You are on page 1of 2

B.

Sô đã từng nói “Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kỳ quan tuyệt


diệu nhất vẫn là trái tim người mẹ”. Quả thật vậy trái tim của
người mẹ là kì quan vĩ đại, là tòa bão tháp ngự trị vĩnh hằng và
sừng sững giữa cuộc đời. Mẹ là một hình ảnh đẹp đẽ luôn in hằn
trong sâu thẳm trái tim mỗi người. Một trong những tác phẩm
tạo nên niềm xúc động sâu sắc về người mẹ phải kể đến đó là
“Vợ nhặt” của Kim Lân. Dưới ngòi bút tài hoa và tinh tế của
nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu
sắc với cuộc sống lam lũ, vất vã cũng như số phận mong manh
của người nông dân nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của
trái tim người mẹ, trong hoàn cảnh vô cùng tăm tối, người phụ nữ
ấy đã cố vượt lên những âu lo để vun vén và xây đắp hạnh phúc
cho con mình. Người mẹ ấy đã giang đôi tay che chở cho con và
tình mẫu tử thắm thiết thiêng liêng cũng ngời lên trọn vẹn và sâu
sắc qua diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ.
Vợ nhặt trích trong tập truyện “Con chó xấu xí” viết ngay sau
Cách mạng Tháng 8 với tên gọi “Xóm ngụ cư”, nhưng do thất
lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại
thành “Vợ nhặt”. Thiên truyện lấy bối cảnh nạn đói năm 1945,
xoay quanh những người dân nghèo khó trong đó có bà cụ Tứ -
một bà lão ngụ cư tội nghiệp hết lòng yêu thương con. (Tóm
tắt)Trước tình cảnh đói kém thảm khốc, khi Tràng “nhặt” Thị về
nhà, bà đau lòng hơn khi chưa làm tròn bổn phận đối với đứa con
thương yêu. Thế nhưng sau tất cả, vượt lên những tủi hổ, bà đã
truyền động lực cho hai con cùng nhau hướng về một tương lai
tươi sáng dẫu cho niềm hi vọng này mong manh biết mấy. Niềm
tin cùng tình yêu thương con của bà cụ Tứ thực sự đã trở thành
nguồn sức mạnh tinh thần tuyệt vời động viên Tràng cùng Thị
vượt qua những ngày gian khó mà xây đắp một gia đình, một tổ
ấm yêu thương.
Bà cụ Tứ là một người mẹ nghèo khổ, chồng con gái mất
sớm, ở với một người con trai tên Tràng. Bà thương con, gánh
vác nhiều gian khổ, khó khăn như muôn ngàn người mẹ Việt
Nam khác. Nỗi lòng người mẹ ấy có cả trăm mối tơ vò, chuyện
này, chuyện xưa đan xen lẫn lộn, niềm vui, nỗi buồn, sự cay đắng
tủi cực lẫn sự xót thương vây lấy. Bao nhiêu đau khổ, xót xa cũng
với nỗi lo toan cuộc sống bộn bề đã làm trĩu nặng thêm đôi vai bà.
Và vì thế mà chưa cần trông thấy dáng hình, bà đã xuất hiện trong
tiếng ho húng hắng “...Bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng
hắng ho. Từ ngoài rặng tre bà lọng khọng đi vào”. Dáng người
lọng khọng và cái tiếng húng hắng ho của bà đã khơi dậy trong
lòng người đọc hình ảnh đáng thương của biết bao người mẹ,
người bà ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Bà sống cùng
người con trai với một “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên
mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Sự xuất hiện của
bà cụ Tứ được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le, đó là việc
giữa lúc nạn đói hoành hành thì Tràng con trai xấu xí, ngờ
nghệch của bà lại tình cờ “nhặt” được vợ và lại muốn lấy vợ.
Trước tình huống éo le ấy, bà cụ Tứ đã có những cách ứng xử
khéo léo và cả một dòng chảy suy nghĩ phức tạp.
Việc anh cu Tràng đưa vợ về giữa nạn đói khiến lòng bà
ngổn ngang những tâm trạng phức tạp nhưng cũng chính
những trăn trở ấy lại làm sáng hơn tấm lòng người mẹ thương
con vô bờ bến. Thoạt đầu bà rất đỗi ngạc nhiên về thái độ “ đon
đả” của con trai, “thấy mẹ, reo lên như một đứa trẻ”. Thái độ làm
cho bà có linh cảm chẳng lành “bà phấp phỏng bước theo con vào
nhà”. Rồi bà lão đứng sững lại, ngạc nhiên vì có người lạ trong
nhà. Những câu hỏi tỏ rõ sự ngạc nhiên liên tiếp hiện ra trong bà
ở một đoạn văn rất ngắn “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở
trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?… Ai thế
nhỉ?” Những câu hỏi ấy không phải để kiếm tìm một câu trả lời
mà hơn hết nó dùng để thể hiện sự ngạc nhiên đến tột cùng của bà
cụ Tứ. Nhưng không phải vì bà thực sự không hiểu chuyện gì
đang xảy ra mà bởi tất cả mọi thứ đến quá nhanh, quá đột ngột,
việc Tràng có vợ đối với bà là một điều xa vời với bà nên khiến
bà không thể tin nổi đấy là sự thật. Dường như trong tâm can bà
cụ Tứ đang bối rối trong bộn bề suy nghĩ: “ Bà lão hấp háy cặp
mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì
phải”. Rồi bà lại nhìn thị, “nhìn kĩ hơn lần nữa, vẫn chưa nhận
ra người nào”, để rồi cuối cùng phải quay sang nhìn Tràng “ tỏ ý
không hiểu”. Bà không tin khi giữa thời buổi đói rách thế này
người ta còn tranh giành nhau miếng ăn, huống chi nay lại có
khách đến chơi nhà.
Phải đến khi Tràng thưa chuyện, bà mới vỡ lẽ. Lúc này trong
lòng người mẹ bao suy nghĩ ào ạt ập tới. Nhưng rốt cuộc , bà lão
cũng chỉ “cúi đầu nín lặng”, để âm thanh tĩnh lặng mà tĩnh lại
nỗi lòng đang bộn bề trong suy nghĩ của mình . Trong lòng bà
lão tội nghiệp ấy giờ đây đang trào lên bao nhiêu chua chát, xót
xa, “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Sự
im lặng chứa đầy nội tâm ấy là sự hòa trộn của bao nhiêu
thanh âm đang giằng xé trong lòng bà lão:có vui, có buồn, có
đau xót, có thương yêu, lại có những lắng lo sâu xa lẫn lộn.
Bà không chỉ vỡ lẽ mà còn “ngậm ngùi”, “hiểu ra bao nhiêu cơ
sự”. Bà cụ Tứ đã hiểu ra mọi chuyện và dù không nói ra thành lời,
bà đã chấp nhận người dâu mới. Đây là trái tim của một
người mẹ nhân hậu, hết lòng yêu thương con và là trí tuệ của
một người từng trải. Trong nội tâm của bà cụ Tứ lúc này, nỗi
ai oán, xót thương, nỗi lo lắng dành cho các con dâng trào.
“Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà
ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.
Còn mình thì…”. Đằng sau mỗi lần suy tư của bà cụ luôn có dấu
chấm lửng như là nõi lòng, là những tủi hờn, là nước mắt của
người mẹ tội nghiệp trước cảnh đói khát. Câu nói này đã chất
chứa bao nỗi tủi hổ, và oán trách bản thân vì đã không làm
tròn trách nhiệm người mẹ của bà. Bởi nghèo túng, bởi cuộc
đời xoay vần ngoài kia, bà đã không thể cho con được một cuộc
sống trọn vẹn. Thế nên lòng bà không khỏi chua xót và thậm chí
lại càng lo lắng hơn khi nhìn về tương lai:“Biết rằng chúng nó có
nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ?”. Đó là
câu hỏi bỏ ngỏ, không một ai có thể trả lời mà chỉ có thể đợi cuộc
đời này viết tiếp trong tương lai hãy còn quá đỗi xa xăm ngoài
kia. Lòng người mẹ đã thật chân tình nói lên sự yêu thương,
xót xa cho số phận ngoặt nghèo của hai con và vừa mong, vừa
lo hai con có đùm bọc nhau, cưu mang nhau được qua “cơn
đói khát” này không.
Sau khi hiểu ra những ẩn ý đằng sau lời xin phép của Tràng, bà
cụ Tứ “khẽ thở dài ngững lên, đăm nhìn người đàn bà” đang cúi
mặt. Từ “tà áo rách bợt”, bà cụ hiểu rõ thị cũng chỉ là nạn nhân
tội nghiệp của nạn đói ác liệt ngoài kia. Thế nhưng:” Người ta có
gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được”. Bà cụ không những không có ý
nghĩ khinh miệt mà trái lại, bà thương xót cho thị nhiều hơn.
Niềm yêu thương, xót xa dâng lên trong lòng: “ Ừ, thôi thì các
con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng..”
Dẫu cho niềm vui ấy chỉ như tia sáng le lói vụt qua cuộc đời u tối
của bà, bởi liền ngay sau niềm vui bình dị ấy, bà lại tiếp tục ngập
chìm trong niềm suy nghĩ, lo lắng về tương lai mờ mịt như màn
đêm của những đứa con. Thế nhưng bà lão cố nén niềm xót xa
trong lòng mà từ tốn cất tiếng”Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo
nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho khá. Biết thế nào hở con, ai
giàu ba họ, ai khó ba đời?” để truyền cho các conn thêm sức
mạnh vững chãi và niềm tin. Đối với con dâu bà ôn tồn như đối
với đúa con máu mủ ruột rà: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống
đây cho đỡ mỏi chân”, thấp giọng thân mật mà an ủi như sợ nàng
dâu mới tủi phận: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy,
nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái
lúc này”. Có thể nói bà cụ Tứ là một người mẹ vô cùng thương
con và tâm lý khi đã bao dung và yêu thương cả người phụ nữ
mới gặp ít lâu, đến nỗi sau khi cất lên được câu: “Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá...”. Không chỉ là nỗi lo lắng trong
đầu như ở đoạn trên mà lúc này đây, bà đã phải thể hiện nỗi lo,
nỗi xót thương đến đứt ruột và thốt lên “u thương quá”.
Bao cảm xúc như được dồn nén hết trong chữ “thương” để rồi
giọt nước mắt của bà lại một lần nữa tuôn rơi. Nhưng không còn
chỉ là “rỉ xuống” nữa mà trở thành “chảy xuống ròng ròng”.
Nước mắt cứ thế chảy ra mà bà không thể kìm nén được. Hình
ảnh này đã thể hiện sự xót xa dâng trào cùng nỗi lo trong lòng
người mẹ. Bà không chỉ thương mà còn thấy có lỗi với con. Thân
là mẹ nhưng lại không thể lo nổi cho con một mâm cỗ cưới, một
đám cưới đàng hoàng. Trước chuyện hệ trọng cả cuộc đời của con
trai mình, bà đã không thể làm gì để giúp các con vun vén hạnh
phúc. Trong lòng bà ngập tràn niềm hờn tủi. Không còn là ngôn
ngữ nửa trực tiếp mà đoạn văn này được Kim Lân sử dụng ngôn
ngữ kể, tả rất đời thực. Tuy thế, ông vẫn xây dựng được thành
công dòng chảy tâm lý cũng như nét tính cách của nhân vật này.
Bà cụ Tứ hiện lên không chỉ với vẻ đẹp tâm hồn mà còn tính cách
mộc mạc chân thật của người mẹ.
Kim Lân đã rất tinh tế khi miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ.
Có thể nói, thông qua hai chi tiết ta thấy được nổi bật lên tình yêu
con vô hạn. Trước tình cảnh éo le ấy, bà đã cố nén đi nỗi xót xa,
tủi hờn để trong tình huống nên vợ nên chồng của hai con. Nhưng
rốt cuộc, nỗi lo lắng, sự xót thương bị đẩy lên đỉnh điểm và bà
phải “rỉ xuống” những dòng nước mắt. Người mẹ gạt sự tủi hờn
ấy và an ủi, động viên vợ chồng Tràng. Nhưng với sự ai oán, mặc
cảm, nỗi lo số phận lại quay lại khiến bà không còn nén được nữa
mà dòng nước mắt “chảy xuống ròng ròng” như một giọt nước
tràn ly. Giọt nước mắt này chính là hiện thân của tình mẫu tử
thiêng liêng, lòng bao dung, sự hi sinh và tủi hổ khi không thể
làm trọn trách nhiệm với con. Bà cụ Tứ là điển hình của người

Khánh Linh
phụ nữ Việt Nam truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp. Dù
sống trong cái đói xơ xác, khi con người chỉ nghĩ đến sự đói khái,
cái chết đang đến gần, thì tình yêu thương, sẻ chia, đùm bọc, niềm
khát khao hạnh phúc gia đình, niềm hi vọng vào tương lai vẫn
luôn rực cháy. Qua hai chi tiết nghệ thuật miêu tả giọt nước mắt
của bà cụ Tứ, tác giả đã khéo léo gửi gắm tâm tư, tình cảm của
mình dành cho nhân vật. Qua đó, tư tưởng nhân đạo sâu sắc, sự
đồng cảm, sẻ chia và niềm tin của Kim Lân với nhân vật lại càng
ngời sáng, đồng thời tố cáo hiện thực chiến tranh thảm khốc đã
đẩy con người đến những tình cảnh thê lương. Nhà văn đã xây
dựng rất thành công tình huống éo le, độc đáo và những chi tiết
nghệ thuật đặc sắc, điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm.
Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ
dường như cũng được đổi khác. Ngôi nhà trước kia “đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những bụi cỏ dại” nay đang có
những thay đổi chưa từng có, trở nên sạch sẽ, gọn gàng, tràn đầy
một nguồn sinh khí mới lạ dồi dào sức sống hơn. “Tiếng chổi kêu
từng nhát sàn sạt trên mặt đất” như đang xóa bỏ tất cả những
tăm tối, cũ kĩ tước kia, đón lấy một tương lai, một niềm tin, một
ánh hi vọng vào ngày mai, bà lão cũng vì vậy mà “cũng nhẹ
nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của
bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn qué tước nhà cửa ”
vào buổi sáng đầu tiên sau khi anh cu Tràng lấy vợ khiến người
đọc vỡ òa. Dù chỉ là một hình ảnh nhỏ, rất bình dị thường ngày
nhưng lại khiến cho khung cảnh ảm đạm suốt bao ngày qua trở
nên thông thoáng, nhẹ nhõm và trong lành hơn. Nói đúng hơn, bà
cũng đang vun vén và xây đắp cho hạnh phúc của con mình.
Giờ đây, niềm hạnh phúc, vui sướng và phấn khởi của bà
cụ Tứ đã hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ, u ám, buồn bã
thường ngày của bà. Đặc biệt được thể hiện rõ nét trong bữa
cơm sớm. Dưới ngòi bút miêu tả hiện thực sắc sảo, gai góc của
nhà văn Kim Lân “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa
cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối
ăn với cháo”. Thế nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành và vui vẻ .
Tâm trạng của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm đó thực sự đã
tràn niềm vui, sự ấm áp sang đôi vợ chồng trẻ, làm bừng sáng
lên không khí tăm tối những ngày qua. Thêm vào đó, trong bữa
cơm sớm, “bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau
này”. Tất cả những điều đấy phải chăng đều xuất phát từ niềm
vui, niềm hạnh phúc không xiết ở trong bà. Bà đã gieo vào lòng
con lòng lạc quan, yêu đời, khát khao sống và niềm tin về một
ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Không phải ngẫu nhiên mà
trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về
tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù
thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng
là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt
của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung,
nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà
cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo
sâu sắc.
Tóm lại, bà cụ Tứ là một người phụ nữ giàu lòng thương yêu
và đức hi sinh. Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc
thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp
tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ
chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện
tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân
vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Nhân vật bà cụ Tứ đã giúp nhà văn nói lên chủ đề của tác phẩm.
Dù cận kề cái chết, người lao động Việt Nam vẫn yêu thương
đùm bọc lẫn nhau, khát khao tổ ấm gia đình, hướng tới sự
sống và tương lai tươi sáng. Như Kim Lân từng tâm sự: Tôi
muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình
người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có
tình người là có hy vọng vào tương lai. Qua nhân vật bà cụ Tứ,
Kim Lân ca ngợi người phụ nữ Việt Nam nói chung, tuy nghèo
khổ, thiệt thòi, bất hạnh nhưng giàu đức hi sinh, giàu tình thương
yêu và tinh thần lạc quan
Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã để lại tinh thần nhân văn nhân đạo
sâu sắc, thấm đượm tên mỗi trang sách của nhà văn Kim Lân qua
cuộc đời ba nhân vật Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Người
đọc cảm nhận được đời sống xã hội Việt Nam trước nạn đói
tàn khốc khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng trong những
ngày trước Cách Mạng tháng Tám năm 1945 được phản ánh
một cách chân thực qua ngòi bút của nhà văn Kim Lân mà
tiêu biểu ở đây là 3 nhân vật Tràng, vợ nhặt, bà cụ Tứ. Niềm
cảm thông, trân trọng, thương xót của nhà văn đối với cuộc
sống bi thảm của người nông dân nghèo trong nạn đói. Không
dừng lại ở đó, ngòi bút nhân đạo của nhà văn Tô Hoài còn tố cáo
gay gắt tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với người
dân lao động. Tuy vậy nhà văn cũng không quên phát hiện, ca
ngợi, nâng niu những vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm cao đẹp của
người nông dân lương thiện. Biểu hiện sau cùng của tư tưởng
nhân đạo là nhà văn đã hé mở con đường đổi đời tươi sáng, tích
cực cho người dân khốn cùng là hình ảnh người Việt Minh đi
phá kho thóc của Nhật để chia cho dân nghèo. Đồng thời nhà
văn cũng đặt niềm tin vào khát vọng sống vươn lên của nhân
vật dù cuộc sống có bị đày đoạ, có khổ đau tin tưởng rằng
những người nông dân nghèo khổ sẽ đấu trành dưới ngọn cờ của
Đảng, đó chính là con đường duy nhất giúp họ đổi đời, giúp họ
đến với tự do.
Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo,
éo le, khó tin nhưng rất thật. Đó cũng là cơ sở để nhà văn khắc
hoạ tính cách nhân vật, phác hoạ được bức tranh hiện thực
năm 1945. Đề cao những phẩm chất tốt đẹp của người nông
dân sống bên cạnh cái chết nhưng vẫn hướng tới hướng tới tương
lai tươi sáng. Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, cách
dẫn dắt giản dị và chặt chẽ. Không những thế tác giả còn sử
dụng nghệ thuật dựng cảnh hết sức chân thực qua cảnh người
đàn bà ăn bánh đúc hay cảnh Tràng dẫn người vợ về,... Và nghệ
thuật miêu tả tâm lí hết sức tinh tế kết hợp cùng ngôn ngữ mộc
mạc giản dị nhưng được chắt lọc kỹ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể.
Tất cả đã góp phần tạo nên giá trị to lớn cho tác phẩm.
Nhà văn Trần Đông Minh từng có nhận xét rất tinh tế: “ Nhà văn
dùng Vợ Nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong
tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó
đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Và phải chăng “những tia
sáng ấm lòng” ấy chính là tình yêu thương, là sức sống mãnh liệt
của các nhân vật bị đẩy tới đường cùng tuyệt lộ buộc phải đối mặt
với cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng để nâng tầm giá tị của
con người. Bằng sự quan sát tinh tế và tấm lòng đồng cảm sâu sắc
với số phận con người, Kim Lân đã thực sự làm bạn đọc xúc động
khi xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn
trích này.

Khánh Linh

You might also like