đặc biệt được thể hiện rõ nét trong bữa
cơm sớm. Dưới ngòi bút miêu tả hiện thực sắc sảo, gai góc của
nhà văn Kim Lân “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa
cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối
ăn với cháo”. Thế nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành và vui vẻ .
Tâm trạng của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm đó thực sự đã
tràn niềm vui, sự ấm áp sang đôi vợ chồng trẻ, làm bừng sáng
lên không khí tăm tối những ngày qua. Thêm vào đó, trong bữa
cơm sớm, “bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau
này”. Tất cả những điều đấy phải chăng đều xuất phát từ niềm
vui, niềm hạnh phúc không xiết ở trong bà. Bà đã gieo vào lòng
con lòng lạc quan, yêu đời, khát khao sống và niềm tin về một
ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Không phải ngẫu nhiên mà
trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về
tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù
thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng
là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt
của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung,
nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà
cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo
sâu sắc.
Tóm lại, bà cụ Tứ là một người phụ nữ giàu lòng thương yêu
và đức hi sinh. Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc
thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp
tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ
chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện
tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân
vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Nhân vật bà cụ Tứ đã giúp nhà văn nói lên chủ đề của tác phẩm.
Dù cận kề cái chết, người lao động Việt Nam vẫn yêu thương
đùm bọc lẫn nhau, khát khao tổ ấm gia đình, hướng tới sự
sống và tương lai tươi sáng. Như Kim Lân từng tâm sự: Tôi
muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình
người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có
tình người là có hy vọng vào tương lai. Qua nhân vật bà cụ Tứ,
Kim Lân ca ngợi người phụ nữ Việt Nam nói chung, tuy nghèo
khổ, thiệt thòi, bất hạnh nhưng giàu đức hi sinh, giàu tình thương
yêu và tinh thần lạc quan
Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã để lại tinh thần nhân văn nhân đạo
sâu sắc, thấm đượm tên mỗi trang sách của nhà văn Kim Lân qua
cuộc đời ba nhân vật Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Người
đọc cảm nhận được đời sống xã hội Việt Nam trước nạn đói
tàn khốc khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng trong những
ngày trước Cách Mạng tháng Tám năm 1945 được phản ánh
một cách chân thực qua ngòi bút của nhà văn Kim Lân mà
tiêu biểu ở đây là 3 nhân vật Tràng, vợ nhặt, bà cụ Tứ. Niềm
cảm thông, trân trọng, thương xót của nhà văn đối với cuộc
sống bi thảm của người nông dân nghèo trong nạn đói. Không
dừng lại ở đó, ngòi bút nhân đạo của nhà văn Tô Hoài còn tố cáo
gay gắt tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với người
dân lao động. Tuy vậy nhà văn cũng không quên phát hiện, ca
ngợi, nâng niu những vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm cao đẹp của
người nông dân lương thiện. Biểu hiện sau cùng của tư tưởng
nhân đạo là nhà văn đã hé mở con đường đổi đời tươi sáng, tích
cực cho người dân khốn cùng là hình ảnh người Việt Minh đi
phá kho thóc của Nhật để chia cho dân nghèo. Đồng thời nhà
văn cũng đặt niềm tin vào khát vọng sống vươn lên của nhân
vật dù cuộc sống có bị đày đoạ, có khổ đau tin tưởng rằng
những người nông dân nghèo khổ sẽ đấu trành dưới ngọn cờ của
Đảng, đó chính là con đường duy nhất giúp họ đổi đời, giúp họ
đến với tự do.
Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo,
éo le, khó tin nhưng rất thật. Đó cũng là cơ sở để nhà văn khắc
hoạ tính cách nhân vật, phác hoạ được bức tranh hiện thực
năm 1945. Đề cao những phẩm chất tốt đẹp của người nông
dân sống bên cạnh cái chết nhưng vẫn hướng tới hướng tới tương
lai tươi sáng. Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, cách
dẫn dắt giản dị và chặt chẽ. Không những thế tác giả còn sử
dụng nghệ thuật dựng cảnh hết sức chân thực qua cảnh người
đàn bà ăn bánh đúc hay cảnh Tràng dẫn người vợ về,... Và nghệ
thuật miêu tả tâm lí hết sức tinh tế kết hợp cùng ngôn ngữ mộc
mạc giản dị nhưng được chắt lọc kỹ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể.
Tất cả đã góp phần tạo nên giá trị to lớn cho tác phẩm.
Nhà văn Trần Đông Minh từng có nhận xét rất tinh tế: “ Nhà văn
dùng Vợ Nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong
tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó
đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Và phải chăng “những tia
sáng ấm lòng” ấy chính là tình yêu thương, là sức sống mãnh liệt
của các nhân vật bị đẩy tới đường cùng tuyệt lộ buộc phải đối mặt
với cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng để nâng tầm giá tị của
con người. Bằng sự quan sát tinh tế và tấm lòng đồng cảm sâu sắc
với số phận con người, Kim Lân đã thực sự làm bạn đọc xúc động
khi xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn
trích này.
Khánh Linh